Tag Archives: translation studies

Dịch là Khác: Từ Truyện Kiều của Nguyễn Du đến Shakespeare của Bùi Giáng

indexindex

1. Những cụm từ như “Hoa ngõ hạnh”, “Trăng tỳ hải” có thể gợi liên hệ đến những vở kịch nào của William Shakespeare? Đó là câu hỏi khó đối với những ai chưa có điều kiện tìm hiểu kỹ di sản dịch thuật của Bùi Giáng. Những hình ảnh vừa mang màu sắc cổ thi, vừa ẩn mật, mơ hồ đặc trưng cho phong cách ngôn ngữ thơ của Bùi Giáng này được ông sử dụng để đặt tên cho “bản dịch” hai vở kịch của Shakespeare là OthelloAntony and Cleopatra[1]. Tại sao phải đặt từ “bản dịch” trong dấu ngoặc kép? Cả Hoa ngõ hạnhTrăng tỳ hải của Bùi Giáng đều thách thức ý niệm về thẩm quyền của dịch giả trong mối quan hệ với nguyên tác, buộc chúng ta phải nghĩ lại yêu cầu đặt ra cho một bản dịch, theo đó, sự trung thành với nguyên tác được xem là phẩm hạnh cao nhất mà bản dịch cần đạt đến. Dịch giả, như thế, được quan niệm như là kẻ phục tòng triệt để nguyên tác vốn được đặt ở một địa vị cao hơn.

Bùi Giáng, khi làm việc với văn bản của Shakespeare, có lẽ không bận tâm về sự trung thành – thử thách cao nhất và đồng thời là nỗi bất an lớn nhất đối với các dịch giả. Lịch sử dịch thuật đã ghi lại hàng loạt trường hợp các dịch giả chịu những hình phạt hà khắc nhất do bị quy kết là bất trung trong dịch thuật, từ số phận các dịch giả Kinh Thánh như John Wycliffe, William Tyndale cho đến các phiên dịch bị cắt lưỡi và xử bắn trong cuộc chiến ở Afghanistan những năm đầu thế kỷ XXI[2]. Thay vì cam phận làm kẻ phục tòng nguyên tác, Bùi Giáng áp đặt cái tôi của ông, phong cách thơ ca của ông lên văn bản của Shakespeare, từ nhan đề dến nội dung bên trong, thậm chí còn thêm vào đó những bài thơ tiếng Anh mà ông tự sáng tác, nhiều bài đề tặng những nữ minh tinh phương Tây nổi tiếng đương thời. Bùi Giáng lý giải cho sự phóng túng trong dịch thuật của mình: “Bản dịch? Người dịch thỉnh thoảng có thêm một vài lời – kể cũng hơi buông tuồng. Nhưng nghĩ lại: đó chẳng qua là do những yêu sách của phần Bất Tư Nghị Shakespeare, và của Tinh Thể Việt Ngữ trải qua nhiều cuộc dâu biển đó thôi.”[3]

Dịch, với Bùi Giáng, về bản chất, là thông diễn và đồng thời là khai thác phần tinh diệu, anh hoa nhất của tiếng Việt hay nói như ông, đó là “Tinh Thể Việt Ngữ”. Dịch Shakespeare, với Bùi Giáng, là đọc lại Shakespeare, giải phóng Shakespeare ra khỏi khung diễn giải duy lý của phương Tây[4]. Kịch Shakespeare được Bùi Giáng đọc như những áng “phong tình cổ lục” mà để tái tạo phần tình cảm, xúc động trong đó, phải cần đến ngôn ngữ của “thi ca sơ thủy” Việt, một thứ ngôn ngữ nâng niu, dào dạt, mê đắm như ngôn ngữ của Kiều: “Shakespeare sẽ đứng ở bên bờ Tỳ Hải mà nêu lại với Homère Nguyễn Du một vài ẩn ngữ cổ lục cảo thơm phiêu bồng với những trận trường phong trong phong tình giẫy sóng.”[5] Bùi Giáng tái tạo Shakespeare trong cảm thức hồ nghi lý tính và việc ông coi dịch là cách phục nguyên thi tính của tiếng Việt để tâm hồn con người tìm được nơi tựa nương có ý nghĩa như một liệu pháp cho tinh thần trong một thời đại đầy biến động, gây nhiều chấn thương. Dịch thuật của Bùi Giáng, vì thế, thể hiện thế giới quan hiện đại chủ nghĩa.

Ta sẽ đánh giá như thế nào về cách ứng xử của Bùi Giáng đối với Shakespeare? Và không chỉ với Shakespeare, Bùi Giáng đối đãi với nhiều văn bản khác cũng buông tuồng, tự do và hồn nhiên như thế. Ông không quan tâm đến tiêu chí trung thành đã đành; khi đánh giá di sản dịch thuật của Bùi Giáng, người ta cũng ít soi xét chúng từ tiêu chí này. Như một biểu tượng của tự do, Bùi Giáng được đặt vào vùng huyền thoại và phải chăng do đó, được miễn trừ trước phép thử về sự trung thành? Một cách thận trọng hơn, có thể đề nghị chỉ nên xem các bản dịch Shakespeare là những phóng tác, chuyển thể. Nhưng kể cả khi đó, phóng tác, chuyển thể vẫn nằm trong dải phổ của hành động dịch vốn được hiểu là sự chuyển giao một văn bản từ ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Dịch, và nhất là một bản dịch thích đáng, do đó, đòi hỏi những nhìn nhận phức tạp hơn.

2. Không phải ngẫu nhiên trong lời tựa ba vở kịch của Shakespeare được chọn dịch sang tiếng Việt, Bùi Giáng nhắc đến Nguyễn Du. Ông đặt Nguyễn Du ngang hàng với Shakespeare, đặt ngôn ngữ của Kiều trong sự đối ứng với ngôn ngữ của Shakespeare. Ở mức độ nào đó, Nguyễn Du có lẽ chính là người tiền nhiệm của Bùi Giáng. Truyện Kiều có thể được xem là một dịch phẩm tài hoa, in đậm dấu ấn cá nhân của Nguyễn Du. Trước Bùi Giáng rất xa, Nguyễn Du cũng đổi tên nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân thành Đoạn trường tân thanh. Ông dùng “lời quê” (chữ Nôm, thể lục bát) để chuyển thể tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện và trong khi cố gắng bảo lưu một cốt truyện nhiều hoạn nạn – như một dụ ngôn cho chính thời đại nhiều thăng trầm, xáo trộn mà Nguyễn Du trực tiếp nếm trải – nhà thơ cố gắng giảm đi yếu tố hành động và tăng cường chất trữ tình, cảm thương qua những độc thoại nội tâm, những lời than, lời oán. Nếu như Bùi Giáng sau này muốn dịch Shakespeare để cải tạo thứ ngôn ngữ đương thời đang xác xơ, cỗi cằn bởi lý tính độc đoán, đưa nó về thứ ngôn ngữ của cổ lục diệu vợi, “xa vắng đìu hiu”[6] thì Nguyễn Du không chỉ dùng “lời quê” để dịch Thanh Tâm Tài Nhân mà còn cải tạo chính “lời quê” ấy, bằng cách khảm vào thơ lục bát những điển cố, điển tích, những hình ảnh Đường thi, từ đó, tạo nên thi tính của truyện Kiều – yếu tố làm nên sức hấp dẫn vượt thời gian của nó, ngoài ý nghĩa dụ ngôn về hoạn nạn, thống khổ của kiếp người.

Nhưng trong tất cả các giáo trình về Truyện Kiều, hầu như chưa ai nhìn tác phẩm này như một dịch phẩm. Chữ “dịch” ở đây mang một hàm nghĩa tiêu cực. Dịch là một cái gì đó thấp hơn, kém tầm hơn nguyên tác. Gọi Truyện Kiều là dịch phẩm không khác gì một sự báng bổ Nguyễn Du, phủ nhận những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du, xem tác phẩm chỉ là sự phái sinh từ một nguyên tác luôn được cho là rất tầm thường. Đó là một điều nguy hiểm khi Truyện Kiều đã được điển phạm hóa bởi ý thức hệ dân tộc. Quá trình điển phạm hóa này diễn ra cũng phức tạp: từ một tác phẩm bị xem là “văn chương có hại”, nhất là cho phụ nữ, Truyện Kiều trở thành biểu tượng cho hồn dân tộc, hồn thời đại. Một điều thú vị là ngay cả khi không được thừa nhận chính thống như một tác phẩm dịch, Truyện Kiều, đến lượt mình, vẫn tiếp tục được dịch trong đời sống văn hóa bình dân của người Việt qua hiện tượng “bói Kiều”. Bói Kiều, về cơ bản, là dịch ngôn ngữ “cổ lục” với nhiều ẩn mật, hàm ý của Nguyễn Du ra ngôn ngữ đời thường, ứng với những hoàn cảnh cụ thể.

3. Một bản dịch, như thế, vừa bị đòi hỏi yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn về sự trung thành so với các hình thức phóng tác, chuyển thể, nhưng mặt khác, nó lại vừa bị xem là ở một vị thế thấp hơn, ít tình sáng tạo hơn so với nguyên tác. Nó luôn bị mặc định như thể chỉ làm cho nguyên tác mất mát ý nghĩa, sắc thái. Một định kiến như thế vẫn tồn tại rất mạnh trong những phê bình dịch thuật ở Việt Nam.

Phê bình dịch thuật ở Việt Nam định hình tiếng nói của mình một cách rõ rệt cách đây khoảng hơn mười năm, bắt đầu từ những trao đổi trên các diễn đàn liên mạng hay qua một vài bài tản văn của Phan Thị Vàng Anh, Phạm Thị Hoài… Cách đây cũng khoảng mười năm, trên báo Tia sáng, lần đầu tiên có một bài tổng thuật những tranh luận, trao đổi trên mạng về bản dịch Trăm năm cô đơn của Gabriel García Marquez do nhóm dịch giả Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng thực hiện và đã được xuất bản từ năm 1986. Sau gần mười năm, khi đọc lại bản dịch từng được giải thưởng của Hội nhà văn (và đến năm 2012, còn tiếp tục nhận được giải thưởng Sách Hay), những người tham gia thảo luận đã phát hiện rất nhiều điểm chưa chính xác, thậm chí phi logic trong đó. Những lỗi dịch này trước đó có lẽ chưa bao giờ được phát hiện và chỉ ra công khai.

Thế nhưng bản dịch Trăm năm cô đơn, bất chấp nhiều khiếm khuyết, bất chấp những lỗi dịch được chỉ ra khá thuyết phục, đã từng là một sự kiện văn học đặc biệt của thời kỳ đầu Đổi mới và việc các dịch giả làm cho cuốn sách được hiện diện bằng tiếng Việt đã tạo ra những hiệu ứng lâu dài đến tận bây giờ. Rất cần có những nghiên cứu sâu để xem xét các dịch giả đã làm cách nào để thoát khỏi khung khổ của chủ nghĩa hiện thực để tái tạo văn bản của Garcia Marquez vốn được xem là điển hình cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo với rất nhiều chi tiết huyễn tưởng, quái đản. Làm thế nào các dịch giả xử lý được các cảnh mô tả tình dục trong nguyên tác khi mà một thời kỳ dài, đến ngay cả trong sáng tác, đó cũng là điều bị cấm kỵ? Các dịch giả đã giới thiệu một lối viết hoàn toàn bất ngờ, thậm chí mang tính khiêu khích với những kinh nghiệm thẩm mỹ với công chúng khi đó. Vậy mà nó lại được độc giả Việt Nam đón nhận nhiệt tình, trở thành hiện tượng best-seller ngay lần đầu ra mắt. Độc giả Việt Nam đã được chuẩn bị gì, mang tâm thế gì để có thể tiếp nhận cuốn sách và không để ý đến những chi tiết bị xem là lỗi dịch? Đó là những vấn đề thú vị mà phạm vi bài viết này chưa cho phép phân tích xa hơn. Chỉ xin nói thêm: sự xuất hiện của García Marquez và bản dịch Trăm năm cô đơn, dẫu còn nhiều chỗ sai, không ổn, đã tạo ra cú hích quan trọng đối với nhiều nhà văn sau 1986. Nguyễn Bình Phương là một thí dụ.

Nhìn xa hơn, trường hợp bản dịch bất toàn nhưng lại có ảnh hưởng văn hóa lớn như trường hợp Trăm năm cô đơn ở Việt Nam không phải là hiện tượng cá biệt. Jorge Luis Borges có một tiểu luận rất thú vị và quan trọng về các dịch giả tác phẩm Nghìn lẻ một đêm ở phương Tây, trong đó, ông nhấn mạnh không dịch giả nào trung thành hoàn toàn với bản gốc, ai cũng viết lại Nghìn lẻ một đêm theo kiểu của mình. Trong đó, bản dịch của Antoine Galland được xem là bản viết lại tệ nhất, ít trung thành nhất nhưng lại được đọc nhiều nhất ở châu Âu tại thời điểm đó. Độc giả đương thời bị hấp dẫn bởi màu sắc Đông phương mà Antoine Galland hẳn có chịu ảnh hưởng từ gu văn chương Pháp khi ấy, họ nhận được nhiều khoái cảm, nhiều sự ngạc nhiên, sửng sốt mà một văn bản dịch chính xác hơn, hiệu chỉnh những chỗ chưa ổn, chưa đúng trong bản Nghìn lẻ một đêm của Galland do Edward Lane thực hiện lại không thỏa mãn được[7]. Từ đó, có thể nói, tiêu chí về sự trung thành tuy cần thiết trong phê bình dịch thuật song chắc chắn không nên là tiêu chí độc tôn, cao nhất. Nó sẽ khiến dịch thuật được nhìn nhận hẹp hơn những gì nó có thể đem đến, tạo sinh. Ở đây, có thể quan tâm đến một định nghĩa mới về dịch được đề nghị bởi hai học giả hàng đầu trong ngành nghiên cứu dịch thuật ở Mỹ – Maria Tymoczko và Edwin Gentzler: “Dịch không đơn thuần chỉ là hành động lựa chọn, tập hợp, cấu trúc, đan dệt mà thậm chí trong một số trường hợp, nó còn có thể là hành động xuyên tạc (falsification), từ chối thông tin, giả mạo, sáng tạo những mã bí mật. Theo những cách này, dịch giả, cũng như các nhà văn, các chính trị gia, tham gia vào các hoạt động quyền lực tạo nên tri thức và định hình văn hóa.”[8]

4. Định nghĩa rộng về dịch như trên xác nhận vai trò văn hóa to lớn của dịch thuật, cho dù dịch thuật đã và vẫn cứ là một hiện tượng ngoại biên, được thực hiện bởi các dịch giả mà sự hiện diện của họ thường bị vô hình hóa trong lịch sử đồng thời công việc của họ thường gắn liền với những mệnh đề chứa nhiều thành kiến và mang hàm ý của sự răn đe như “dịch là phản”, “dịch là diệt”… Ai còn nhớ đến tên các dịch giả toàn tập kinh điển của chủ nghĩa Marx ở Việt Nam cho dù từ những con người vô danh này, vô số các thuật ngữ, khái niệm chính trị, triết học được du nhập vào tiếng Việt, hình thành nên các diễn ngôn ý thức hệ mới, chi phối mọi cách nhìn, mọi sự diễn giải khác. Chưa có một nghiên cứu nào ghi nhận hoạt động của những người dịch không chuyên các phim video từ hồi cuối thập niên 80 trở đi – những người trên thực tế đã kiến tạo lại không gian văn hóa đại chúng ở Việt Nam thời kỳ hậu chiến. Và còn nhiều hiện tượng khác nữa.

