Tag Archives: lu

Dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn hóa trẻ đương đại (bài 2)

Bài viết của Trần Nguyễn Lan Nhi, sinh viên lớp CLC K65 là bài viết thứ hai tôi muốn giới thiệu trong chủ đề “Dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn hóa trẻ đương đại.” Sau khi đăng bài viết đầu tiên của bạn Vũ Thị Kiều Chinh, chúng tôi đã nhận được những phản hồi rất thú vị. Mới đây, tạp chí “Văn nghệ quân đội” đã giới thiệu bài viết của Chinh. Nhờ đó, những suy nghĩ, những cách đặt vấn đề của Chinh có thể tiếp cận với công chúng rộng hơn nữa. Tôi hy vọng, đúng hơn, tôi tin rằng, bài viết dưới đây của Lan Nhi cũng có thể nhận được nhiều chia sẻ.

Bouquet with Flying Lovers c.1934-47 by Marc Chagall 1887-1985

*

1. Không biết có phải do đọc thơ Xuân Diệu suốt những năm 17, cho nên, có một điều lạ, tôi luôn cho rằng từ “trẻ” thực chất là cách viết giản quy của sự lãng mạn. Ngày mẹ tôi cầm đàn ghita và hát ở tuổi 47 (điều mà tôi chưa từng nhìn thấy ở bà bao giờ), tôi đã nói “Mẹ trẻ quá!”. Ý tôi là, với tư cách một đứa con, tôi nghĩ tâm hồn mẹ theo thời gian đã khô cằn đi nhiều bởi sự khó tính quá mức với đời sống gia đình cũng như bộn bề của công việc mưu sinh, nhưng, hóa ra cô sinh viên của 27 năm về trước vẫn còn: lãng mạn, sôi nổi và cũng điên rồ lắm. Thế nên, có lý gì mà không thể kết luận chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn để lại những ảnh hưởng về cảm quan và thẩm mỹ trong văn hóa trẻ đương đại? Tôi hai mươi mốt và tôi trả lời “Có. Lúc nào cũng có.”

Chủ nghĩa lãng mạn bắt rễ vào nhiều khía cạnh của đời sống hiện đại. Những quán tính của văn học đôi khi trong những va đập của lịch sử không dủ khả năng để ngăn lại. Đến chừng nào, con người vẫn còn cần đến xúc cảm như một năng lực nhân tính, lãng mạn sẽ không mất đi. Nhất là ở thời kì này, cảm quan lãng mạn thực sự là một thứ sức mạnh tinh thần lớn. Nó trao cho con người một chiều kích để dám bình thường và một chiều kích để vĩ đại mà “dấn thân.”

“Một bài thơ cũ” của Lu hay “Đưa nhau đi đốn” của Đen được xem như là những tuyên ngôn, là mã hóa của đời sống giới trẻ đương đại. Tại sao những bài nhạc và phong cách thơ theo kiểu như thế lại trở thành trào lưu cho những tự sự của tuổi trẻ? Mà kiểu như thế là kiểu thế nào?

2. Mỹ học của thời đại mới trước hết là mỹ học nảy sinh từ đô thị. Đô thị lấp lánh thơm tho với cấu trúc bên trong như một cái máy say sinh tố vừa cắm điện, nuốt chửng và nhào nát từng cá thể bởi vô vàn những guồng quay của trách nhiệm, của mặc định xã hội, của tham vọng và của ước mơ “đầy tạm bợ”. Trong bước chân đầu tiên “gia nhập” vào cộng đồng ấy, những “gã trẻ” thấy lạc lõng và cô đơn khủng khiếp. Nó nhận ra thứ mình muốn và thứ người ta cần là sự vênh lệch quá lớn. Trong những đoạn dốc treo leo hướng đến lý tưởng của mình, nó bỗng chùn chân và muốn được “bình thường”. Nó ngại vội vã. Nó sợ ganh đua. Nó muốn được lắng nghe. Nhưng “ai cũng” là một lý do thỏa đáng. Thế giới đầy tính tự trị và quân chủ của một cá thể khiến cho phần còn lại của thế giới vẫn mãi là những “người lạ” không thể đồng điệu. Chính lúc này, nó tìm đến những hình thức biểu hiện khác nhau để giải phóng. Và viết, luôn là một sự an ủi lớn.

Chính nhà thơ Lu cũng chia sẻ anh chỉ viết khi cảm xúc đẩy anh phải viết. Anh viết rất tự nhiên. Anh viết về những gì anh cảm thấy, anh nhìn thấy. Anh viết về những người quanh anh, về anh, về Hà Nội. Những câu thơ bài hát trở thành lời tự thuật. Hiện thực mang tính phê phán bị dư thừa. Con người cần đến một sự lãng mạn để nhịp sống chậm hơn, để lắng nghe những cảm xúc và cảm giác bị xã hội tốc độ tua đi quá nhanh. “Anh về giữa Bùi Thị Xuân/ uống hai mươi cốc nhân trần cho say/thế thôi là hết một ngày”. Hai mươi cốc cơ mà. Ấy là những tự sự đầy mộc mạc, chân thật và “phản” đời thường khiến bài thơ tạo ra một sức hấp dẫn rất kì lạ. Như thể nó mở đường cho cái tinh thần “chống đối” đang nhen nhóm trong nhiều tâm hồn trẻ đang bị kìm chặt đến bí bách, ngột ngạt: “Bố anh thì đi lại/ Còn mẹ anh gọi điện thoại đến từng nhà/ Nhiều ngày rồi mình không về/ không liên lạc được gì cả/ chỉ vỏn vẹn lại mảnh giấy/ đừng lo đêm nay con đi chơi xa.

Xã hội đương đại đem đến cho người ta cảm nhận về một sự không ổn không thể gọi tên.Và văn hóa của giới trẻ là cách họ đối thoại lại với những sự không ổn ấy. “Ôi những thứ chán chường/ Không tẹo nào háo hức/ Mình rời thành phố chật chội náo nức/ Nơi mà việc thở cũng làm ta lao lực”; “đời cuốn xô ta/cả khi ta trống trong phòng ngủ/ âu lo theo về/ dù ta đã khóa ba lần cửa”. Họ không hề ổn với những bổn phận, ngay cả khi họ lựa chọn nó. Sự nâng đỡ về mặt đạo đức nay trở thành những gánh nặng.

3. Nếu như chủ nghĩa lãng mạn ghi dấu vào lối tư duy của người trẻ theo cách như thế thì cũng thật thú vị khi một vài những nguyên tắc mỹ học của nó cũng đi vào kết cấu nghệ thuật của các loại hình văn hóa giới trẻ.

Nếu trong chủ nghĩa lãng mạn cổ điển, con người đi vào thế giới của tôn giáo để thể hiện suy tư và niềm tin của mình, thì nay giới trẻ tạo lập cho mình một thế giới riêng – một thế giới có anh em,  một thế giới song song. Ngọt vẽ ra thế giới màu xanh: “Con đường màu xanh/ xanh màu lá, xanh đại dương/ không còn nhớ không còn thương/ em là nắng, anh là sương/ thiên đường màu xanh”. Với Vũ: “và xin đưa tôi về một nơi rất xa loài người, về một nơi phía sau mặt trời”. Ấy là thế giới lý tưởng đối với họ – nơi họ được sống là mình.

Hoặc thảng khi, họ quay về tìm lại quá khứ để trốn chạy hiện thực bất toàn và thiếu chắc chắn. “Ngày mai vẫn đến gió hát ngang trời/Còn mình nhắm mắt không nói một lời / lại được thấy mùa hè ta gặp nhau, lại được sống mùa hè ta gặp nhau”. Giống như Huy Cận cô đơn, lạc lõng tìm về với vần thơ Đường cổ kính, “Nhắm mắt thấy mùa hè” hình như cũng mượn giai điệu nhạc Hoa cổ để hoài niệm về những thứ xa xăm đã đi qua.

Nếu như ngày trước, Nguyễn Tuân – một cây bút lãng mạn được xem là nhà văn của chủ nghĩa xê dịch; thì nay, giới trẻ cũng “ngả mũ” học hỏi lối sống ấy. Xê dịch, quả thực, đem lại cho người ta những cảm giác thuộc về trải nghiệm cá nhân. Cảm giác bạn thuộc về nó nhưng cũng chẳng thuộc về nó; cảm giác về những tri nhận với mây trời, thiên nhiên thay vì là tòa nhà cao trọc trời, cảm giác được buông bỏ những bổn phẩn để “một lần được sống như những đứa nhóc không nhà/ sớm thức dậy ở một nơi xa”,… chưa bao giờ lại đáng đến thế.

Đặc biệt, vận dụng và quay về với các chất liệu dân gian “Em đừng xanh quá khổ anh/ khổ thân con cáo hóa thành cây si” hay ngôn ngữ bình dân, kiểu thơ con cóc “anh đứng đầu Hồ Đắc Di/ ngóng Lương Đình Của lầm lì gọi em/ em đừng lạnh lùng giống que kem/ để trong ngăn đá bỏ quên một tuần” cũng là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa lãng mạn. Hay thậm chí cách phối nhạc với những làn điệu dân ca như trong “Ai chờ ai” (Linh Cáo) hay kết cấu tự sự kiểu Bolero trong “Ừ thì” khiến cho âm nhạc giới trẻ ngày nay bàng bạc những dấu vết của một thời ông cha. Nhiều người của thế hệ đi trước hay đánh giá tuổi trẻ bây giờ không sâu sắc, nông cạn. Bắt từ một mạch cũ để tạo ra một thứ riêng như thế có gọi là nông cạn được nữa không?

4. Những nghệ sĩ trẻ đem tâm trạng rất đời của mình để làm chất liệu cho những sản phẩm nghệ thuật. Và đúng như quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn: “Khờ khạo thay nếu cho rằng tôi không phải là anh” (Victor Hugo). Mỗi tự sự của họ, tôi thấy mình trong đó. Và mỗi đêm về tôi vẫn lải nhải: “Vì sao lại khóc. Vì sao lại buồn? Vì sao mưa không về. Tôi nằm giữa mênh mông tôi thẫn thờ. Tôi nằm giữa căn nhà nhìn lên nắng.” dẫu rằng đông đã sang và chẳng còn nắng. Nhưng giống như thời cha mẹ tôi thích nghe nhạc Bolero vì họ tìm thấy mình trong ấy thì tôi cũng thế. Tôi nghe trong những loại hình văn hóa của thế hệ tôi những câu chuyện của mình. Tôi thích nó vì tôi tìm thấy một sự lắng nghe trong ấy – thứ mà đời thực không cho tôi quá nhiều. Tôi cảm giác mình được hiểu. Và thế là “ngày nắng đẹp rạng ngời hay gió về hay bão táp mưa rơi”, tuổi trẻ vẫn tiến lên một cách thật điên rồ và huy hoàng. Cái lý tưởng đẹp đẽ và sự vươn lên của con người trước hoàn cảnh như thế, phải chăng chính là điều còn lại của chủ nghĩa lãng mạn?

