
Costica Bradatan – Điện ảnh như một thực hành triết học

Đúng hơn, đây là một “bài tập” của tôi. Mà quả thực, khi viết xong, đọc lại, tôi thấy mình viết như trả bài vậy. Cách đây cũng một hai tháng, tôi nhận được email của một bạn SV nhắc tôi nhớ một lời tôi đã hứa trên lớp khi dạy học phần đại cương nghệ thuật học, rằng tôi sẽ cố gắng giới thiệu những gì tôi thấy hay, tôi thấy thú vị trên blog này để chia sẻ cùng các bạn, mong các bạn có thể cùng tìm xem-nghe-đọc và có sự trao đổi. Rồi tôi quên. Không phải vì tôi không thấy cái gì hay mà vì tôi lười. Tôi cảm thấy viết rất khó-Tôi mới ngộ ra chính ra nghề dạy văn này, đến một giai đoạn, khi công việc thành thói quen, viết lách cũng là việc dễ làm người ta ngại ngần. Rồi tôi ngại viết, vì post lên blog, đối diện với một khối công chúng vô hình nhưng luôn hiểu biết hơn mình, thông minh hơn mình, và do đó, đương nhiên luôn nghiệt ngã, viết như thế cũng dễ mệt. Cũng vì tôi hoài nghi sinh viên nhiều; tôi cảm thấy sự giao tiếp giữa tôi với các bạn là một khoảng cách nào đó ngày càng lớn…
Nhưng nhân email của bạn SV này, tôi quyết định làm “bài tập”, coi như để chống lại bệnh ngại viết của mình. Tôi sẽ cố gắng ghi lại ở đây những gì tôi cảm thấy ấn tượng nhất, làm nhận thức của tôi trở nên bất ổn nhất khi xem-nghe-đọc… Post lên blog này cũng là một cách để tôi có thể làm việc kỷ luật. Vậy là tôi bắt đầu bằng bộ phim mà tôi đã xem lại đến 3 lần trong thời gian gần đây – Once Upon A Time In Anatolia (2011) của đạo diễn Thổ Nhĩ Kỳ Nuri Bilge Ceylan
*
Once Upon A Time in Anatolia làm tôi liên tưởng đến những truyện ngắn của Ernest Hemingway. Nguyên tắc tảng băng trôi mà Hemingway áp dụng khi viết văn rất gần với cách mà Nuri Bilge Ceylan kể chuyện trong bộ phim này: hầu như ông không giải thích gì hết, những gì thấy trên màn ảnh chỉ thấp thoáng như những mỏm băng. Ông chỉ để lại thật nhiều những khoảng trống, khoảng lặng khiến người xem phải rất kiên nhẫn để theo dõi bộ phim và thậm chí có thể bực mình khi bộ phim bắt đầu bằng hành trình đi tìm sự thật, vậy mà kết phim chỉ là một sự bí ẩn nữa chồng lên. Những đối thoại nhiều lúc rời rạc, bâng quơ, ngập ngừng, tản mạn… đòi hỏi phải chú ý thật kỹ mới có thể tìm thấy những đường dây móc nối lại với nhau. Once Upon A Time…, theo nghĩa này, là một tác phẩm mở thực sự: người thưởng thức phải chơi với rất nhiều khoảng trống, khoảng lặng mà bộ phim bỏ ngỏ lại. Và đó cũng là một bộ phim đậm tính thơ: những khuôn hình duy mỹ với cách xử lý ánh sáng tuyệt vời, những hình ảnh tưởng chừng như vu vơ, không thông điệp gì cả: trái táo dại lăn từ từ trên dòng nước, những đám lá bay lả tả trong gió mạnh, cánh đồng gợn lên xào xạc trên nền những tiếng nói rì rầm trong đêm… Những hình ảnh ấy phần nào đó giống như những cụm từ, những cách diễn đạt trong bài thơ, chỉ cốt gợi cảm, gợi dư âm, không nhất thiết phải biểu ý gì cả: chúng mang giá trị thẩm mỹ tự thân.
