Tag Archives: hải ngọc

Octavio Paz – Thơ gọi tên điều gì?

levitan97

Thơ vốn thường được ví với chủ nghĩa thần bí và chủ nghĩa khiêu dâm (eroticism). Sự tương đồng giữa chúng là rõ ràng; sự khác biệt giữa chúng không kém phần hiển nhiên. Khác biệt đầu tiên, cũng là sự khác biệt quan trọng nhất của những khác biệt này là ý nghĩa, hay đúng hơn, là đối tượng của thơ ca, tức điều mà thi sĩ gọi tên. Kinh nghiệm thần bí – bao gồm cả kinh nghiệm của những giáo phái vô thần như Phật giáo nguyên thủy hay đạo Tantra – là sự kiếm tìm mối liên lạc với với một điều thiện siêu nghiệm. Đối tượng của hoạt động thi ca về bản chất là ngôn ngữ: dù cho tín ngưỡng hay đức tin của là thơ nhà gì đi nữa thì anh ta bận tâm với ngôn ngữ hơn là những gì mà thứ ngôn từ này chỉ định. Điều này không có nghĩa thế giới thi ca thiếu vắng ý nghĩa hay ý nghĩa của nó chỉ mang tính chất ngoại biên. Tôi chỉ đơn giản muốn nói rằng: trong thơ, ý nghĩa là thứ không thể tách rời ngôn từ, trong khi đó ở lời nói hàng ngày, thậm chí ngay trong diễn ngôn của cái thần bí, ý nghĩa nằm trong cái mà ngôn từ quy chiếu đến, ở một cái gì đó bên ngoài ngôn ngữ. Kinh nghiệm của nhà thơ, trên tất cả, là kinh nghiệm ngôn từ; trong thơ ca, mọi kinh nghiệm đều ngay lập tức mang đặc điểm của kinh nghiệm ngôn từ. Điều này đúng với các thi sĩ ở mọi thời đại, song kể từ chủ nghĩa lãng mạn, mối bận tâm về ngôn từ này trở thành điều mà ta có thể gọi là ý thức thi pháp (poetic consciousness), một thái độ ít được chú ý trong truyền thống cổ điển. Các thi sĩ ở những thời đại trước đó cũng ý thức rất sắc sảo về giá trị của từ ngữ không kém các thi sĩ hiện đại nhưng họ kém nhạy cảm hơn về vấn đề ý nghĩa. Thi pháp thần bí (hermeticism) của Góngora không hàm ẩn sự phê bình ý nghĩa trong khi đó thi pháp của Mallarmé hay Joyce trước hết là sự phê bình và đôi khi còn là sự phá hủy ý nghĩa. Thơ hiện đại không tách rời sự phê bình ý nghĩa., điều này, đến lượt mình, lại trở thành hình thức triệt để nhất, khốc liệt nhất của sự phê phán hiện thực. Ngôn ngữ giờ đây chiếm lĩnh vị trí vốn từng bị chiếm lĩnh bởi các thần linh hay một thực thể, thực tại bên ngoài nào đó. Bài thơ không quy chiếu đến bất cứ thứ gì khác ngoài chính nó; cái mà một từ quy chiếu là một từ khác. Ý nghĩa không cư trú bên ngoài bài thơ mà ở bên trong nó; không nằm trong những gì từ ngữ nói mà trong những gì từ ngữ nói với nhau.

Không thể đọc Góngora và Mallarmé, Donne và Rimbaud theo cùng một cách. Cái khó của thơ Góngora là cái khó ngoại hiện: đó là cái khó của ngữ pháp, của ngôn ngữ họ, của các huyền thoại. Thơ Góngora không mờ tối; nó  phức tạp. Cú pháp thơ của ông rất bất thường, có những điển tích huyền thoại và lịch sử phủ trùm lên, ý nghĩa của mỗi cụm từ rất mơ hồ. Song một khi những vấn đề rắc rối và những sự bí ẩn quấy rầy này được giải quyết, ý nghĩa của bài thơ lại trở nên rõ ràng. Điều này cũng đúng với Donne, một thi sĩ khó hiểu không kém Góngora, người viết với một bút pháp thậm chí còn rậm rạp hơn. Sự khó hiểu của thơ Donne là sự khó hiểu về ngôn ngữ, trí tuệ và thần học. Nhưng khi độc giả tìm được chìa khóa, bài thơ sẽ mở toang như một hòm thánh. Những bài thơ hay nhất của Donne đều thể hiện nỗi nghịch lý giữa dục cảm, trí tuệ và tôn giáo. Ở hai nhà thơ này, những quy chiếu đều gắn với những gì bên ngoài bài thơ: thiên nhiên, xã hội, nghệ thuật, huyền thoại, thần học. Thi sĩ nói bằng con mắt của Polyphemus, sự trắng muốt của Galatea, nỗi sợ hãi cái chết, sự hiện hữu của một thiếu nữ. Trong những tác phẩm chính của Rimbaud, thái độ thơ ca đã hoàn toàn khác. Trước hết, thơ Rimbaud là sự phê phán hiện thực cùng những “giá trị” nâng đỡ hay biện chính cho nó: Thiên chúa giáo, luân lý, cái đẹp; thứ hai, đó là một nỗ lực đặt những nền tảng cho một hiện thực mới: một tình bằng hữu kiểu mới, một chủ nghĩa khiêu dâm kiểu mới, một con người mới. Tất cả điều này trở thành sứ mệnh của thi ca, “thuật giả kim của Ngôn từ”. Mallarmé còn nghiêm ngặt hơn. Tác phẩm của ông – nếu đây quả là từ phù hợp để gọi mấy ký hiệu để lại trên những trang bản thảo, những dấu vết của một cuộc thám hiểm vô tiền khoáng hậu và một vụ đắm tàu – là một cái gì đó còn hơn cả một sự phê bình và phủ định hiện thực: nó là mặt tương ứng của tồn tại (being). Ngôn từ là mặt tương ứng của hiện thực: không phải hư vô mà là Ý niệm, là ký hiệu thuần khiết không quy chiếu về bất cứ cái gì cả, nó không phải là tồn tại, cũng không phải là phi tồn tại. “Sân khấu của tinh thần” – Tác phẩm của Ngôn từ đó – không những là bản song trùng của vũ trụ: nó là một hiện thực đích thực. Ở tác phẩm của Rimbaud và Mallarmé, ngôn ngữ quy chiếu lại chính bản thân nó, nó không còn làm công việc chỉ định, biểu thị, nó không phải biểu tượng của, cũng không quy chiếu đến, những hiện thực bên ngoài, dù đó là những khách thể vật lý hay khách thể siêu cảm giác. Đối với Góngora, cái bàn là một “cây thông vuông”; với Donne, Chúa Ba ngôi là “hài cốt đối với triết học nhưng là sữa đối với đức tin”. Rimbaud không nhắm đến thế giới này, đúng hơn, ông hướng đến Ngôn từ mà thế giới này trụ trên đó:

Đã tìm thấy rồi!

Gì kia? Sự vĩnh cửu.

Là biển trải đến vô cùng

Dưới mặt trời.

Sự khó hiểu của thơ hiện đại không nảy sinh từ độ phức tạp của nó – Rimbaud giản dị hơn nhiều so với Góngora hay Donne – mà đúng hơn từ chỗ, giống như kinh nghiệm thần bí hay ái tình, nó đòi hỏi một sự từ bỏ tất cả (và đồng thời, tương ứng với điều này, là sự cảnh giác tất cả). Nếu ngôn từ của bài thơ không hề tối tăm, vậy thì tôi cho rằng sự khó hiểu này không phải mang bản chất trí tuệ mà mang bản chất đạo đức. Đó là một kinh nghiệm hàm ẩn sự phủ định thế giới bên ngoài, dù đó là một thế giới lâm thời, như một suy tư triết học. Nói ngắn gọn, thơ hiện đại là một nỗ lực phủ định tất cả những ý nghĩa mang tính quy ước vì thơ ca, bản thân nó, đã trở thành ý nghĩa tối hậu của đời sống và của con người; do đó, nó cùng lúc là sự phá hủy và sáng tạo ngôn ngữ – đó là sự phá hủy ngôn từ và ý nghĩa, lãnh địa của sự im lặng, nhưng đồng thời, đó cũng là hành trình ngôn từ đi tìm Ngôn ngữ. Những kẻ khinh miệt cuộc kiếm tìm này, xem đó như là “sự điên rồ tột bậc” thì nhiều vô kể. Thế nhưng, trong suốt hơn một thế kỷ qua, vẫn có một vài kẻ đơn độc, trong số đó có những người cao quý nhất, tài năng nhất của nhân loại kể từ khi hiện diện trên mặt đất này, đã không ngần ngại dành cả đời mình để đeo đuổi sứ mệnh phi lý này.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Octavio Paz, “What Does Poetry Name?”, in trong Alternating Current, bản dịch Anh văn của Helen Lane, NY: Arcade Publishing 1990, trang 3-5.

Joseph Brodsky – Để đọc một cuốn sách

Ảnh

(Bài nói chuyện tại lễ khai mạc hội chợ sách Turin (Italy) lần thứ I, tháng 5-1989)

Ý tưởng về một hội chợ sách ở thành phố nơi cách đây một thế kỷ, Nietzsche đã bị mất trí nhớ, đến lượt nó, tạo thành một vòng tròn tuyệt đẹp. Điều này giống như một dải Mobius (thường được hiểu nhiều hơn như là một vòng luẩn quẩn) vì một vài gian hàng tại hội chợ sách này có trưng bày toàn tập hoặc tuyển tập tác phẩm của tác gia người Đức vĩ đại này. Nhìn chung, sự vô hạn là một phương diện hoàn toàn có thể cảm thấy được trực tiếp của ngành xuất bản vì nó mở rộng sự hiện hữu của một tác giả quá cố vượt ra bên ngoài những giới hạn mà ông ta hình dung được cũng như có thể cung cấp cho một tác giả còn đang sống một tương lai mà tất cả chúng ta đều muốn xem nó như là bất tận.

Nói chung, sự hữu hạn của đời sách thực ra nào bằng sự hữu hạn của đời người. Thậm chí những cuốn sách tệ nhất cũng sống lâu hơn tác giả của chúng – chủ yếu vì chúng chiếm một ví trí nhỏ hơn trong không gian vật chất so với người viết ra chúng. Thường thì chúng ngồi trên giá sách phủ bụi trong khi bản thân tác giả thì đã biến thành một nắm bụi. Thế nhưng ngay cả hình thức của tương lai này vẫn còn khả dĩ hơn ký ức của vài họ hàng, bạn bè còn sống, thứ ký ức người ta không thể tin cậy được và thường thì chính sự thèm muốn về đời sống sau khi chết này đã thôi thúc người ta cầm bút.

Vì thế, khi chúng ta loay hoay với những vật thể hình chữ nhật này trong tay-những cuốn sách khổ mười, khổ bốn, khổ 12, v.v…- chúng ta không sai lầm đâu nếu nghĩ rằng mình đang mơn trớn trên tay, nói theo cách nào đó, cái bình tro thật sự hay tiềm năng của thân phận trở về cát bụi của mình. Rút cục, cái đi vào sự viết một cuốn sách – dù đó là tiểu thuyết, một luận văn triết học, một tuyển tập thơ, một cuốn tự truyện, một tác phẩm có nội dung giật gân – cuối cùng cũng vẫn chỉ là cuộc đời duy nhất của một con người: dù tốt dù xấu nhưng bao giờ cũng hữu hạn. Ai đó đã nói rằng triết lý hóa là cách tập chết – người đó nói đúng theo nhiều nghĩa, vì chẳng có ai trở nên trẻ hơn bằng việc viết một cuốn sách cả.

Cũng chẳng có ai trở nên trẻ hơn bằng việc đọc một cuốn sách. Chính vì thế, một cách tự nhiên, chúng ta thiên vị hơn cho những cuốn sách hay. Song nghịch lý nằm ở chỗ, trong văn chương, cũng như ở hầu hết mọi chỗ khác, “hay” không phải là một phạm trù tự trị: nó được xác định trong sự phân biệt với cái “dở”. Hơn thế, để viết một cuốn sách hay, một nhà văn hẳn phải đọc một lượng kha khá những cuốn sách tầm thường – nếu không anh ta sẽ không thể hình thành được sự phê phán cần thiết. Điều này có thể trở thành lời biện hộ tốt nhất của thứ văn chương dở trong ngày Phán xử cuối cùng; đấy cũng là lý do của buổi lễ mà chúng ta tham gia ngày hôm nay.