Trần Nguyễn Lan Nhi

SV lớp CLC K65, Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội

Dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn hóa trẻ đương đại (bài 1)

Loạt bài viết mà tôi sẽ đăng trên blog này là những bài viết tôi nhận được từ các sinh viên năm cuối khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm. Chủ đề mà tôi muốn các em bàn là có chăng cái gọi là xu hướng quay về với tinh thần của chủ nghĩa lãng mạn trong văn hóa trẻ? Đề bài cụ thể thì thế này:

Từ những hiện tượng dưới đây, theo anh/chị, có thể kết luận: chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn tiếp tục để lại những ảnh hưởng về cảm quan và thẩm mỹ trong văn hóa trẻ đương đại hay không? Tại sao? (Các anh/chị có thể mở rộng thêm phạm vi khảo sát ngoài hai dẫn chứng của đề bài)

MỘT BÀI THƠ CŨ
– Lu –

em đừng xanh quá khổ anh
khổ thân con cáo hóa thành cây si
anh đứng đầu Hồ Đắc Di
ngóng Lương Định Của lầm lì gọi em

em đừng lạnh giống que kem
để trong ngăn đá bỏ quên một tuần
anh về giữa Bùi Thị Xuân
uống hai mươi cốc nhân trần cho say

thế thôi là hết một ngày.

2012

(In trong Lu, “Sự đã rồi anh ngồi anh anh hát”, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2017)

 

ĐƯA NHAU ĐI TRỐN – Đen ft Linh Cáo

 

Điều tôi thực sự xúc động khi đọc một số bài viết của sinh viên là các em không chỉ cố gắng trình bày kiến thức về chủ nghĩa lãng mạn mà đã cố gắng nhận diện đời sống xung quanh mình. Và nhất là nhận diện chính mình.

Bài viết của Vũ Thị Kiều Chinh là một bài viết đẹp đẽ mà tôi luôn mong được đọc từ sinh viên mỗi khóa.

*

Người trẻ thời này còn lãng mạn không?

Câu trả lời của tôi: đã là tuổi trẻ thì thời nào cũng lãng mạn. “Lãng mạn” còn là gì nếu không phải là thứ cảm xúc đặc sản của tuổi trẻ. Nếu không phải tuổi trẻ thì còn tuổi nào cho người ta lượng thời gian đủ vội vàng, đủ gấp gáp để vừa bất an, vừa háo hức với chính cái thời của mình? Nếu không phải tuổi trẻ, những người mới chập chững, nôn nao dấn vào cơn bão cuộc đời thì còn ai đủ non nớt, nhạy cảm để bị sóng gió kia dễ dàng làm cho tổn thương và làm cho rầu muộn? Và nếu không là tuổi trẻ còn căng tràn một bầu ngực nóng hổi thì còn ai sống đủ kiêu hãnh để phiêu lưu và thử thách với chính cái tôi của mình? “Chủ nghĩa lãng mạn” từ trước khi sinh ra tới khi hóa kiếp và vương lại đời sống hiện đại này chỉ còn bằng những “cảm hứng lãng mạn” luôn là mảnh vườn màu mỡ cho những người trẻ tuổi ở bất cứ thời nào gieo trồng và chăm bón mầm cảm xúc và mầm khát vọng. Bởi thế mà khi chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương mới bắt đầu được thai nghén những phôi bào đầu tiên tại Anh, những năm 1790, William Wordsworth 20 tuổi. Những năm đó, chàng đang ôm mối tình đầu và viết tập thơ đầu tiên, “Những bản Ballad trữ tình” với bài thơ đầu tiên tựa đề “The Tables turned, an Evening Scene, on the same subject” mà một bản tiếng Việt dịch thoát lại thành “Hãy bỏ bàn học đấy”:

Đứng dậy bạn ơi, bỏ sách ra một xó

Nếu không bạn hẳn sẽ lưng gù

Đứng dậy bạn ơi, phóng tầm nhìn đây đó

Sao lúc nào cũng vất vả, ưu tư ? […]

Lời bài thơ là lời một người nói với bạn mình rằng: hãy cất sách đi và ra ngoài để thiên nhiên dạy bạn. Chủ đề bài thơ của Wordsworth, đại diện đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn Anh thế kỉ 18, về cơ bản là gặp gỡ, tiếp tuyến tại rất nhiều điểm với lyrics ca khúc “Đưa nhau đi trốn” của Đen Vâu,  ca sĩ dòng Indie gốc Việt vào năm 2015 của thế kỉ 21. Năm đó Đen 25 tuổi:

Em ơi đi trốn với anh

Mình đi đến nơi có biển bạc núi xanh

Chạy con xe anh chở em tròng trành

Mình phóng tầm mắt ngắm chân trời mới toanh. […]

Tôi không chắc về thời của Wordsworth, người ta đã tiếp nhận bài thơ “Hãy bỏ bàn học đấy” theo hướng đồng tình hay phản đối, hay nửa đồng tình nửa phản đối. Thời của Wordsworth là thời các nhà chủ nghĩa phải gồng gánh định danh, tuyên ngôn cho nghệ thuật của mình, là thời đại mà một quyết định đi theo con đường này có khi phải là sự phủ nhận hoàn toàn những ngã rẽ khác. Một bài thơ thúc người ta lật cái bàn, tung sách vở trong bối cảnh đó, cũng có thể được hiểu như một cú “lật bàn” lại tất cả những khuôn vàng, mực thước của một chủ nghĩa đã thành hình, thành dạng, đầy nghiêm trang, bệ vệ trước đó. Đó là công cuộc đập đi xây mới của lịch sử. Còn thời của chúng tôi, “Đưa nhau đi trốn” không thực hiện vai trò một lời tuyên bố, đó chỉ là nỗ lực của một kẻ 25 tuổi kể lại những trải nghiệm của mình. Thời của chúng tôi, “lật cái bàn” là sự kiện không còn nhiều bất ngờ, một ngày “đưa nhau đi trốn” chỉ là một cuộc chơi mà người chơi có thể để lại vỏn vẹn một mảnh giấy cho mẹ cha “Đừng lo đêm nay con đi chơi xa.” Thời của chúng tôi là thời mà “phượt thủ” hội ngộ ở mọi nơi, đi xa, đi trốn như một nhu cầu thiết yếu của đời sống quá ư chật chội. Sự chật chội ấy mãi thành quen. Sự đi xa để trốn cũng chẳng còn lạ, như một phản xạ có điều kiện: đói phải ăn, mệt phải ngủ, cô đơn phải yêu, xô bồ phải trốn. Như cái cách Nguyễn Bỉnh Khiêm, một đại diện Việt Nam thế kỉ 16 “khiêm tốn” nói về sự dại của mình từ thời của ông: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/Người khôn người đến chỗ lao xao.” Như Wordsworth, như Đen Vâu, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từ chối lao xao, nhưng ông không được gọi là nhà lãng mạn. Phải tới sự cộp mác, đóng dấu từ phương Tây, vào một lịch sử phù hợp, với một hệ thống lí luận dày dặn đính kèm, lãng mạn mới vươn lên tầm một “chủ nghĩa”. Vậy để nói, vậy thì chúng tôi có gì lãng mạn trong thế kỉ này khác gì người thế kỉ xưa, thì có lẽ là chúng tôi đã ít phải trình bày đi, chúng tôi thực hành “lãng mạn” thường xuyên, tự nhiên và tự do hơn nhiều.

Cái tự do và tự nhiên hơn ấy, tôi lại cũng không chắc về những không gian khác nhau sẽ mang biểu đồ lãng mạn theo biến thiên khác nhau thế nào. Tôi chỉ hay biết về sự lãng mạn ở tuổi trẻ trú ngụ trong đô thị. Có lẽ thứ chất kích thích hiệu quả nhất để nuôi lớn một mầm lãng mạn trong khoảng thời gian ngắn ngày nhất chính là sự chật của đô thị, sự tỉ lệ nghịch giữa diện tích không gian để thở và dân số của phố phường. Ở đất nước tôi, khi người ta trẻ, người ta lũ lượt rủ nhau lên thành phố, để học, để làm, để mưu cầu một nhịp sống mới, hoặc không để làm gì cả. Thành phố chật, là sự chật mang gương mặt một thanh niên. Và rồi khi người ta quyết định dấn thân vào những kẹt xe, tắc đường (hoặc là do bị buộc vào không thời gian ấy), lại sẵn trong mình một tâm hồn còn quá trống, trong và sạch, thừa chỗ để nghĩ, thì sự hỗn độn, ngập ngụa từ bên ngoài kia ập tới, choán hết tâm trí họ. Những tiếng động của thành phố chảy vào từng mạch neuron, lan ra. Thành phố ngập trong những mảnh âm thanh, những khung sự vật, những tên biển hiệu, tên biển đường, tên biển số xe nhưng kì lạ thay, lại cấp cho con người cái khoảng không để suy tư, để biết buồn:

Tôi dắt chính mình đi

những buổi chiều thủng lốp

anh sửa xe không vá được nỗi buồn

 

phố dài buồn chật cười thưa […]

(Tiếng động màu xanh – Miên Di)

Và Hà Nội tuy nhỏ bé này thì đủ chỗ cho tất cả chúng tôi chứa nỗi buồn và buồn đủ để lãng mạn. Thơ, nhạc, nhìn chung là ca từ của người trẻ thời đương đại rặt những câu chuyện xung quanh thành phố, biến thành phố giờ đây như một tín hiệu nghệ thuật. Tôi biết về một dự án điện ảnh quy tụ được rất nhiều đạo diễn, diễn viên gạo cội trên thế giới: làm phim về những mảnh ghép tình yêu trong bối cảnh năm thành phố lớn. Năm thành phố biểu tượng đó, có Paris, có New York, có Thượng Hải, tất nhiên hai thành phố còn lại không phải Hà Nội, cũng chẳng thể là Sài Gòn, thậm chí buồn kinh niên như Huế cũng chưa được lọt vào bảng xếp hạng. Vậy thì cái công danh lớn của thế hệ trẻ này là gì nếu không phải biến những chiếc tên trên thành hệ thống thi liệu, nhạc liệu, ảnh liệu dồi dào? Từ bao giờ một hashtag #hanoi #saigon lại đủ làm cho người ta dấy lên một nỗi hồi cố, nhớ nhung? Từ bao giờ người ta quen phủ một lớp filter vintage lên màu một bức ảnh chụp đường phố, những quán hàng? Đô thị nhào nặn ra một nỗi buồn tuổi trẻ, và chính tuổi trẻ lại nhào nặn ra một đô thị buồn, vừa đáng chán, vừa đáng sống:

“1 chiều, tôi ngồi cà phê, ôm đàn tha thẩn
tôi tìm được 1 vòng hợp âm hay hay
tôi quyết định viết
nhưng tôi bị bí ý tưởng
tôi quay ra hỏi mọi người
ai cũng lắc đầu

tôi chán nản nhìn quanh, tôi thấy ai cũng ủ rũ, dài thượt trên ghế, mỗi người một cái điện thoại, chẳng ai nhìn ai, nói với ai câu gì.

tôi mới tự hỏi: sao cái thời này nhiều người buồn và buồn nhiều đến thế?”