Bởi thế, có thể cần phải thay những mệnh đề tiêu cực về dịch thuật vừa dẫn bằng một mệnh đề khác, bao quát tốt hơn bản chất và vai trò của dịch thuật: dịch là khác biệt. Từ vị thế ngoại biên, dịch không chỉ môi giới, du nhập, bứng trồng cái khác mà còn kiến tạo cái khác ngay trong lòng văn hóa. Bằng điều đó, dịch có khả năng chống lại những nguy cơ xơ cứng, độc đoán, giáo điều của văn hóa, kích thích thái độ khoan dung ở con người khi tiếp xúc với cái khác, kẻ khác. Mà khoan dung lại là phẩm chất quan trọng hơn bao giờ trong một thế giới đa văn hóa như hiện nay. Và nếu dịch làm nảy nở, bồi dưỡng sự khoan dung trong nhận thức con người, thiết tưởng, sự khoan dung ấy cũng là phẩm chất cần có ở phê bình dịch thuật. Khoan dung không có nghĩa là dễ dãi, cào bằng mọi giá trị, nó luôn xuất phát từ sự tôn trọng, chấp nhận những quan điểm, những giá trị khác biệt, nó xa lạ với sự độc đoán của ngôn ngữ. Chỉ với thái độ khoan dung ấy, ta mới có thể mở ra không gian rộng rãi, cởi mở hơn cho dịch thuật ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi chúng ta đang cần nhiều xúc tác, chuyển dịch để tạo ra những thay đổi quan trọng trong văn hóa, xã hội. Dịch thuật có thể thực hiện được điều ấy.

Trần Ngọc Hiếu

(Bài đăng báo Tia Sáng số 2-2015)

[1] Theo sưu tầm của chúng tôi, Bùi Giáng đã dịch ba vở kịch của William Shakespeare, gồm có Ophelia-Hamlet (nguyên tác Hamlet), Quế Sơn- Võ Tánh, Sài Gòn, xuất bản; Hoa ngõ hạnh (nguyên tác Othello), Ngọc Minh, Sài Gòn xuất bản, Trăng tỳ hải (nguyên tác Anthony & Cleopatra), Ngọc Minh, Sài Gòn xuất bản năm 1966. Ở bìa sau cuốn Hoa ngõ hạnh, có thông tin Bùi Giáng còn dịch vở Romeo-Juliet nhưng đến nay chúng tôi chưa tìm được bản dịch này.

[2] Theo Susan Bassnett, Translation (The New Critical Idiom), London & NewYork: Routledge, 2014, trang 10.

[3] Bùi Giáng, lời tựa Trăng tỳ hải, Ngọc Minh, Sài Gòn xuất bản, 1966, trang XIII.

[4] Bùi Giáng, lời tựa Hamlet-Ophelia, Quế Sơn – Võ Tánh, Sài Gòn xuất bản (chưa tra được năm xuất bản), trang I

[5] Bùi Giáng, lời tựa Trăng tỳ hải, Ngọc Minh, Sài Gòn xuất bản (chưa tra được năm xuất bản), trang XIII.

[6] Bùi Giáng, lời tựa Hoa ngõ hạnh, Ngọc Minh, Sài Gòn xuất bản (chưa tra được năm xuất bản), trang III.

[7] Jorge Luis Borges, “The Translators of The Thousand and One Nights”, Esther Allen dịch sang tiếng Anh, in trong The Translation Studies Reader, Lawrence Venuti chủ biên, London & New York: Routledge, 2000, trang 34-49.

[8] Maria Tymoczko & Edwin Gentzler (chủ biên), Translation and Power, Amherst & Boston: University of Massachusetts Press, 2002, trang XXII.

Edwin Gentzler – Dịch như một chủ đề trong “Trăm năm cô đơn” của Gabriel Garcia Marquez

Bài dịch này được trích từ cuốn Translation and Identiy in the Americas: New Directions in Translation Theory của Edwin Gentzler (2008). Edwin Gentzler là một học giả uy tín của ngành Nghiên cứu dịch thuật, ông là giáo sư ngành Văn học So sánh tại University of Massachusetts, Amherst. Trong cuốn sách này, ông đã nhìn châu Mỹ như không gian mà dịch thuật đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong việc kiến tạo nên nó, cho dù quá trình dịch này luôn hàm chứa những sai sót, những bất ổn, những biến tấu… Nói ngắn gọn hơn, đó là một châu lục được hình thành bởi một sự dịch không thuần khiết (impurities). Tôi trích dịch phần ông viết về tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, bởi trước hết đó là một cách đọc thú vị về một cuốn sách mà lâu nay người ta thường khai thác nó ở ý nghĩa chính trị xã hội hoặc về kiểu sáng tác chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Thêm nữa, nó có thể trở thành gợi ý để ta đọc một số tác phẩm văn học Việt Nam mà dịch có thể là chủ đề chìm của chúng, như Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khi dịch, tôi chưa kiểm tra đối chiếu lại bản dịch Trăm năm cô đơn của Nguyễn Trung Đức, cũng đã lâu rồi, tôi không đọc lại cuốn này nên sẽ có nhiều chỗ sai sót. Dù sao, nhân việc phải viết bài về dịch, tôi xin giới thiệu trích đoạn này của Edwin Gentzler. Mọi sai sót tôi xin nhận trước và sẽ cố gắng sửa lại hợp lý.

7_o

*

Nếu Borges viết về dịch trong các tiểu luận và truyện ngắn, thì dịch có một vị trí quan trọng trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez. Trong tác phẩm của Borges, ông suy tư về dịch từ khung văn chương-lịch sử, tâm lý và triết học; trong tác phẩm của Garcia Marquez, dịch, hay sự thiếu vắng nhận thức về những hàm ý của nó, đã trở thành nhân tố xã hội-lịch sử, nhân tố vật chất trong quá trình phát triển của Châu Mỹ Latin. Các học giả về Garcia Marquez lâu nay bị ám ảnh bởi lối đọc khai thác chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và những chủ đề chính trị-xã hội trong tác phẩm này. Chủ đề về dịch hầu như vẫn chưa được nhận thấy. Tuy nhiên, nếu để ý, ta sẽ thấy cấu trúc chính của Trăm năm cô đơn là câu chuyện về gia đình Buendia được kể/được báo trước trong những bản thảo tiếng Sanskrit được viết bởi Melquiades, và bản thân tác phẩm này là một bản dịch những bản thảo ấy do Aureliano Buendia/Babilonia, người cuối cùng còn lại của nhà Buendias thực hiện.

Theo nhiều cách, kiệt tác của Garcia Marquez đồng vọng tác phẩm của Borges: bản chất đa ngữ của thế giới, gợi nhớ đến huyền thoại về tháp Babel; sự bất khả trong việc hiểu chắc chắn các sự vật, hiện tượng; sự phù phiếm của ngôn ngữ và các kiến tạo xã hội được dựng lên để kiểm soát văn hóa và tự nhiên; nỗi tuyệt vọng và sự bất định mà con người nhìn thấy ở chính mình, nhất là trong hoàn cảnh lưu đày; và có lẽ quan trọng nhất, những hình ảnh/ảo ảnh mà con người dựng lên làm con người gián cách hơn với chính cội rễ, căn tính của mình. Bản án “trăm năm cô đơn” dành cho gia đình Buendia, bất chấp sự vĩ đại của trưởng lão Jose Arcadio Buendia và chủ nghĩa anh hùng của đại tá Aureliano Buendia, một phần lớn là do gia đình này đã thiếu mối kết gắn với quá khứ của mình, không chỉ là những cội rễ huyền thoại của họ mà còn là di sản đa ngôn ngữ thể hiện trong vô số các chi tiết nhỏ. Aureliano không chỉ cuối cùng cũng hiểu được lịch sử gia đình mình, nguồn gốc của bản thân, căn tính của chính mình khi rốt cục nhân vật giải mã được bản thảo bằng tiếng Sanskrit của Melquiades. Chỉ đến đoạn kết của cuốn tiểu thuyết, anh ta mới hiểu được họ thật của mình và căn tính của mình: Babilonia. Chỉ đến đoạn kết của cuốn tiểu thuyết, độc giả mới mới nắm bắt được bản chất của cuốn tiểu thuyết này như một bản dịch.

Cuốn tiểu thuyết mở đầu theo một câu chuyện chính. Jose Arcadio Buendia dẫn quân của mình vào những khu rừng rậm của Tân Thế giới để thành lập thành phố mới của Macondo; đại tá Aureliano Buendia lãnh đạo những người theo phái Tự do tiến hành nhiều cuộc nội chiến chống lại phe bảo thủ; cụ bà Ursula Iguaran, người phụ nữ cao tuổi nhất đứng đầu gia đình, đã nỗ lực liên kết những người trong làng lại, cố thủ trước những thảm họa lịch sử và thiên nhiên. Bên cạnh mạch truyện về quyền lực, Garcia Marquez còn đan lồng yếu tố “huyền ảo” xuyên suốt câu chuyện về các cuộc chinh phạt: một chiếc thuyền buồm lớn kiểu Tây ban Nha xuất hiện trong khi Jose Arcadio đang hành quân trong rừng rậm; trẻ con của làng Macondo bay trên những chiếc thảm thần kỳ; nước sôi trên bàn dù không có tí lửa nào; Remedios Người đẹp từ mặt đất bay lên trời phấp phới như thiên thần. Người kể chuyện, thường được cho là đồng nhất với Garcia Marquez, là người kể chuyện toàn năng, tạo ra một thế giới từ các thành tố, và không bị giới hạn bởi những công cụ mà con người (các tác giả) thường sử dụng để xây dựng một thị trấn (một tiểu thuyết). Song người kể chuyện lại không phải là Garcia Marquez mà là một hình tượng hư cấu, Melquiades, người viết câu chuyện về nhà Buedia bằng ngôn ngữ bản xứ của ông, sau đó, chuyện kể này được giải mã và được dịch sang tiếng Tây Ban Nha bởi Aureliano. Nếu như Garcia Marquez từng nói toàn bộ cuốn tiểu thuyết hình thành trong đầu ông khi ông đang lái xe trên đường cao tốc từ Acapulco đến Mexico City (nơi ông làm việc như một dịch giả và làm phụ đề cho phim ở thời điểm ấy) thì toàn bộ lịch sử cũng bất chợt hiện ra bằng tiếng Tây Ban Nha trước Aureliano, chìa khóa cuối cùng để mở câu chuyện chính là lời đề từ của Melquiade: “Dòng thứ nhất bị buộc vào một cái cây và dòng cuối cùng đang bị kiến ăn”. Người ta có thể suy ra: tác giả của câu chuyện là Melquiades và người dịch là Garcia Marquez – có nghĩa là, câu chuyện lóe lên trong đầu Garcia Marquez bắt nguồn từ một cội nguồn xa xôi nhất của châu Mỹ Latin và ông chỉ đơn thuần dịch lại nó sang tiếng Tây Ban Nha? Chí ít, người ta có thể khẳng định, tương tự như Borges, Garcia Marquez đã chất vấn những ý niệm truyền thống về tác giả và những hình thức của tiểu thuyết truyền thống.

Bản chất dịch của câu chuyện chỉ được phát lộ ở đoạn kết tác phẩm, do đó, kéo ngược lại toàn bộ cuốn tiểu thuyết và buộc độc giả phải nghĩ lại về những sự nhận dạng và kết luận trước đó. Tuy nhiên, Garcia Marquez có đưa ra những chỉ dấu về chủ đề dịch xuyên suốt tác phẩm. Jose Arcadio Buendia khóa chặt mình nhiều giờ, nhiều ngày, thậm chí hàng tháng trời trong căn phòng nhỏ sau nhà để nghiên cứu và làm những thí nghiệm mà phần lớn trong số đó được gợi mở từ những tri thức mà bạn bè của ông và người du hành khắp thế giới Melquiade mang về từ hải ngoại. Thế nhưng những thí nghiệm của ông – dịch những phát minh hoang đường mà những người gypsy đã tiết lộ công dụng thực tế của chúng cho thực dân – được tiến hành ở hậu cảnh. Jose Arcadio, người lập nên ngôi làng, đặt tên cho những con phố, dành hầu hết thời gian của mình trong căn phòng làm việc của Melquiades, nhìn đăm đăm vào những bản thảo viết trên da dê vẫn chưa có cách nào giải mã được. Phần lớn công việc của Jose Arcadio cũng được thực hiện ở hậu cảnh; chính ông là người phân loại thư từ và bằng việc đem so sánh chúng với một bảng biểu trong một cuốn bách khoa thư bằng tiếng Anh, rồi mới phát hiện ra đó là ngôn ngữ Sanskrit. Nhưng cuộc đời của Jose Acardio Aureliano không phải là điều thú vị, hào hứng đối với đại tá Aureliano Buendia hay đối với những nhân vật quyền lực trong câu chuyện, cho dù chính ông là người nhận ra sự sáng suốt của ông mình cũng như tầm nhìn của những người gypsy.

Melquiades, tuy nhiên, là một hình tượng con người đa ngữ, sống đời sống quốc tế sớm nhất trong tác phẩm; ông đã trải qua các dịch bệnh và tai họa dường như xảy ra ở mọi nơi: chứng nứt da ở Ba Tư, bệnh scurvy ở Mã Lai, bệnh hủi ở Ai Cập, bệnh tê phù của Nhật, dịch hạch ở Madagascar và động đấ của Sicily. Ông sống sót qua những trận hạn và chiến tranh ở Mỹ Latin. Vẻ bề ngoài của ông giống với những người châu Á xa xưa nhất, tiếng bản ngữ của ông là tiếng Sanskrit. Đối với những thành viên “sống duy lý” ở ngôi làng Macondo, trong đó có Ursula, ông ta là hiện thân của quỷ và người ta không khỏi liên hệ mối quan hệ giữa ông với Jose Arcadio Buendia như là mối quan hệ giữa Mephisto và Faust. Thầy của Jose Arcadio Buendia và sau này là Jose Arcadio Segundo chính là lão già gypsy Melquiades, người có trí tuệ và tuổi thọ phi thường. Sự kiện phi thường, gây kinh ngạc nhất trong cuốn sách là sự trở về của ông từ cõi chết – “sống tiếp”, theo đúng nghĩa của Derrida, trong bản dịch câu chuyện về nhà Buendia. Một vài phát minh mà người gipsy mang đến – nước đá, bóng điện, nam châm – đều lấp lánh và ảo diệu khi Melquiades trở về từ cõi chết; với những độc giả đã quen với văn chương hiện thực huyền ảo, họ sẽ chấp nhận sự hồi sinh này như một chi tiết đáng tin. Hầu hết các nhà phê bình cho rằng yếu tố thần kỳ được sử dụng để làm biến dạng ranh giới giữa cái duy lý và cái phi duy lý, thực tế và huyễn tưởng, huyền thoại và hiện thực. Song bên cạnh đó, tôi nghĩ ranh giới giữa nguyên tác và bản dịch, giữa văn bản nguồn và văn bản đích cũng là yếu tố bị tra vấn. Có phải nhà Buendias là những người sống đời sống này và một người kể chuyện nào đó ghi chép lại, hay Melquiades chỉ kể một câu chuyện khác trong những chuyến du hành của mình và một người của nhà Buendia thì đang dịch nó?

Những chỉ dấu khác về chủ đề dịch nằm rải rác trong tác phẩm. Thực sự thì có hai nhóm người gypsie trong tiểu thuyết. Nhóm thứ nhất là những người đa ngữ, sống đời sống quốc đích thực, họ luôn sống phấn khích và đầy những ý tưởng sáng tạo; nhóm thứ hai là những người đến Macondo sau này, không nói tiếng Tây Ban Nha, do đó, không thể dịch những phát minh của mình cho những người định cư ở thành phố Tân Thế giới của Macondo, và bởi vậy, họ làm Jose Acardio Buendia, người muốn nghe những câu chuyện của họ về những cuộc du hành và những phát minh, thấy mệt mỏi. Con cháu nhà Buendia, Aramanta (con gái của Jose Acardio Buendia và Ursula Iguaran) và Acardio (con trai của Jose Acardio và Pilar Ternera) được nuôi nấng không phải bởi cha mẹ mình mà bởi một người phụ nữ người Guarijo Indian, có cái tên, hài hước thay, Visitacion. Những đứa trẻ này lớn lên nói tiêng Guarijo chứ không phải tiếng Tây Ban Nha. Do đó, như nhiều đứa trẻ của Tân thế giới, toàn bộ cuộc sống của chúng phải dành cho việc dịch, và những ý niệm thuần khiết về tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ bản xứ trở nên đặc biệt phức tạp. Những đứa trẻ cũng học những tập quán của người bản địa như uống nước luộc thịt thằn lằn, ăn trứng nhện trước khi học những cách nấu nướng “đúng”. Jose Acardio, được biết đến như người có năng lượng tình dục lớn, cũng ngủ với một cô gái gypsy và trong cơn hưng phấn khi làm tình đã buột ra cả tràng những lời tục tĩu mà chúng ta được kể rằng, những lời lẽ ấy đi vào bên trong cơ thể cô gái ấy qua tai và “chui ra khỏi miệng, được dịch thành ngôn ngữ của chính cô”. Hành động dịch này, cả trên bình diện thân xác lẫn ngôn ngữ, dẫn đến hệ quả là một sự biến mất nữa – sự biến mất của Jose Acardio, người chạy trốn cùng với nhóm người gypsy và gần như bị quên (bị trì hoãn-deferred) trong câu chuyện về Macondo.