Vì chúng ta ai rồi cũng chết, và vì đọc sách là tiêu tốn thời gian, chúng ta phải nghĩ ra một hệ thống cho phép ta có được một thứ giống như sự tiết kiệm. Tất nhiên, có lý do nào để chối từ khoái cảm được ngủ đông trong một cuốn tiểu thuyết xoàng dày dặn, chậm rãi; song chúng ta đều biết mình chỉ có thể phép thỏa mãn bản thân đến mức đó mà thôi. Cuối cùng thì  ta đọc không phải chỉ để đọc mà để biết, để học. Do đó mà nảy sinh nhu cầu về sự giản lược, cô đọng, pha trộn – về những tác phẩm đem những tình thế phức tạp, khó khăn của con người, với tất cả sự đa dạng của chúng, vào một tiêu điểm có thể quan sát rõ nét nhất; nói khác đi, chúng ta có muốn đi tắt. Và cũng do đó, như là một sản phẩm phụ của lòng hoài nghi trong chúng ta, rằng có hay không những con đường tắt (và quả là có, nhưng về vấn đề này, ta sẽ nói sau)- nảy sinh nhu cầu cần có một chiếc la bàn nào đó giữa mênh mông biển sách được in ra.

Vai trò của chiếc la bàn ấy, hiển nhiên, được đảm nhận bởi các nhà phê bình văn học, các cây bút điểm sách. Những hỡi ôi, chiếc kim la bàn ấy dao động dữ dội. Cái là hướng bắc, đối với vài người thì theo những người khác lại là hướng nam (điểm hình là trường hợp Nam Mỹ); mức độ dao động còn mạnh hơn đối với hướng đông – hướng tây. Khó khăn đối với người điểm sách, ít nhất, là ở ba điểm: (a) anh ta có thể là một tay viết thuê, và cũng có thể ngu ngốc như chúng ta; (b) anh ta có thể có thiên kiến mạnh đối với một số lối viết hoặc đơn giản là người hợp tác với bên xuất bản; (c) nếu anh ta là một nhà văn tài năng, anh ta sẽ biến bài điểm sách của mình thành một hình thức nghệ thuật độc lập – Jorge Luis Borges là một trường hợp như thế – và như thế có thể bạn thà đọc bài điểm sách hơn là bản thân cuốn sách.

Trong bất cứ trường hợp nào, bạn đều thấy mình trôi dạt giữa đại dương, với từng trang, từng trang sách sột soạt theo mọi hướng, bám víu vào một chiếc bè mà bạn không dám chắc liệu nó có thể nổi được trên mặt biển. Vì thế, lựa chọn khác là bạn phải hình thành được gu của riêng mình, tự thiết kế riêng cho mình một chiếc la bàn, làm cho mình quen thuộc với  những vì sao và những chòm sao cụ thể – nói theo một cách nào đó  – dù mờ hay tỏ vẫn luôn xa xôi. Thế nhưng việc này lại tốn thời gian vô cùng và bạn sẽ dễ dàng cảm thấy già nua, mỏi mệt, chỉ những muốn thoát ra và đành vớ đại lấy một quyển sách. Một lựa chọn khác – hay có lẽ cũng nằm trong lựa chọn trên – là dựa vào những lời đồn: lời khuyên của bạn bè, sự tham khảo mà bạn bắt gặp trong một văn bản có vẻ như bạn thích. Mặc dù chưa được chế định hóa dưới bất cứ hình thức nào (mà đây không phải là ý tưởng tồi), việc chọn sách dựa vào lời người khác này lại rất quen thuộc với tất cả chúng ta từ khi còn ở độ tuổi hoa niên. Song ngay cả điều này nữa cũng là một sự bảo đảm chẳng lấy gì làm chắc chắn, vì đại dương sách kia không ngừng phồng lên, rộng ra mãi, như chính hội chợ sách này đã chứng minh: nó như một trận bão nữa giữa đại dương kia.

Vậy đâu là đất liền của chúng ta, những kẻ đang bơi giữa đại dương mênh mông kia, cho dù có thể đó chỉ là hòn đảo hoang, không người cư trú? Chàng Thứ Sáu tốt bụng của chúng ta ở nơi nào, hay cứ để mặc con báo Cheetah một mình?

Trước khi nói về gợi ý của mình – đúng hơn, điều mà tôi xem như giải pháp duy nhất để hình thành thị hiếu cá nhân tốt trong lĩnh vực văn chương- tôi muốn được nói đôi điều về nhân tố khởi nguồn của giải pháp này, tức về cái tôi nhỏ bé của mình – không phải vì sự phù phiếm cá nhân, mà vì tôi tin rằng giá trị của một ý tưởng luôn có mối liên hệ với bối cảnh từ đó nó nảy sinh. Thực sự, nếu là người làm xuất bản, tôi sẽ in trên trang bìa không chỉ tên của tác giả mà còn cả khoảng thời gian chính xác mà các nhà văn viết nên cuốn sách, để cho phép độc giả có thể quyết định liệu mình có cần thiết phải quan tâm đến thông tin hay quan điểm hàm chứa trong một cuốn sách được viết ra bởi một kẻ còn trẻ tuổi hơn mình rất nhiều – hay, cũng tương tự- một bởi người còn già hơn cả mình.

Gợi ý này bắt nguồn từ một nhóm người (than ôi, tôi không còn có thể sử dụng từ “thế hệ” được nữa, vì từ này hàm ẩn nét nghĩa nhất định về đám đông và sự thống nhất), những người mà văn chương đối với họ văn chương luôn có hàng trăm tên gọi; những người mà sự nhiệt tình xã hội của họ có thể khiến cho Robinson Crusoe hay thậm chí Tarzan phải nhăn mặt; những người luôn ngượng nghịu trong những buổi tụ tập đông đảo, họ không khiêu vĩ ở các buổi tiệc, họ muốn tìm những lời bào chữa siêu hình cho tội thông dâm của mình và rất cầu kỳ khi bàn luận về chính trị; những người ghét chính mình thậm chí còn hơn cả những kẻ ưa nói xấu về họ; những người vẫn thích rượu và thuốc lá hơn heroin và cần sa; những người theo lời của W.H.Auden, “người ta sẽ không tìm thấy trên những vật chướng ngại; những người sẽ không bao giờ bắn mình và bắn những nhân tình của mình”. Nếu những người như thế thỉnh thoảng lại thấy mình bơi trên vũng máu mà họ đổ xuống sàn nhà tù hay cất tiếng trên diễn đàn, thì đó là vì họ đang nổi loạn chống lại (hay chính xác hơn, họ muốn phản đối) không phải một thứ bất công cụ thể nào mà là một trật tự thế giới nói chung. Họ không có những ảo tưởng về tính khách quan của những quan điểm mà mình nêu lên; trái lại, họ nhấn mạnh tính chủ quan không thể tha thứ được của mình ngay từ ngưỡng. Tuy nhiên, họ ứng xử như thế không phải nhằm che chắn bản thân mình khỏi những sự tấn công có thể xảy ra: như một luật lệ, họ ý thức rất rõ về tính dễ tổn thương gắn liền với những quan điểm và lập trường mà họ bảo vệ. Song ở thế phần nào đó đối lập với Darwin, họ lại xem tính dễ tổn thương này là đặc điểm quan trọng nhất của sự sống. Điều này – tôi phải nói thêm ở đây – ít liên quan đến khuynh hướng khổ dâm mà giờ đây được gán cho hầu hết những người trong giới văn chương hơn là thứ tri thức bản năng, thường mang tính trực tiếp ở họ, theo đó, họ nghĩ rằng tính chủ quan cực đoan, định kiến và sự đặc dị là những phẩm chất giúp nghệ thuật tránh khỏi sự mòn sáo. Và sự kháng cự cái mòn sáo là điều phân biệt nghệ thuật với cuộc đời.

Bây giờ chắc các bạn đã hiểu nền tảng mà tôi định nói đến là gì. Tôi muốn nói thế này: muốn hình thành một gu văn chương tốt, bạn hãy đọc thơ. Nếu bạn cho rằng tôi nói vậy là vì bệnh nghề nghiệp, bạn đã nhầm: tôi là người xa lạ với mọi hình thức khiêu khích sự phát cuồng. Vấn đề nằm ở chỗ: là hình thức ưu việt nhất trong các phương thức diễn đạt của con người, thơ không chỉ là phương thức hàm súc nhất, cô đọng nhất để biểu hiện kinh nghiệm nhân tính, nó còn trở thành những chuẩn mực cao nhất có thể đối với bất kỳ hoạt động ngôn ngữ nào – đặc biệt là trên trang giấy.

Càng đọc thơ, người ta càng khó lòng khoan thứ được cho bất cứ sự lắm lời nào, dù là trong diễn ngôn chính trị hay triết học, trong lịch sử, nghiên cứu xã hội, hay trong nghệ thuật hư cấu. Một bút pháp văn xuôi tốt bao giờ cũng là con tin của sự chính xác, tốc độ, súc tích và sự hàm súc cao độ của cách diễn đạt mang tính thơ. Là đứa con của văn bia và chữ khắc, thơ được quan niệm như là lối tắt dẫn vào bất cứ chủ đề nào có thể hình dung được, nó là người giám thị tuyệt vời đối với văn xuôi. Thơ không chỉ dạy cho văn xuôi nhận thức được giá trị của mỗi từ mà còn cả về những mô thức tinh thần luôn biến thiên của thể loại, những khả năng khác ngoài bố cục tuyến tính, sự tỉnh lược khôn ngoan những yếu tố hiển nhiên, sự nhấn mạnh đến chi tiết, kỹ thuật thoái dần. Và trên hết, thơ nuôi dưỡng trong văn xuôi nỗi khao khát cái siêu hình, điều phân biệt một tác phẩm nghệ thuật với thứ chữ nghĩa hoa mỹ đơn thuần. Song phải thừa nhận, dưới sự chỉ dạy đặc biệt này, văn xuôi chứng tỏ nó là một cậu học sinh lười.

Xin đừng hiểu lầm tôi: tôi không cố gắng để lột trần văn xuôi. Sự thật của vấn đề chỉ là ở chỗ thơ lâu đời hơn văn xuôi, do đó, nó bao trùm một khoảng cách xa hơn rất nhiều so với văn xuôi. Văn chương khởi đầu bằng thơ, với những bài ca của những người du cư, vốn xuất hiện sớm hơn những chữ viết loằng ngoằng của một kẻ định cư. Và dẫu rằng đây đó tôi có so sánh sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi như là sự khác biệt giữa không lực và bộ binh nhưng tôi vẫn lưu ý rằng sự so sánh này không có liên quan gì đến những cội nguồn có tính chất thứ bậc, đẳng cấp hay nhân chủng của văn học. Việc tôi làm là mang tính thực tế, giúp nhãn quan và trí não của bạn khỏi phải vướng bận đến vô số những sản phẩm in ấn vô dụng. Người ta có thể nói thơ ca được phát kiến chỉ để cho mục đích này thôi, vì nó đồng nghĩa với sự tiết kiệm. Vì thế, điều người ta nên làm là tóm lược lại, cho dù bằng cách thu nhỏ, cái quá trình đã diễn ra trong nền văn mình của chúng ta suốt hai thiên niên kỷ qua. Điều này dễ hơn bạn nghĩ vì thơ ca ít cồng kềnh hơn văn xuôi rất nhiều. Hơn nữa, nếu bạn chỉ quan tâm chủ yếu đến văn chương đương đại, công việc của bạn thật sự chỉ là một mẩu bánh. Tất cả những gì bạn phải làm là trong khoảng đôi ba tháng, hãy trang bị cho mình những tác phẩm của các thi sĩ viết bằng tiếng mẹ đẻ của bạn, tốt hơn là từ nửa đầu thế kỷ này. Tôi đoán rằng bạn sẽ kết thúc việc này với độ hơn mười tập sách mỏng, và chỉ đến cuối mùa hè, bạn đã có thể có một hình dáng đẹp.