(Lời tựa ca khúc: Thế kỉ 21 buồn – Kiên)

Những người trẻ, gia đình nhỏ thì chưa có, gia đình lớn thì đang dần cởi ra, họ chỉ còn chính họ để suy tư về. Trong quỹ thời gian của đời người, có lẽ đây là lúc họ hay chúng tôi “rảnh” nhất để nghiệm cho bản thân mình.

Rảnh nhất là những người “không làm gì”:

Tôi phóng ra xe, hôm nay đi học 

Nếu tôi còn bé thì tôi sẽ khóc 

Nhưng đã hai mươi, hai mươi, hai mươi 

Lên xe đi học, lại ngồi lên ghế không làm gì. […] 

(Không làm gì – Ngọt)

Trạng thái “không khóc được” là trạng thái tổn thương hơn trạng thái “khóc được” rất nhiều. Trạng thái “không làm gì” là trạng thái mệt hơn mọi trạng thái “đang làm gi”. “Không làm gì” có thể là không biết làm gì, không muốn làm gì, hoặc muốn không làm gì. Dù là tiền tố nào thì đây cũng là câu trả lời cho một đời sống dường như đang kiến tạo nên những sinh vật nhất định phải “làm một cái gì”. “Bất phục tùng đối với thực tại” nói như M.Gorky là một ý tưởng lớn của chủ nghĩa lãng mạn. “Không làm gì” là một cách. Bài hát của Ngọt lặp lại nhiều lần cụm “không làm gì” nhưng lặp lại vô số lần cụm “để không làm gì”. Đây có thể là mong muốn, là lời thỉnh cầu ráo riết một trạng thái mà tôi nghi ngờ nó rất gần với không tưởng chủ nghĩa. Nghĩ mà xem, “không làm gì” tưởng là dễ nhưng trót sinh ra giữa một cuộc đời sống động thì mấy ai giữ được cho riêng mình một tình trạng bất động. Nên mới có hình tượng “thằng Nam ngồi khóc” “cho vui cuộc đời”, nhưng lại nhớ ra “quần áo đang phơi vẫn còn chưa khô”:

“Nam tính đứng dậy, nhưng lại ngồi. […]”

(Thằng Nam ngồi khóc – Thái Vũ)

Nếu Nam đứng dậy, Nam sẽ đi đâu?

Câu trả lời thứ hai của những nhân vật lãng mạn thời này là đi lang thang. Đi lang thang thời này nổi tiếng nhất là Đen Vâu, như đã nói ở trên. Nhưng không phải đến Đen Vâu người ta mới nghĩ chuyện cần phải đi trốn.  Tôi đã nói, thời chúng tôi không có gì nhiều ngoài “phượt thủ”. Một hình thức “lãng mạn tập thể” trước khi chúng tôi có thể tìm ra một phương cách khác. Phần rap trong “Cho tôi lang thang” của Đen có đoạn “Cho riêng ta lang thang thôi /Để nhạc đời không lạc điệu” nhưng buồn cho anh Đen một nỗi, nhạc đời này đang ám ảnh bởi sự có mặt tới mức giờ này lạc điệu có khi là những kẻ chưa lang thang. Và dù việc chạy trốn hiện tại bằng hình thức lật bàn, về với thiên nhiên hay đi đâu thật xa đã cũ và được tập thể hóa, vẫn không thể phủ nhận được công dụng sau mỗi chuyến đi giúp xoa dịu và chữa lành những vết thương nhỏ to do sự vận hành khô khan của đời sống này gây ra. Thời đại nào ngưởi trẻ chúng tôi vẫn phải ở lại thành phố để sân si thêm tri thức thì thời đại đó vẫn còn cần những chuyến đi để tạm “rời thành phố chật chội, náo nức” cho chúng tôi một cơ hội khác để thở, kiểu khác.

Ngày nào còn khát 

Thì ngày đó ta còn lang thang. [..]

(Cho tôi lang thang – Đen Vâu, Ngọt)

Để thở kiểu khác, nếu không phán xét, thì còn một cách, đó là vịn vào làn khói của những điếu cần:

Cánh cửa phòng là đường phân cách,

ngoài là đời bên trong là rừng xanh

Những âu lo bỗng nhiên bé xíu như thằng nhóc thám tử lừng danh

Ta cao hơn muôn làn khói,

với nhịp beat là bạn đồng hành

Ta xa hơn ngàn câu hát,

có chim muông bay lượn vòng quanh.  

(Tan ka – Đen, Ganja – JGKiD , Đen, EmceeL, KraziNoyze, DSK)

Tôi không biết về những ngưởi trẻ trong qua khứ họ nhảy lên chuyến xe nào để chạy trốn những hiện tại không tương thích nào. Nhưng ở đây, không thể không thừa nhận sự có mặt của các chất kích thích trong đời sống những người trẻ trong mình là nghệ sĩ hoặc không. Văn hóa trẻ đương đại phải thừa nhận một tồn tại này. Tôi biết những người trẻ tìm đến cần như mưu cầu tới một trạng thái vượt xa khỏi những giới hạn của bộ não. Bộ não con người rộng, với những người còn trẻ, nó còn rộng hơn. Nhưng vì những chật chội, những lo toan về việc định dạng mình giữa cộng đồng, giữa thành phố, giữa gia đình, giữa bè bạn mà bộ não người ngột ngạt, ì trệ. Não không thể thở được. Cần sa có thể tạm làm loãng nó, để hở ra một vùng trống mới mà những suy nghĩ mới được quyền phát sinh. Đóng cửa phòng, với một làn khói là đã có thể phiêu lưu. Thời gian chậm lại đủ dùng cho con người kịp cảm nhận được đời sống từ từ và cẩn thận. Và những người trẻ, họ cần gì hơn là khoảnh khắc thấy mình được đứng bên lề thế giới, nhìn ngắm mọi thứ và quan sát chính mình. Có một bộ phận những nghệ sĩ thời này, họ tìm đến cần như tìm đến nơi có thể khơi nguồn cảm hứng. Cần sa không kì diệu đến thế, nhưng nó là kẽ hở để con người có thể lọt vào để tìm những thứ chưa đủ không-thời gian để tìm trong đời sống thật. Nỗ lực vượt thoát khỏi thực tại như thế này, dù bị đánh giá là đúng hay sai, dù là tích cực hay tiêu cực, cũng cần được ghi nhận như một động thái của “lãng mạn”. Nhưng chính họ, những nghệ sĩ trẻ (hoặc đơn giản là người trẻ) không có thì giờ để phân biệt lãng mạn thế nào là tiêu cực, lãng mạn thế nào là tiêu cực nữa. Họ thậm chí còn từ chối được gọi tên là anh lãng mạn hay cô lãng mạn. Sống ở thời nay, chúng tôi chẳng thiếu gì tự do, chỉ thiếu điểm tựa. Muốn chạy về đâu cũng có cách, chỉ là chưa biết chạy về đâu.

Trong những cung đường mà chú hươu vị thành niên có thể chạy, vẫn còn có một đường lùi về quá khứ. Thực tại thì chưa định hình, tương lai thì không tồn tại, chỉ có quá khứ là một căn hầm trú ẩn an toàn để con người có thể núp. Thế hệ trẻ vốn thường được gắn nhãn với cái mới, cái nổi loạn, nhưng khi những mầm sống đang lên quyết định đình trưởng trong bầu không khí hoài cổ thì đó lại là một câu hỏi đang để nghĩ về. Ở thành phố của tôi ngập những quán cà phê theo lối cổ từ thời kì Bao cấp, cái thời mà người già có thể kêu khổ, nhưng người trẻ thì vui sướng khi được đắp trên mình một tấm chăn con công. Có thể chúng tôi là những kẻ ham vui, ham lạ. Có thể những biểu hiện này cũng như sự vận hành của quy luật thời trang, chục năm lại tái sinh một xu hướng cũ. Không sao, đó có thể không phải là “lãng mạn thuần túy” nhưng nó đúng là đang diễn ra giữa nhịp sống mới này. Cái cảm thức mong đợi sự quay trở về nuôi dưỡng trong những tâm hồn trẻ sự nhạy cảm với mọi sự. Nó đôi khi giúp chúng tôi nhận ra những điều mới đôi khi ẩn chứa những bất thường và tiềm tàng nguy cơ phá vỡ một nền tảng nào đó. Và khi người trẻ chọn retro cả tình yêu, thì ắt hẳn đó phải là “lãng mạn.”

Ôi tình yêu thời nay mệt quá ai ơi!

Giận nhau không nói một lời

Chỉ vì không rep inbox thôi.

Và em ơi, thời nay mệt quá đi thôi

Anh muốn tình yêu tuyệt vời

Như ông bà anh.

(Ông bà anh – Lê Thiện Hiếu)

Vậy người trẻ thời này còn biết yêu không? Có chứ. Nếu có một điều kiện khả thể nào khiến cho chủ nghĩa lãng mạn dù đã đi hết vòng đời của nó vẫn còn rơi lại cuộc đời này biết bao nhiêu cảm thức, thì đó chính là nhờ mảnh đất màu nhiệm của tình yêu. Con người đang làm gì trên hành tinh này nếu không phải để học cách yêu một điều gì đó. Chủ nghĩa hiện sinh có thể phản bác lại là không, cuộc đời này toàn điều phi lý, thì nó cũng nuôi trong con người một tình yêu đối với sự không có nghĩa của cuộc đời. Tình yêu “lãng mạn” của tuổi trẻ sống trong lòng của cảm thức về hiện sinh. Xưa nay đều thế, như Xuân Diệu vẫn thắc mắc “đố ai định nghĩa được tình yêu”:

em đừng xanh quá khổ anh
khổ thân con cáo hóa thành cây si
anh đứng đầu Hồ Đắc Di
ngóng Lương Định Của lầm lì gọi em

em đừng lạnh giống que kem
để trong ngăn đá bỏ quên một tuần
anh về giữa Bùi Thị Xuân
uống hai mươi cốc nhân trần cho say

thế thôi là hết một ngày.