Once Upon A Time… không phải là bộ phim có kết cấu phứ c tạp: không hồi cố, không phân tuyến, mạch tự sự của bộ phim chỉ thuần túy tuyến tính. Từ cốt truyện chủ đạo về một vụ giết người mà ở đây, các nguyên nhân, các động cơ dẫn đến việc thủ phạm chôn sống người bạn của mình không được tô đậm, chỉ được nhắc đến thoáng qua, và chủ yếu vẫn còn tồn tại như những nghi vấn hơn là khẳng định, qua những đối thoại giữa các nhân vật, những chuyện đời khác được mở ra, mỗi câu chuyện đều hàm chứa một bí ẩn. Con người sẽ đối diện như thế nào khi bí ẩn của đời mình được phơi bày, chỉ còn một sự thật trần trụi mà anh ta không thể né tránh? Kenan – kẻ sát nhân trong phim đã giết chết người bạn của hắn khi biết đứa con của người bạn kia thực chất chính là con trai hắn, và để rồi, đi đến sự đau khổ cùng cực khi bị chính đứa con ấy ném đá vào mình. Nhân vật công tố viên dường như ngộ ra sự thật bấy lâu bị phủ lên một lớp màn mơ hồ, hư ảo về cái chết tự định đoạt, tưởng như không vì lý do nào cả của một thiếu phụ (nhiều khả năng chính là vợ của ông), hóa ra lại là một sự trừng phạt, sự không tha thứ đối với người đàn ông của mình. Và nhân vật người bác sĩ pháp y cô độc, không vợ con, nhân vật mà suốt bộ phim chỉ độc diễn một vẻ im lặng, lãnh đạm với tất thảy, hóa ra lại cũng là người chạy trốn quá khứ, rất có thể chính ông cũng có con, cho dù ngay từ đầu câu chuyện, ông đã phủ nhận điều này. Lời tâm sự của viên cảnh sát trưởng mỏi mệt, người phải nuôi đứa con dường như mắc chứng tự kỷ, rằng trong mọi sự, trẻ con thường lại là kẻ phải trả giá cho những dục vọng, toan tính, lỗi lầm của người lớn có lẽ là một nguyên nhân khiến người bác sĩ này đi đến quyết định không đi đến cùng việc bóc trần sự thật nữa. Sự thật có nhiều ý nghĩa chăng khi chính sự tàn nhẫn của nó lại làm tổn thương trước tiên và nhiều nhất đến đứa con?
Nhưng ngay cả khi đó, Nuri Bilge Ceylan cũng chối từ trả lời, đẩy bộ phim vào trong trạng thái mà có thể dùng chữ của Milan Kundera để diễn tả – “hiền minh lưỡng lự” bằng một chi tiết đầy ám ảnh: máu từ thi thể nạn nhân bắn lên má của nhân vật bác sĩ và anh ta không lau sạch hết được. Chi tiết này hẳn có sự móc xích nào đó với vết máu trên trán của Kenan do bị đứa con của nạn nhân và đồng thời cũng có thể là con đẻ của chính mình ném đá. Giấu đi sự thật, rằng người có thể là cha đẻ của đứa bé đã giết người cha nuôi của nó bằng một cách thức độc ác đến tột cùng – chôn sống, có phải đấy là cách để không làm tổn thương nó nhiều hơn? Mà thật sự rồi có sự thật nào chôn vùi được mãi?
Thế giới trong Once Upon A Time… là một thế giới mệt mỏi, nặng nhọc và dễ tổn thương. Nhưng cái đọng lại với cá nhân tôi khi xem bộ phim này lại là cảm giác về sự tồn tại của cao cả bên trên tất cả hiện thực tàn nhẫn và mòn mỏi. Khoảnh khắc có tính chất đột biến của bộ phim cũng là một trong những cảnh quay đẹp nhất, ám ảnh nhất là khuôn mặt thánh thiện, trong sáng của cô con gái ông trưởng thôn hiện lên qua ánh đèn dầu. Vẻ thánh thiện, trong sáng đó khiến tất cả các nhân vật đang trong lúc mệt mỏi, chán nản, muốn buông xuôi nhất xao động, làm cho kẻ sát nhân bàng hoàng để rồi day dứt vì tội ác mình đã gây ra. Chi tiết này không khỏi làm tôi gợi nhớ đến “Thảo Nguyên” hay “Hai người đẹp” của Anton Chekhov. Dẫu rằng cái đẹp đó rồi cũng sớm lụi tàn, phôi pha giữa cái thực tại trì đọng, chán nản này thì ít nhất, trong khoảnh khắc, nó đã mang ý nghĩa cứu rỗi. Cảm thức cao cả còn được gợi lên cái bao la, mênh mông và im lặng trong phim. Cái im lặng như thể nó biết hết và cũng hiểu hết tất cả những tội lỗi, khổ đau cùng những bí mật con người cố chôn vùi…
Là âm nhạc? Là phim? Là tự sự? Là thi ca?… Không có cái gì minh họa cho cái gì. Không có cái gì át đi cái gì. Có lẽ tất cả hội tu lại trong tác phẩm này: những khuôn hình, góc máy, giai điệu, những cung bậc xúc cảm… mọi thứ đều được dẫn dắt vừa logic, vừa mê hoặc. Và tôi cũng chỉ có thể nói được đến vậy. Bởi cái gọi là mỹ cảm dường như luôn khiến cho ngôn từ của chúng ta tự thấy được giới hạn của mình.