Khi ông xuất hiện trở lại ở một trăm trang sau đó, Jose Acardio đã đi du lịch vòng quanh thế giới 65 lần với một đoàn thủy thủ “không quê hương”, tiếng Tây Ban Nha của ông đã bị trộn lẫn với nhiều ngôn ngữ và phương ngữ khác. Những chuyện kể của ông bao gồm việc bị đắm tàu ở biển Nhật Bản, việc phải ăn thịt một người thủy thủ cùng đoàn bị chết vì say nắng, vụ giết một con rồng biển ở vịnh Bengal mà bên trong xác của nó có phần thi thể còn lại của một người lính từng tham gia thập tự chinh. Cơ thể của ông còn in dấu vết của những trải nghiệm khi đi khắp thế giới: ông xăm mình từ đầu đến chân, dấu vết của dịch hằn trên cơ thể của ông. Đáng chú ý là ông không ngủ trong ngôi nhà khép kín, loạn luân nhà Buendia mà ngủ ở khu đèn đỏ, nơi ông biến khả năng tình dục của mình thành phương tiện kiếm sống. Khi ông kết hôn loạn luân với em gái nuôi Rebecca, cả hai đã bị gia đình cấm cửa và một lần nữa ông bị đẩy ra bên lề tự sự. Em trai của ông Aureliano, người sau này trở thành đại tái Aureliano Buendia, không những trở thành người đứng đầu gia đình mà còn là người bảo vệ cho làng Macondo khi cha mình qua đời. Tiêu điểm tự sự chuyển sang cuộc nội chiến giữa phe Tự do với phe Bảo thủ, giữa những nỗ lực anh hùng, gần như huyền thoại của ngài đại tá với những kẻ kháng cự cũng như rất nhiều những câu chuyện ái tình và những đứa con của nhân vật.

Mặc dù bị đẩy ra bên lề tự sự, nhưng một khi nhận ra được chủ đề dịch thuật trong cuốn tiểu thuyết thì ở chỗ nào cũng có thể nhìn thấy nó. Dịch mất trí nhớ hàm ý mọi người ở Macondo đều đánh mất và phải lấy lại ngôn ngữ của mình; ông già Jose Arcadio Buendia bị xem là điên khùng, suốt ngày luyên thuyên nói một thứ ngôn ngữ không ai biết, mà hóa ra đó lại là tiếng Latin nhưng không ai trong thị trấn, trừ vị linh mục, có thể hiểu. Pietro Crespi, người bán đồ nội thất người Italia, dịch những bài sonnet của Petrarch cho Amaranta. Và việc dịch thuật được tiếp tục trong căn phòng của Melquiades khi con ma đọc cho những thế hệ tương lai như Aureliano, những người ở thời điểm này trong câu chuyện không hiểu, nhưng là những kẻ sẽ tạo ra nên một dòng hậu duệ khác. Trên thực tế, chính họ mới là người nối tiếp dòng họ Buendia sau khi cái dòng hậu duệ về mặt sinh học đã trở nên cạn kiệt. Vì thế, cuốn sách là một tự sự kép: tự sự thứ nhất là về cuộc chinh phạt và cố kết cộng đồng mang màu săc anh hùng, về sự hình thành dân tộc và chủ nghĩa yêu nước được viết trong các sách lịch sử và hồi ức; tự sự thứ hai, thường bị đẩy khỏi mạch truyện và chỉ có thể tìm thấy ở bên lề câu chuyện, bao hàm những mối liên hệ, kết nối quốc tế đa bội, những mối quan tâm về việc bảo tồn những đường dây, những ngôn ngữ đã mất chỉ có thể phát hiện trong những trang viết bí hiểm và dịch thuật. Điều rất quan trọng, ở đoạn kết tiểu thuyết, Garcia Marquez đã đảo ngược trật tự của các tự sự, và mạch tự sự phụ về dịch thuật trở thành mạch chính dẫn đến sự sống sót của câu chuyện và dòng dõi nhà Buendia.

Tác phẩm của Garcia Marquez, bởi thế, trên nhiều điểm, rất tương đồng với Borges. Borges chọn những tự sự xa xưa như chuyện kể của Homer, Shahrazad hay Cervantes, viết bằng những ngôn ngữ lâu đời nhất của người Hy Lạp, Arab hay Tây Ban Nha. Trong khi đó, Garcia Marquez lại lựa chọn một gã gypsy, viết bằng tiếng Sanskrit – một thứ ngôn ngữ châu Âu, ngôn ngữ Tây Ban Nha sớm nhất, lâu đời nhất. Melquiades trở thành một hình tượng giống như nhà thơ Homer hay Shaharazad, ông ta thêu dệt một câu chuyện với nhiều đoạn mở đầu và nhiều khả năng diễn dịch, một câu chuyện đủ phong phú, đủ sức bao chứa đến mức nó thực sự chưa bao giờ kết. Bản chất dịch của câu chuyện – tính chất vừa là phái sinh vừa là nguyên gốc của nó- là vấn đề không những các dịch giả mà ngay cả các nhà văn ở châu Mỹ phải đối mặt. Việc kể lại những kinh nghiệm sống ở Tân Thế giới luôn được đặc trưng bởi việc người ta luôn phải sử dụng những ngôn ngữ châu Âu lâu đời, được du nhập vào lục địa này mà nhiều khi không thật sự phù hợp. Do đó, các nhà văn châu Mỹ phải sử dụng dịch để “nhập lậu” (smuggle) các khái niệm, các nhân vật vốn quy chiếu về tất cả những thủy thủ, những người nhập cư từ Tây Ban Nha, Italia, Aragon, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha đến xứ sở này và định cư lại; họ phải sử dụng dịch để biểu đạt những hình ảnh về du hành và di cư, đảo lộn và cách mạng, những điểm đặc trưng cho văn hóa hơn bất cứ cái gì tĩnh tại, ổn định như những khu định cư mà Macondo là thí dụ. Garcia Marquez, trong những trang viết về câu chuyện của Melquiades, dường như đã muốn nói: dịch, với tất cả tính chất không thuần khiết và đầy thiếu sót của nó, là một trong những chìa khóa quan trọng để hiểu không chỉ châu Mỹ Latin mà toàn bộ bán cầu này.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Edwin Gentzler, Translation and Identiy in the Americas: New Directions in Translation Theory, NY:Routledge, 2008, p.119-123.

Susan Bassnett – Lý thuyết dịch

babel1-hiHình ảnh từ phim Babel (2006) của đạo diễn Alejandro Gonzalez Inarritu – một bộ phim mà theo tôi cũng xem dịch như một chủ đề.

*

Dịch thuật như là hành vi chuyển giao một văn bản ở một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, từ hơn một thiên niên kỷ qua, đã luôn là một nguồn chính của thông tin xuyên văn hóa. Các dịch giả đã để lại phát ngôn về công việc của mình trong các lời tựa, ghi chú, tiểu luận, khảo luận, song chỉ đến gần đây mới thực sự có những nỗ lực lý thuyết hóa và nghiên cứu dịch thuật một cách hệ thống.

Một vài nhận định sớm nhất về dịch thuật đã đưa ra sự phân biệt giữa cách dịch từ-đối-từ (word-by-word) với cách dịch nghĩa-đối-nghĩa (sense-by-sense), một sự phân biệt được Thánh Jerome, một trong những người dịch Kinh Thánh sớm nhất, xác định, xuất phát từ kiểu tư duy lưỡng phân mà trước đó Cicero đã thiết lập. Những người La Mã đã nhận thấy vấn đề cơ bản mà dịch giả nào cũng phải đối mặt – nguy cơ ở quá gần ngôn ngữ gốc/ ngôn ngữ nguồn, văn bản gốc/văn bản nguồn, do đó, dẫn đến khả năng làm biến dạng cái mới, hay ngôn ngữ, văn bản đích hay nguy cơ ngược lại khi tạo ra một văn bản đích rất đẹp nhưng thoát nguồn đến mức dường như dịch giả cùng lúc đó đang tạo ra một cái gì đó mới. Các dịch giả và những người muốn xây dựng một lý thuyết về dịch đều, bằng cách này hay cách khác, đều phải đối mặt với vấn đề nan giải tương tự: nhiệm vụ của dịch giả nên là đưa văn bản đến một thế hệ độc giả mới bằng việc tái tạo văn bản nguồn thật khéo léo để độc giả cảm thấy hấp dẫn và quen thuộc, hay anh ta, thay vào đó, nêm tìm cách đưa độc giả về với văn bản, ngôn ngữ nguồn, có thể bằng việc chủ ý lạ hóa ngôn ngữ để tạo ra cảm giác về sự xa lạ (foreigness) trong văn bản? Phương thức “quen thuộc hóa” (familiarization) hay tiếp biến văn hóa (acculturation) được các dịch giả người Pháp thời Khai sáng ủng hộ trong khi đó, những dịch giả người Đức cùng thời với họ lại ưa chuộng phương thức “xa lạ hóa” (foreignization) hơn – phương thức vốn được Friedrich Schleiermacher trình bày rất sáng rõ trong khảo luận của ông về những phương pháp dịch thuật khác nhau công bố năm 1813.

Vấn đề liệu dịch giả, về nguyên tắc, nên chịu trách nhiệm về bản thân ngôn từ hay về nghĩa mà những từ ngữ này thụ nhận trong ngữ cảnh dẫn đến những tranh cãi mở rộng xung quanh ý nghĩa của khái niệm “tín” (faithfulness) trong dịch thuật. Trong những nỗ lực định nghĩa chữ “tín”, các dịch giả đã phải dựa vào nhiều hình ảnh khác nhau. Ở một thời điểm nhất định, một dịch giả trung thành có thể được mô tả như một người lần theo bước chân của người đi trước, hay như một kẻ phục tòng nguyên tác, hay như một kẻ sao chép thiện nghệ. Tương phản với những hình ảnh mang ý nghĩa phục tòng như thế, những người khác lại hình dung về dịch giả như kẻ mặc cho nguyên tác một trang phục hợp thời hơn (ở nước Anh thời Phục hưng, hình ảnh về ngôn ngữ như một thứ vải sợi chất phác đặc trưng của nước Anh phục vụ cho mục đích dịch giả tốt hơn thứ vải lụa hay satin có nguồn gốc Latin kiểu cách là một hình ảnh phổ biến) hay như một kẻ làm cho nguyên tác hoàn thiện hơn nữa bằng cách giải phóng ngôn ngữ trong một ngữ cảnh mới. Những tranh cãi xung quanh chữ “tín” trong dịch thuật rất gay gắt và chúng móc nối mật thiết với những vấn đề về tính khả dịch (translatability). Những định nghĩa về sự tương đương và độ “tín” hết sức đa dạng, cũng như là những chiến lược mà các dịch giả sử dụng tương ứng với hai khái niệm rất khác nhau nhau này.

Lĩnh vực được gọi là nghiên cứu dịch thuật (translation studies) hình thành từ thập niên 1970 và đã mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, đó là một tiến trình được chứng thực bởi số lượng dồi dào các cuốn sách, tạp chí chuyên ngành, hội thảo, chương trình đào tạo và luận án tiến sĩ trong ba thập niên qua. Mối quan tâm về dịch thuật dường như ngày càng gia tăng trong thế kỷ XXI, khi hàng triệu người có nhu cầu phải học tiếng Anh-thứ tiếng đã trở thành ngôn ngữ chủ đạo trong thương mại quốc tế và giao tiếp toàn cầu, và hàng triệu người phải di trú do chiến tranh, nạn đói và các thảm họa sinh thái. Không phải là ngẫu nhiên khi sự gia tăng mối quan tâm về dịch thuật lại song hành với sự gia tăng di động trên phạm vi quốc tế ở một mức độ chưa từng thấy.

Nghiên cứu dịch thuật, như một lĩnh vực chuyên biệt, đi vào sự chín muồi bắt đầu từ một chuỗi các seminar quốc tế được tổ chức ở Đức, Bỉ và Hà Lan đầu thập niên 1970. Đến năm 1983, lần đầu tiên, chủ đề dịch thuật được ghi vào thư mục tham khảo quốc tế của Hội Ngôn ngữ Hiện đại (Modern Language Association). Vào năm 1976, trong một cuộc hội thảo ở Đại học Leuven, Bỉ, các học giả đã cố gắng xác lập những giới hạn của lĩnh vực được coi là mới mẻ này. Andre Lefevere đã viết một tuyên ngôn ngắn trong đó nói rõ: mục tiêu của lĩnh vực là xây dựng một lý thuyết tổng quát có thể sử dụng như là nguyên tắc chỉ đạo cho hoạt động dịch thuật. Thứ lý thuyết này sẽ phát triển song hành với những luận điểm không theo chủ nghĩa thực chứng mới, cũng không theo hướng thông diễn học, nó sẽ liên tục bị kiểm chứng lại để kháng cự những trường hợp cụ thể. Theo cách này, ngay từ đầu, mối quan hệ giữa lý thuyết dịch và hoạt động dịch trên thực tiễn đã bị bỏ ra. Cũng có ý nghĩa cấp thiết đối với sự phát triển của lĩnh vực mới này là phác lại phả hệ của nó; lịch sử dịch thuật, vì thế, trở thành một nội dung quan trọng của ngành nghiên cứu này.

Những thành viên ban đầu của nhóm nghiên cứu dịch thuật, gồm có các nhà nghiên cứu người Israel về thuyết đa hệ thống Itamar Even-Zohar và Gideon Toury, dịch giả người Mỹ – James Holmes, dịch giả người Slovak- Anton Popovic, dịch giả Jose Lambert từ nước Bỉ và một số người khác nữa, tuy xuất phát từ những nền tảng khác nhau song đều chia sẻ niềm tin rằng đã đến lúc dịch thuật cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống hơn. Họ nhận thấy nếu như ngôn ngữ học có xu hướng không để ý đến những vấn đề văn hóa rộng lớn hơn của hoạt động dịch thuật thì nghiên cứu văn học lại có xu hướng chỉ đánh giá dịch thuật từ cách tiếp cận hình thức luận và không chú ý đến vai trò của văn học dịch trong việc hình thành các điển phạm văn chương. Cái cần có phải là một điểm tựa lý thuyết vững chắc cho nghiên cứu dịch thuật và một nhận thức sâu rộng hơn về tác động của dịch thuật như một lực tạo hình (shaping force) trong lịch sử văn học, một tác động cần phải đo trên trục thời gian, và do đó, lịch sử của dịch thuật được nhấn mạnh.

Nền tảng tri thức của ngành nghiên cứu dịch thuật đã chuẩn bị kịp thời, trên thực tế, nó đã được dọn đường từ công trình của các học giả như nhà ngôn ngữ học người Anh J.C.Catford và Eugene Nida, một dịch giả Kinh Thánh người Mỹ. Từ những năm 1960, Nida đã phát triển cái mà ông gọi là “khoa học dịch thuật” và đã vận dụng nó một cách thiết thực để xử lý vấn đề được xem là then chốt khi đó: cái gì cấu thành sự tương đương trong dịch thuật? Cùng lúc đó, Catford phân biệt giữa cái mà ông gọi là dịch “ngôn ngữ” và dịch “văn hóa”. Cả hai học giả xuất sắc này đều nhận ra dịch bao hàm sự thương thỏa và bất cứ quan điểm nào về sự tương đương tuyệt đối đều phi lý. Nida xây dựng lý thuyết về sự tương đương “hình thức” và tương đương “động”: trong khi sự tương đương hình thức chú ý vào thông điệp thực sự trong hình thức và nội dung, trong khi sự tương đương “động” lại nhằm vào hiệu ứng tương đương, nghĩa là mối quan hệ tương tự giữa người nhận và thông điệp trong cả hai ngôn ngữ. Tác động từ lý thuyết của Nida có thể nhận thấy rất rõ trong công trình của các lý thuyết gia về dịch thuật người Đức như Wolfram Wilss, Katharina Reiss và Hans Vermeer, những người đã xây dựng thuyết skopos về dịch thuật, theo đó, chức năng và mục đích của dịch thuật sẽ quyết định các chiến lược dịch của dịch giả.