(Một bài thơ cũ – Lu)

Bài thơ của Lu vẫn loanh quanh loanh quanh giữa những tên biển phố của Hà Nội. Nhưng tình yêu ấy có chật chội không? Tất nhiên không. Thành phố này dù chật nhưng chưa đủ khắc nghiệt đề bóp nghẹt tình yêu. Vẫn là thứ tình yêu lãng mạn có ngây thơ, có bất cần của thời còn chủ nghĩa, vẫn là thứ tình yêu được nâng lên thành tầm biểu tượng, chỉ là cách diễn đạt khác đi. Nó phù hợp với không khí của thời này. Tuổi trẻ thì vẫn luôn là táo bạo, là dũng cảm. Sự dũng cảm đôi khi chỉ nằm ở chuyện dám dành cả một ngày loanh quanh chỉ để yêu. Đâu phải ai cũng “cần gì ngoài em.”

Có phải tôi chỉ đang chỉ đang dùng dẫn chứng của một loạt những người trẻ có vẻ lười và nuông chiều bản thân. Tất nhiên, trong thế giới những người trẻ đang sống, không phải ai cũng buồn buồn và không làm gì. Có vô số những người trẻ mà lịch sử sẽ gọi họ là những người lãng mạn theo hướng tích cực. Họ sống, họ nhận ra những vấn đề của đời sống, họ cố gắng cải thiện, bằng các chiến dịch, các dự án cộng đồng. Họ hừng hực khí thế đấu tranh. Họ quyết liệt. Họ lãng mạn. Họ rất lãng mạn. Vì họ cũng đang tin vào một trật tự tưởng tượng nào khác vượt xa khỏi những lằn ranh của trật tự hiện thời này. Nhưng họ có buồn không. Họ cũng buồn. Những người không làm gì có quyết liệt không. Họ còn quyết liệt và mạnh mẽ hơn thế. Vì dù là ở lại với thực tại hay chạy trốn nó, họ có cả ở hai cực. Và cực nào cũng thịnh. Hoặc là không có cực nào. Chúng trộn vào nhau. Không có gì phức tạp hơn việc cố gắng phân tách người trẻ thành các loại. Vì đó là những thực thể kì bí nhất của loài người.

Những người trẻ giờ đây có lẽ bình tĩnh và hiểu họ hơn nhiều. Họ “ngồi đây chờ cơn bão tới.”

Vũ Thị Kiều Chinh

(Sinh viên lớp A – K65, khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Phục trang bản ngã trong văn học mạng – Nhìn từ một số thể loại

rupi kaur

 

1. Bản ngã như là kết quả của sự phục trang

Khái niệm “phục trang bản ngã” (self-fashioning) được đề xuất lần đầu tiên bởi nhà nghiên cứu Stephen Greenblatt thuộc Đại học Harvard, Hoa Kỳ trong chuyên luận – Renaissance Self-Fashioning: From More to Shakespeare (Sự phục trang  bản ngã ở thời đại Phục hưng: từ More đến Shakespeare, 1980). Ở công trình nghiên cứu gây nhiều ảnh hưởng này, Greenblatt đã phân tích cách mà bộ phận thuộc tầng lớp trên ở nước Anh thế kỷ XVI kiến tạo căn tính và mặt nạ công cộng (public personae) theo những chuẩn mực xã hội như thế nào. Không phải ngẫu nhiên ông lại sử dụng động từ “phục trang” để mô tả quá trình tạo hình bản sắc của con người thời bấy giờ bởi công việc này bắt đầu từ việc người ta phải ăn mặc sao cho tương xứng với địa vị và đẳng cấp của mình. Nhưng không chỉ được dùng với nét nghĩa về sự tạo hình bề ngoài, ở thế kỷ XVI, từ này còn thể hiện việc con người tạo cho mình “một tính cách đặc thù, một cách đặc trưng để thể hiện bản thân trong thế giới, một phương thức nhất quán trong nhận thức và ứng xử”.[1] Có nghĩa là, “phục trang” ở đây còn bao hàm những phương diện khác như học vấn, nghi thức giao tiếp, phong thái, thị hiếu… Như thế, “phục trang” chính là một thực hành văn hóa của con người.

Greenblatt từ chối xem bản ngã (self), căn tính cá nhân (individual identity) như một cái gì tự nhiên, nằm sẵn trong mỗi con người mà cũng là một ý niệm được kiến tạo, được “phục trang” trong những ngữ cảnh văn hóa nhất định. Văn hóa, theo ông, cần được nhìn nhận như sau: “Toàn bộ những niềm tin và các hoạt động hình thành nên một nền văn hóa nhất định đóng vai trò như một thứ công nghệ kiểm soát bao trùm tất thảy, một tập hợp các giới hạn mà các hành vi xã hội phải được bao hàm trong đó, một danh mục những mô hình mà mỗi cá nhân phải thích ứng theo. Các giới hạn này không nhất thiết phải hẹp…song không thể rộng vô bờ bến được và hậu quả của việc vượt quá các giới hạn này có thể rất nghiêm khắc”[2] Bản ngã cá nhân, theo đó, được kiến tạo  vừa như là nỗ lực để thích nghi với những giới hạn, khuôn mẫu mà văn hóa áp lên mình, lại vừa như là sự kháng cự, bất tuân những giới hạn, khuôn mẫu ấy. Greenblatt đã nhìn ra mâu thuẫn nội tại của văn hóa thời kỳ Phục hưng: một mặt, thời đại này vừa có những khoảng tự do cho phép con người có những lối nghĩ khác, lối sống khác, có sự linh động trong mối quan hệ giữa các tầng lớp và địa vị xã hội, mặt khác, lại vừa có những sức mạnh muốn hạn chế, kiềm tỏa, thậm chí phá hoại những khả năng khác ấy. Việc phục trang cho bản ngã là một hành động thương lượng liên tục giữa những mâu thuẫn, xung đột này. Nó vừa là sự phục tùng những quy ước, chuẩn mực văn hóa, để có thể được thừa nhận nhưng cũng vừa là sự bất tuân, khiêu khích với những giá trị áp đặt, để thể hiện quyền tự do cá nhân. Một xã hội cởi mở với sự phát triển của con người cá nhân không thể chỉ dùng sức mạnh của nó, qua các thiết chế, các chuẩn mực, để buộc cá nhân phải quy phục; nó còn cần cả sự độ lượng, rộng rãi để  dung nhận sự dám lệch chuẩn, dám khác biệt của các cá nhân.

Cách tiếp cận của Greenblatt về bản ngã cá nhân, như đã nói đến ở trên, có sức gợi mở lớn đối với giới nghiên cứu. Phục trang cho bản ngã không chỉ là một hiện tượng ở thời Phục hưng mà cần phải xem nó như một khía cạnh quan trọng của thời hiện đại. Nó thậm chí còn được xem được như một “thứ nghệ thuật vĩ đại và hiếm hoi”, như Nietzsche đã khẳng định trong tác phẩm The Gay Science (Khoa học vui). Theo ông, ở thứ “nghệ thuật” đặc biệt này, những bậc thầy của nó “đã tìm hiểu tất cả điểm mạnh và điểm yếu trong bản chất của mình, rồi sau đó lắp chúng vào một bản kế hoạch nghệ thuật, cho đến khi mọi điểm mạnh/yếu ấy hiện ra như là nghệ thuật.”[3] Sáng tạo bản ngã là một lao động cũng đòi hỏi sự tinh tế, công phu, và đặc biệt, là tính thẩm mỹ. Nhà nghiên cứu triết học Costica Bradatan có lý khi cho rằng giữa việc sáng tạo bản ngã và sáng tạo văn chương có sự tương đồng sâu sắc.[4] Bản thân ông đã vận dụng khái niệm này để phân tích các triết gia tử đạo đã bản lĩnh, táo bạo và thách thức như thế nào khi dùng chính cái chết của mình để phục trang cho bản ngã, thậm chí, xa hơn thế, biến điều này trở thành tác phẩm lớn nhất của đời mình, có thể gây ảnh hưởng và sức lan tỏa lâu dài đến hậu thế.

Văn học và sự phục trang bản ngã có mối liên hệ mật thiết với nhau. Greenblatt viết: “Văn học hành chức trong hệ thống này [quá trình kiến tạo bản ngã của một cá nhân trong mối tương tác qua lại với văn hóa – T.N.H] theo ba cách đan cài chặt chẽ với nhau: như là sự biểu hiện hành vi cụ thể của tác giả; như là sự biểu đạt những mã chi phối hành vi ấy; như là sự suy tư về chính những mã ấy.”[5] Hiểu như vậy, viết văn, trước hết, thể hiện tham vọng kiến tạo cái tôi của người viết. Ý niệm này có phần gần gũi với một thuật ngữ vốn được sử dụng khá nhiều trong nghiên cứu thi pháp học ở Việt Nam – “hình tượng tác giả”. Thuật ngữ này muốn nói đến “sự tự ý thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm, một vai trò được người đọc chờ đợi.”[6] Vai trò đó được tác giả bộc lộ qua tư thế mà anh ta thấy mình trong thế giới, qua những động tác, điệu bộ, phong thái được phô diễn trong tác phẩm, qua giọng điệu mà anh ta muốn nói với thế giới, với người đọc tiềm ẩn. Tất cả những điều này, đến lượt chúng, lại bị quy định bởi những ngữ cảnh văn hóa. Thí dụ, trong văn học trung đại, khi soạn một bài cáo, người viết luôn phải ý thức về vai “quân vương” mà mình sắm và vai trò này có những bắt buộc đối với sự tự trình hiện (self-representation) về khẩu khí, về tư thế giao tiếp trước bàn dân thiên hạ. Trong văn học lãng mạn, hình tượng tác giả là cái tôi tự ý thức về tính cá biệt, độc đáo của mình và cái làm nên tính cá biệt, độc đáo ấy, quan trọng hơn hết, là cảm giác, cảm xúc của con người. Những trạng thái cảm xúc vu vơ, mơ hồ, không mục đích, vốn ít khi được xem là những yếu tố cần phô diễn trong thơ ca trung đại, giờ đây lại thành “chất liệu” đặc biệt để tạo hình cái tôi. Giống như một diễn viên trên sân khấu, khi tác giả ý thức được “vai” mình phải “đóng” trong tác phẩm mình viết, anh ta hiểu mình cần phải nương theo những “kịch bản”, những “chỉ dẫn sân khấu” nhất định – những ẩn dụ cho các quy ước, chuẩn mực của một ngữ cảnh văn hóa – để có thể tròn vai. Nhưng để có dấu ấn cá nhân, anh ta cũng phải hiểu mình có những quyền tự do nhất định trong sự thể hiện vai diễn đó, có như thế, hình tượng của anh ta mới có sức hấp dẫn đối với công chúng.