Nếu tiếng mẹ đẻ của bạn là tiếng Anh, tôi muốn giới thiệu để bạn đọc Robert Frost, Thomas Hardy, W.B.Yeats, T.S.Eliot, W.H.Auden, Marianne Moore và Elizabeth Bishop. Nếu đó là tiếng Đức thì bạn hãy đọc Rainer Maria Rilke, Georg Trakl, Peter Huchel và Gottfried Benn. Còn nếu đó là tiếng Tây Ban Nha, danh sách nhất định sẽ có tên Antonio Machado, Federico Garcia Lorca, Luis Cernuda, Rafael Alberti, Juan Ramon Jimenez và Octavio Paz. Nếu tiếng mẹ đẻ của bạn là tiếng Ba Lan, hoặc nếu bạn biết ngôn ngữ này (điều này sẽ là một lợi thế lớn của bạn vì thứ thơ ca phi thường nhất của thế kỷ này được viết bằng ngôn ngữ ấy), tôi đặc biệt nhấn mạnh đến những cái tên như Leopold Staff, Czelaw Milosz, Zbigniew Herbert và Wislawa Szymborska. Nếu đó là tiếng Pháp, dĩ nhiên, phải bao gồm Guillaume Apollinaire, Jules Superville, Pierre Reverdy, Blaise Cendrars, một vài bài của Paul Eluard, Louis Aragon, Victor Segalen và Henri Michaux. Với tiếng Hy Lạp, bạn nên đọc Constantine Cavafy,, George Seferis, Yannis Ritsos. Còn với tiếng Hà Lan, rất nên đọc Martinus Nijhoff, đặc biệt là tuyệt tác của ông “Awater”. Với tiếng Bồ Đào Nha, nên đọc Fernando Pessoa và có lẽ cả Carlos Drummond de Andrade. Với tiếng Thụy Điển, hãy đọc Gunnar Ekelof, Harry Martinson, Thomas Transtromer. Với tiếng Nga, chí ít hãy nên đọc Marina Tsetaeva, Osip Mandelstam, Anna Akhmatova, Boris Pasternak, Vladimir Khodasevich, Velemir Khlebnikov, Nikolai Klyuev. Và với tiếng Italia, tôi không dám mạo muội đề xuất một cái tên thi sĩ nào trước công chúng thuộc cộng đồng ngôn ngữ này và nếu tôi nhắc đến teencuar Quasimodo, Saba, Ungaretti và Montale thì đơn giản vì đã từ lâu tôi muốn được bày tỏ lòng biết ơn của mình, một sự tri ân riêng tư đối với bốn thi sĩ vĩ đại này, những dòng thơ của họ đã có tác động sâu sắc, mãnh liệt đến đời tôi, và tôi hạnh phúc khi được nói lời cảm tạ này khi đứng trên mảnh đất Italia.

Nếu đã từng đọc tác phẩm của bất cứ thi sĩ nào được nhắc đến ở trên, một ngày nào đó, bạn bỏ rơi một cuốn văn xuôi rút ra từ giá sách của bạn, đấy không phải là lỗi của bạn đâu. Nếu bạn vẫn tiếp tục đọc cuốn văn xuôi ấy, hẳn là vì uy tín của tác giả, điều đó cũng có nghĩa là ông ta  thực sự có cái gì đó để thêm vào sự thật về cuộc hiện sinh của chúng ta, điều mà  mới chỉ ít nhà thơ đề cập đến. Điều đó chứng tỏ tác giả này không phải là kẻ thừa thãi, ngôn ngữ của ông ta có một năng lượng độc lập, một nét duyên dáng riêng biệt. Nếu không thì điều đó có nghĩa bệnh nghiện đọc của bạn đã đến hồi vô phương cứu chữa. Mà trong mọi thứ nghiện, nghiện đọc chắc chắn không phải là điều tệ hại nhất.

Hãy cho phép tôi phác một bức biếm họa ở đây, vì những bức biếm họa luôn có khả năng phóng đại khía cạnh bản chất. Trong bức biếm họa này, tôi vẽ một độc giả hai tay cầm hai cuốn sách mở ngỏ. Trên tay trái, anh ta cầm một tập thơ; trên tay phải là một tập văn xuôi. Hãy xem anh ta vứt cuốn sách nào trước. Cố nhiên, anh ta có thể cầm cả trên hai tay hai tập văn xuôi nhưng khi đó, anh ta sẽ phải đối mặt với những tiêu chuẩn tự phủ định lẫn nhau. Và tất nhiên, anh ta cũng có thể đặt câu hỏi cái gì phân biệt thơ hay và thơ dở, đâu là sự bảo đảm rằng cuốn sách anh ta cầm bên tay trái thực sự đáng để bận tâm hơn.

Vâng, trước hết, cuốn trên tay trái của anh ta rất có khả năng nhẹ hơn so với cuốn anh ta cầm trên tay phải. Thứ hai, thơ ca, như Montale có lần đã nói, là một thứ nghệ thuật thuộc về ngữ nghĩa không thể nào thay đổi được, và những cơ may cho những ngón bịp là rất thấp. Chỉ cần đọc đến dòng thứ ba, độc giả sẽ nhận ra ngay mình đang cầm thứ gì trên tay trái, vì thơ thường có thể hiểu được rất nhanh và phẩm chất của ngôn từ trong thơ khiến nó có thể được cảm nhận ngay lập tức. Sau ba dòng thơ, độc giả có thể liếc nhìn sang cuốn sách mình đang cầm trên tay phải.

Ngay cả chi tiết này, như tôi đã nói với các bạn, cũng là một biếm họa. Đồng thời tôi tin rằng đây cũng chính là hình ảnh mà nhiều người trong số các bạn – những người tham dự hội chợ sách này – sẽ nhận thấy có mình trong đó. Ít nhất hãy chắc chắn những cuốn sách trên tay bạn thuộc những thể loại văn học khác nhau. Bây giờ, việc đảo mắt từ trái qua phải, đương nhiên rồi, thật chẳng khác một việc gây khó chịu; tuy nhiên, trên đường phố Turin giờ đây không còn đâu những kỵ sĩ và hình ảnh một tay đánh xe ngựa quất roi lên lưng con vật của mình sẽ không khơi sâu hơn nỗi nhức nhối mà bạn có thể rơi vào khi bạn phó mặc những giả định này. Thêm nữa, đã một trăm năm trôi qua, kể từ đó, không có sự điên rồ của ai có ý nghĩa nhiều nhặn đối với đám đông mà con số sẽ vượt xa tổng số những con chữ nhỏ màu đen trong các cuốn sách trưng bày tại hội chợ này. Thế nên bạn cứ thử cái mẹo nhỏ mà tôi vừa gợi ý đi.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Joseph Brodsky, “How to read a book”, On Grief and Reason – Essays, NY: Farrar Straus Giroux 1995 [1996], p.96-103.

J.M.G Le Clézio – Tự do để mơ

“Tự  do để mơ” là bài thuyết trình của J.M.G Le Clézio (Giải Nobel văn học 2008) trong buổi  seminar về nhà thơ Pháp Lautréamont tại Đại học Oklahoma, ngày 18-2-1997. Tôi đã cố gắng dịch bài viết này sang tiếng Việt bởi sự thôi thúc từ những cảm xúc sau khi đọc tập truyện “Những nẻo đường đời và những bài tình ca khác” của ông (bản dịch của Hồ Thanh Vân). Những chuyện kể đầy chất thơ, u buồn mà trong sáng, đời thường xen lẫn với huyền thoại cho tôi có được một thứ  mà khá lâu rồi tôi ít bắt gặp từ những gì đọc được: cảm xúc nhân hậu.

*

Chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện lần này xung quanh khoảng thời gian năm 1867, khi chàng thanh niên Isidore Ducasse – khi ấy hãy còn chưa trở thành Bá tước de Lautréamont – chuyển đến căn phòng đã có sẵn đồ đạc nằm bên bờ phía Bắc sông Seine và năm 1868, khi chàng trao bản thảo “Khúc ca đầu tiên” của thi phẩm Les Chants de Maldoror (Những khúc ca của Maldoror) cho nhà xuất bản Balitout. Hành động này, có lẽ là một trong những hành động quan trọng nhất của văn học và tư tưởng hiện đại, đã mở ra một câu chuyện sử thi về những giấc mơ và kết thúc bằng cái chết và sự quên lãng. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ 1868 đến ngày 24-11-1870, khi chàng thi sĩ trẻ qua đời ở tuổi 24 trong cô độc và bị ruồng bỏ giữa giá lạnh mùa đông Paris, câu chuyện này đã mở ra một trong những giấc mơ cháy bỏng nhất và cũng bất an nhất mà thơ ca từng biết đến – một giấc mơ đã thổi bùng lên ngọn lửa thiêu rụi cả chính kẻ nằm mơ, trong sự im lặng và lãnh đạm của những người xung quanh chàng, một giấc mơ mà sóng từ trường của nó sẽ không tác động đến những người đương thời với chàng mà phải đợi đến mãi sau này, nó gợi ta liên tưởng đến một vì sao, giữa bạt ngàn các vì sao, mà vụ nổ thầm lặng để hình thành nó dường như còn đi trước cả thời gian.

Tự do của những giấc mơ: nghe như nghịch lý, bởi những giấc mơ là hình thức biểu hiện tự do nhất của đời sống. Song chính thứ tự do này lại đáng sợ, vì nó là mối đe dọa đối với lý trí và trật tự đạo đức – đấy cũng là lý do tại sao những cấm kỵ, kiểm duyệt và khuôn phép xã hội từ lâu đã không ngừng tìm cách để che đậy hay trấn áp nó. Những giấc mơ là tự do, nhưng chúng lại bị khóa chặt trong nhà ngục của sự câm lặng, bị ném vào hầm tù của ký ức. Những giấc mơ là ngọn lửa bị giấu kín mà con người phải tìm cách lấy lại để phát lộ phía khác của bản ngã chính mình, để đạt đến một sự tự do đích thực.

Trong bầu không khí lạnh nhạt và đạo đức giả của châu Âu thế kỷ XIX, sự hy sinh của Lautréamont là một cái gì đó thực sự nghiệt ngã và gây tuyệt vọng, nhưng điều đó cũng cho phép chúng ta nhìn ra được lỗi lầm đã làm tha hóa tinh thần của các xã hội văn minh ngay khi Thời đại Công nghiệp mới chớm bắt đầu. Bằng sự vô tâm, quên lãng của mình, toàn bộ xã hội tư sản thế kỷ XIX đã ném Lautréamont về một thế giới khác, theo cả hai nghĩa của khái niệm này: nó trả chàng về thế giới nơi chàng đã được sinh ra – Montevideo, lãnh thổ bên ngoài nước Pháp, mộ địa của những kẻ bị trục xuất; nhưng đồng thời nó cũng ném chàng trở về một thế giới có trước văn minh, một thế giới nguyên thủy, bạo liệt, huyền bí, nơi mà chủ nghĩa duy lý cũng như triều đình của các ông chủ ngân hàng không thể đặt niềm tin. Nó ném trả chàng về với những giấc mơ, có nghĩa là, về phía quá khứ thẳm sâu nhất của loài người.

Thực chất, đó chính cuộc hồi hương về chính cội nguồn của chúng ta. Sự tự do để mơ, và để sống trọn những giấc mơ đời người, đưa chúng ta trở về một thế giới khác, của các xã hội tiền sử (hiểu theo nghĩa của Lévi-Strauss về khái niệm). Chẳng hạn, trong các xã hội của người da đỏ ở Tân thế giới, cấu trúc xã hội, trong phần lớn các trường hợp, là cấu trúc của một “nền dân chủ lỏng lẻo”, được hình thành trên cơ sở của sự công bằng và sự tự đủ của gia đình, nơi từng cá nhân có thể cùng lúc là chiến binh, thầy tế, thấy thuốc, nghệ sĩ hay người hùng biện. Các xã hội của người da đỏ ở Băc Mỹ (bộ lạc người Iroquois, Sioux, Comanches, Apaches), ở  những khu rừng cận nhiệt đới (các bộ lạc ở Carib, Tupinamba và Amazonia) và ở Nam Mỹ (người da đỏ Araucan sống trên những cánh đồng hoang) đều chứng thực cho sự tổng hòa trọn vẹn này của con người, điều dường như có trước những sự chuyên biệt hóa trong các tổ chức xã hội có sự tôn ti và thiên về tính ổn định (người Mexica, Maya, Quechua). Nhưng tầm quan trọng của sự tổng hòa trọn vẹn này của con người còn thể hiện rõ nét thậm chí ngay ở những xã hội đạt đến trình độ tổ chức cao hơn cả. Nghi lễ tôn giáo của người da đỏ châu Mỹ đều thể hiện những ảnh hưởng này – sự huyền bí, các khái niệm về thời gian quy hồi và mang tính chu kỳ, khả năng con người đồng nhất với thần linh – mà theo một nghĩa nào đó, những ảnh hưởng này đã hình thành nền tảng của một thứ triết học “hoang dã”, thứ mà những người châu Âu chinh phục lục địa này sẽ cố gắng phá hủy (và họ đã thành công).