Điều phân biệt nghiên cứu dịch thuật và các nhận định, phát ngôn trước đó về dịch thuật là cố gắng hệ thống hóa cách tư duy về dịch thuật và nhấn mạnh những vấn đề ý thức hệ mà trước đó được xem là thứ yếu. Dịch thuật, như các học giả của thuyết đa hệ thống lập luận, là một hoạt động văn chương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có thể tạo được tác động lớn đối với một nền văn hóa. Even-Zohar đã cố gắng xác lập một bản đồ về hoạt động dịch, chỉ ra ở những thời điểm khác nhau, các nền văn hóa có xu hướng dịch một số lượng văn bản nhiều hơn hoặc ít hơn tùy theo nhu cầu của mình. Hơn hai thập niên kế tiếp, nghiên cứu lịch sử dịch thuật đã bắt đầu cho chúng ta thấy theo những cách khác nhau, các dịch giả làm việc trong những bối cảnh khác nhau, tại những thời điểm khác nhau trong lịch sử đã ý thức được vai trò của mình và tác động của vai trò luôn thay đổi này đối với thực tiễn dịch thuật.

Vấn đề lớn nhất mà các dịch giả phải bận tâm là vấn đề ý nghĩa (meaning). Một giả thiết phổ biến được nhà ngôn ngữ học người Mỹ Edward Sapir (1884-1939) và Benjamin Lee Whorf (1897-1941) đề xuất cho rằng không có hai ngôn ngữ nào có thể cùng biểu đạt một thực tại xã hội giống nhau. Thuyết quyết định luận về ngôn ngữ này đã dẫn Sapir và Whorf đi đến lập luận: mọi sự dịch đều hàm chứa một quá trình thương thỏa giữa hai thế giới quan hoàn toàn khác nhau vốn bị quy định bởi thứ ngôn ngữ được sử dụng. Giả thuyết Sapir-Whorf được các lý thuyết gia về dịch thuật sử dụng rộng rãi chính vì những hàm ý của nó liên quan mật thiết với thực tiễn dịch thuật. Thậm chí, ngay một đơn vị từ vụng đơn giản như “bánh mì” hay “bơ” cũng gợi ra những trường nghĩa hoàn toàn khác nhau ở những nền văn hóa khác nhau. Hình ảnh thị giác mà từ “bánh mì” gợi ra trong bối cảnh Mỹ (được cắt lát sẵn, được bọc, trắng và vuông, được sử dụng để làm sandwich) sẽ khác với hình ảnh mà từ “bánh mì” gợi ra trong bối cảnh Uzebekistan (dẹt, được dọn ra trong bữa ăn bởi thành viên nam nhiều tuổi hơn, và phải dùng tay phải để cầm ăn kèm với thịt và cơm, chẳng hạn). Thế nhưng cả hai từ đều quy chiếu đến một loại món ăn chính trong đồ ăn thường ngày ở mỗi nước và cả hai từ đều tồn tại như là những từ tương đương trong từ điển. Nếu chúng ta chỉ chú ý về sự tương đương về nghĩa từ điển mà không quan tâm đến những khác biệt vốn mang tính văn hóa hơn là chỉ trên bình diện ngôn ngữ, sự thất thoát về ý nghĩa sẽ khiến cho việc dịch trở thành vô giá trị. Thế nhưng có bao nhiều lớp nghĩa có thể được dịch mà không cần phải ghi chú hay giải thích thêm? Tính chất khó khăn của nhiệm vụ này chính là điều khiến cho hàng bao thế kỷ qua, người ta không ngừng xoáy mãi vào sự mất mát trong dịch thuật, vì việc chuyển giao một văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác thường được nhìn như là một quá trình đi liền với sự mất mát các lớp nghĩa hay phẩm chất thẩm mỹ.

Có lẽ đóng góp đặc biệt quan trọng của các lý thuyết gia về dịch thuật đương đại trong cuộc tranh cãi kéo dài này về chữ tín trong dịch và những định nghĩa về sự tương đương là họ đưa ra khẳng định: hoàn toàn không thể quan niệm sự tương đương nghĩa là sự giống nhau. Khi điều này được chấp nhận, một khái niệm dịch linh hoạt hơn sẽ được xác lập, giải phóng dịch ra khỏi những phán xét mang tính chất trừng phạt và mở ra khả năng cho thấy nếu như có sự thất thoát trong dịch thuật thì đồng thời cũng có quá trình thu lợi diễn ra song song. Quan trọng hơn, một quan điểm như thế có sự kết nối với các lý thuyết của chủ nghĩa hậu hiện đại vốn bác bỏ những mô hình tuyệt đối của việc đọc và diễn giải. Nhận thức về sự khác biệt giữa các hệ thống ngôn ngữ và văn hóa cũng biến đổi bản thân hoạt động dịch, vì vai trò của dịch giả trở thành vai trò của kẻ diễn giải hoặc là kẻ hòa giải giữa nguồn và đích. Do đó, dịch giả có thể được nhìn nhận như là người hoạt động trong một không gian giữa hai cực rõ rệt, mang trách nhiệm đối với cả văn bản nguồn và công chúng được dự kiến nhắm đến.

Trong những năm 1990, nghiên cứu dịch thuật đã đi vào khám phá nhiều bình diện của quá trình hòa giải này, đặc biệt là ở các văn bản hậu thực dân và khía cạnh giới trong lối viết. Ngay từ khởi đầu, ngành nghiên cứu dịch thuật đã quan tâm đến vấn đề ý thức hệ và cách tiếp cận hệ thống đã dẫn đến hiện tượng được mô tả như là “khúc ngoặt văn hóa” cuối thập niên 1980. Sự chuyển hướng này hàm ý còn có nhiều vấn đề khác có thể được đặt ra về dịch thuật, và dễ hiểu là những vấn đề quan trọng được khơi lên từ các cộng đồng mà trước đó vốn được hình dung như là ngoại biên đối với các điển phạm văn chương Âu-Mỹ, đáng kể nhất là Ấn Độ, Brazil, và Canada. Khúc ngoặt văn hóa cho thấy những loại vấn đề được đặt ra như thế mang tính chất mô tả hơn là định giá, chúng quan tâm đến quá trình lưu truyền của bản dịch trên thế giới diễn ra như thế nào, các bản dịch có thể đóng góp như thế nào đối với sự xác lập các điển phạm văn chương và độc giả của các bản dịch có thể có những vai trò gì.

Các lý thuyết gia về giới tính và dịch thuật, tiêu biểu nhất là các học giả người Canada như Sherry Simon, Barbara Godard, Suzanne de Lotbiniere-Harwood và Anni Brisset, đã cho thấy giữa dịch thuật và chủ nghĩa nữ quyền có chung một nền tảng tri thức, thể hiện ở chỗ cả hai đều quan niệm ngôn ngữ như một địa điểm của những ý nghĩa bị nghi ngờ. Dịch thuật bao hàm sự thao túng: dịch giả là người tái tạo chủ động một văn bản trong một ngữ cảnh hoàn toàn khác. Không hề giống như một tấm gương được một người hầu đưa lên cho nguyên tác ngắm nghía chính mình, một bản dịch là sản phẩm của một quá trình viết lại trải qua nhiều công đoạn phức tạp: giải mã ngôn ngữ nguồn, mã hóa ngôn ngữ thứ hai cho một lứa độc giả mới. Suzanne Jill Levine, một dịch giả chuyên dịch các tác giả Mỹ latin, đã mô tả vai trò dịch giả của mình như một kẻ chép thuê nhưng luôn mang tham vọng phá vỡ nguyên tác (subversive scribe), một người viết mà một mặt bị ràng buộc vào văn bản nguồn nhưng mặt khác, đồng thời lại thực hiện nhiều chiến lược khác nhau để đưa văn bản vào môi trường mới của nó. Lý thuyết dịch thuật nữ quyền nhấn mạnh đến quyền năng sáng tạo mang tính chất phá vỡ của dịch giả và định nghĩa lại mối quan hệ với nguyên tác.

Các lý thuyết gia nữ quyền luận cũng nhấn mạnh đến vai trò của phụ nữ trong lịch sử dịch thuật: khi dịch thuật đánh mất địa vị mà nó giữ ở thời kỳ trung cổ và bị xem như một hoạt động thứ cấp, kém danh giá hơn sáng tác thì một số lượng rất lớn phụ nữ trở thành các dịch giả. Trong một tiểu luận quan trọng về giới tính và những ẩn dụ về dịch thuật, Lori Chamberlain đã phát hiện những hàm ý về giới trong ẩn dụ về dịch – người đẹp không thủychung (belle infidele). Cơ sở của ẩn dụ này chính là sự trung thành của bản dịch/đàn bà: nếu nàng đẹp, nhất định nàng sẽ không thủy chung. Chamberlain đã chỉ ra định kiến về giới tinh trong hình ảnh này; nó hàm ý chỉ có bản dịch/phụ nữ mới bị kết tội không thủy chung. Sự bất tín (unfaithfulness), vì thế, là ý niệm được đặt ra để giam người phụ nữ vào trong những định kiến văn hóa.

Một văn bản then chốt thường được đọc lại và diễn giải lại bởi các lý thuyết gia đương đại về dịch thuật là tiểu luận năm 1923 của Walter Benjamin – “Nhiệm vụ của dịch giả”, trong đó, ông nêu lên luận điểm dịch giả thực sự là người đem một văn bản trở lại đời sống, phục sinh nó trong một ngữ cảnh mới. Tiểu luận của Jacques Derrida về Benjamin, “Từ Tháp Babel” (1985) là một tiểu luận quan trọng khác, tư tưởng của hai tiểu luận này đều ảnh hưởng sâu sắc đến những lý thuyết về dịch thuật được xem là thú vị nhất những năm gần đây. Chẳng hạn, tại Brazil, anh em Haroldo và Augusto de Campos đã khai thác cả tiểu luận của Benjamin và Derrida, cùng với một số lý thuyết gia khác như Else Viera và Rosemary Arrojo để hình thành quan điểm của mình. Từ quan điểm của người Brazil, ý niệm về dịch như là hậu kiếp được kết nối với cách dùng tập tục ăn thịt người như một ẩn dụ về nỗ lực văn hóa hậu thực dân – một ẩn dụ được các nghệ sĩ trong phong trào “Thực nhân chủ nghĩa” ở Brazil dùng để thể hiện ứng xử của mình trước ảnh hưởng văn hóa thực dân. Dịch giả – như những kẻ theo tập tục ăn thịt người – sẽ ăn thịt nguyên tác để đem đến dưỡng chất cho công chúng mới; hành động “tiêu hóa” nguyên tác này là một hình thức hiến sinh mà thông qua đó quyền lực của nguyên tác được chuyển giao vào một ngữ cảnh mới bằng sự hóa thân (metamorphosis). Tên gọi của Chủ nghĩa thực nhân, như những nghệ sĩ tham gia phong trào này cho biết, có mối liên hệ trực tiếp với các bộ lạc ở Brazil thời kỳ tiền Columbus mà ở những cộng đồng này, ăn thịt người chính là một phương thức bày tỏ lòng biết đơn đối với người bị ăn, rất khác với nhãn quan châu Âu, xem đó là một hình thức man dã. Do đó, lý thuyết về dịch từ nhãn quan “thực nhân” thể hiện sự tôn trọng đối với văn bản nguồn ngay cả khi nó khẳng định quyền được ăn nguyên tác. Lý thuyết thực nhân có thể xem như là biến thể của lý thuyết dịch mà Octavio Paz đã phác thảo, theo đó, dịch giả hành động để giải phóng văn bản khỏi hình thức ban đầu của nó, tháo dỡ các ký hiệu ngôn ngữ của nguyên tác, mở đường cho chúng vào một chu trình vận hành trong ngữ cảnh mới. Ý niệm về “sự bất khả” của dịch mà Benjamin và Derrida từng thảo luận, trong ngữ cảnh hậu thực dân, được trao cho một nét nghĩa ẩn dụ mới.

Những hình ảnh về dịch thuật từ nhãn quan hậu thực dân được mở rộng ra ngoài phạm vi văn bản. Nếu như theo truyền thống, thuộc địa thường được hình dung như là bản sao của thực dân – nhân tố “nguồn” thì bản dịch cũng thường bị xem là có địa vị thấp hơn so với nguyên tác. Từ quan điểm hậu thực dân, thuộc địa muốn khẳng định địa vị ngang bằng của nó, và như thế, bản dịch cũng hoàn toàn có thể đủ tư cách để trở thành một tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa trong ngữ cảnh mới. Dịch thuật, vì thế, có thể được xem như ẩn dụ cho toàn bộ những nỗ lực văn hóa trong ngữ cảnh giải thực dân.

Những lý thuyết gia hậu thực dân khác, như Anuradah Dingwaney, Gayatri Chakravorty Spivak và Tejaswini Niranjana, có một quan điểm khác về dịch thuật, nhấn mạnh đến việc dịch thuật được sử dụng như một công cụ trong lịch sử của chủ nghĩa thực dân. Dịch thuật, như họ gợi ý, có thể là một hình thức bạo lực hoặc chiếm dụng văn hóa và họ hướng sự chú ý đến lịch sử một chiều của dịch thuật giữa phương Đông và phương Tây, với các văn bản được dịch cho châu Âu dùng, hoặc khi dịch thuật xuất hiện theo hướng ngược lại, như là một phần trong công cuộc khai hóa của thực dân.

Tất cả những quan điểm khác biệt về dịch thuật này cùng chia sẻ là dịch thuật không diễn ra theo trục ngang mà diễn ra giữa các tác giả, văn bản và nền văn hóa không bình đẳng về địa vị. Gần đây lý thuyết về các lược tuyến văn hóa (cultural grids) của Pierre Bourdieu đã được các lý thuyết gia như Lefevere vận dụng nhằm mở rộng nội dung thảo luận, đưa vào đó những suy nghĩ về các quy luật văn học nói chung. Điều này có thể giúp lý giải câu hỏi: tại sao một văn bản hay tác giả quan trọng lại thất bại khi được dịch trong khi một số tác phẩm khiêm tốn hơn đôi khi lại đạt được địa vị một tác phẩm điển phạm trong một nền văn hóa khác qua dịch thuật. Mô thức dịch qua các nền văn hóa cũng rất đa dạng và vấn đề này cũng khơi dậy những câu hỏi quan trọng song chưa được trả lời về ý nghĩa văn hóa của việc dịch thể loại.

Khúc ngoặt văn hóa trong nghiên cứu dịch thuật đã gặp gỡ với các tư tưởng nữ quyền luận, hậu hiện đại, hậu thực dân và điều này đã làm thay đổi quan niệm về dịch giả và dịch thuật. Bên cạnh những vấn đề phức tạp liên quan đến những bó buộc của ngôn ngữ, những chuẩn khác nhau về khả năng tiếp nhận văn chương, những chân trời chờ đợi khác nhau, những nghiên cứu đương đại về dịch thuật đã đặt ra thêm nhiều vấn đề phức tạp khác nữa liên quan đến những mối quan hệ bất bình đẳng về quyền lực giữa các nền văn hóa. Cách dễ dàng nhất để nắm được những gì đã diễn ra ở lý thuyết dịch là nghĩ về nó như một quá trình vận động đi từ thông diễn sang phân tích bá quyền. Dịch, dù ta có thực hành nó hay không, vẫn là một ẩn dụ then chốt về thời đại mà chúng ta đang sống.