Mặc dù có nhiều nét tương đồng nhưng chúng tôi nghĩ khái niệm “phục trang cho bản ngã” vẫn có những điểm khác biệt quan trọng so với khái niệm “hình tượng tác giả”. Thứ nhất, phạm vi ứng dụng của khái niệm đầu rộng hơn: trong khi khái niệm “hình tượng tác giả” chỉ gắn với các văn bản văn học thì khái niệm “phục trang bản ngã” có thể được dùng để tiếp cận nhiều loại hiện tượng văn hóa hơn. Chẳng hạn, hoàn toàn có thể dùng khái niệm này để nghiên cứu các hình thức khẳng định cá tính của giới trẻ đô thị như cách ăn mặc, xăm trổ, điệu bộ, gu thẩm mỹ, v.v… Khi nghiên cứu văn học ở thời điểm này chuyển hướng theo khúc ngoặt văn hóa, một khái niệm có phổ áp dụng rộng như vậy tiềm tàng khả năng trở thành một khái niệm công cụ hiệu quả. Thứ hai, khái niệm mà Greenblatt đề xuất là một cách tiếp cận độc đáo về “bản ngã”. Không những nó cho thấy bản ngã là một ý niệm mang tính nhân tạo, là một “sản phẩm văn hóa” được làm ra, mà còn cho thấy sản phẩm ấy được làm bằng những “chất liệu” nào. Những “chất liệu” này nhiều khi là những yếu tố rất vật chất, hữu hình như thời trang, phương tiện đi lại, không gian sinh hoạt, thậm chí cả các loại bệnh tật… Một khi nhận thức được tính chất nhân tạo của ý niệm bản ngã, người ta có thể giải phóng mình khỏi những cảm quan tiền định về nó, sẽ ý thức được thứ tự do mà mình có để sáng tạo chính mình, tìm thấy nhiều khả thể của mình. Và người ta có thể thực hiện điều này bằng việc thay đổi, làm mới những “chất liệu” cấu thành nên bản ngã. Đấy chính là cách thương thỏa giữa ta và các diễn ngôn về căn tính, các chuẩn mực, khuôn phép xã hội. Thí dụ, trong cuốn Fashion: Very Short Introduction (Dẫn luận về thời trang), tác giả Rebecca Arnold đã đưa ra nhiều dẫn chứng rất sinh động trong lịch sử để cho thấy người ta có thể dùng trang phục để tạo nên những căn tính mới, thách thức những phân định về văn hóa xã hội như thế nào, từ việc những người đàn ông  ăn mặc theo phong cách Macaroni ở châu Âu thế kỷ XVIII vốn diêm dúa, sặc sỡ, qua đó xúc phạm những hình mẫu về nam tính đến việc phụ nữ mặc quần dài hồi đầu thế kỷ XX, qua đó phá vỡ những định kiến về tính nữ cũng như giai cấp.[7] Khái niệm “phục trang bản ngã” có lẽ càng dễ trực quan hơn trong thời đại internet. Đó là lý do mà bài viết này sử dụng nó làm một khái niệm công cụ để tiếp cận một số hiện tượng văn học mạng.

 

  1. Phục trang bản ngã và văn học mạng

Sự ra đời và phát triển của internet từ những năm cuối thế kỷ XX đã làm thay đổi ngoạn mục cảnh quan văn hóa của nhân loại. Những tác động ấy khó liệt kê xong xuôi được nhưng ở bài viết này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh vào một khía cạnh: internet dẫn đến sự ra đời của các mạng xã hội và điều này làm lung lay, nếu không muốn nói là phá vỡ, sự độc tôn của các không gian công (public sphere) truyền thống và chính mạch, tạo ra một không gian rộng rãi chưa từng có trong lịch sử văn hóa cho tự do biểu đạt của các cá nhân. Không cần phải qua các trung gian được bảo đảm nhưng đồng thời cũng chịu sự kiểm duyệt bởi các thiết chế xã hội như báo chí, xuất bản, các giải thưởng, v.v…, mỗi cá nhân giờ đây có thể trở thành chủ nhân của một kênh truyền thông, tự xây dựng uy tín hay sức hấp dẫn của bản thân qua các bài viết, các hình ảnh mình đăng tải, các tin tức mình đưa ra, bình luận, từ đó, tăng quyền (empower) cho mình, tạo ra thế đối xứng với các kênh truyền thông khác, kể cả các kênh chính thống. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2006, báo Times đã chọn YOU – những người sử dụng những tiện ích của mạng như Youtube, blog, Facebook… như một kênh truyền thông cá nhân, độc lập – là nhân vật của năm, nhân vật tạo được những ảnh hưởng mạnh nhất đến thế giới, chứ không phải là một chính trị gia, một lãnh tụ tôn giáo, một chủ tập đoàn lớn, hay một nghệ sĩ.[8]

Mạng cũng chính là không gian dành cho sự phục trang bản ngã. Khi giao tiếp trên mạng, mỗi cá nhân, trên thực tế, đều phải tạo hình cho cái tôi của mình: chọn một biệt hiệu, chọn một hình ảnh đại diện, đăng một dòng tâm sự, đưa ra một lời bình luận. Lượt tương tác, bấm “like”, chia sẻ của người theo dõi mình dễ kích thích người ta làm thế nào để hình ảnh của mình được chú ý hơn, được ưa thích hơn, gây ấn tượng hơn. Điều này tạo ra quyền lực và cả lợi nhuận cho người tham gia mạng xã hội. Các KOL (key opinion leader) – một thuật ngữ chỉ những người có khả năng dẫn dắt dư luận, tạo các xu hướng trên mạng từ gu ăn uống, thời trang, du lịch cho đến các quan điểm về các vấn đề xã hội – vừa là những hình tượng quyền lực trong truyền thông, vừa là những người có thể kiếm tiền được từ sức ảnh hưởng của mình, bởi lẽ mạng xã hội giờ đã trở thành công cụ quảng cáo hiệu quả. Nền tảng kỹ thuật của các trang mạng cho phép ta có thể ưu tiên cách thức nào để phục trang bản ngã: nếu như các blog thuận lợi hơn cho việc viết lách thì Instagram là nơi người ta có thể thu hút sự chú ý của người khác qua các hình ảnh mình đăng tải và Youtube là nơi ta có thể phô diễn mình qua các clip, hình ảnh động hay phim ngắn… Bằng việc hiện diện trên mạng xã hội, mỗi người có quyền chọn một điểm nhấn ở bản thân, khuếch trương nó lên như là một phương diện bản sắc cá nhân để hấp dẫn người khác. Đó có thể là vẻ đẹp ngoại hình, cá tính độc đáo, tài lẻ đặc biệt, chính kiến sắc sảo, trải nghiệm phong phú… Chính bởi tính nhân tạo quá rõ nét của cái tôi trên mạng này mà người ta vẫn thường định kiến “mạng là ảo”. Nhưng xét đến cùng, ở không gian nào, con người cũng phải phục trang cho bản ngã.

Văn học dĩ nhiên không khước từ những khả năng mà internet và mạng xã hội tạo ra. Khái niệm “văn học mạng” ra đời trước hết như là kết quả của việc người viết tận dụng những ưu thế của internet cho hoạt động sáng tác, công bố và truyền bá tác phẩm của mình: điều kiện xuất bản tự do, độc lập; khả năng truyền bá nhanh chóng, rộng rãi, sự tương tác tiện lợi khiến mối quan hệ giữa độc giả và người viết trở nên gắn bó hơn, tạo nên những tiêu chí đánh giá mới, không phụ thuộc vào quyền uy của phê bình chuyên nghiệp, nền tảng kỹ thuật số cho phép người viết có thể tìm tòi những hình thức biểu đạt mà in ấn truyền thống không gợi ý được. Nhưng văn học mạng nên được định nghĩa thế nào? Trong những tranh luận sôi nổi nhất về văn học mạng cách đây hơn 10 năm, khi văn học mạng trở thành một hiện tượng thời sự với sự ra đời của các tạp chí văn chương điện tử với ý hướng tạo ra những cách tân thẩm mỹ và ở cực kia là sự xuất hiện của một số cây bút với những cuốn sách có xuất xứ từ blog cá nhân cùng với làn sóng dịch thuật các tiểu thuyết mạng từ Trung Quốc, hướng đến thị hiếu đại chúng, đặc trưng của nó thường được nhận diện trong sự đối lập với văn học được in trên giấy. Chẳng hạn, Inrasara cho rằng văn chương mạng phải là sáng tác của “các tác giả chỉ muốn xuất hiện trên mạng… Họ sống đời sống văn chương của mạng, viết trên mạng, vận dụng ưu thế kĩ thuật của Internet, xử lí thông tin trên mạng, tương tác trên mạng, tồn tại trên mạng, buồn vui trên mạng, hi vọng hay thất vọng cũng trên mạng… Họ là công dân mạng toàn phần. Và có thể nói đây là thứ văn chương mạng đúng nghĩa, khác hẳn các sáng tác được đăng trên mạng. Văn chương mạng khi in ra giấy sẽ mất đi hơi thở đời sống mạng và giảm “giá trị đích thực” của nó không ít!”[9] Nhưng chính đời sống của văn học đương đại khiến ta cần phải nhìn nhận lại mối quan hệ giữa mạng và sách giấy. Đó là mối quan hệ cộng sinh thay vì đối lập, nhất là nhìn từ hành vi phục trang cho bản ngã. Thu hút độc giả mạnh bậc nhất vào thời điểm này là các tác giả mà hình ảnh của họ trên mạng xã hội tạo được chú ý lớn đối với công chúng, nhất là lớp trẻ. Họ biết “phục trang cho bản ngã” của mình theo những cách để công chúng không dễ quên trong thời đại bão lũ thông tin. Có thể thấy ngay qua cách họ tự giới thiệu về mình trên truyền thông: một thư sinh lịch lãm, phong lưu, giàu cảm xúc (Anh Khang), một cô gái tự tin về vẻ “xấu lạ” của mình (Mèo Xù), một kẻ “ngoại hình tầm thường, tính khí thất thường, đi trên dây thành thạo” (Lu), một cô gái tự nhận mình là “Ta ba lô”, có nhiều trải nghiệm về du lịch (Đinh Hằng), hay thậm chí một người có khả năng kể những chuyện cười “bậy”, “bựa” (Song Hà)… Theo những cách khác nhau, họ nhấn mạnh “đặc điểm nhận dạng” của họ trong thế giới mạng, trong đó, nét khác biệt, lập dị, sự bất cần, tuyên ngôn sống khiêu khích… không phải là những điểm cần nén giấu mà trái lại, có thể biến thành những điểm thu hút sự chú ý. Việc họ xuất bản những gì đăng tải trên trang cá nhân của mình thành sách cũng nằm trong dự phóng phục trang cho bản ngã đó. Khi xuất bản sách, ngoài việc những tác giả này phải chấp nhận kiểm duyệt ở mức độ nhất định, thì cũng có thể coi đây là cơ hội để họ chỉnh sửa lại “trang phục” mà họ mặc cho bản ngã của mình, khiến hình ảnh ấy hấp dẫn hơn, lôi cuốn hơn đối với công chúng. Sách ở đây là phương tiện để mở rộng thêm sức ảnh hưởng của họ.