Chính từ những giấc mơ, những nền văn minh nguyên thủy của châu Mỹ đã hình thành nên những kiến giải của mình về sự hiện sinh. Đối với người Mexica cổ đại, cũng như người Tupi-Guaranis hay người Quechua, giấc mơ là hành trình của linh hồn bên ngoài thân xác, cho phép con người liên lạc với thế giới bên kia và tri thức tương lai. Các quốc gia của người Mexica, Purecha, Carib và Quechua bị quấy rối bởi các giấc mơ (hay các điềm mộng) đến nỗi họ không thể tìm được sức mạnh để kháng cự lại những kẻ xâm lược đến từ phương Đông mà việc họ xuất hiện đã được báo trước trong các điềm mộng. Khi những người Tây Ban Nha đặt chân đến Mexico, những điềm báo được nhân bội: hình ảnh của cái chết, của những người bị xiềng xích, những hồ máu, sao chổi và hàng bầy côn trùng. Trong bộ sách Chilam Bilam của người Maya Yucatec hay trong những câu chuyện về các vị thần linh hiện thân trên núi Xanoata Hucatzio được kể lại trong sách Relación de Michoacán, những giấc mơ xa xưa nhất đều kết hợp với những lời tiên tri gặp gỡ với hiện thực, nhưng rồi cái hiện thực ấy chỉ dẫn đến sự hủy hoại những con người mơ.

Những nhà văn Tây Ban Nha đầu tiên đã nắm bắt được cái khoảnh khắc cuối cùng của cái xã hội của những người mơ mộng, thể hiện trong những nghi lễ, những điệu vũ và hình thức hiến tế lạ lùng của họ. Relación de Michoacán, cuốn biên niên sử của người da đỏ Purepecha, cho ta thấy cả một cộng đồng hoàn toàn sống theo những điềm báo và giấc mơ của mình. Quyền lực của các ông vua và số phận của họ phụ thuộc vào những giấc mơ của họ, trong đó, những vị thần tối thượng (Curicaueri, thần lửa, Xaratanga, nữ thần mặt trăng) hiện ra trước mặt họ và trở thành liên minh. Cha Bernandino de Sahagún mô tả lại: trong những lễ hội tàn nhẫn và đẫm máu của người Aztec, có cả sự hóa thân một cách bí ẩn của các vị thần và họ cùng múa nhảy giữa mọi người, như trong lễ hội ixnextiua: “Họ tin rằng trong lễ hội, tất cả thần linh đều múa nhảy, do đó, tất cả dân bản địa, những người tham gia múa nhảy, đều phải khoác lên mình những bộ trang phục khác thường rất đa dạng, có người thì hóa trang thành chim, người khác thành thú, một số thì thể hiện mình như là loài chim ruồi trong khi một số khác thì khoác bộ cánh giống như loài bướm, có người thì ăn mặc trông giống như loài ong mật đực trong khi có người giống như ruồi và người khác thì lại giống như bọ cánh cứng; có người thì cõng trên lưng một người đang ngủ mà họ bảo, người đó tượng trưng cho giấc ngủ.”

Cái xã hội huyền bí ấy, cái xã hội của những cơn mơ và điềm báo, sẽ bị phá hủy bởi văn minh phương Tây dưới cái tên chủ nghĩa duy lý. Đối với những người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha xâm chiếm thuộc địa, và sau này là người Anglo-Saxon, người Pháp, những xã hội được tổ chức theo cái huyền bí này bị xem là lỗi thời. Chúng nhất thiết phải được chuyển hóa, phải bị ràng buộc với cái hiện thực, bị hợp nhất vào những cơ sở hợp lý của khả năng sản xuất và quan hệ nhân quả mà từ những cơ sở ấy,  thế giới hiện đại được xây dựng lên. Đây cũng sẽ là vai trò của nhà thờ Thiên Chúa giáo: nhà thờ đã chia sẻ cùng đạo quân xâm lược thuộc địa những ảo ảnh hàng thiên niên kỷ của mình cùng cái ý chí muốn phá hủy những khái niệm tôn giáo và triết học đối lập với nó.

Như ta đã biết, đối với trí tuệ thời kỳ Phục hưng, niềm tin vào sự huyền bí và những giấc mơ bị xem là phi lý, phi logic. Được xây dựng trên nền tảng của khoa học, trên cơ sở sự quan sát, thứ chủ nghĩa nhân văn mới hình thành chỉ có thể kết án những khía cạnh mờ tối của tâm hồn con người, bởi những tư tưởng mới xuất hiện thực chất là phản ứng đối với những niềm tin và sự mê tín ở thời kỳ Trung cổ. Để khẳng định “con người” mới này, cần thiết phải giết chết con người cũ, vốn sống trong những giấc mơ và huyễn tưởng.

Thời đại mới cũng là thời đại của những quyền lực tuyệt đối: vua Charles V, Francis I và Henry VIII, mỗi vị đại diện cho sự tối cao của quyền lực thực sự, của một sức mạnh được vũ trang và của những triều đình mang bản chất thương gia. Tuy nhiên điều lý thú là: chính thời kỳ này, thời kỳ mà những quyền lực chính trị được đẩy đến cực điểm – quyền lực vô biên của vàng, bạc; những đội tàu của người Tây Ban Nha; Thánh chế La Mã; thế giới bị phân chia giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; sự khai sinh đế chế Anh quốc; sự phát đạt của việc buôn bán nô lệ, công cuộc thuộc địa hóa châu Mỹ – cũng là thời kỳ mà không gian của sự hồ nghi, những giấc mơ, sự bí nhiệm lại trở nên rộng lớn nhất, phức tạp nhất. Tại Pháp, những phiên tòa lớn nhất kết tội các phù thủy, ở Louvain và Pau, đã diễn ra trước hết dưới triều vua Louis XIII, sau đó là triều vua Louis XIV. Thời kỳ đỉnh cao của Tây Ban Nha thực chất tương ứng với thời kỳ Baroque, cũng là thời kỳ của sự hồ nghi, tra vấn.

Những giấc mơ của thời Baroque là sự tra vấn hiện thực, quyền lực, tiền bạc và đánh dấu sự xuất hiện của một triết lý tương đối luận nào đó (như giờ đây, trong một thời đại Baroque mới – thời đại của chính chúng ta, có thể nói vậy). Thời gian, giá trị, ái tình, những điều thiện, những hoan lạc của đời sống chúng ta chỉ là phù du. Có ai lại không nhớ đến những câu thơ huyền nhiệm của Francisco de Quevedo: “Ngày hôm qua đã qua; ngày mai thì chưa tới;/ Ngày hôm nay cứ trôi đi mà không dừng lại dù chỉ một khoảnh khắc; Tôi là cái tôi đã là và cái tôi sẽ là và một cái tôi đang là mỏi mệt”.

 Hay những dòng văn bí ẩn và xúc động của Luis de Góngora

Dẫu để ganh đua với mái tóc em, vàng đã phải đánh bóng mình dưới ánh mặt trời trong vô vọng; dẫu, với sự kiêu kỳ, giữa cánh đồng bao la, em nhíu mày nhìn bông huệ trắng; dẫu bờ môi em hút sự thèm khát của nhiều cặp mắt hơn những bông cẩm chướng hé nở buổi ban mai; và dẫu cổ em nuột nà, thanh tú hơn cả pha lê: thì  em ơi, hãy cứ hân hoan đi, này cổ, này tóc, này môi, này mắt, này mày trước khi tuổi trẻ vàng son của em, khi bông hoa huệ, hoa cẩm chướng, ánh pha lê biến thành bạc hay thành một cành violet nhầu nhĩ; hãy cứ vui sướng đi trước khi em và tất cả những thứ trên hóa thành đất đai, cát bụi, sương khói, thành chiếc bóng, thành hư vô.

Baroque không đơn thuần chỉ là một phương thức văn chương hay một trường phái. Nó là một thứ triết học, một khuynh hướng tự nhiên của con người, là sự biểu hiện phần u uẩn trong con người, của những giấc mơ, những âu lo nơi anh ta. Trước những bài thơ của Gongora, Quevedo, trước cả La vida es sueno gần một trăm năm, khi thế giới Aztec đang sắp sửa biến mất, Netzahuacoyotl vĩ đại, thủ lĩnh người Acolhua từ Tetzoco, cũng đã hát lên những khúc bi ca và thán ca tương tự, mà ta sẽ tìm thấy sự đồng điệu của chúng với thơ ca lãng mạn Anh và sáng tác của Novalis sau này. Ở đây, người ta cũng tìm thấy những đề tài về sự mong manh của hạnh phúc, thời gian, vẻ đẹp của tuổi thanh xuân, cái chết, sự hủy diệt, sự trống rỗng chung cuộc.

Hãy mặc những bông hoa lên người

Trong những bông hoa có màu của mặt hồ lấp lánh

Như mặt trời

Những bông hoa của loài quạ

Hãy đứng trên mặt đất này, tự điểm trang cho mình

Chỉ ở đây thôi

Chỉ trong thoáng phút giây qua

Những bông hoa, chỉ một chút thôi

Chúng ta đã chuẩn bị mang chúng đi

Về quê của thượng đế

Cõi phi thân xác

Baroque không khẳng định điều gì khác ngoài cái quyền được mơ; nó chẳng nói gì ngoài sự ràng buộc trước đây của con người với cái siêu nhiên – đấy chính là lý do vì sao cái quyền ấy lại được xem là lực chi phối nền văn minh.

Chính ở thời đại chủ nghĩa duy lý lên ngôi – thời kỳ chủ nghĩa cổ điển – những giấc mơ phát lộ quyền năng của mình. Triết học Descartes cũng có cái bóng của nó, mà những giấc mơ của Descartes và khoảnh khắc bừng ngộ của Pascal có thể làm chứng. Những trang viết về cái phi duy lý cực kỳ dồi dào ngay trong những năm mà bộ Bách khoa toàn thư được biên soạn. Ta có thể dẫn ra ở đây không chỉ những trước tác của Saint-Martin và Swedenborg mà còn cả những truyện kỳ ảo ở giai đoạn này: Jacques Cazotte với tác phẩm Diable amoureux, những bản dịch Ngàn lẻ một đêm, tiểu thuyết Gothic Anh của Beckford và Lewis, tiểu thuyết Gothic Đức của Tieck, và đôi khi là những truyện kể phi lý, thường xuyên gây rối trí trong tuyển tập truyện thần tiên nổi tiếng Cabinet des Fées, được xuất bản ở Amsterdam cuối thế kỷ XVIII.

Là con đẻ của thời kỳ chiến tranh châu Âu và cuộc phiêu lưu của Napoleon, chủ nghĩa lãng mạn cũng mơ về một xã hội khác. Làn sóng thứ hai của chủ nghĩa lãng mạn (làn sóng sẽ nuôi dưỡng tâm hồn của chàng thanh niên Isidore Ducasse) là thời kỳ ra đời của các đế chế công nghiệp vĩ đại, các nền cai trị thực dân, các ngân hàng và cùng lúc là thời đại của những giấc mơ, của sự quay về nguồn cội, sự phục sinh cái huyền nhiệm và chủ nghĩa thần bí. Nếu hầu hết các giấc mơ, như Vladimir Propp lưu ý trong luận văn của ông nghiên cứu về cội nguồn của truyện cổ tích Nga, đều có sự gắn bó với các tổ chức bộ lạc hay thần quyền của các xã hội loài người – thí dụ, con rồng là biểu tượng của sự chuyên chế, chuyên quyền – thì sự tưởng tượng của văn học kỳ ảo thể hiện một yêu cầu, một cuộc đấu tranh cho sự tự do để mơ.

Thời đại lãng mạn cũng là thời đại lên ngôi của thuyết về Đấng cứu thế, ở châu Mỹ, châu Đại dương, châu Phi. “Sóng từ trường của giấc mơ”, như Paul Eluard sau này gọi tên, lan rộng trên toàn thế giới, đưa những người dân bị thống trị đối chọi với những ông chủ của thời đại công nghiệp. Ở Bắc Mỹ, những người mơ da đỏ – người Sioux, Arapaho, Apache – đã dẫn những quốc gia man dã cuối cùng vào cuộc chiến tổng lực chống lại những người châu Âu xâm lược, những kẻ có phương tiện vũ khí hiệu lực hơn hết thảy: tiền. Những giấc mơ nhảy múa, những hồn ma nhảy múa, những hình ảnh, những mộng mị đặt những người dân thuộc thế giới nguyên thủy vào thế đối chọi với thế giới hiện đại và đưa họ đến một kết cục duy nhất có thể có: cái chết. Đó là ví dụ về một sự đương đầu toàn diện giữa những ý niệm của thế giới hiện đại –  thuyết vị lợi, logic, thuyết quyết định luận – và những niềm tin trước đấy vào ma thuật và thế giới bên kia. Giấc mơ là cuộc khởi nghĩa nhằm đến một thứ tự do mới, tự do của cá nhân chống lại những cấm kỵ của luân lý ở thời kỳ cổ điển, chống lại trật tự logic; đó là phương tiện để con người tiệm cận một nhận thức mới về tồn tại – chính là cái trạng thái tổng hòa vốn là giá trị quan trọng nhất ở các xã hội nguyên thủy. Ý nghĩa sâu xa của hành động truy cầu của Lautréamont chính là ở chỗ ông đã khuấy động cuộc nổi dậy của những giấc mơ.