THƯ MỤC THAM KHẢO:

Tài liệu tham khảo chính:

Susan Bassnett, Translation Studies (1980, 3d ed., 2002).

Susan Bassnett and André Lefevere, Constructing Cultures (1998).

Susan Bassnett and Haris Trivedi Postcolonial Translation: Theory and Practice (1999).

Walter Benjamin, Die Aufgabe des Übersetzers (1923, The Task of the Translator, trans. Harry Zohn, in Schulte and Biguenet,).

Annie Brisset, A Sociocritique of Translation: Theatre and Alterity in Quebec, 1968–1988 (1996).

  1. C. Catford, A Linguistic Theory of Translation (1965).

Lori Chamberlain, Gender and the Metaphorics of Translation ( Venuti,).

Jacques Derrida1985 (Des Tours de BabelDifference in Translation, Joseph F. Graham trans.).

Anuradha Dingwaney and Carol Maier Between Languages and Cultures: Translation and Cross-Cultural Texts (1995).

Itamar Even-Zohar1990 (Polysystems StudiesPoetics Today, vol. 11).

Itamar Even-Zohar, The Position of Translated Literature within the Literary Polysystem ( Holmes, Lambert, and van den Broeck,).

Itamar Even-Zohar and Gideon Toury 1981 (Translation Theory and Intercultural Relations special issue, Poetics Today, vol. 2, 4).

James S. Holmes, Translated! Papers on Literary Translation and Translation Studies (1988).

James S. Holmes , José Lambert and Raymond van den Broeck Literature and Translation (1978).

José Lambert1995 (Translation, Systems, and Research: The Contribution of Polysystems Studies to Translation StudiesTTR: Traduction, Terminologie, Rédaction, vol. 8, 1).

André Lefevere, Translation, Rewriting, and the Manipulation of Literary Fame (1992).

André Lefevere, Translation Studies: The Goal of the Discipline ( Holmes, Lambert, and van den Broeck,).

Suzanne Jill Levine, The Subversive Scribe: Translating Latin American Fiction (1991).

Eugene Nida, Towards a Science of Translating (1964).

Eugene Nida and Charles Taber, The Theory and Practice of Translation (1969).

Tejaswini Niranjana, Siting Translation: History, Post-structuralism, and the Colonial Context (1992).

Octavio Paz, Traducción: Literatura y Literalidad (1971, Translation: Literature and Letters, trans. Irene del Corral, in Schulte and Biguenet,).

Anton Popovic, Dictionary for the Analysis of Literary Translation (1976).

Katharina Reiss and Hans J. Vermeer, Grundlegung einer allgemeinen Translationstheorie (1984).

Edward Sapir, Culture, Language, and Personality (1956).

Friedrich Schleiermacher, Methoden des Übersetzens (1813, On the Different Methods of Translating, trans. Waltraud Bartscht, in Schulte and Biguenet,).

Rainer Schulte and John Biguenet Theories of Translation: An Anthology of Essays from Dryden to Derrida (1992).

Sherry Simon, Gender in Translation: Cultural Identity and the Politics of Transmission (1996).

Gayatri Chakravorty Spivak, Outside in the Teaching Machine (1993).

Gideon Toury, Descriptive Translation Studies and Beyond (1995).

Gideon Toury, In Search of a Theory of Translation (1980).

Lawrence Venuti The Translation Studies Reader (2000).

Wolfram Wilss, The Science of Translation: Problems and Methods (1982).

, Translation and Interpreting in the Twentieth Century: Focus on Germany (1999).

Tài liệu tham khảo mở rộng:

Mona Baker Routledge Encyclopaedia of Translation Studies (1998).

Susan Bassnett and André Lefevere Translation, History, and Culture (1991).

Andrew Benjamin, Translation and the Nature of Philosophy (1989).

Olive Classe Encyclopedia of Literary Translation (2000).

Michael Cronin, Translation and Globalization (2003).

Michael Cronin, Travel, Language, Translation (2000).

Edwin Gentzler, Contemporary Translation Theories (1993, 2d ed., 2001).

Theo Hermans, The Manipulation of Literature (1985).

André Lefevere Translation, History, Culture: A Sourcebook (1992).

Kitty M. van Leuven-Zvart and Ton Naaijkens Translation Studies: The State of the Art (1991).

Douglas Robinson, What Is Translation? Centrifugal Theories, Critical Intervention (1997).

Douglas Robinson Western Translation Theory from Herodotus to Nietzsche (1998).

Mary Snell-Hornby, Translation Studies: An Integrated Approach (1988, 2d ed., 1995).

George Steiner, After Babel: Aspects of Language and Translation (rev. ed. 2001).

Lawrence Venuti, The Scandals of Translation: Towards an Ethics of Difference (1998).

Lawrence Venuti, The Translators’ Invisibility: A History of Translation (1995).

Lawrence Venuti Rethinking Translation: Discourse, Subjectivity, Ideology (1992).

H.N dịch (bản nháp)

Nguồn: Susan Bassnett, “Translation Theory”, The Johns Hopkins Guide to Literary Theory & Criticism, Second Edition, 2005 (bản điện tử)

Caroline Levine – Ủng hộ Văn học Thế giới

Bài viết dưới đây thực chất là bài điểm ba cuốn chuyên luận về văn học thế giới xuất bản gần như cùng một thời điểm: Against World Literature: On the Politics of the Unstranslatability của Emily Apter, Distant Reading của Franco Moretti và On Literary Worlds của Eric Hayot – cả ba đều là những học giả hàng đầu của ngành văn học thế giới.

Tôi biết đến khái niệm “văn học thế giới” cách đây cũng mấy năm. Khi đó, trong đợt các giáo sư từ ĐH Harvard đến Viện Văn học làm việc, tôi đã được nghe GS David Damrosch thuyết trình về lĩnh vực này. Nhưng khi ấy tôi thực sự không hiểu ý nghĩa của lĩnh vực nghiên cứu này. Năm ngoái khi được tặng cuốn sách của Emily Apter, tôi cũng đã không thể đọc quá được chục trang vì không hiểu ngữ cảnh nghiên cứu, thậm chí, lúc đó, tôi đã nghĩ cuốn sách của Apter là cuốn sách chỉ gắn liền với những vấn đề của nước Mỹ và rất khó có thể tìm được sự móc nối nào với thực tế văn học Việt Nam.

Bài điểm sách này không dễ dịch, nhưng không quá khó hiểu. Chỉ đến bài điểm sách này thực sự tôi mới hiểu vì sao ngành văn học thế giới lại được khuyến khích. Nó đưa ra một đề nghị táo bạo: giải phóng nghiên cứu văn học ra khỏi thứ chủ nghĩa dân tộc chính trị, ra khỏi khung dân tộc, quốc gia như là cái khung tốt nhất, thậm chí duy nhất đồng thời giải phóng văn học ra khỏi những mưu toan của chủ nghĩa bá quyền văn hóa toàn cầu. Nghiên cứu văn học ở đây mang tính chính trị bởi nó chất vấn chính những mưu toan chính trị đang ràng buộc nó một cách tinh vi.

Caroline Levine không chỉ tổng thuật nội dung những tác phẩm trên. Bà đưa ra cả những suy tư đầy gợi mở của mình. Tôi thu hoạch ngay được một số điều: 1- ngay cả 1 văn bản đơn lẻ cũng luôn rộng hơn mọi hiểu biết, mọi tri thức mà một học giả đơn lẻ có được, nó luôn luôn có thể được đặt vào một mạng lưới liên văn bản mang tính thế giới. Ý nghĩa sâu xa của mọi văn bản là chúng góp phần kiến tạo nên những “thế giới” như những ý niệm tinh thần chi phối nhận thức và hành động của chúng ta; 2- chúng ta luôn sống trong hơn một thế giới, hơn một lịch sử, văn chương cũng có thể có hơn một lịch sử của mình. Lịch sử văn học dường như lộ ra câu chuyện thú vị của nó ở những đường vòng, ở những nối kết, những đụng độ, những va chạm bất ngờ. Vì thế nghiên cứu văn học không thể chỉ dừng lại ở đơn vị văn bản và xem đó là đơn vị tĩnh, ta cần nghiên cứu văn bản văn học như một thực thể du hành trên những không gian rất vật chất; 3- Đọc văn học thế giới để làm gì? Câu hỏi này làm tôi nhớ lại một tranh luận trên facebook của một người bạn, khi người bạn ấy than phiền một cách rất có lý về chương trình ngữ văn hiện nay. Khi đó, tôi đã hỏi bạn: nếu được viết sách, bạn sẽ chọn những tác phẩm như thế nào. Bạn nói, sẽ gia tăng phần văn học nước ngoài. Tôi không đồng ý khi đó vì vẫn nghĩ tìm hiểu văn học dân tộc luôn quan trọng hơn. Nhưng bài này Caroline Levine đưa ra một quan niệm khác: rất nên đọc những nền văn học, những tác phẩm có vẻ không thân thuộc, xa lạ vì chính chúng sẽ khiến ta phải nghĩ lại, tưởng tượng lại cái thế giới quen thuộc mà ta thừa nhận nó cứ như thể một điều tất nhiên.

Tôi nghĩ đó là những gợi mở hữu ích. Trước hết cho chính bản thân tôi. Chẳng hạn, qua bài này, tôi đã nghĩ đến việc thử nghiên cứu Truyện Kiều như chính những gợi ý của tác giả Eric Hayot. Vì thế, tôi dịch bài này.

*

World map attributed to Chinese Admiral Zheng He (1418; copy, 1763)Bản đồ thế giới được cho là của đô đốc Trung Hoa Zheng He công bố năm 1418

Có thể nói câu chuyện về ngành nghiên cứu văn học ở Hoa Kỳ là một quá trình mở rộng kéo dài. Trong suốt hàng trăm năm, người ta xem chỉ có Văn học cổ điển mới là đối tượng xứng đáng để giới hàn lâm chú ý nghiêm túc, kéo theo đó là những phản đối quyết liệt việc giới thiệu các khóa học về văn học hiện đại ở thế kỷ XIX. Trong khi văn chương Latin và Hy Lạp “xác lập rõ ràng một thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn và giàu chất nam tính, thì văn chương hiện đại… lại chỉ phá vỡ và làm nữ tính hóa tâm hồn”[1], Alexander Kinmont đã viết như thế vào năm 1834. Tuy nhiên, những người tìm cách giới hạn danh mục sách đọc ở trường đại học đã thua trong trận chiến đó, và họ vẫn tiếp tục thua. Chaucer, Spenser, Shakespeare, Milton, Dryden và Pope trở thành những đối tượng được nghiên cứu thường xuyên từ sau 1850; các chuyên đề về tiểu thuyết bắt đầu được mở vào khoảng năm 1900. Văn học Mỹ đấu tranh để đòi sự công nhận của giới hàn lâm từ sau Thế chiến thứ nhất và đến những năm 1960, xuất hiện những tiếng gọi đòi mở rộng các điển phạm sang văn chương của phụ nữ, văn chương cộng đồng người Mỹ gốc Phi, các nhà văn hậu thuộc địa, v.v…[2]

Trong câu chuyện về sự mở rộng không ngừng các điển phạm này, việc nghiên cứu văn học thế giới mới bắt đầu có ý nghĩa thực sự. Nó đơn giản là chương mới nhất trong một câu chuyện lớn hơn về sự mở rộng những chân trời của nghiên cứu văn học. Song văn học thế giới cũng dẫn đến nhiều lời kêu ca. Chẳng phải phi lý hay sao khi cố gắng nghiên cứu văn học của toàn thế giới này? Làm sao người ta có thể có hiểu biết về một đối tượng mênh mông, đồ sộ như thế? “Một ý tưởng điên rồ,” Claudio Guillén đã viết như thế, “một việc bất khả thi. Những biên tập viên liều lĩnh nhất cũng chưa bao giờ có tham vọng làm một việc như vậy.”[3] Thậm chí đáng lo hơn nữa, chính tham vọng nghiên cứu văn học thế giới, đối với một số nhà phê bình, chứng tỏ một thứ ý chí đoạt quyền lực mang bản chất đế quốc. Các học giả Hoa Kỳ, những người đang làm công việc tập hợp văn chương thế giới vào một chỉnh thể duy nhất, dễ nắm bắt được, dường như chính là những công cụ sẵn sàng cho một mưu toan bá quyền toàn cầu tham lam.

“Trong cuộc chạy đua của các trường đại học trên khắp thế giới để được cấp thương hiệu ‘toàn cầu’, người ta đã chộp lấy ngành Văn học Thế giới như một cái nhãn gây chú ý vì tính chất bao quát của nó để đặt cho những chương trình rất nông cạn ở các khoa nhân văn. Các chương trình này đều phớt lờ thay vì đào sâu tri thức địa phương.” Emily Apter đã viết như thế khi bà tổng thuật quan điểm của những nhà phê bình công kích mạnh mẽ nhất ý niệm về văn học thế giới. Quá bao la để đọc và để phân tích một cách không hời hợt, những nhà phê bình này nhận định, văn học thế giới sẽ nuốt chửng tất cả những sắc thái và khác biệt: hoặc là nó “củng cố lại những liên minh các thiết chế văn chương cũ mang tính chất quốc gia, khu vực, dân tộc”; hoặc là nó phóng chiếu một hình ảnh có kích thước của hành tinh, phi quốc gia, hoàn toàn không chú ý gì đến những cấu trúc bề sâu của những mối liên đới mang tính chất quốc gia, dân tộc và những lợi ích kinh tế bao quanh ngành công nghiệp văn hóa quốc tế.”

Theo mô tả của Apter, người ta không thể nào “tập hợp và xây dựng khung chương trình trên cơ sở những nguồn tài nguyên văn học thế giới” một cách hợp lý; bất cứ những nỗ lực muốn làm việc trên “chiếc cân Gargantua” sẽ buộc phải trở lại với những chiến lược quen thuộc và mang tính hình thức vốn chỉ củng cố thêm chủ nghĩa vị chủng (ethnocentrism), thí dụ như đọc qua bản dịch, phụ thuộc vào những phạm trù quen thuộc như quốc gia, vùng miền, dân tộc,  hoặc vượt qua sự đa dạng bằng cách phớt lờ hay khỏa lấp những khác biệt. Emily Apter không phải không có lý khi bận tâm về chủ nghĩa bá quyền của Mỹ, nhưng phải chăng chính bà cũng đang bào chữa cho điều này khi nêu ra cán cân văn học thế giới như một vấn đề đặc biệt? Đối tượng nghiên cứu của chúng ta giờ đây lần đầu tiên bị nghi ngờ: phải chăng nó quá lớn để có thể hiểu về nó?

Hai lý thuyết gia khác về văn học thế giới là Eric Hayot và Franco Moretti lại nhìn thấy một chiều sâu và sự phong phú mang tính phê phán đầy hứa hẹn hơn là một sự phẳng dẹt trong chiếc cân khổng lồ của văn học thế giới. Hai cuốn sách mới của họ, On Literary Worlds (Về những thế giới văn chương) và Distant Reading (Đọc xa), xuất hiện gần như đồng thời với công trình của Apter. Cả ba nhà phê bình này đã tham gia vào một cuộc tranh luận về văn học thế giới vốn đã và vẫn diễn ra sôi nổi từ hơn chục năm qua. Một bên là những học giả như David Damrosch, người xem văn học thế giới như một cách để giải phóng nghiên cứu văn học ra khỏi tính chất tỉnh lẻ, địa phương (de-provincializing) của nó. Damrosch đề nghị ta chú ý đến nhiều con đường mà các văn bản vượt qua các biên giới để tiếp cận những công chúng mới[4]. Phía bên kia là những nhà phê bình như Gayatri Spivak, người đã tích cực tranh cãi để phản đối ngành văn học thế giới vì cho rằng việc đọc qua bản dịch sẽ làm mất đi tính đặc thù trong các thành ngữ và phong cách, do đó, sẽ gộp văn chương thế giới vào trong một thứ tiếng Anh dễ hiểu nhưng cũng dễ đánh lừa[5].