Phục trang bản ngã có thể xem yếu tố nằm sâu trong tâm lý sáng tác của những tác giả văn học mạng, trong đó có việc lựa chọn thể loại. Thể loại, từ góc độ này, được tiếp cận như là phương thức để người viết xây dựng hình ảnh, biểu đạt cái tôi của mình một cách ấn tượng và thuyết phục đối với công chúng nhất. Điểm đáng lưu ý là rất nhiều các tác giả nổi bật của văn học mạng gần đây tuyên bố họ không phải là nhà văn, cuốn sách của họ không phải là văn học. Những tuyên bố ấy, một mặt, cho thấy họ mang một tâm thế nhẹ nhàng trong việc viết lách, không mang theo mình những trách nhiệm lâu nay thường được gắn cho văn học như là thiên chức, sứ mệnh của nó. Viết, đơn giản, là một hứng thú cá nhân để trưng diện cái tôi của mình, bên cạnh nhiều cách để trưng diện khác: cái tôi ấy có thể với ai đó là nhạt nhẽo hay thú vị, nhưng trước hết, việc biểu đạt nó là niềm vui của người viết. Mặt khác, họ tuyên bố vậy bởi nhiều người trong số họ lựa chọn các thể loại lâu nay thường bị xem là ngoại biên, thậm chí là cận văn học (như truyện tranh), nhưng vì thế lại khiến họ thoải mái, tự do hơn trong việc biểu đạt. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn ba thể loại, phân tích diện mạo của chúng trong mối liên hệ với ý thức phục trang bản ngã trên không gian mạng là tản văn, truyện tranh và thơ. Sự lựa chọn này có lý do: một thể loại hiện đang phát triển sung sức nhất (tản văn); một thể loại nhờ sự lan tỏa của không gian mạng trở thành một hiện tượng rất cần quan tâm trong đời sống văn hóa trẻ (truyện tranh); và một thể loại mà sự cộng hưởng với không gian mạng đã khiến sinh mệnh của nó có những biến động thú vị (thơ).

2.1. Tản văn

Tản văn có thể xem là thể loại đang giữ vị trí chủ lực của văn học mạng, nếu căn cứ vào các đầu sách được xuất bản và bán chạy, dù nó không phải là thể loại được khai sinh từ mạng. Thể loại này, theo chúng tôi, thỏa mãn nhu cầu phục trang bản ngã ở thời đại internet bởi hai đặc điểm. Thứ nhất, tản văn là thể văn xuôi tự do nhất: nó hầu như không đặt ra bất cứ quy phạm nào về đề tài, kết cấu, bút pháp, giọng điệu. Phẩm chất tự do này cho phép người viết có thể tùy biến với thể loại để biểu đạt bản thân, giống như người ta có thể phối đồ một cách phóng túng, linh hoạt nhất trên cơ sở những trang phục và phụ kiện có sẵn. Thêm nữa, phẩm chất tự do này còn bắt nguồn từ chỗ tản văn vốn là một thể loại “hầu như bị lãng quên” trong thế kỷ XX, không được quan tâm miêu tả trong bất cứ công trình văn học sử nào và cũng không được chú ý nghiên cứu từ góc độ lý thuyết.[10] Địa vị “ngoại biên” này của tản văn lại tương thích với tâm thế giải nghiêm trọng hóa đối với việc viết lách của nhiều tác giả. Những tên gọi khác nhau dành cho thể loại này như nhàn đàm, phiếm luận, tạp bút, tản mạn… phần nào cho thấy với nhiều người viết, tản văn giống như một thể “văn chơi”. Thứ hai, tản văn được xem là một thể văn phi hư cấu (non-fiction). Có vẻ như nghịch lý song trên chính không gian được coi là “ảo” này, cái thật, cái thực lại là yếu tố gây hấp dẫn lớn nhất. Sự phát triển của công nghệ càng ngày càng tạo điều kiện để những người tham gia mạng xã hội trình diễn “sự thật”. Chẳng hạn, một ứng dụng như livestream khiến ta không chỉ nghe, nhìn “cái thật” mà còn có thể trực tiếp tương tác với nó. Đối với hoạt động viết lách, tính chất cởi mở, tự do của không gian mạng cũng khiến người viết muốn dùng tản văn để thể hiện “cái thật” nhất của mình. Cái “thật” ở đây nên được hiểu như là hiệu quả của sự “phục trang bản ngã”, giống như trong nghệ thuật hóa trang, kẻ thành công nhất là kẻ có mặt nạ mà người khác thấy “giống thật” nhất. Các tác giả cũng thường phát triển bài tản văn của mình trên nền các thể loại lời nói vốn được xem là bảo đảm cho “sự thật” như nhật ký, thư từ, hồi ức…

Nhìn từ khía cạnh “phục trang bản ngã”, tản văn mạng hiện nay nổi lên một số “vai” mà các tác giả muốn sắm. Có lẽ bắt đầu từ hiện tượng gây nhiều chú ý – Ký ức vụn của Nguyễn Quang Lập (xuất bản lần đầu vào năm 2009), một dòng tản văn mạng có lối viết gần với giai thoại hay tiểu phẩm chính thức hiện diện và tạo thành một vệt ấn tượng cho đến bây giờ, mà ta có thể nhắc thêm một số tên tuổi khác như Võ Tòng Đánh Mèo (nickname/bút danh của Đinh Long), Song Hà (nickname: Boy Già), Đinh Vũ Hoàng Nguyên (nickname: Thầy bói già)… Ở dòng tản văn này, tác giả chủ ý xây dựng hình tượng của mình như là một người tếu táo, thích bông đùa, cà khịa. Mạng được họ hình dung như một không gian thân mật, nơi họ có thể giao tiếp với người đọc như bạn bè một cách dân chủ, bình đẳng, suồng sã. Nguyễn Quang Lập từng gọi blog của ông là “chiếu rượu quê choa” – một hình ảnh tự nó đã gợi ra một không gian giao tiếp giữa những người bằng vai, nơi họ có thể trò chuyện bằng một thứ ngôn ngữ thù tạc kiểu “chén chú chén anh”, không phải khách khí, câu nệ. Lớp khẩu ngữ sống động, luôn cập nhật những từ khóa thời sự, những thành ngữ thời thượng, đặc biệt, không ngại những cách diễn đạt “bậy”, “bựa”, “lầy”… cho thấy tinh thần carnival đậm đặc trong dòng tản văn này. Có một lưu ý ở đây: nhiều người gọi những bài văn được công bố trên mạng rồi đưa vào sách của những tác giả này là truyện ngắn trào phúng. Nhưng chúng tôi cho rằng chúng nghiêng về tính chất tiểu phẩm nhiều hơn: về mặt nội dung, chúng đa phần xoay quanh các sự kiện mà các tác giả thường cam đoan là “chuyện thật” của mình; về mặt dung lượng và cấu trúc, chúng thường ngắn, thường xoay quanh một tình huống nảy sinh trong đời sống thường nhật, về cách kể chuyện, chúng có thể làm ta liên hệ đến hình thức tấu hài vốn khá phổ biến trên truyền hình hiện nay. Song xét về mặt nguyên mẫu, hình thức phục trang bản ngã của các tác giả tản văn thuộc dòng mạch này lại gần với các nhân vật nói trạng, nói khoác, nói nhại…trong văn học dân gian truyền thống. Đó là những nhân vật “bịa chuyện như thật” nhưng vô hại, nói nhảm nhưng vui, chọc cười nhưng có duyên, không làm tổn thương ai, và khi can đảm, cũng có thể dùng khả năng hài hước của mình để chỉ trích, phê phán. Nhu cầu đùa vui, giải bỏ áp lực cũng như cấm kỵ trong đời sống khiến thời hiện đại cũng cần những nhân vật như vậy. Mạng đã trở thành không gian carnival cho sự tái diễn của các nguyên mẫu văn hóa dân gian này, tất nhiên, trong những diện mạo mới.