Sau Lautréamont và Nerval, các nhà siêu thực cũng bảo vệ cho quyền được mơ; sự tự do để mơ khó có thể nào được xem như một thứ tự do nhẹ nhàng. Đối với các nhà siêu thực, những giấc mơ còn hơn cả một đề tài thơ ca hay một phương thức lấy cảm hứng. Nó là vấn đề về một kinh nghiệm tổng hòa, vừa thuộc bình diện thể chất, vừa mang tính chất siêu hình, mà từ đó, con người sẽ hiện lên thật khác biệt, sẽ được biến đổi. Chính vì lý do này, họ đã nói đến một “cuộc cách mạng siêu thực”.

Vì thế, vấn đề gây tranh cãi nhất bây giờ là sự đảo ngược hoàn toàn các giá trị (một ý hướng được sinh ra từ chủ nghĩa hư vô và sự phi lý của những cuộc chiến chết chóc, man rợ nhất mà con người từng biến đến). Như Andre Breton đã phát biểu trong Tuyên ngôn siêu thực thứ nhất (1924):

“Bắt trí tưởng tượng trở thành nô lệ – cho dù điều này đồng thời có nghĩa là loại bỏ đi cái thường được gọi là hạnh phúc – có nghĩa là phản bội tất cả cảm quan về sự công bằng tuyệt đối bên trong con người. Chỉ mình trí tưởng tượng mới có thể đem lại cho tôi một gợi ý nào đó về cái có thể là, và điều này đủ để vứt bỏ được, ở một mức độ nhẹ nhàng, những huấn thị khủng khiếp; cũng đủ để cho phép tôi dâng mình cho nó mà không sợ hãi phạm sai lầm (cứ như thế làm vậy thì sẽ phạm phải sai lầm còn lớn hơn nữa). Từ đâu mà tình trạng này lại trở nên tồi tệ; từ đâu mà tinh thần mất đi sự kiên định của nó? Đối với tinh thần, chẳng lẽ cái khả năng phạm lỗi lại còn không ý nghĩa bằng sự tùy tiện của những cái đúng?”

Sự tự do của con người để kiếm tìm và bộc lộ bản thân mình qua những hình ảnh và giấc mơ đã hàm ý rằng đó là những mối nguy đối với các giới hạn và vì thế, các nhà duy lý, các tổ chức theo thuyết tiến bộ của thế giới hiện đại, từ phong trào cải cách ở châu Âu thế kỷ XVI trở đi, đã không thể cho phép nó được tồn tại. Con người – “kẻ mơ mộng cuối cùng”, nói như Breton, hay “kẻ mộng mơ ở độ tuổi dậy thì” như chữ của Lautréamont, trở thành nạn nhân bởi chính kẻ sáng tạo nên mình – buộc phải chọn lựa cho mình con đường để bộc lộ mình, phải chọn lựa phương tiện để đạt đến tự do của mình. Để trải nghệm thứ kinh nghiệm tột cùng này, có khi con người phải đánh đổi cả sinh mệnh của mình, như thi sĩ Roger Gilbert-Lecomte, người sáng lập phong trào “Le Grand Jeu”; như Nerval hay như Antonin Artaud, người theo truyền thống của Van Gogh, đi đến “tự sát bởi xã hội”.

Chắc chắn, một trong những nhà tiên tri cuối cùng của thế giới hiện đại, Antonin Artaud, thi sĩ-đạo sĩ trác việt, đã đẩy những truy vấn nội tâm của mình đến bờ vực của sự điên rồ khi viết: “Trong khi những người khác trình bày tác phẩm của họ, tôi không biết làm gì hơn là thể hiện tinh thần của mình/Đời là những câu hỏi khắc khoải, nung nấu/Tôi không thể hình dung được tác phẩm lại tách rời cuộc đời/Tôi không thích những sáng tạo tách biệt. Cũng như không thể tưởng tượng được trạng thái biệt lập của tinh thần. Mỗi tác phẩm của tôi, mỗi biểu đồ của tôi đều được tượng hình từ những giọt nước rỉ ra từ khối băng giá của tâm hồn tôi cô độc”. Artaud đã diễn tả trạng thái tổng hòa của cái kinh nghiệm hiện sinh này – mà bằng kinh nghiệm ấy, con người là kẻ tiếp nhận những lực huyền bí và phi thực – qua những câu thơ: “Những niềm vui và những cơn giận dữ, cả bầu trời/trùm lên chúng ta như một đám mây/Một cơn lốc của những đôi cánh hoang dã/đập ào ào cùng với những tiếng kêu tục tĩu.” Sự tự do cháy bỏng, sự tự do mang tính khiêu khích ấy đã dẫn thẳng Artaud đến Mexico, đến xứ sở của những người da đỏ Tarahumara, nơi ông kiếm tìm Ngọn núi của những ký hiệu, gốc rễ của chủng tộc, và niềm đồng cảm trọn vẹn, say sưa đến choáng ngợp với đấng sáng tạo. Sau này, trong sự cô độc của bệnh điên, sự tự do vẫn còn đẩy ông đi xa hơn, đến dưỡng trí viện ở Rodez.

Đòi hỏi nhiều sự chịu đựng, thống khổ, đau đớn, thứ tự do để mơ này có một phẩm chất gì đó mang tính huyền thoại. Một cảnh tượng huyền thoại katabasis[1] vụt hiện ra: từ nỗi tò mò, từ tình yêu hay từ niềm say mê cái không biết vốn là số phận của ai đó, người anh hùng của loài người đã tìm đường xuống cõi âm ti, bất chấp hiểm nguy, cấm kỵ, vượt qua những cánh cổng tử thần. Phần lớn những anh hùng thời cổ đại đều đã thực hiện cuộc hành trình này: Gigalmesh khổng lồ, tìm kiếm bông hoa bất tử; Orpheus, vì tình yêu dành cho Eurydice; Quetzalcóat, thần Tula, người đã bị đối thủ thần thánh của mình, Tezcatlipoca, bắt làm vật tế thần để rồi lại được tái sinh vào cuối mỗi thế kỷ trong hình ảnh của một ngôi sao buổi sớm. Khoảnh khắc xuất thần của các shaman hay nhãn quan của các nhà tiên tri đều không có mục đích nào khác hơn là một lần nữa lại dấn mình vào cuộc hành trình mang tính chất thụ giáo về bên kia cái chết này. Các thi sĩ và các nhà thiên tri sau họ đều cố gắng tìm cho được điểm gặp gỡ giữa hai sự thật của con người: sự thật của đời sống và sự thật của cái chết. Con người nguyên thủy, hay nói theo thuật ngữ của Lévi-Strauss, “con người không lịch sử” (vì, theo con đường của thứ hiện thực khác này, con người xóa bỏ thời gian và cái chết vốn chính là những thứ làm nên các lịch sử), đã trải nghiệm chính sự gặp gỡ này trong tính toàn vẹn của nó ngay ở từng hành vi của mình trong đời sống thường nhật. Để che giấu sự thật này, xã hội quyết định luận, duy lý của phương Tây đã tìm cách cắt xẻo đi phần bóng đêm u uẩn của con người, phần thuộc về những cội nguồn thần bí và sáng tạo của con người. Nhờ vào những giấc mơ của các thi sĩ; nhờ Baudelaire, Nerval, và Lautréamont; nhờ Jorge Carrera Andrade và Octavio Paz, nhờ những nhà văn kể từ Joyce và Proust cho đến những tác giả ngày hôm nay – Borges, Rulfo, Onetti, Merce Rodoreda – giờ chúng ta hiểu được rằng  thứ tự do tưởng tượng này là một trong những thứ sở hữu quý giá nhất của chúng ta. Giống như người Maya cổ đại, người Ai Cập và Hy Lạp, chúng ta biết rằng thời gian mang tính chu kỳ và cái hiện thực hữu hình thực chất chỉ là một hình ảnh phản chiếu. Như Borges – có lẽ là một trong số những nhà tiên tri cuối cùng của thế giới chúng ta- đã diễn đạt rất hay, chúng ta biết rằng “toàn bộ thời gian là cái gì đó đã hoàn toàn xảy ra, đời sống của chúng ta là một thứ ký ức mơ hồ, một hình ảnh phản chiếu lờ mờ – chắc chắn có sự sai lầm và bị phân mảnh – về một tiến trình không thể thay đổi được.” Đấy chẳng phải là sự hô ứng đối với câu ngạn ngữ của người Aztec cổ đại biểu thị những ý niệm về thời gian thông qua huyền thoại về sự hồi quy vĩnh viễn hay sao? “Một thời gian khác, nó sẽ như thế, một thời gian khác, sự vật sẽ như thế, một thời gian khác, một nơi chốn khác. Cái gì đã xảy ra từ lâu và cái gì bây giờ không còn được thực hiện nữa, đến một thời gian khác, nó sẽ được làm, một thời gian khác, nó sẽ trở nên như thế, giống y như nó ở một thời gian khác rất xa. Những kẻ đang sống hôm nay sẽ sống ở một thời gian khác, họ sẽ được sống một lần nữa”.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: J.M.G. Le Clézio, “Freedom to Dream”, bản dịch tiếng Anh của Ralph Schoolcraft III, World Literature Today, Vol.71, No.4, Autumn 1997, p.671-674.


[1] Katabasis trong tiếng Hy Lạp là từ để chỉ sự đi xuống (một quả đồi, một ngọn núi) hay trạng thái mặt trời dần dần lặn, gió ngừng lặng; sự rút lui của một đạo quân; một hành trình đi xuống âm phủ hay một cuộc hành trình từ nội địa men ra biển.

Octavio Paz – Bàn về thơ

 

Bài thơ là thứ bất khả giải, không phải thứ bất khả thụ.

 

Bài thơ là ngôn ngữ nhịp điệu – không phải một thứ ngôn ngữ có nhịp điệu (giống như bài hát) hay đơn thuần chỉ là nhịp điệu của lời (một đặc điểm chung cho mọi ngôn ngữ, bao hàm cả văn xuôi).

 

Nhịp điệu là mối quan hệ giữa sự khác biệt và sự đồng dạng: âm thanh này không giống âm thanh kia, âm thanh này đồng thời giống âm thanh kia.

 

Nhịp điệu là ẩn dụ nguyên thủy, nó bao chứa tất cả ẩn dụ khác. Nó nói: sự tiếp nối là sự lặp lại, thời gian là phi thời gian.

 

Dù mang tính trữ tình, tính sử thi hay tính kịch, bài thơ là sự tiếp nối và sự lặp lại, một ngày ghi trên niên lịch và một lễ nghi. Một tác phẩm “happening”[1] cũng là một bài thơ (nó mang tính sân khấu) và một nghi lễ (nó mang tính chất hội hè), song nó thiếu mất một thành tố bản chất: nhịp điệu, hiện thân của cái khoảnh khắc. Chúng ta lặp lại liên tục những câu thơ mười âm tiết của Góngora[2] và những từ đơn âm cuối cùng trong tác phẩm Altazor của Huidobro[3], Swan nghe đi nghe lại bản sonata của Vinteuil[4], Agamenon hiến tế Iphigenia – con gái của mình, Segismundo[5] phát hiện ra mình đang mơ với đôi mắt mở, cứ thế, cứ thế tái diễn. Nhưng tác phẩm “happening” thì chỉ xảy ra một lần duy nhất mà thôi.

 

Cái khoảnh khắc tan rã trong sự nối tiếp của những khoảnh khắc không tên khác. Để giữ lại nó, ta phải chuyển hóa nó thành nhịp điệu. Tác phẩm “happening” mở ra một khả năng khác: cái khoảnh khắc không bao giờ được lặp lại. Trên danh nghĩa, khoảnh khắc này là khoảnh khắc cuối cùng:  màn “happening” là một phúng dụ về cái chết.