Tên cuốn sách của Apter, Against World Literature (Chống lại văn học thế giới), cho thấy bà chủ định mở một vòng tranh luận mới về đề tài này, nhưng trên thực tế, không nhiều trang trong cuốn sách mới của bà quan tâm đến văn học thế giới. Bà tập trung chủ yếu vào những trường hợp đặc biệt về sự dịch nhầm, sự bất khả của dịch thuật và những con đường lạ lùng mà văn học đi qua. Moretti, về phần mình, lại nhiệt tình chào đón việc mở ra ngành văn học thế giới kể từ năm 2000 và một số tiểu luận quan trọng của ông về đề tài này như “Conjectures on World Literature” (Những ước đoán về văn học thế giới), “More Conjectures” (Thêm những ước đoán) và “Evolution, World Systems, Weltliteratur” (Sự tiến hóa, Những hệ thống thế giới, Văn học thế giới) đã được tập hợp lại trong cuốn sách mới của ông, Distant Reading. Hayot, một tiếng nói đáng chú ý của ngành văn học so sánh, lĩnh vực vốn thường được xem như là đối thủ của văn học thế giới, lại mang đến một sự đóng góp mới, thú vị cho cuộc tranh luận này.

Hayot và Moretti rất khác nhau song đối với cả hai ông, sự mênh mông của văn học thế giới mang đến một cơ hội hơn là sự mất mát. Đó chính là điều kích thích một cách đặt vấn đề lại, một sự nghĩ lại về những hoạt động cơ bản của nghiên cứu văn chương: làm thế nào chúng ta đọc các văn bản ở một lĩnh vực rộng hơn bất cứ tri thức của một học giả đơn lẻ? Làm thế nào một bàn cân mới có thể giúp tổ chức lại những đối tượng nghiên cứu của chúng ta? Những gì cấu thành một tri thức đầy đủ về văn học? Cái gì mất đi trong trật tự cũ của lĩnh vực, những loại tri thức nào chỉ có thể có được khi chúng ta chuyển sang bàn cân thế giới?

Hayot cho rằng tất cả những nỗ lực mở rộng lĩnh vực này trước đó đều cho phép chúng ta cứ kể mãi câu chuyện của văn chương như thể Châu Âu luôn là khởi điểm và phần còn lại của thế giới luôn xuất hiện sau và chỉ mô phỏng lại châu Âu mà thôi. Đó là vì các phạm trù phân kỳ truyền thống luôn được tổ chức xung quanh những cách tân của châu Âu, như sự “phát hiện Tân Thế giới” hay sự trỗi dậy của tiểu thuyết. Cái khung của văn học thế giới có thể xem là sự dịch chuyển trọng điểm đầu tiên để có thể làm lung lay thói quen này, làm chúng ta thôi nhét một cách dễ dãi các văn bản vào trong bảng niên đại lấy châu Âu làm trung tâm. Hayot đề xuất những khoảng thời gian không thật sự quen thuộc – chẳng hạn, độ dài của tính hiện đại, một thế kỷ từ 1850 đến 1950 – để xem điều gì xảy ra với tri thức về văn chương của chúng ta nếu ta phân kỳ thời gian theo những cách thức mới.

Lời đề nghị của Moretti, giờ trở nên nổi tiếng, về một lối “đọc xa”, còn muốn làm lung lay học thuật truyền thống theo một cách còn kịch tính hơn. Trước thực tế mênh mông của văn học thế giới, ông kêu gọi một hình thức hợp tác mới giữa các học giả làm việc trong lĩnh vực văn học quốc gia. Ông bắt đầu sử dụng những phương pháp định lượng – gắn thẻ văn bản (text tagging), khai thác dữ liệu (data mining), thiết lập bản đồ – để nắm bắt một trường đối tượng quá rộng đối với bất cứ những học giả đơn lẻ nào làm việc với những thủ pháp, kỹ thuật truyền thống của lối đọc gần. Ông trình bày những phương pháp hữu hình hóa thông tin thay thế cho những luận điểm diễn dịch đã thành quy phạm: phác ra bản đồ sự phân phối toàn cầu các bộ phim hành động và hài kịch, xây dựng sơ đồ hình cây để theo dõi sự phát triển của các thể loại. Khi phân tích sự thay đổi của văn chương thông qua thuyết tiến hóa và rút ra lịch sử kinh tế từ việc nghiên cứu những hệ thống thế giới, Moretti đã giới thiệu một loạt những cách tiếp cận còn xa lạ để tìm hiểu văn học trên bàn cân mới rất khổng lồ này.

Những mô hình của Moretti đã không thuyết phục được nhiều nhà phê bình văn chương theo xu hướng ứng dụng lý thuyết. Chúng có vẻ quá trừu tượng đối với Joe Cleary và Natalie Melas, chúng quá loay hoay trong kho dữ liệu lớn đối với James English và Kathleen Fitzpatrick, chúng quá lệ thuộc vào một mô hình sinh học để miêu tả lịch sử văn hóa đối với Christopher Prendergast[6]. Những một điều có ý nghĩa lớn hơn cả những mô hình khoa học mà Moretti đề cao: đó là câu hỏi về cái gì có thể biết. Chúng ta thường nghĩ rằng các thời kỳ và các quốc gia đã chia cắt trường văn học thành những đơn vị tri thức dễ sử dụng, dễ thao túng, giúp cho các chuyên gia có thể đi sâu vào từng mảnh nhỏ. Apter rõ ràng mong mỏi đến một lúc nào đó, chúng ta có thể đắm mình vào cái mang bản sắc, lịch sử địa phương với sự am hiểu sâu sắc. Nhưng sự chú ý của Moretti đến bàn cân đồ sộ của văn học thế giới cho phép chúng ta hiểu rằng đây thực sự là một sự tưởng tượng kỳ vĩ. Các học giả truyền thống chưa bao giờ chú ý đầy đủ đến thực tế rằng các văn bản của chúng ta luôn luôn quá rộng lớn để một độc giả đơn lẻ có thể hiểu về chúng đầy đủ: “có ba vạn tiểu thuyết ở thế kỷ XIX hiện còn đó, nhưng cũng có đến bốn mươi, năm mươi, sáu mươi vạn tiểu thuyết không ai thật sự biết đến, không ai từng đọc chúng và sẽ đọc chúng.” Những kỹ thuật truyền thống của lối đọc gần chỉ đem đến cho chúng ta tri thức về một mẩu vụn bạc của lịch sử văn học – chưa đến 1% tiểu thuyết được viết ra ở một đất nước trong một thế kỷ. Nói tóm lại, chúng ta đã và vẫn cứ là những độc giả “hời hợt”, để dùng lại chữ của Apter, chỉ lướt qua bề mặt của hoạt động sản xuất văn chương – chúng ta chỉ có một nhúm văn bản đại diện cho toàn bộ những nền văn hóa của chúng ta.

Nếu chúng ta sẵn sàng thừa nhận rằng luôn một sự không biết, không nhận thức đầy đủ luôn quấy nhiễu những đối tượng của chúng ta thì ý niệm văn học thế giới, ít nhất, có ưu điểm ở chỗ nó có thể giải phóng chúng ta, cho phép ta nghĩ đến những sự sắp đặt mới.. Theo những cách rất riêng nào đó, những sự sắp đặt cũ làm méo mó hiểu biết của chúng ta về văn học. Gầ như suốt thế kỷ XX, cái khung quen thuộc nhất của nghiên cứu văn học là quốc gia, nó thường xuyên làm mờ đi những cách mà các văn bản du hành qua các biên giới  vào nhào nặn lại các nền văn hóa mà chúng gặp gỡ. Thí dụ, nhà viết kịch người Nauy, Henrik Ibsen, gây hấn đồng thời thu hút khán giả trên toàn thế giới, dẫn đến sự hình thành một lối viết kịch hoàn toàn mới ở Trung Hoa[7]. Hồi đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, đã  biến đổi truyện thơ Việt Nam bằng việc gắn nó với triết học và thi ca Trung Hoa. Và Toni Morrison đã viết cuốn tiểu thuyết Song of Solomon (1977) từ truyền thống nghệ thuật kể chuyện của châu Phi.[8] Như một quy ước, ta đọc Herman Meville và Emily Dickinson như là những nhà văn Mỹ quan trọng của thế kỷ XIX dù hầu như họ ít được biết đến đương thời, trong khi tác phẩm của Charles Dickens lại có được một lượng công chúng ở Mỹ nhiều hơn bất cứ tác giả Mỹ nào cùng thời[9]. Bertolt Brecht và Sergei Eisentein chắc sẽ đội mồ sống dậy nếu họ biết những kỹ thuật lạ hóa và montage của họ – vốn chủ ý được dùng để khích động cách mạng của giai cấp công nhân –  đã trở thành chiêu trò thường ngay trên sân khấu nhạc kịch Broadway và quảng cáo truyền hình một cách thành công như thế nào[10].

Những ví dụ đó khiến ta phải nghĩ lại về những truyền thống quốc gia, dân tộc. Chúng ta thường học văn học Pháp theo kiểu người ta có thể vạch một đường thẳng ngược từ Proust về Flaubert và Stendhal. Chúng ta học văn học Nga với quan niệm cho rằng sáng tác của Chekhov khởi nguồn từ Tolstoy và Pushkin. Chúng ta quên mất sự thực Proust đã đọc ngấu nghiến Dostovesky và Ruskin, Chekhov đã ngay lập tức say mê sân khấu khi ông xem trình diễn vở La Belle Hélène – vở operetta về Hy Lạp cổ đại được viết bằng tiếng Pháp của tác giả vốn sinh ra tại nước Đức, Jacques Offenbach[11].

Lối đọc và viết xuyên quốc gia xuất hiện như một quy tắc hơn là một ngoại lệ. Điều này không chỉ đúng đối với ý niệm tính hiện đại phương Tây. Các thi sĩ Ba Tư và Bengali tiếp nhận hình thức thơ ghazal của Arab thế kỷ XVI. Thể thơ này cuối cùng lại lan đến tận châu Âu và Bắc Mỹ, được Federico Garcia Lorca và Adrienne Rich, bên cạnh nhiều nhà thơ khác, tiếp thu[12]. Wai Chee Dimock đã biện luận cho một tập hợp những phương pháp mới trong nghiên cứu văn học mà theo bà, đó là những phương pháp hợp lý, công bằng đối với những hành trình xuyên quốc gia của văn chương. Bà đọc văn chương Mỹ “qua trục thời gian bề sâu” (across deep time), theo cách đọc ấy, nền văn học này mọc lên từ những lịch sử của sự viết đã có trước sự ra đời của quốc gia này từ rất lâu. Thí dụ,  bà đã theo dõi con đường mà tác phẩm viết bằng ngôn ngữ Sanskrit cổ đại – Bhagavad Gita – đã định hình nên Henry David Thoreau, để rồi những tiểu luận viết sau này của ông lại thôi thúc Mohandas Gandhi thời trẻ đọc lại Bhagavad Gita[13]. Ghandi sau này lại lập nên nhà xuất bản có thên Internation Printing Press, như Isabel Hofmeyr vừa cho ta biết thông tin, một nhà xuất bản đóng tại Nam Phi, khi đó, muốn vươn đến cộng đồng người đọc Ấn Độ trải khắp châu Phi, Ấn Độ, và vương quốc Anh. Nhà xuất bản này in những bản dịch và các sách in lại từ khắp nơi trên thế giới, trong đó gồm có các trích đoạn của Ruskin, Tolstoy và Thoreau; cuối cùng Ghandi lại có ảnh hưởng rất lớn đến Martin Luther King[14]. Sự ảnh hưởng, theo mô tả này, đã du hành từ Ấn Độ đến Hoa Kỳ, trở lại Ấn Độ, vòng quanh thế giới, rồi lại quay trở về Hoa Kỳ, để lại không chỉ một dấu ấn văn chương mà còn là một dấu ấn quan trọng về mặt địa chính trị trên đường đi.

Hãy nhớ rằng không một đối tượng nào của chúng ta – các nền văn hóa, các độc giả, các nhà văn – chỉ vừa vặn bên trong khung quốc gia, vậy thì tại sao chúng ta lại cứ luôn hình dung các quốc gia mới là những nguyên tắc tổ chức tốt nhất cho việc nghiên cứu văn học? Câu trả lời nhiều khả năng là bởi chủ nghĩa dân tộc về chính trị. Việc nghiên cứu văn học Anh, như Gauri Viswanathan đã đưa ra căn cứ, thực sự bắt đầu ở Ấn Độ như một cách nhằm đào tạo những người Ấn dưới thời thuộc địa của Anh trở thành những kẻ chấp nhận văn hóa Anh như là văn hóa thượng đẳng[15]. Tương tự, truyền thống văn chương Đức được thiết chế hóa ở thế kỷ XIX như là một cách giúp nước Đức cố kết lại trong một sự thống nhất về chính trị[16]. Đáp lại những luận điệu của Liên Xô những năm 1940-1950 khi cho rằng Hoa Kỳ là một quốc gia nông cạn và tôn thờ chủ nghĩa vật chất mà không có nền văn hóa nào thực sự là của mình, các nhà hoạch định chiến lược thời Chiến tranh lạnh đã tìm cách thiết lập nền văn hóa Mỹ như một vũ khí trong cuộc đấu tranh vì lương tâm và trí tuệ trên toàn thế giới[17].

Trước những nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc – mà sống động nhất chính là trường hợp nước Đức, hoàn toàn có lý khi ta nên chấm dứt sự ràng buộc của nghiên cứu văn chương vào những chương trình chính trị mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Song liệu chúng ta có thể tổ chức lại những đối tượng nghiên cứu của chúng ta để tránh nguy cơ rơi vào cơn ác mộng mà Apter lo ngại: chúng bị đồng hóa bởi chủ nghĩa bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ? Tôi nghĩ chúng ta có thể. Cuộc tranh luận giờ đây đang nổi lên giữa các học giả ngành văn học thế giới được bắt đầu với những câu hỏi về quyền lực chính trị toàn cầu, sự giàu có và bất bình đẳng; cuộc tranh luận ấy cứ liên tục phải trở lại vấn đề về những mối quan hệ của văn học với những điều kiện lịch sử vật chất – cách mà văn hóa được nhào nặn, định hình bởi các điều kiện chính trị, kinh tế như thế nào. Những học giả hào hứng đối với một ý niệm văn chương thế giới mở rộng, trương nở đã không ngừng đặt văn học trong mối liên hệ với hoạt động thương mại toàn cầu, họ chất vấn các cuốn sách thực chất đã dịch chuyển qua các biên giới như thế nào: chúng có lưu thông như những xe hàng chở kèm theo các loại gia vị, những nhà truyền giáo, những người nô lệ, hay thuốc phiện? Chúng được người ta mua, tái bản, mượn hay đánh cắp? Moretti đã lấy cái khung lịch sử kinh tế thế giới như là điểm xuất phát của mình và sử dụng các bản đồ kinh tế và địa chính trị để tổ chức công trình nghiên cứu văn học của mình. Những học giả khác quan tâm đến văn học thế giới, như B.Vekat Mani, tuy tránh xa lý thuyết về những hệ thống thế giới nhưng vẫn cố hướng sự chú ý của chúng ta đến những con đường vật chất mà văn học đi theo – những lối đi được hình thành bởi in ấn, buôn bán, lưu vong và xâm chiếm[18].

Hầu hết các học giả trong ngành văn học thế giới đều bắt đầu bằng việc từ chối tình toàn diện được mặc định là đúng đắn của quốc gia – một niềm tin dai dẳng rằng một nền văn hóa biểu đạt một dân tộc. Thay vào đó, họ đặt câu hỏi một văn bản cụ thể bắt đầu ở đâu, nó dịch chuyển thế nào, ai là người đã đọc nó. Họ đặt những câu hỏi về  những giá trị nào, những chương trình nghị sự nào đã thúc đẩy những quyết định dịch thuật những văn bản, đem chúng đến những công chúng mới. Và họ băn khoăn về việc những vận động văn hóa như thế bằng cách nào lại tạo ra hoặc củng cố sự bất bình đẳng toàn cầu đang ngày càng gia tăng. Không có động thái nào “củng cố lại những liên minh các thiết chế văn chương cũ mang tính chất quốc gia, khu vực, dân tộc” như Apter e sợ hay “không chú ý gì đến những cấu trúc bề sâu của những mối liên đới mang tính chất quốc gia, dân tộc và những lợi ích kinh tế bao quanh ngành công nghiệp văn hóa quốc tế”.