Một dòng mạch khác cũng rất nổi bật trong tản văn đương đại mà chúng tôi tạm đặt tên là dòng tản văn trải nghiệm. Ở dòng tản văn này, cái tôi tác giả thường được phục trang trong  hình ảnh của một người có sự nếm trải, có thực tế ở một số lĩnh vực: du lịch, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm khởi nghiệp, tâm lý lứa tuổi, tình yêu-hôn nhân, thậm chí cả về bệnh tật… Mạng xã hội cho phép họ thể hiện được “thực tế” mà họ có qua hình ảnh và nhất là qua câu chuyện cá nhân mà họ kể. “Thực tế” được trải nghiệm khiến tác giả tản văn có thẩm quyền để có thể tư vấn cho người khác về những vấn đề họ phải đối mặt, hay khơi gợi sự đồng cảm đón nhận từ công chúng. Các lời khuyên, triết lý của họ thường được biểu đạt dưới những hình thức ngắn gọn, dễ nhớ, dễ gây chú ý, mang dáng dấp của các các khẩu hiệu (slogan) mà độc giả của họ có thể vay mượn để đăng lại như là cách thể hiện quan điểm sống của mình. Thí dụ: “Không xinh, không thông minh, không bất bình thế giới” (Phan Ý Yên), “Không có trải nghiệm, tuổi trẻ không đáng một xu” (Phi Tuyết), Yêu thì có thể nhiều lần, nhưng sống thì chỉ có một lần thôi. Yêu lầm thì yêu lại, nhưng sống sai thì không có một cuộc đời thứ hai để làm lại đâu” (Anh Khang)… Có thể đặt ra một giả thiết ở đây: lối biểu đạt đó có mối liên hệ mật thiết với công nghệ sản xuất nội dung truyền thông – một lĩnh vực thương mại đang phát triển rất năng động hiện nay ở Việt Nam nhưng điều này cũng cần chứng minh thêm. Trong cách phục trang cho bản ngã của những tác giả ở dòng tản văn này, những chi tiết cá biệt trong tiểu sử hay cá tính vốn thường bị xem là lệch chuẩn so với những khuôn mẫu đạo đức truyền thống, thậm chí bị xem là những chuyện không nên công khai, phơi bày để thiên hạ biết, lại được nhấn mạnh: một phụ nữ say mê đi phượt, làm mẹ đơn thân và sẵn sàng đưa con mình khi mới ba tuổi cùng phiêu lưu trên những cung đường (Yếm Đào Lẳng Lơ – Gái phượt); một cô gái từng trải qua trầm cảm, mang tâm lý “Tôi muốn sống nhưng cuộc sống đang giết chết tôi” (plaaastic – Lỗi); một cô gái du lịch nước Mỹ trong tâm trạng thất tình (Đinh Hằng – Quá trẻ để chết)… Những bài viết, câu chuyện của họ khi công bố rời trên mạng thiên về thể loại tản văn nhiều hơn nhưng khi in thành sách, lại thường được biên tập thành những tự truyện. Khi khắc họa những chi tiết lệch chuẩn, thường bị giấu đi khi tự thể hiện bản thân, cách phục trang bản ngã như vậy cho thấy một sự thách thức, hay giản dị hơn, một ý hướng thay đổi các diễn ngôn phổ biến về giới, về tuổi trẻ, về hạnh phúc… Ở thời điểm này, chúng tôi nghĩ đây là phương diện giá trị quan trọng nhất của dòng tản văn mạng này.

 

2.2. Truyện tranh

Truyện tranh cũng không phải là loại hình văn học được sinh ra từ môi trường mạng. Nhưng rõ ràng môi trường mạng, với nhiều ưu thế của mình, đã khiến truyện tranh ở Việt Nam có một sinh khí mà trước giai đoạn internet, rất khó đạt được: Mạng giúp những người ham mê truyện tranh tạo thành một cộng đồng, cùng thưởng thức, dịch thuật, chia sẻ tác phẩm, bàn luận, phê bình, thậm chí gây quỹ cho các dự án sáng tác. Các tác giả truyện tranh Việt Nam cũng thông qua mạng mà trực tiếp giới thiệu tác phẩm của mình, nhờ vậy, một thị trường tuy vẫn còn ưu tiên cho việc xuất bản các tác phẩm dịch nhưng giờ đã chú ý hơn đến các tác phẩm nội địa. Ở đây, cần phải lưu ý đến một thực tế: truyện tranh vốn thường được xếp vào nhóm “cận văn học”, tức các hiện tượng văn học pha tạp, có sự pha tạp giữa nghệ thuật ngôn từ và các phương tiện biểu đạt ngoài ngôn từ, phi văn học. Nhưng như Werner Wolf đã lưu ý, việc nghiên cứu văn học tại thời điểm này đang đứng trước “khúc ngoặt liên phương tiện” (“intermedial turn”)[11], theo đó, một khía cạnh quan trọng của khúc ngoặt này là không chỉ nên hiểu văn học như một nghệ thuật đơn phương tiện (ngôn từ). Ngay một số thể loại lớn của văn học như kịch, sử thi, thơ… vốn dĩ cũng đã sống đời sống của một thứ nghệ thuật đa phương tiện, khi nó kết hợp với ngôn ngữ của thân thể và bài trí sân khấu trong trình diễn, đi kèm với âm nhạc… Và bản thân nghệ thuật ngôn từ cũng tìm thấy được những ưu thế của mình, khắc phục những giới hạn trước đó của nó khi đặt trong mối quan hệ với các phương tiện ngoài ngôn từ. Truyện tranh, từ góc độ này, hoàn toàn xứng đáng được xem xét như một hiện tượng văn học đa phương tiện, mà ở đó, phần văn bản ngôn từ và văn bản hình ảnh đòi hỏi một sự cộng hưởng hiệu quả.

Truyện tranh ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng về tiểu loại và khuynh hướng: manga (Địa ngục môn – Can Tiểu Hy), graphic novel -tiểu thuyết truyện tranh (Cửa sổ – Tạ Huy Long), comic strip – tạm dịch truyện tranh chuỗi (Đời về cơ bản là buồn cười – Lê Bích, Chuyện vặt của Múc – Bích Ngọc…), comic books – tạm dịch truyện tranh hài hành động (Nhật ký đầu gấu –  TéddiBe)… Từ khía cạnh phục trang bản ngã, bài viết này muốn bàn sâu hơn về hiện tượng comics. Là thể loại truyện tranh vui nhộn, comics có phần tương đồng với dòng tản văn trào tiếu trên mạng mà trước đó chúng tôi đã mô tả. Comics ở Việt Nam có thể xem như một dạng tự họa hay nhật ký hàng ngày dưới hình thức chuỗi tranh. Các tác giả thường khai thác những câu chuyện bản thân, xung quanh những biến cố nho nhỏ trong đời sống thường nhật từ chuyện thi lại, tán tỉnh, thất tình, xin việc, tăng cân…và kể lại bằng những hình vẽ hóm hỉnh, nghịch ngợm, có khi gây cảm giác nguệch ngoạc và bằng thứ ngôn ngữ đùa bỡn, lém lỉnh. Hình thức tự sự của các comic này có sự gần gũi nhất định với các sitcom – thể loại hài kịch tình huống vốn rất ăn khách trên truyền hình cũng như qua kênh Youtube. Nếu cách phục trang bản ngã ở comic có gì khác với tản văn trào tiếu thì trong cảm nhận của chúng tôi, nó nằm ở điểm này: cái tôi ở tản văn thường đặt mình trong những không gian bình dân, truyền thống hơn kiểu “chiếu rượu”, quán cóc, quán bia vỉa hè thì ở comics, do chủ yếu hướng đến đối tượng là người trẻ, nên tác giả thường tự họa mình như một kẻ kể chuyện phiếm, tán dóc nơi quán cà phê, trà sữa…- những không gian ít nhiều thời thượng hơn, đô thị hơn.

Đâu là khía cạnh nghiêm túc ở thể loại coi sự giải nghiêm túc là tinh thần chủ đạo của nó? Ở những sáng tạo đáng ghi nhận nhất đến thời điểm này, comics Việt Nam đã cho thấy nhiều áp lực xã hội đang dồn vào tuổi trẻ. Đôi khi, những áp lực mạnh nhất, chứa chất nhiều định kiến và ràng buộc xã hội nhất lại tập trung vào những khía cạnh dễ bị xem là nhỏ nhặt, và cũng chính vì thế, chúng lại khó được nhận ra và quan tâm thích đáng. Thí dụ, việc bị coi là ế hay việc giảm cân được một số tác giả comics đi vào khai thác (Lê Bích, Phạm Kiều Oanh) ẩn chứa trong đó nhiều định kiến đối với giới nữ. Một đề tài khác là khoảng cách, xung đột giữa các thế hệ trong gia đình cũng là một thực tế đang diễn ra (Chuyện vặt của Múc, Đời về cơ bản là buồn cười). Comics tiếp cận đề tài này từ lăng kính của sự hài hước để cho thấy những mâu thuẫn ấy có thể giải quyết với một tinh thần khoan hòa. Comics dựng lên một số hình tượng thông minh, sắc sảo, biết cười đời, biết bắt bẻ những diễn ngôn thời thượng về sự thành công, tình yêu, hôn nhân, giới tính… đang tạo áp lực cho giới trẻ nhưng quan trọng hơn, biết tự cười, tự giễu chính mình. Nó thực sự là một thể loại đáng quan tâm nếu ta muốn khảo sát bức tranh về văn hóa trẻ hiện nay.

 

2.3. Thơ

Sinh mệnh của thơ ca mạng ở Việt Nam là một câu chuyện phức tạp mà khuôn khổ bài viết này chưa cho phép chúng tôi có thể đi sâu. Trong quan sát của mình, chúng tôi nghĩ diện mạo của thơ ca trên mạng trong gần 20 năm qua chia thành hai chặng. Ở chặng đầu tiên, trong khoảng gần 10 năm đầu thế kỷ XXI, khi mạng internet bắt đầu phổ biến ở Việt Nam và các tạp chí văn chương điện tử bằng tiếng Việt xuất hiện, đây là không gian tập trung những sáng tác thơ theo ý hướng cách tân thẩm mỹ, thách thức thị hiếu của số đông công chúng và dĩ nhiên, gây nên những tranh cãi quyết liệt, gai góc nhất về thơ kể từ sau 1986, cho đến giờ nhiều vấn đề lớn vẫn còn bỏ ngỏ. Nhưng sự thoái trào của các tạp chí điện tử trước sự lên ngôi của blog cá nhân bắt đầu từ những năm 2005 khi Yahoo 3600 trở thành mạng xã hội được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam và đặc biệt khi Facebook chiếm lấy vị trí số một trong số các mạng xã hội được sử dụng từ khoảng năm 2008 đã khiến thơ ca trên mạng tạm thời mất đi tính chất của một hiện tượng thời sự văn học. Chặng thứ hai, thơ ca trên mạng bất ngờ gây chú ý trở lại với những quan sát thời sự văn học từ khoảng năm 2012, bắt đầu với hiện tượng Nguyễn Phong Việt với tập thơ Đi qua thương nhớ trở thành một tác phẩm best-seller, cho đến giờ đã tái bản lần thứ 8 (năm 2017). Từ thời gian đó, ngoài Nguyễn Phong Việt, một số tác giả vốn đăng thơ trên internet cũng trở thành tâm điểm chú ý của công chúng khi in sách, nếu nhìn vào số lượng xuất bản và tái bản. Có thể kể đến những cái tên như Nồng Nàn Phố (Anh ngủ thêm đi anh. Em phải dậy lấy chồng, 2014), Lu (Lấp kín một lặng im, 2015; Sự đã rồi anh ngồi anh hát, 2017), Nguyễn Thiên Ngân (Mình phải sống như mùa hè năm ấy,  2012; Lạ lùng sao, đớn đau này -2013, Ôm mỏ neo nằm mộng những chân trời – 2015)…