 

Đấu trường La Mã chính là một sân khấu “happening” đi trước thời đại – và đồng thời là sự phủ định nó. Nếu những người tham gia diễn một màn “happening” đều thật sự tuân thủ theo những nguyên tắc của họ, tất cả sẽ đều phải chết. Hơn nữa, sự thể hiện chính xác khoảnh khắc cuối cùng đòi hỏi sự hủy diệt loài người. Thời khắc tận thế – ấy là sự kiến duy nhất không thể lặp lại. Ở đâu đó giữa đấu trư La Mã và “happening”: trận đấu bò. Mạo hiểm, nhưng cũng là một thứ thời trang.

 

Một bài thơ gồm một âm tiết duy nhất không hề kém phức tạp hơn Hài kịch thần thánh (Divine Comedy)[6] hay Thiên đường đã mất (Paradise Lost)[7]. Những lời giáo huấn trong kinh Satasahasrika của người Ân Độ được thể hiện dưới hình thức của một trăm nghìn khổ thơ; kinh Eksaksari chỉ chốt lại trong một âm tiết: a. Mọi ngôn ngữ, mọi ý nghĩa, và cùng lúc đó là sự vắng mặt tuyệt đối của ý nghĩa của ngôn ngữ cũng như thế giới, được cô đặc lại trong âm thanh của nguyên âm duy nhất này.

 

Hiểu một bài thơ nghĩa là, trước hết, nghe bài thơ đó.

 

Ngôn từ đi vào trong tai ta, hiện hình trước mắt ta, biến mất trong sự trầm tư. Hành động đọc một bài thơ bao giờ cũng thể hiện ý hướng truy cầu sự im lặng.

 

Đọc một bài thơ nghĩa là nghe nó bằng mắt của mình; nghe nó nghĩa là nhìn nó bằng tai của mình.

 

Ở Mỹ, việc các nhà thơ đọc thơ của mình nơi công cộng đã trở thành một thứ mốt. Đây là một hoạt động có thể còn gây hoài nghi bởi lẽ khả năng thực sự biết nghe thơ là một nghệ thuật đã mất; hơn nữa, các thi sĩ hiện đại là các nhà văn và do vậy, họ là “những diễn viên tồi thể hiện những cảm xúc của chính mình”. Nhưng thơ ca tương lai sẽ là thơ ca truyền khẩu. Một sự cộng tác giữa những cỗ máy nói, và công chúng của nhà thơ sẽ là người nắm giữ nghệ thuật lắng nghe các thông điệp và kết hợp chúng lại. Đó chẳng phải là việc giờ đây chúng ta vẫn làm mỗi khi đọc một tập thơ?

 

Khi ta đọc hay nghe một bài thơ, chúng ta không ngửi, nếm hay chạm vào ngôn từ. Tất cả những cảm giác ấy là những hình ảnh tinh thần.

 

Để trải nghiệm một bài thơ, ta phải hiểu nó; để hiểu nó, ta phải nghe nó, nhìn nó,  trầm tư cùng nó – biến nó thành một âm vang, một cái bóng, một thứ hư không. Sự hiểu bài thơ là một bài tập tinh thần.

 

Duchamp[8] nói: vì một vật thể ba chiều thì hắt ra một cái bóng hai chiều, do đó, chúng ta có thể tưởng tượng một vật thể bốn chiều mà ta chưa biết hắt ra một cái bóng – chính là chúng ta. Về phần mình, tôi bị cuốn hút bởi sự kiếm tìm một vật thể một chiều không hắt ra một cái bóng nào.

 

Một người đọc là một nhà thơ khác; mỗi bài thơ là một bài thơ khác.

 

Mặc dù không ngừng biến đổi nhưng thơ ca không có sự tiến bộ.

 

Trong diễn ngôn thông thường, một cụm từ sẽ đặt cơ sở cho cụm từ kế tiếp; nó là một chuỗi với một sự mở đầu và một sự kết thúc. Trong một bài thơ, cụm từ đầu tiên sẽ bao hàm cụm từ cuối cùng và cụm từ cuối cùng sẽ gợi lên cụm từ đầu tiên. Thơ là phương cách duy nhất mà chúng ta có được để chống lại thời gian tuyến tính – nó chống lại sự tiến triển.

 

Đạo đức của nhà văn không nằm ở những chủ đề mà anh ta phải xử lý hay những luận điểm mà anh ta trình bày, nó nằm ở  cách ứng xử của anh ta đối với ngôn ngữ.

 

Trong thơ, kỹ thuật là một tên gọi khác của đạo đức: nó không phải là sự vận dụng từ ngữ mà là một nỗi đam mê, một thứ chủ nghĩa khổ hạnh.

 

Nhà thơ giả ngụy khi nói về chính mình hầu như bao giờ cũng nhân danh kẻ khác. Nhà thơ đích thực nói về kẻ khác khi anh ta nói với chính mình.

 

Sự khác nhau giữa một tác phẩm “đóng” và một tác phẩm “mở” không phải là một cái gì đó tuyệt đối. Để hoàn thiện, một bài thơ kín nhiệm cần đến sự can thiệp của một độc giả để giải mã nó. Bài thơ mở, đến lượt mình, hàm ẩn ít nhất một cấu trúc tối thiểu: một xuất phát điểm, hay dùng chữ của Phật giáo, một cú hích để đốn ngộ. Ở trường hợp thứ nhất, độc giả là người mở bài thơ; ở trường hợp thứ hai, anh ta hoàn thiện nó, anh ta đóng bài thơ lại.

 

Trang giấy trắng hay trang giấy chẳng có gì ngoài những dấu chấm câu giống như một chiếc lồng mà không có con chim nào bên trong. Tác phẩm mở đích thực là một tác phẩm đóng cửa: độc giả, khi mở cửa, để con chim, bài thơ, bay ra.

 

Mở một bài thơ để tìm kiếm cái này và phát hiện cái kia – bao giờ cũng là cái gì đó khác với cái mà ta đã kỳ vọng được thấy.

 

Dù mở hay đóng, bài thơ bao giờ yêu cầu nhà thơ, người viết nên nó, phải chết đồng thời khai sinh thi sĩ, kẻ đọc bài thơ ấy.

 

Bài thơ là cuộc đấu tranh miên viễn chống lại ý nghĩa. Có hai cực: bài thơ bao chứa tất cả các ý nghĩa, nó là ý nghĩa của mọi ý nghĩa; hoặc bài thơ từ chối bất kỳ ý nghĩa nào cho ngôn ngữ. Ở thời hiện đại, Mallarmé đại diện cho nỗ lực viết nên những bài thơ thuộc loại thứ nhất; Dada là đại diện cho nỗ lực để làm ra những bài thơ thuộc loại thứ hai. Một ngôn ngữ ở bên kia ngôn ngữ hoặc sự phá hủy ngôn ngữ bằng chính những phương tiện của ngôn ngữ.

 

Dada thất bại vì nó tin rằng sự thất bại của ngôn ngữ sẽ là chiến thắng của nhà thơ. Chủ nghĩa siêu thực tuyên bố luật lệ tối cao của ngôn ngữ chi phối nhà thơ. Đến các nhà thơ trẻ, sự phân biệt giữa người sáng tạo và người đọc bị xóa bỏ: họ muốn phát hiện điểm gặp gỡ giữa người nói và người nghe. Điểm gặp gỡ ấy chính là tâm điểm của ngôn ngữ.

 

Để hoàn thành tác phẩm của Nietzsche, hãy phủ định chúng càng mạnh càng tốt. Ở cuối con đường, cuộc chơi đang đợi chúng ta: một viễn cảnh hội hè, sự hoàn thiện của tác phẩm, sự hiện thân sống động của nó trong khoảnh khắc và cả sự tan hủy của nó.

 

Hãy phủ định hết mức có thể. Sự hoàn thiện đang đợi chúng ta: ngôn ngữ tiêu biến, chỉ còn lại sự trong suốt.

 

Điều mà Phật giáo giúp chúng ta nghiệm ra là sự tận cùng của các quan hệ, sự thủ tiêu của phép biện chứng – im lặng, đó không phải là sự tan biến mà là giải pháp của ngôn ngữ.

 

Bài thơ phải khiêu khích người đọc: buộc anh ta phải nghe – nghe chính bản thân mình.

 

Nghe chính mình cũng có nghĩa là tự giục mình đi nhanh: oírse o irse. Đến nơi nào?

 

Hành động thơ được sinh ra từ nỗi tuyệt vọng khi đối mặt với sự bất lực của ngôn ngữ và kết thúc khi nhận ra quyền năng tuyệt đối của sự im lặng.

 

Không ai có thể trở thành nhà thơ trừ khi anh ta cảm nhận được có một sự cám dỗ trong việc phá hủy ngôn ngữ và sáng tạo nên một ngôn ngữ mới, trừ khi anh ta trải nghiệm được cảm giác say sưa đối với cái vô nghĩa và cả cảm giác say sưa, không kém phần đáng sợ hơn, đối với cái ý nghĩa bất khả biểu đạt.

 

Giữa tiếng khóc và sự im lặng, giữa ý nghĩa bao trùm mọi ý nghĩa và sự vắng mặt của ý nghĩa, bài thơ nảy sinh. Cái dòng ngôn từ mong manh này nói lên điều gì? Nó nói rằng nó không nói cái gì đã từng được nói lên bởi sự im lặng và tiếng kêu gào. Và ngay khi điều này được nói lên, những náo động và im lặng dừng lại. Một chiến thắng tạm thời, không ngừng bị đe dọa bởi thứ ngôn từ không nói gì cả, bởi sự im lặng nói rằng: không có gì cả.

 

Tin vào sự bất từ của bài thơ là tin vào sự bất tử của ngôn ngữ. Chúng ta buộc phải khuất phục trước bằng chứng: các ngôn ngữ được sinh ra và chết đi; bất kỳ ý nghĩa nào cũng sẽ đến ngày dừng mang ý nghĩa. Và chẳng phải chính sự dừng này lại mang nghĩa là nghĩa của nghĩa đó sao? Chúng ta buộc phải khuất phục trước bằng chứng…

 

Thắng lợi của Lời: bài thơ giống như những người đàn bà khỏa thân trong hội họa Đức tượng trưng cho sự chiến thắng của cái chết. Những tượng đài sống lộng lẫy biểu trưng cho sự mục rữa của xác thịt.

 

Thơ ca và toán học là hai cực điểm của ngôn ngữ. Bên ngoài chúng, không có cái gì hết – lãnh địa của cái bất khả biểu đạt; và giữa chúng là lãnh địa mênh mông song hữu hạn của lời nói.

 

Say mê nỗi im lặng, đấy là cách duy nhất để nhà thơ cất lời.

 

Lời cắm rễ trong sự im lặng có trước lời nói – một trạng thái tiền tình cảm của ngôn từ. Sự im lặng, sau Lời, được hình thành trên nền của một ngôn ngữ – nó là một sự im lặng được mã hóa. Bài thơ là đường cong giữa hai sự im lặng này – giữa ước muốn được nói và sự im lặng nung nóng cả niềm ước muốn lẫn sự nói này.

 

Bên kia sự ngạc nhiên và sự lặp lại: __________________________________________

Hải Ngọc dịch

Nguồn: “Recapitulations”, bản dịch Anh văn của Helen Lane, in trong Alternating Currents, NY: Arcarde Publishing 1990[1983], p.65-69.


[1] Loại hình nghệ thuật trình diễn được hình thành cuối thập niên 1950. Sân khấu happening có thể đặt ở bất cứ đâu, màn trình diễn thường là một câu chuyện phi tuyến tính, có sự tương tác tích cực với người xem, thậm chí ranh giới giữa người trình diễn và người xem bị xóa bỏ. Trình diễn happening đặc biệt đề cao tính ngẫu hứng, tính bất khả đoán, mỗi màn trình diễn là một sự kiện, một kịch bản không thể lặp lại.

[2] Luis de Góngora (1561-1627), nhà thơ Tây Ban Nha. Tên tuổi của ông gắn liền với bút pháp culteranismo, vốn chủ trương sử dụng nhiều từ ngữ  nhưng để làm mờ hóa, thậm chí giấu kín ý nghĩa của câu thơ.

[3] Vicente Huidobro (1893-1948), nhà thơ Chi Lê. Altazor được đánh giá là kiệt tác của ông.

[4] Nhân vật trong bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của nhà văn Pháp Marcel Proust

[5] Nhân vật chính trong vở kịch La vida es sueño (Đời là giấc mộng ) của nhà viết kịch Tây Ban Nha Pedro Calderon De La Barca (1600-1681), được công bố lần đầu vào năm 1635.