Một ngoại lệ thú vị trong cách đặt trọng điểm khi nghiên cứu các hành trình văn học là Hayot, người ít quan tâm đến việc theo dõi những sự dịch chuyển của các cuốn sách trên phạm vi toàn cầu hơn là những cách thức khác nhau, theo đó, văn học tưởng tượng, xác lập và lý thuyết hóa các thế giới. Điều này có vẻ như là sự rút đi tính chính trị nhưng thực ra Hayot đã đặt một câu hỏi có tính chất nền tảng, có khả năng làm thay đổi chính những thuật ngữ của bản thân cuộc tranh luận này. Ông nêu vấn đề, làm sao bất cứ ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến “ý niệm thế giới”? On Literary Worlds mời gọi chúng ta đi vào tìm hiểu nhiều chiến lược đa dạng mà qua đó các văn bản văn chương tạo nên các thế giới: một số mang đến những thế giới xã hội dày đặc những chi tiết hiện thực, những quan hệ giữa các nhân vật, các hoạt động; một số khác lại những lãnh địa dư thừa và tách biệt một cách chủ ý, những lựa chọn khác thay cho bất kỳ thế giới quen thuộc nào.

Luận điểm của Hayot thú vị, giàu sức gợi mở và tôi muốn đẩy vấn đề đi xa hơn một bước, không bó hẹp trong phạm vi chặt chẽ của văn chương, để chú ý đến một loạt những cách mà các lý thuyết gia về văn học thế giới đã hình dung, tưởng tượng về “thế giới”. Đối với Apter, nghĩ đến một thế giới mênh mông, được liên kết lại thành một thực thể đơn nhất đồng nghĩa với việc muốn nuốt chửng sự đa nguyên vào một “nền văn hóa độc canh (monoculture) du hành khắp thế giới và thấm hút mọi sự khác biệt”, đối với Moretti, “thế giới” là một hệ thống kinh tế hành tinh, “vừa là duy nhất, vừa không bình đẳng”, được tổ chức xung quanh một hạt nhân, vùng ngoại biên và bán ngoại biên; đối với Dimock, quan sát những nẻo đường toàn cầu được tạo ra qua nhiều thế kỷ cho phép ta thấy được sự hẹp hòi và tư tưởng tỉnh lẻ trong cách hiểu thông thường của chúng ta về truyền thống văn hóa. Có nhiều cách khác nhau để tưởng tượng về cách thế giới và Hayot là lý thuyết gia có thể giúp chúng ta một cách tốt nhất để thấy được cách lý thuyết hàn lâm về thế giới cạnh tranh nhau thực sự đã vận hành như thế nào.

Phương pháp của Hayot cũng có thể dẫn chúng ta ngược trở lại với những con đường vật chất. Theo ví dụ của ông, chúng ta có thể so sánh “thế giới” của Truyện Kiều, được sáng tác ở Việt Nam vào khoảng năm 1815 với những thế giới được hình dung bởi tác phẩm cùng thời với nó, như Emma của Jane Austen, tiểu thuyết Kính hoa duyên của nhà văn Trung Hoa Lý Nhữ Trân, những bài thơ theo thể ghazal viết bằng ngôn ngữ Urdu của thi sĩ Ấn Độ Ghalib, tác phẩm “Thư Jamaica” (lời kêu gọi thống nhất các quốc gia châu Mỹ Latin) của Simón Bolívar, những chuyện kể về thần Anansi[19] được những người nô lệ mang từ Tây Phi sang Đại Tây Dương. Tất cả những văn bản này đều trình bày ảnh hưởng của biến động lịch sử, tất cả đều hàm chứa những suy tư về những môi quan hệ giữa quyền lực và sự bất bình đẳng; tất cả đều thể hiện mối quan tâm đến những chuẩn mực về giới tính, tất cả đều xác lập những giá trị luân lý; và tất cả đều du hành qua các biên giới. Chúng cùng cho ta thấy “thế giới” đang được tưởng tượng như thế nào trên khắp thế giới tại cùng thời điểm. Và chúng ta hoàn toàn có thể so sánh những văn bản này một cách hiệu quả, theo mô hình của Hayot, bằng cách khảo sát, nghiên cứu những phương pháp hình thức khác nhau nhằm trình hiện các thế giới cho chúng ta.

Những cách tiếp cận văn chương thế giới, do đó, có ưu điểm ở chỗ chúng cho phép chúng ta bỏ qua chủ nghĩa dân tộc mà vẫn không lấy đi sự chú ý đến chính những mối quan hệ quyền lực thực sự đã định hình việc tạo lập và phát tán văn hóa. Song Apter lo ngại những điều này vẫn khuyến khích chúng ta dành thời gian để đọc qua bản dịch mà việc này, như bà lập luận, có thể dẫn đến việc đồng nhất hóa các nền văn học qua thời gian và không gian,  khiến người ta không tích cực học ngoại ngữ và làm cho khối độc giả Anh ngữ tự cô lập mình trong vỏ kén độc ngữ (monolingual). Theo Apter, ngành văn học thế giới đã thành công khi ủi phẳng đi tất cả những khác biệt ngôn ngữ trên thế giới thành một thứ tiếng Anh dễ tiếp cận, điều này khiến chúng ta không bao giờ “phải nghi ngờ ý niệm về hiệu quả của dịch thuật, về sự chiến thắng của bản thế, về việc có một cái gì đó giờ đây có thể vừa khít ở vị trí của một cái gì khác.”

Thế nhưng, nếu chỉ đọc tác phẩm bằng ngôn ngữ nguyên tác cũng sẽ giới hạn chính con đường của văn học, sẽ chặn cửa phần lớn sáng tác của thế giới đến với mình. Tôi có thể đọc một cuốn sách bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Italia hay tiếng Đức, những ngôn ngữ được đưa vào khung chương trình mà tôi được đào tạo, nhưng nếu tôi từ chối đọc bản dịch, tôi sẽ hoàn toàn vô tri trước những nền văn học khác – văn học Arab, Trung Hoa, Tây Ban Nha, Việt Nam, Sanskrit, Hy Lạp cổ đại và hàng ngàn nền văn học bằng những ngôn ngữ khác. Và thậm chí ngay cả kẻ biết nhiều thứ tiếng nhất cũng chẳng bao giờ học được nhiều hơn một phân số cực nhỏ so với số lượng ngôn ngữ có trên thế giới.

Và cũng không thể quả quyết những tác phẩm đến những thời gian, không gian xa xôi sẽ dễ dàng đem đến cảm giác về sự thân quen qua bản dịch. Những văn bản không giống nhau điểm nào như Gilgamesh Vụ án (Franz Kafka), ít nhất, đối với tôi và các sinh viên của tôi,  giống như những mời mọc đến những thế giới xa xôi hấp dẫn, với những quy tắc, những mối quan hệ quyền lực và địa lý lạ lẫm. Phần lớn những sự tưởng tượng thế giới này, để dùng lại thuật ngữ của Hayot, hoàn toàn có thể sống khỏe qua bản dịch. Và những thế giới văn chương không quen thuộc chính là một trong số những cách thức hiệu quả nhất để va chạm, tiếp xúc với những giá trị và những mong đợi lạ lẫm, bất ngờ. Văn chương qua dịch thuật, do đó, có thể thôi thúc chúng ta nghĩ lại, tưởng tượng lại những thế giới quen thuộc mà ta cứ chấp nhận nó như thể tất nhiên.

Trở lại năm 1834, Alexander Kinmont muốn nâng cao gu thẩm mỹ của độc giả bằng việc giới hạn danh sách sách đọc của họ. Tôi muốn làm điều ngược lại. Tôi muốn mở rộng gu của mình và của sinh viên mình dạy, thông qua việc tạo ra những tiếp xúc, gặp gỡ, va chạm với những tác phẩm gây ngạc nhiên, phức tạp và ấn tượng. Vì chỉ có 3% sách bán ở Hoa Kỳ là sách dịch từ những ngôn ngữ khác, nên khó có thể nói chúng ta đang có một nền văn hóa muốn nhấn chìm những thế giới khác. Xét về ý nghĩa chính trị, chẳng phải sẽ tốt hơn nếu ta bắt đầu thèm khát sự đa bội văn hóa? Học những ngôn ngữ mới là việc tốn thời gian và tiền bạc, một dự án trên thực tế giời chỉ giới hạn cho một nhóm đặc tuyển ít ỏi. Phải mất nhiều năm học dài học hành mới có thể đọc được trôi chảy những văn bản văn chương phức tạp bằng nguyên bản và đa phần sinh viên Mỹ đã bỏ cuộc từ lâu trước khi họ cảm thấy có bất cứ hứng thú gì trong việc này. Đọc văn học thế giới qua bản dịch trở thành một sự khởi đầu thực tế hơn và hứa hẹn hơn. Apter gọi ngành “văn học thế giới” là ngành mắc chứng cuồng ăn. Tôi thì lại muốn liên tưởng nó như một món khai vị: nó không thay thế cho món ăn chính ngon miệng, nhưng nó kích thích những nụ vị giác và làm chúng ta sẵn sàng trước những món chính hấp dẫn sắp được dọn ra. Trước hết, hãy xem liệu ta có thể nào khiến độc giả yêu cả The Popol Vuh[20] lẫn The Pillow Book[21] được không. Rồi sau đó có lẽ độc giả sẽ tự tìm cách hình thành cho mình một nhu cầu muốn nềm thử tiếp những thứ khác.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Caroline Levine, “For World Literature”, http://www.publicbooks.org/fiction/for-world-literature


[1] Alexander Kinmont, “The Classics: Report on the Question, ‘Ought the Classics to Constitute a Part of Education,’” in Transactions of the Fourth Annual Meeting of the Western Literary Institute and College of Professional Teachers (Josiah Drake, 1835), p. 170.

[2] Gerald Graff, Professing Literature: An Institutional History (1987; University of Chicago Press, 2007), pp. 124, 211

[3] Claudio Guillén, The Challenge of Comparative Literature, translated by Cola Franzen (Harvard University Press, 1993), p. 38.

[4] David Damrosch, What is World Literature? (Princeton University Press, 2003).

[5] Gayatri Chakravorty Spivak, Death of a Discipline (Columbia University Press, 2003).

[6] Joe Cleary, “The World-Literary System: Atlas and Epitaph,” Field Day Review, vol. 2 (2006); Natalie Melas, All the Difference in the World: Postcoloniality and the Ends of Comparison (Stanford University Press, 2007), pp. 33–34; James F. English, “Morettian Picaresque,” and Kathleen Fitzpatrick, “The Ends of Big Data,” Los Angeles Review of Books, June 27, 2013; Christopher Prendergast, “Evolution and Literary History: A Response to Franco Moretti,” New Left Review, no. 34 (July–August 2005).

[7] Chengzhou He, Henrik Ibsen and Modern Chinese Drama (Trondheim: Akademika Publishing, 2004).

[8] Nguyen Du, The Tale of Kieu, translated by Huynh Sanh Thong (Yale University Press, 1983), p. xxii. Gay Wilentz, “Civilizations Underneath: African Heritage as Cultural Discourse in Toni Morrison’s Song of Solomon,” in Toni Morrison’s Fiction: Contemporary Criticism (Garland, 2000), p. 112–14.

[9] Robert F. Selcer, Civil War America, 1850 to 1875 (Facts on File, 2006), p. 327.

[10] Jeremy G. Butler, Television: Critical Methods and Applications (Lawrence Erlbaum, 2007), p. 414; Stephen Banfield, Sondheim’s Broadway Musicals (University of Michigan Press, 1993), p. 39.

[11] William C. Carter, Proust: A Life (Yale University Press, 2000), pp. 79, 281, 285, 294, 746; James N. Loehlin, The Cambridge Introduction to Chekhov (Cambridge University Press, 2010), p. 4.

[12] Shahid Ali Agha, ed., Ravishing DisUnities: Real Ghazals in English (Wesleyan University Press, 2000), pp. 1, 11; Erik Martiny, “The Ghazal in North America,” in A Companion to Poetic Genre, edited by Erik Martiny (Wiley-Blackwell, 2012).

[13] Wai Chee Dimock, Through Other Continents: American Literature across Deep Time (Princeton University Press, 2006), p. 21.

[14] Isabel Hofmeyr, Gandhi’s Printing Press (Harvard University Press, 2013), pp. 5, 94; Thomas Weber, Gandhi as Disciple and Mentor (Cambridge University Press, 2004), p. 169.

[15] Gauri Viswanathan, Masks of Conquest: Literary Study and British Rule in India (Columbia University Press, 1989).

[16] Lee M. Roberts, Literary Nationalism and Japanese Germanistik (Peter Lang, 2010), p. 2.

[17] Frances Stonor Saunders, The Cultural Cold War (New Press, 2001); Joel Whitney, “Exclusive: The Paris Review, the Cold War and the CIA,” Salon, May 27, 2012; Michael Berube, Rhetorical Occasions (University of North Carolina Press, 2006), p. 130.

[18] See, for example, B. Venkat Mani, “Borrowing Privileges,” MLQ, vol. 74, no. 2 (2013).

[19] Anansi là vị thần trong văn học dân gian Tây Phi. Ông thường mang hình hài của một con nhện và được xem là vị thần của tất cả tri thức vè các câu chuyện.

[20] The Popol Vuh là tập hợp những chuyện kể lịch sử-huyền thoại của vương quốc K’iche’ thời hậu Cổ đại. Dấu tích của vương quốc này nay còn ở miên cao nguyên Guatemala.

[21] The Pillow Book (Chẩm thảo tử) là tác phẩm của Sei Shonagon (Nhật Bản), một thị nữ đã hầu hạ Hoàng hậu Teishi / Hoàng hậu Sadako vào khoảng năm 1000 giữa thời Heian. Tác phẩm này là một tuyển tập những danh mục, những chuyện ngồi lê đôi mách, các bài thơ, những lời bình phẩm, những thở than và bất kỳ thứ gì khác mà bà thấy hứng thú trong những năm tháng của bà ở trong cung.

Costica Bradatan – Tái sinh trong ngôn ngữ thứ hai

Tôi dịch tiểu luận này trước hết để góp bài cho chuyên đề nhỏ về nghiên cứu dịch thuật mà chúng tôi thực hiện trên blog này. Tuy cả bài viết này, chỉ có một lần tác giả nhắc đến trường hợp Beckett dịch các tác phẩm tiếng Pháp của ông sang tiếng Anh – ngôn ngữ vốn là tiếng mẹ đẻ của ông nhưng thiết nghĩ “dịch” chính là hành động tất yếu của những nhà văn đổi ngôn ngữ. Bài luận này có thể gợi ra những suy nghĩ xa hơn để nghiên cứu các hiện tượng văn chương lưu vong (diaspora), các hiện tượng đa văn hóa (multi-culturalism)…

Tác giả bài viết này qua email trao đổi với tôi cho biết chính ông cũng là một người phải đổi ngôn ngữ. Sinh ra và lớn lên tại Romania, Costica Bradatan chỉ thực sự bắt đầu học tiếng Anh khi hơn 20 tuổi. Bài luận vì thế hàm ẩn trong đó những trải nghiệm rất riêng tư của người viết, được biểu hiện ra bằng một lối viết thiên về trữ tình mà tôi thường thấy đồng cảm khi đọc các tác giả nước ngoài. Bài dịch này cũng làm tôi nghĩ đến một dự án nghiên cứu đã manh nha hình thành trong đầu tôi cách đây 5-6 năm, khi tôi cũng bắt đầu dịch những tác giả chỉ mới học và chuyển sang viết tiếng Anh từ lúc định cư ở Hoa Kỳ và đều xuất thân từ những nước có quá khứ cộng sản. Dự án cho đến bây giờ không thành hiện thực nhưng quả thực nó vẫn là một đề tài ám ảnh tôi.