Nếu nhìn vào những hiện tượng này, có thể thấy thơ trên mạng ở thập niên thứ hai thế kỷ XXI mang một diện mạo tương phản đến bất ngờ với những hiện tượng gây chú ý nhất ở thập niên thứ nhất. Thay vì theo đuổi thể nghiệm, chú trọng kỹ thuật và đặc biệt là khiêu khích, gây hấn với những ý niệm về thơ vốn đã định hình trong nhận thức của công chúng, những hiện tượng thơ mạng gần đây không mang tham vọng cách tân, càng không muốn thách thức tầm đón nhận của công chúng. Khai thác những hình thức thơ không quá xa lạ với người đọc, xem thơ ca như là cách giãi bày, tâm sự nỗi niềm hay trình bày triết lý, đa phần các sáng tác này không ra khỏi trường ngôn ngữ và mỹ cảm của chủ nghĩa lãng mạn. Vậy sự hấp dẫn thật sự của những hiện tượng này là đâu? Chúng tôi nghĩ, nhìn từ cách tạo hình bản ngã, ta có thể thấy được một số phương diện đáng chú ý. Trường hợp Lu là một thí dụ. Trong phần giới thiệu hai tập thơ của Lu, ngoài những chi tiết nói về ngoại hình “tầm thường”, tính cách “thất thường”, về công việc “làm thơ” và “bán cà phê” – những điểm chưa có gì thật sự thu hút, thì điểm nhấn có lẽ gây chú ý nhất ở đây là tác giả coi “rong chơi” chính là một nét độc đáo của bản thân. “Rong chơi” là hành động sống vô cầu, vô ưu, giải trừ sức nặng của đời sống và cũng chính vì vậy, nó lại khơi gợi khao khát, bởi trong trò chơi luôn chứa đựng tinh thần tự do. Trong thơ của Lu, con người chơi được tạo hình mang dáng dấp của hình mẫu kẻ lãng tử – một mẫu hình chưa bao giờ hết sức hấp dẫn đối với cả người sáng tác lẫn công chúng bởi tinh thần tự do ấy. Đó là kẻ nhiều khi ngồi không, chẳng làm gì, chỉ nhìn ngắm mọi thứ, trong một tâm thế yên tĩnh, đủ để cảm nhận đời sống này như mỗi lúc trống trải nhiều hơn, mất mát nhiều hơn song vẫn còn tiềm ẩn những điều ngạc nhiên nào đó, đủ để ta gắn bó: “có một bầy ong làm tổ/trên cửa sổ đối diện nhà tôi/ cánh cửa ấy cũ rồi/bây giờ chẳng ai dám mở/giữa đêm/tôi lắng nghe mình thở/và tưởng như trên trái tim mình/cũng có một bầy ong” (“Bầy ong trên cửa sổ”); “xe đạp, đạp xe/hạnh phúc, niềm vui/tất thảy đều cọc cạch./ấy thế mà/đánh thức được rồi con sẻ nhỏ/lần đầu tiên cất tiếng hót/sau mưa” (“Sau cơn mưa”). Đó là kẻ sở hữu một không gian riêng của mình – một không gian Hà Nội phố, với những tên phố phường còn ít đi vào thơ ca của ai khác, không quá rộng nhưng lại cũng đủ để lạc, để bất định: “cho tôi về lại dốc Khâm Thiên/đường ray xe lửa/cây xăng giấu mình một nửa/đầy bình lượn phố thâu đêm” (“Cho tôi về”). Đó là một kẻ thích chơi một mình, và trò chơi hắn yêu thích nhất là đùa nghịch với chữ, biết lạ hóa những số từ để chúng trở thành những con chữ tung tẩy, mang thi tính, biến những tên phố phường trở thành những cái tên biết gợi cảm xúc, gợi liên tưởng bất ngờ, nhiều khi quái chiêu: “anh đứng đầu Hồ Đắc Di/ngóng Lương Định Của lầm lì gọi em/…/anh về giữa Bùi Thị Xuân/uống hai mươi cốc nhân trần cho say” (“Một bài thơ cũ”)… Nếu như hình ảnh người chơi trong thơ mạng ở giai đoạn đầu nhiều khi là hình ảnh của kẻ nổi loạn, sẵn sàng nói với công chúng bằng giọng điệu gây sự, bằng cách tạo hình gây sốc, thì hình ảnh người chơi ở thơ Lu có phần hiền lành hơn, nói bằng giọng điệu tâm tình, tự thú nhiều hơn, và cách tạo hình nghiêng về những nét chấm phá trong sáng, nhẹ nhõm, nghịch ngầm. Công chúng, đặc biệt là độc giả trẻ, cảm thấy gần gũi hơn với thơ của anh, có thể trích dẫn lại vài câu, vài hình ảnh để nói thay tâm trạng mình, chia sẻ qua các trang mạng xã hội. Nói khác đi, họ có thể dùng thơ để phục trang cho chính bản ngã của mình. Xét đến cùng thì hiện tượng này không mới; nó làm ta liên hệ đến việc cha ông ta từng có thú lẩy Kiều, dẫn câu chữ của Nguyễn Du để vận vào mình, để chứng tỏ mình cũng có hiểu biết chữ nghĩa hay việc mượn thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính… để nói lên quan điểm sống, ý thức về bản thân, thể hiện học thức hay là để tán tỉnh theo phong cách lãng mạn. Thơ ca, theo đó, luôn có mối liên hệ mật thiết với các phong cách sống (life-style) của mỗi thời. Thời thế thay đổi, công chúng trẻ có nhu cầu tìm một thứ thơ ca có ngôn ngữ gần với thế hệ mình hơn, để trích dẫn, để nói giùm họ tình cảm, quan niệm sống và giúp họ tạo hình phong cách. Việc các nhà thơ như Lu, Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thiên Ngân, Nồng Nàn Phố… được giới trẻ chú ý nhiều có thể được lý giải từ khía cạnh này.

Có một sự tương ứng giữa những hiện tượng thơ mạng nói trên ở Việt Nam với sự nổi lên bất ngờ của một số tác giả thơ ở một số nước nói tiếng Anh nhờ hiệu ứng của mạng xã hội như Rupi Kaur, Lang Leav, Tyler Knott Gregson, Atticus… Việc thơ của họ trở thành best-seller đã khiến cây bút bình luận Michelle Dean trên tờ The Guardian gọi họ là những nhà thơ Instagram[12] – một mạng xã hội ưu tiên cho việc đăng tải hình ảnh, nơi những tác giả này đã tận dụng để đăng những bài thơ của mình, đa phần thường ngắn gọn và được trình bày như một tấm postcard, từ đó, nhận được sự ưa thích và chia sẻ rất lớn từ những người theo dõi họ. Mạng xã hội đã khiến “những nhà thơ Instagram” tìm được một kênh độc lập để giới thiệu tác phẩm của mình đến người đọc; họ thỏa mãn được thú vui của con người ở thời đại internet là thích chia sẻ, trích dẫn và trình diễn bản thân – hay nói theo một từ mới được tạo ra để chỉ sở thích này là “tự sướng” (“selfie”). Cho dù vẫn chưa có những nghiên cứu về giá trị nghệ thuật của những sáng tác này và cho dù đã có ngay những quan ngại rằng sự say mê của công chúng đối với thứ thơ ca bị cuốn vào văn hóa đại chúng này sẽ khiến các giá trị văn chương kinh điển bị quên lãng, thì nói như Dean, vẫn cứ nên bình tĩnh. Thơ ở thời đại Instagram vẫn có thể nhắc nhở người đọc về những giá trị kinh điển ấy, theo cách của nó, và nó cũng có thể truyền tải những cảm thức hay thông điệp mà các thiết chế xã hội thường tìm cách kìm nén.

Phục trang bản ngã là một thực tế của đời sống và thời đại internet càng làm ta nhận thức rõ nét hơn về điều này. Văn học mạng, theo đó, có thể xem là một trò chơi với căn tính mà các thể loại được sử dụng như là chiến lược để người viết tạo hình chính mình. Từ phía công chúng, văn học mạng cũng đang được đối xử như một chất liệu để người đọc, nhất là lớp trẻ giờ đây, phục trang cho bản ngã. Có những chuyển động trong nhận thức, tâm lý của cả người viết và người đọc văn học mạng hiện nay mà việc quan tâm đến chúng có thể giúp ta nhìn ra được nhiều vấn đề lớn hơn, sâu rộng hơn của đời sống văn hóa xã hội đương đại. Bài viết này, vì thế, là một phác thảo chuẩn bị cho những nghiên cứu chiều sâu hơn trong tương lai của chúng tôi.

Trần Ngọc Hiếu

(Bài đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 9 năm 2017).

[1] Stephen Greenblatt,  Renaissance Self-Fashioning: From More to Shakespeare, Chicago & London: The University of Chicago Press, 1980, trang 3.

[2] Stephen Greenblatt, “Culture” in trong Critical Terms for Literary Study, Frank Lentrichia & Thomas Laughlin biên tập, Chicago & London: The University of Chicago Press, 1990, trang 225.

[3] Friedrich Nietzsche, The Gay Science, bản dịch tiếng của Anh của Walter Kaufman, New York: Random House, 1974, trang 290.

[4] Costica Bradatan, Chết cho tư tưởng: Cuộc đời nguy hiểm của các triết gia, Trần Ngọc Hiếu dịch, Nhã Nam & NXB Tri thức, 2017.

[5] Stephen Greenblatt,  Renaissance Self-Fashioning: From More to Shakespeare, Chicago & London: The University of Chicago Press, 1980, trang 4

[6] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên),Từ điển thuật ngữ văn học,  NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 149.

[7] Rebecca Arnold, Chương V, “Ethics” in trong Fashion: A Very Short Introduction, Oxford & New York: Oxford University Press, 2009, trang 85-104.

[8] Lev Grossman, “YOU – yes, YOU – are TIME’s Person of the Year” http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,1570810,00.html

 

[9] Inrasara, “Văn chương mạng”, http://tiasang.com.vn/-van-hoa/van-chuong-mang-1312 (Phần in nghiêng do chúng tôi muốn nhấn mạnh).

 

[10] Trần Đình Sử, “Tản văn Việt Nam hiện đại – một thể loại bị lãng quên” in trong Tản văn hiện đại Việt Nam, Lê Trà My (chủ biên), NXB Hải Phòng, 2011, trang 3.

[11] Werner Wolf, “(Inter)mediality and the Study of Literature”, CLC: Comparative Literature and Culture 13.3. (2011), http://docs.lib.purdue.edu/clcweb/vol13/iss3/2/

 

[12] MIchelle Dean, “Instagram Poets Society: Selfie Age Gives New Life and Following into Poetry”, https://www.theguardian.com/books/2016/feb/26/instagram-poets-society-social-media-phenomenon