[6] Tác phẩm của nhà thơ Ý thời Phục Hưng –  Dante Alighieri (1265-1321)

[7] Tác phẩm của nhà thơ Anh John Milton (1608-1674)

[8] Marcel Duchamp (1887-1968), nghệ sĩ quan trọng bậc nhất của phong trào Dada

Haruki Murakami – Con khỉ trong khu Shinagawa

Lời dẫn: Lục lại máy tính, mới phát hiện ra truyện ngắn này của Haruki Murakami mình đã dịch khá lâu rồi, cách đây chừng 6 năm, và chưa từng post lên blog. Đọc lại thấy nhớ… Nhớ một thời mình có thể kiên nhẫn ngồi dịch một truyện ngắn như thế này dẫu biết chắc không thể đăng được trên báo nào để kiếm tí nhuận bút. Nhớ đến một thời mình từng tin rằng mình có thể trở thành người dịch văn học tử tế, dịch được những tác phẩm quan trọng (Ôi một thời trẻ trâu!!!). Nhớ đến một thời  The New Yorker hàng tuần còn hào phóng cho đọc free mục Fiction…Rất nhiều điều để nhớ như thế. Bây giờ mình thiếu can đảm hơn rất nhiều, thiếu kiên nhẫn hơn rất nhiều, và niềm tin vào khả năng dịch thuật cũng mai một đi rất nhiều. Dù sao, ngay lúc này, mình đang rất muốn khởi động lại việc dịch thuật nghiêm túc, nhất là dịch fiction. Hy vọng là nỗi nhớ cũng có thể trở thành một động lực.

*

Thỉnh thoảng nàng lại không thể nào nhớ nổi tên mình là gì. Chuyện này thường xảy ra khi ai đó bất ngờ hỏi tên nàng. Chẳng hạn, lúc nàng đang ở một cửa hàng thời trang để sửa lại gấu của một chiếc váy, cô nhân viên bán hàng hỏi: “Xin chị cho biết tên mình?”, đầu óc nàng bỗng nhiên hoàn toàn trống rỗng. Cách duy nhất giúp nàng có thể nhớ lại tên mình khi ấy là rút bằng lái xe ra để xem; hành động đó khiến cho người đang nói chuyện với nàng không khỏi cảm thấy kỳ quặc. Ngay cả lúc đang nói chuyện qua điện thoại, chuyện này cũng xảy ra và sự im lặng đầy lúng túng của nàng khi đành phải lục ví của mình để tìm bằng lái xe làm cho người ở đầu dây bên kia băn khoăn không biết là có chuyện gì.

 

Nàng có thể nhớ mọi thứ khác. Nàng chưa bao giờ quên tên của những người xung quanh mình. Địa chỉ của nàng, số điện thoại, ngày sinh, số hộ chiếu – nàng không hề gặp khó khăn gì để nhớ ra những thứ đó. Nàng có thể nói trơn tru số điện thoại của những người bạn mình, của những khách hàng quan trọng. Khi nàng tự giới thiệu tên mình, nàng cũng chưa bao giờ thấy trí nhớ của mình trục trặc. Nếu biết trước tình huống gì sẽ xảy đến, trí nhớ của nàng sẽ không có vấn đề gì cả. Nhưng lúc đang vội hay không được chuẩn bị thì trí nhớ của nàng cứ như thể bị chập mạch vậy. Càng đánh vật với trí nhớ, nàng càng thấy rõ, dẫu có cố hết sức mình, nàng cũng chẳng thể nào nhớ nổi mình được gọi là gì.

 

 

Tên của nàng sau khi kết hôn là Mizuki Ando; tên thời con gái của nàng là Ozawa. Cả hai cái tên đó đều rất bình thường, không gây ấn tượng gì đặc biệt nhưng dù như vậy, điều đó vẫn không thể giải thích được vì sao những cái tên đó, trong trường hợp nàng đang bận bịu, lại có thể biến mất khỏi trí nhớ nàng. Nàng đã mang cái tên Mizuki Ando được ba năm kể từ khi kết hôn với người đàn ông tên là Takashi Ando. Ban đầu, nàng không thể quen được với cái tên đó. Hình dạng và âm thanh của cái tên ấy dường như không hợp với nàng. Song dần dà, sau khi nàng phải nhắc đi nhắc lại và ký cái tên ấy một vài lần, nàng bắt đầu thấy thoải mái hơn với nó. So với một số khả năng khác đối với cái tên mình – chẳng hạn như Mizuki Mizuki, hay Mizuki Miki (trên thực tế, nàng đã từng hò hẹn với một gã tên là Miki trong một thời gian)- nàng thấy cái tên Mizuki Ando cũng không đến nỗi nào.

 

Sau khi kết hôn độ hai năm thì tên của nàng bắt đầu trượt khỏi trí nhớ của nàng. Thoạt đầu, chuyện này chỉ xảy ra khoảng một tháng một lần nhưng rồi dần dần, nó xuất hiện thường xuyên hơn. Bây giờ thì trong tuần, ít nhất là có một lần, nàng quên mất tên mình. Nếu nàng đem theo ví bên mình thì mọi chuyện cũng ổn. Nhưng nếu để thất lạc cái ví thì chính nàng cũng bị thất lạc. Dĩ nhiên, nàng không hoàn toàn bị mất tích – nàng vẫn còn nhớ địa chỉ và số điện thoại của mình. Trường hợp của nàng không giống như những nhân vật bị mất trí nhớ hoàn toàn trong các bộ phim. Dẫu vậy, việc quên mất tên mình vẫn khiến nàng thấy buồn chán. Sống một cuộc đời vô danh, nàng nghĩ, chẳng khác gì chìm trong một giấc mơ mà người ta không bao giờ thức dậy được.

 

 

Mizuki đến một cửa hàng bán đồ trang sức, mua một chiếc dây chuyền đeo tay mỏng, đơn giản và khắc tên mình lên đó: “Mizuki (Ozawa) Ando.” Nàng thấy làm thế khiến mình không khác nào một con mèo hay con chó, nhưng nàng vẫn cẩn thận đeo chiếc dây chuyền ấy mỗi khi rời nhà. Nếu quên tên mình, nàng chỉ cần liếc xuống cổ tay là thấy tên mình trên chiếc dây chuyền đeo tay này. Không còn phải giật ví ra nữa, cũng không còn phải thấy những ánh nhìn lạ lùng của những người khác.

 

Nàng không kể cho chồng mình biết chuyện rắc rối ấy. Nàng hiểu chồng nàng sẽ nghĩ ngay là nàng không hạnh phúc với cuộc hôn nhân của mình. Anh ấy luôn suy nghĩ một cách logic đến thái quá trước mọi chuyện. Cố nhiên, điều này không gây hại gì cả; đấy chỉ là tính cách của anh ấy mà thôi – lúc nào cũng đầy lý lẽ. Anh ấy lại cũng là người nói nhiều, một khi đã bắt đầu một chủ đề nào đó, không dễ gì anh lại bỏ lửng câu chuyện. Vì thế, nàng đành giữ kín chuyện đó trong lòng. Tuy nhiên, nàng nghĩ những gì mà chồng mình nói – hay đúng hơn, những gì mà chồng nàng có thể nói ra khi biết chuyện của nàng- không có sở cứ. Nàng không hề bất mãn về cuộc hôn nhân của mình. Ngoài việc đôi khi chồng nàng tỏ ra duy lý quá mức, nàng không thấy có điều gì đáng than phiền về anh cả.

 

Mizuki và chồng vừa vay được một khoản có thế chấp và mua một căn hộ trong một khu chung cư mới ở Shinagawa. Chồng của nàng năm nay ba mươi tuổi, đang làm trong một phòng pha chế của một công ty dược phẩm. Mizuki, hai mươi sáu tuổi, là nhân viên cho một đại lý của hãng Honda, hàng ngày làm công việc trả lời điện thoại, pha cà phê cho khách hàng, copy tài liệu, sắp xếp hồ sơ giấy tờ và cập nhật thông tin về khách hàng. Một ông bác của Mizuki có chân trong ban quản trị của hãng Honda đã thu xếp cho nàng chỗ làm này sau khi nàng tốt nghiệp một trường cao đẳng dành cho phụ nữ ở Tokyo. Đây không phải là công việc năng động nhất mà nàng có thể hình dung được nhưng nó đòi hỏi nàng phải có trách nhiệm nhất định, và hơn hết, công việc này cũng không đến nỗi tệ. Khi nào các nhân viên bán hàng đi vắng thì nàng làm thay công việc của họ và nàng luôn nhã nhặn trả lời các câu hỏi của khách hàng. Nàng đã quan sát các nhân viên bán hàng làm việc và nhanh chóng nắm bắt được những thông tin kỹ thuật cần thiết. Nàng thuộc lòng bảng phân loại theo tổng số dặm mà xe đi được của tất cả các loại xe mẫu ở phòng trưng bày và có thể thuyết phục bất cứ khách hàng nào khi giới thiệu về các loại xe, chẳng hạn, lái xe Odyssey giống như lái một chiếc xe mui trần bình thường hơn là loại xe tải cỡ nhỏ. Mizuki là người xã giao tốt, nàng có một nụ cười duyên dáng khiến khách hàng luôn thấy dễ chịu khi tiếp xúc. Nàng cũng biết thay đổi “chiến thuật” giao tiếp một cách tinh tế, dựa vào kinh nghiệm nhận biết tính cách khách hàng của nàng. Có điều không may là nàng không có quyền để giảm giá, thoả thuận đổi xe cũ lấy xe mới, hay khuyến mại cho khách hàng vì thế, ngay cả khi nàng đã thuyết phục khách hàng chấp nhận ký tên vào hợp đồng thì cuối cùng nàng vẫn phải chuyển giao mọi thứ cho một trong số các nhân viên bán hàng, người đảm nhận công việc này. Phần thưởng duy nhất mà nàng có thể mong đợi là thỉnh thoảng được một nhân viên bán hàng mời một bữa tối để chia sẻ vụ trúng quả của mình.

 

Cũng có đôi khi nàng nghĩ: đại lý của mình có thể bán được nhiều ô tô hơn nếu giao cho mình làm công việc chào hàng. Nhưng hình như không ai có ý nghĩ như vậy. Cách thức hoạt động của công ty là vậy: những người làm công việc chào bán hàng thuộc một bộ phận, nhân viên văn phòng lại thuộc một bộ phận khác và ngoại trừ những trường hợp rất hy hữu, hai bộ phận này không thể lấn sân nhau. Nhưng cũng không quan trọng; nàng không phải là người tham vọng và cũng không cầu thăng tiến. Ngày làm tám tiếng, từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều, về nhà thì được nghỉ ngơi và thư giãn khi không phải làm việc – như thế nàng thấy thích hơn.

 

Ở chỗ làm, Mizuki vẫn dùng cái tên thời con gái của mình. Nàng biết nếu thay đổi cái tên ấy, nàng sẽ phải thay đổi tất cả các dữ liệu liên quan đến mình trong máy chủ của công ty. Điều ấy quá rắc rối nên nàng cứ để tên như cũ. Nàng được liệt vào danh sách những người đã kết hôn để xem xét mức thuế nhưng tên của nàng thì vẫn không thay đổi. Nàng cũng hiểu làm thế không đúng nhưng không một ai trong đại lý nơi nàng làm việc có ý kiến gì về chuyện này. Vậy nên, Mizuki vẫn là cái tên in trên danh thiếp và lịch trực của nàng. Chồng của nàng cũng biết nàng vẫn dùng cái tên thời con gái của mình ở nơi làm việc (thỉnh thoảng anh cũng có gọi điện đến chỗ làm của nàng) nhưng anh cũng thấy không có vấn đề gì trong chuyện đó cả. Anh hiểu nàng giữ cái tên ấy đơn giản là vì tiện lợi. Khi hiểu cái lý của việc mà vợ mình làm, anh không hề phàn nàn gì hết. Theo nghĩa đó, anh là người hết sức dễ tính.

 

 

Mizuki bắt đầu lo lắng không biết hiện tượng quên tên của chính mình ở nàng có phải là triệu chứng của một căn bệnh đáng sợ nào không, ví dụ, liệu nó có phải là dấu hiệu manh nha của chứng Alzheimer1? Thế giới đầy những căn bệnh chết người, không thể ngờ được. Nàng cũng vừa mới biết đến hai thứ bệnh đáng sợ như thế là chứng nhược cơ và bệnh Huntington2. Còn biết bao nhiêu những căn bệnh khác mà nàng chưa từng nghe đến. Và đối với hầu hết các căn bệnh, triệu chứng ban đầu của chúng đều rất nhỏ. Nhỏ nhưng lại là những triệu chứng bất bình thường. Quên tên mình phải chăng là triệu chứng như thế?