Mặt khác, khi đọc bài viết này, thực ra, tôi thấy Costica Bradatan gợi những liên tưởng xa hơn về ngôn ngữ văn chương. Rằng ngay cả khi nhà văn không đổi ngôn ngữ, chỉ viết thứ tiếng mẹ đẻ của mình, thì sáng tạo văn chương vẫn đòi hỏi nhà văn có những lúc cần phải làm mình trở thành kẻ lạ trong chính ngôn ngữ thân thuộc ấy, phải dịch cái ngôn ngữ ấy thành một cái gì đó bất định hơn, vì nếu thiếu sự bất định ấy, ngôn ngữ văn chương sẽ trở nên xơ xác.

Costica Bradatan (ASU)*

Trong tác phẩm trình bày những suy ngẫm về đạo Thiên Chúa, “Bức thư gửi một linh mục” (Letter to a Priest) – tác phẩm được viết một năm trước khi tác giả qua đời vào năm 1943, Simone Weil đã đưa ra một nhận định đáng lưu ý “đối với bất kỳ người nào, việc đổi tôn giáo cũng là một điều nguy hiểm như việc đổi một ngôn ngữ đối với một nhà văn. Nó  có thể thành công song cũng có thể dẫn đến những hậu quả khốc hại.” Triết gia người Romani, Emil Cioran, người đồng thời cũng là một nhà văn, đã nói đến việc đổi ngôn ngữ như một sự kiện thảm họa trong tiểu sử của bất cứ tác giả nào. Và quả là đúng như thế.

Thế giới tự phát lộ chính nó theo một cách nào đấy đối với nhà văn Nhật Bản và theo một cách khác với một người viết bằng tiếng Phần Lan.

Khi bạn là nhà văn, bạn không làm việc trong sự trừu tượng mà luôn trong quan hệ với một ngôn ngữ nhất định. Viết tức là căm rễ vào trong ngôn ngữ ấy, càng trở thành nhà văn giỏi, cái rễ đó lại càng cắm sâu hơn. Những bậc thầy văn chương luôn cho thấy một khoái cảm khi được vùi sâu vào mảnh đất quen thuộc. Nói chung, nếu vì bất cứ lý do gì, nhà văn phải thay đổi ngôn ngữ, điều đó không khác nào việc anh ta bị đặt trước một mối đe dọa đối với chính sự sống của mình. Không chỉ là việc anh ta sẽ phải bắt đầu lại mọi thứ từ số không mà còn là ở chỗ anh không được làm những gì anh đã từng làm gần như trong suốt phần đời trước đó của mình. Việc đổi ngôn ngữ không dành cho những kẻ nhút nhát, cũng không dành cho những người thiếu kiên nhẫn.

Là một sự kiện đau đớn trong đời người, nếu nhìn một cách nghiêm ngặt, song kinh nghiệm này cũng có thể khơi gợi mạnh mẽ những suy tư triết học. Hiếm khi nào chúng ta lại có cơ hội quan sát một sự tái tạo bản ngã kịch tính hơn thế. Vì ngôn ngữ của một nhà văn, còn hơn cả một phương tiện biểu đạt đơn thuần, trên hết, là một phương thức tồn tại chủ quan và là một cách để trải nghiệm thế giới. Anh ta cần ngôn từ không chỉ để mô tả sự vật, mà để nhìn chúng. Thế giới tự phát lộ chính nó theo một cách nào đấy đối với nhà văn Nhật Bản và theo một cách khác với một người viết bằng tiếng Phần Lan. Ngôn ngữ của một nhà văn không chỉ là cái gì đó anh ta sử dụng mà là bộ phận cấu thành nên mà anh ta là. Đó là lý do tại sao việc phải bỏ rơi tiếng mẹ đẻ và chấp nhận một ngôn ngữ mới cũng có nghĩa là tự tháo dỡ bản thân, từng chút một, rồi sắp xếp lại bản ngã của mình trong một hình thức mới.

Đầu tiên, khi đổi ngôn ngữ, bạn phải chấp nhận đi xuống điểm không của sự tồn tại của chính mình. Thậm chí hẳn phải có một thời điểm, dẫu ngắn ngủi, bạn phải chấm dứt là chính bạn. Bạn vừa mới lìa bỏ thứ ngôn ngữ cũ và ngôn ngữ mới thì vẫn chưa chấp nhận bạn; giờ đây bạn ở trong tình trạng lấp lửng, giữa hai thế giới, chơi vơi trên vực thẳm. Sự thay đổi ngôn ngữ thường xảy ra khi nhà văn bị lưu đày hoặc tự lưu đày. Thế nhưng sự lưu đày trong không gian vật chất còn được nhân đôi trong những trường hợp mà chủ thể trải nghiệm sự lưu đày từ bản thể – sự tự cảm thấy mình ở bên mép rìa của đời sống. Cứ như thế, tại một thời điểm, nhà văn như đi giữa một sự trống rỗng – qua vết nứt hẹp giữa các ngôn ngữ, nới không có từ ngữ nào để nắm giữ và chẳng có gì có thể gọi được tên – bản ngã của nhà văn như không còn nữa. So sánh của Weil, ví trường hợp này với sự cải đạo, thực ra, hoàn toàn không cường điệu, vì cũng tương tự kẻ cải đạo, nhà văn đổi ngôn ngữ cũng phải trải qua kinh nghiệm của sự chết và tái sinh. Người ta chết đi và rồi trở lại như một con người mới. Nói như Cioran, “Khi tôi đổi ngôn ngữ, tôi xóa sổ quá khứ của mình, tôi biến đổi toàn bộ đời mình”.

Khi bắt đầu viết bằng thứ ngôn ngữ mới, thế giới như được khai sinh trước mắt nhà văn. Thế như sự tái sinh đặc biệt hơn cả chính là sự tái sinh của chính nhà văn. Đây là dự phóng kiến tạo lại tổng thể bản ngã, nơi không một hòn đá nào được ném trở lại, không có gì trông y nguyên như trước được nữa. Tiếng mẹ đẻ của ai – bản ngã trước kia của anh – dường như dần dần xa lạ với chính anh. Song điều này chẳng làm anh bận tâm nữa; trên thực tế, anh đợi đến lúc mình sẽ sử dụng nó như một thứ ngoại ngữ khác. Không lâu sau khi chuyển sang sử dụng tiếng Pháp, Beckett, một người Ai-len, đã than phiền về ngôn ngữ Anh, tiếng mẹ đẻ của ông: “Thứ ngôn ngữ khủng khiếp, mà giờ tôi vẫn còn biết về nó quá rõ.” Lời hứa hẹn về sự đổi mới toàn diện về bản thể đến cùng với một thứ ngôn ngữ mới không phải là điều thiếu chất kích thích.

Khi được tái sinh theo cách này, dường như nhiều khả năng được mở ra; anh được trao cho cơ hội để tái tạo lại mình theo bất kỳ hình dạng nào anh chọn. Anh là đấng sáng tạo của chính anh: nói theo cách nào đó, từ chỗ không gì cả, anh có thể trở thành mọi thứ. Năm 1954, khi được hỏi vì sao lại đổi ngôn ngữ, Beckett trả lời “vì muốn được trở kẻ thiếu trang bị” (need to be ill-equiped). Đó là một câu trả lời tinh quái vì nếu nghe thật chăm chú, ta sẽ nhận ra có một tham vọng hàm ẩn trong đó. Vì trong tiếng Pháp, ý muốn “trở thành kẻ thiếu trang bị” (d’être mal armé) nghe không khác lắm với ý muốn “trở thành một Mallarmé khác” (d’être Mallarmé). Bất cứ cái gì kém tầm hơn Mallarmé đều không đáng là tham vọng của một Beckett đang tìm kiếm một bản ngã mới. Cuối cùng, ông không trở thành Mallarmé, mà là Samuel Beckett, một tác giả Pháp ngữ với những tác phẩm như Molloy, Malone chết (Malone Dies) hay Chờ Godot (Waiting for Godot), điều đó có lẽ cũng thỏa mãn được tham vọng của ông. Nhưng cứ như thể vẫn chưa thấy mình hoàn toàn biến thành kẻ lạ khi đổi sang viết một ngôn ngữ mới, ông còn tự làm mình xa lạ hơn với chính bản thân ông bằng việc một lần nữa dịch tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của mình sang tiếng Anh. Ở đâu đó Beckett từng xác nhận rằng ông thích tiếng Pháp hơn vì nó cho phép ông viết “không cần phong cách”. Song viết “không cần phong cách” là một trong những phong cách viết khó theo đuổi nhất; thực sự người ta cần được trang bị đầy đủ.

Trở thành nhà văn viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình có lẽ là một điều tự nhiên. Đạt đến trình độ tự ý thức trong ngôn ngữ ấy, đồng hóa bản ngã của mình vào tiếng mẹ đẻ, nhà văn có cảm giác mình được đặt vào một vị thể hưởng nhiều ưu tiên: anh ta chỉ cần hoàn thiện những gì mình đã được nhận về. Nhưng cứ cho là vậy, một sự rèn luyện nghiêm khắc, ý thức kỷ luật và sự bền bỉ vẫn cần thiết; rốt cục, nghệ thuật là sự đối lập với tự nhiên. Tuy nhiên, dù bạn nhìn vấn đề này thế nào đi nữa, vẫn có một cảm giác rất rõ về sự liên tục và sự tiến triển mang tính chất hữu cơ trong quỹ đạo của một nhà văn viết bằng tiếng mẹ đẻ.

Trở thành nhà văn viết bằng thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình là điều không thuận theo tự nhiên; không có gì mang tính hữu cơ ở quá trình này, đó là một quá trình nhân tạo. Không có “những bản năng” ngôn ngữ dẫn lối cho bạn, các thiên thần hộ vệ của ngôn ngữ hiếm khi thì thầm vào tai bạn; bạn thực sự đơn độc. Nói như Cioran: “Khi viết bằng tiếng Romania, từ ngữ không độc lập với tôi. Ngay khi tôi viết bằng tiếng Pháp, tôi phải ý thức chọn từng từ. Tôi thấy chúng ở trước tôi, bên ngoài tôi, mỗi từ đứng ở vị trí của mình. Và tôi chọn chúng: nào, giờ ta sẽ lấy mi, rồi đến mi.”

Nhiều người khi chuyển sang viết một ngôn ngữ thứ hai đã hình thành một sự nhạy bén đặc biệt về ngôn ngữ. Trong một bài trả lời phỏng vấn năm 1979, bảy năm sau khi chuyển từ nước Nga quê hương sang định cư tại Mỹ, Joseph Brodsky đã nói về “mối tình” đang tiến triển của ông với tiếng Anh. Ngôn ngữ là một sự hiện hữu gây choáng ngợp đối với những người lựa chọn như vậy đến nỗi nó dẫn đến việc họ cấu trúc nên những tiểu sử mới cho mình. “Tiếng Anh là thứ thú vị duy nhất còn lại trong đời tôi,” Brodsky nói. Ban đầu, nhu cầu tìm kiếm từ ngữ phù hợp nhất giống như một mối quan tâm, rồi điều đó chuyển thành một nỗi ám ảnh, và cuối cùng trở thành một cách sống. Những nhà văn này nổi trội trong cách ứng xử với điều vạn bất đắc dĩ này: từ nhu cầu muốn hiểu một ngôn ngữ mới, họ trở thành những kẻ bị ngôn ngữ ám; từ chỗ quan tâm đến việc nói sao cho đúng, họ bắt buộc trở thành những nhà ngữ pháp học.

Khi rời sang Pháp ở tuổi 26, thực sự Cioran chưa thực sự thành thạo ngôn ngữ này thế nhưng cuối cùng chính ông lại một trong những nhà phong cách học vĩ đại nhất của văn chương Pháp ngữ. Tương tự, Joseph Conrad học tiếng Anh tương đối muộn nhưng điều đó đã không thể ngăn ông trở thành một trong những đại diện tinh thế nhất của ngôn ngữ này. Vladimir Nabokov chắc chắn cũng là một đại diện tiêu biểu nữa, dù ông bắt đầu học tiếng Anh từ khá sớm. Vẫn là mô hình ấy lặp lại liên tục: mọi thứ hình thành từ không gì cả, từ tình trạng ngắc ngứ, không biết gì đến chỗ trở thành người sáng tạo nên một lối diễn đạt tinh tế nhất.

Đến đoạn kết tiểu thuyết Farenheit 451 của Ray Bradbury, độc giả bắt gặp một điều mà ý nghĩa của nó còn vượt quá khuôn khổ câu chuyện. Đó là cảnh nhân vật Montague gặp những “người sách”. Trong một thế giới nơi sách in bị cấm, họ dành cả đời mình để bảo tồn những “cuốn sách vĩ đại” của nhân loại, mỗi người từ ràng buộc ký ức của mình với một cuốn sách và cả cuộc đời, họ chỉ làm việc diễn ngâm cuốn sách ấy. Họ là những văn bản sống, là hiện thân của ngôn ngữ – những nhân vật ấy. Ngoài việc những kiệt tác đó trú ngụ trong họ, con người của họ không có ý nghĩa gì nhiều nữa. Thân thể của họ chỉ nhỏ bằng trang giấy in của cuốn sách. Nói theo cách nào đó, một nhà văn đổi ngôn ngữ cũng không khác nhiều lắm với những nhân vật này. Kết quả là, vì bắt buộc phải bận tâm vì độ chính xác của ngôn ngữ và sự hoàn thiện của phong cách, một quá trình giống như thuộc địa hóa đã xảy ra: ngôn ngữ thẩm thấu tất cả các chi tiết của cuộc đời nhà văn, nó thấm nhuần và nhào nặn lại cuộc đời ấy, nó khẳng định sự thống trị của mình lên cuộc đời của nhà văn – nó chiếm đoạt anh ta. Bản ngã của nhà văn giờ phải chịu sự chiếm giữ của một quyền lực xâm lấn: từ chính sự viết của anh ta trong một ngôn ngữ mới.

Hiểu theo nghĩa nhất định, cũng có thể cho rằng, rốt cục, anh đâu có thật sự thay đổi ngôn ngữ: mà chính là ngôn ngữ thay đổi anh. Ở một cấp độ sâu hơn, cá nhân hơn, viết văn bằng một ngôn ngữ khác có một phẩm chất biểu hành rất đặc thù: khi anh viết một điều gì đó xảy ra với mình thì ngôn ngữ đồng thời sẽ tác động lên anh. Cuốn sách anh viết cuối cùng sẽ viết lại chính anh. Kết quả này giống như một quá trình “biến thành ma” (ghostification). Vì đổi một ngôn ngữ, đối với nhà văn, cũng có nghĩa là trải qua một quá trình phi vật chất hóa: trước khi anh nhận ra điều này, anh chỉ có thể là ngôn ngữ, chứ không phải cái gì khác. Bỗng một ngày, một trực giác nào đó bắt đầu xuất hiện trong bạn, nói cụ thể hơn, nó nói với anh, rằng anh không còn được hình thành nên chủ yếu từ xương thịt nữa, mà từ những dòng, những vần, những thủ pháp tu từ, những mô thức tự sự. Cũng như những “người sách”, anh chẳng là gì hơn những văn bản trú ngụ trong anh. Thay vì là những người đàn ông, đàn bà bằng xương bằng thịt, giờ đây anh là phần da thịt của bản thân ngôn ngữ, là một dự phóng văn chương, rất giống với những cuốn sách mà anh viết. Nhà văn, người đổi ngôn ngữ, thực sự là một nhà văn “ma” – người duy nhất xứng đáng với cái tên ấy.

Trải qua những điều này, trải qua đớn đau của sự thay đổi ngôn ngữ, trải qua những nghi thức chết –tái sinh, đôi khi anh được trao cho – một thứ giống như phần thưởng – một khả năng thấu thị siêu hình về một cái đẹp lạ lùng, man dại. Chính ý niệm này khiến ta có thể nghĩ thế giới này chẳng là gì khác hơn một câu chuyện đang hình thành và chúng ta, những kẻ trú ngụ trong đó, chẳng là gì khác hơn những nhân vật của câu chuyện ấy. Những nhân vật đi tìm tác giả của mình. Quả đúng là thế đó.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, “Born Again in a Second Language”, http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/08/04/born-again-in-a-second-language/