 

Nàng đến một bệnh viện lớn và giải thích tình trạng của mình cho bác sĩ. Nhưng viên bác sĩ trẻ khám bệnh cho nàng hôm ấy – trông anh ta nhợt nhạt và mệt mỏi như một bệnh nhân hơn là một bác sĩ điều trị – chẳng khám cẩn thận gì cả. “Chị còn quên thứ gì khác không, ngoài tên mình?” anh ta hỏi. “Không,” nàng trả lời.“Hiện giờ, tôi chỉ không nhớ được tên mình thôi.” “Hừm. Nghe có vẻ giống một ca bệnh về tâm thần nhiều hơn,” anh ta nói, giọng nói tuyệt nhiên không biểu lộ một sự quan tâm hay thông cảm nào. “Nếu chị bắt đầu quên thêm những thứ khác, xin hãy trở lại chỗ chúng tôi. Khi đó, chúng ta có thể thực hiện một vài bài kiểm tra xem sao.” Có lẽ anh ta muốn ngụ ý rằng: “Chúng tôi ở đây còn cả một đống bệnh nhân tình trạng còn trầm trọng hơn chị nhiều.”

 

Rồi một ngày, trong thông báo gửi cho khu dân cư, Mizuki đọc được một mẩu tin: cơ quan quản lý khu đô thị sẽ mở một trung tâm tư vấn tâm lý. Đó là một mẩu tin nhỏ mà thông thường nàng sẽ không để ý đến. Trung tâm sẽ mở cửa hai lần trong một tháng, do một chuyên gia tâm lý điều hành, tư vấn riêng cho từng khách hàng với lệ phí đặc biệt ưu đãi. Bất cứ cư dân nào tại khu Shinagawa từ mười tám tuổi trở lên đều có thể tiếp cận dịch vụ này, mẩu tin nói vậy, và tất cả mọi thông tin của khách đều được đảm bảo giữ kín theo nghĩa chặt chẽ nhất của từ này. Mizuki không chắc một trung tâm tư vấn do khu phố tài trợ như thế này liệu giúp ích được gì cho mình nhưng nàng vẫn quyết định thử xem sao. Công việc ở đại lý thường bận rộn vào cuối tuần nhưng nếu nàng xin nghỉ một ngày trong tuần thì không có vấn đề gì và nàng cũng có thể điều chỉnh thời gian biểu để khớp với lịch làm việc của trung tâm tư vấn, một việc có thể xem là không tưởng đối với người làm việc bình thường. Giá phải trả cho một ca tư vấn với thời hạn nửa tiếng đồng hồ là 2000 yên. Một khoản tiền không quá lớn đối với khả năng chi trả của nàng.

 

Khi đến trung tâm tư vấn của khu dân cư, nàng nhận ra mình là  người khách duy nhất. “Chương trình này mở ra hơi bất ngờ”, nhân viên tiếp tân giải thích. “Hầu như mọi người chưa biết gì về nó. Nhưng một khi người ta biết được, trung tâm sẽ bận rộn hơn. Tôi tin là vậy.”

 

Chuyên gia tư vấn của trung tâm tên là Tetsuko Sakaki – một phụ nữ chắc gần năm mươi tuổi, vóc dáng nặng nề nhưng thái độ cởi mở. Bà ta để tóc ngắn, nhuộm màu nâu nhạt, khuôn mặt rộng với nụ cười rất tươi tắn, dễ mến. Bà mặc một bộ đồ mùa hè nhạt màu, một chiếc áo cánh may bằng lụa bóng, trên cổ đeo một chuỗi ngọc trai giả và đi giày gót thấp. Bà trông giống một bà nội trợ hàng xóm thân thiện hơn.là một chuyên gia tư vấn tâm lý.

 

“Chồng tôi làm ở phòng quản lý khu đô thị này,” bà ta mào đầu câu chuyện. “Ông ấy là đội trưởng của ban Công trình công cộng. Vì thế mà chúng tôi có thể nhận được sự ủng hộ của văn phòng quản lý khu đô thị để mở trung tâm này. Chị là khách đầu tiên của chúng tôi và chúng tôi rất vui được đón tiếp chị. Hôm nay tôi không có cuộc hẹn nào khác nên chúng ta có thời gian và hãy nói chuyện cởi mở với nhau, được chứ?” Bà chuyên gia tư vấn nói với một nhịp độ khoan thai. Ấn tượng bao trùm về người phụ nữ này là sự chậm rãi và cân nhắc.

 

“Rất vui khi được gặp chị,” Mizuki nói. Nói vậy nhưng thật lòng, Mizuki vẫn băn khoăn không biết kiểu người như thế này giúp được gì cho mình.

 

“Chị có thể yên tâm là tôi đã có bằng cấp trong lĩnh vực tư vấn tâm lý và cũng có nhiều kinh nghiệm,” bà chuyên gia nói thêm, như thể bà đọc được ý nghĩ trong đầu Mizuki.

 

Bà Sakaki ngồi sau chiếc bàn làm việc làm bằng kim loại nhẹ. Mizuki ngồi trên một chiếc sofa nhỏ, kiểu cổ, trông nó có vẻ như vừa được lôi từ nhà kho ra vậy. Lò xo của chiếc sofa này dường như sắp hỏng và mùi mốc của nó khiến mũi nàng thấy nhột nhột.

 

Nàng dựa người vào thành ghế và bắt đầu kể lại chuyện gì đang xảy ra với mình. Bà Sakaki vừa nghe vừa gật gù. Bà không đặt bất kỳ câu hỏi nào, cũng không tỏ ra có một chút ngạc nhiên gì. Bà chỉ chăm chú lắng nghe câu chuyện của Mizuki và ngoại trừ đôi lần cau mày như thể đang suy xét điều gì, nét mặt của bà hầu như không thay đổi. Đôi môi mỉm cười rất kín đáo trên khuôn mặt bà, giống như trăng mùa xuân lúc chập tối,  không hề có chút dao động nào biểu hiện.

 

“Việc chị khắc tên lên cái dây chuyền đeo tay như thế là một ý tưởng rất hay đấy!” bà ta bình luận sau khi Mizuki kết thúc câu chuyện. “Tôi thích cách chị giải quyết vấn đề của mình. Trước hết là phải nghĩ ra được một giải pháp thực tế để giảm thiểu sự bất tiện. Giải quyết vấn đề một cách thực tế có ích hơn nhiều so với việc mình cứ ngẫm ngợi về nó. Và chiếc dây chuyền đeo tay này thật dễ thương. Nó rất hợp với chị.”

 

“Chị có nghĩ là việc quên tên của ai đó có thể liên quan đến một căn bệnh nào đấy nghiêm trọng hơn không?” Mizuki hỏi. “Và đã có trường hợp nào như vậy chưa?”

 

“Tôi không nghĩ là có căn bệnh nào mà triệu chứng xác định ban đầu của nó lại như vây cả,” bà Sakaki trả lời. “Tuy thế, tôi cũng thấy lo lắng một chút vì theo thời gian, triệu chứng của các căn bệnh có thể đã trở nên phức tạp hơn. Tôi cho rằng có khả năng hiện tượng này dẫn đến những triệu chứng khác, hoặc chứng mất trí nhớ của chị có thể lan rộng sang những vùng khác của thần kinh. Vì vậy, chúng ta cứ kiểm tra từng bước một và xác định xem nó bắt đầu từ đâu.”

 

Bà Sakaki bắt đầu đặt một số câu hỏi căn bản về cuộc sống của Mizuki. “Chị lập gia đình được bao lâu rồi?” “Công việc của chị là gì?” “Sức khoẻ của chị hiện như thế nào?” Rồi bà ta tiếp tục đặt các câu hỏi về thời thơ ấu của Mizuki, về gia đình, trường lớp của nàng. Những thứ nàng thích và không thích. Những thứ nàng giỏi và không giỏi. Mizuki cố gắng trả lời các câu hỏi một cách thật thà nhất và nhanh nhất trong chừng mực có thể.

 

Mizuki xuất thân từ một gia đình bình thường. Cha của nàng làm cho một công ty bảo hiểm lớn và tuy không phải là gia đình khá giả nhưng nàng không hề nhớ là đã có lần nào đó, gia đình của mình phải khổ sở về chuyện tiền bạc. Cha nàng là một người nghiêm nghị còn mẹ nàng thuộc típ phụ nữ khéo léo, chỉ tội hay cằn nhằn một chút. Chị gái nàng hồi đi học luôn đứng đầu lớp, mặc dù nàng cảm thấy chị mình có phần nông cạn và nàng biết đôi khi chị ấy cũng quay bài. Nhưng Mizuki không hề có vấn đề đặc biệt nào trong quan hệ với gia đình. Chưa một lần nào nàng có xung đột lớn với những người trong nhà. Bản thân Mizuki là đứa trẻ thuộc dạng không có gì nổi bật. Mizuki chưa ốm một lần nào. Nàng cũng chưa bao giờ thấy bút rứt về ngoại hình của mình, cho dù chưa từng có một ai khen nàng xinh đẹp cả. Tự nàng thấy mình cũng là người thông minh; về học lực, nàng đứng gần tốp đầu của lớp hơn là thuộc vào tốp sau nhưng lại chẳng xuất sắc ở một môn nào hết. Ở trường, nàng cũng có vài người bạn thân nhưng phần lớn bọn họ đã lập gia đình và chuyển đến sống ở những thành phố khác nên bây giờ họ hiếm khi liên lạc với nhau.

 

Nàng không có điều gì để kêu ca về cuộc hôn nhân của mình. Thời gian đầu, nàng và chồng mình cũng có những trục trặc mà cặp vợ chồng mới cưới nào cũng thường mắc phải, nhưng rồi, dần dần, cả hai đều cố gắng xuề xoà với nhau, không chấp nhặt để có cuộc sống yên ấm. Chồng của nàng không phải là người hoàn hảo nhưng anh ấy có nhiều phẩm chất tốt: tử tế, trách nhiệm, sạch sẽ, không khó tính trong chuyện ăn uống và không bao giờ phàn nàn, ca cẩm. Anh ấy cũng có vẻ có quan hệ tốt với đồng nghiệp và các sếp trong cơ quan.

 

Khi trả lời tất cả những câu hỏi này, Mizuki bỗng giật mình nhận ra nàng đã sống một cuộc sống mới tẻ nhạt làm sao! Thậm chí không hề có một sự kiện đặc biệt nào, dù chỉ một chút thôi, chạm đến đời nàng. Nếu đời nàng là một bộ phim, ắt hẳn đấy sẽ là một thứ phim tài liệu về tự nhiên với kinh phí thấp đảm bảo ru người ta ngủ được. Một bộ phim chỉ có những phong cảnh trơ trọi trải dài vô tận về phía chân trời. Không có thay đổi nào trong cảnh, không có đoạn cận cảnh nào, không có gì điềm báo và cũng không có gì khêu gợi. Mizuki hiểu công việc của một chuyên gia tư vấn tâm lý là lắng nghe khách của mình nhưng nàng bắt đầu cảm thấy tội nghiệp cho người phụ nữ đang phải kiên nhẫn nghe một câu chuyện đời nhàm tẻ như vậy. Nếu là mình, và nếu mình phải lắng nghe vô số câu chuyện đời nhạt nhẽo như đời mình bây giờ, dám chắc đến một lúc nào đó, mình sẽ đổ gục bởi nỗi chán chường tột đỉnh – Mizuki nghĩ thầm.

 

Thế nhưng Tetsuko Sakaki vẫn ngồi nghe Muzuki một cách chăm chú, và còn ghi lại mấy ghi chú vắn tắt. Khi bà ta lên tiếng, giọng nói của bà không bộc lộ một chút gì mệt mỏi, mà lại rất ấm áp và thể hiện một sự quan tâm chân thành. Mizuki thấy mình bình tâm một cách lạ lùng. Nàng nhận ra chưa từng có một người nào lắng nghe mình kiên nhẫn như thế. Khi cuộc chuyện trò của họ kết thúc, sau chỉ chừng độ một tiếng đồng hồ, Mizuki có cảm giác như mình vừa trút được một gánh nặng nào đó.

 

“Chị Ando này, thứ Tư tuần sau, cũng vào khoảng thời gian này, chị có thể đến chỗ chúng tôi được chứ?” bà Sakaki hỏi với nụ cười niềm nở.

 

“Chắc là được,” Mizuki đáp. “Chị không thấy phiền nếu tôi tìm đến đây sao?”

 

“Dĩ nhiên là không rồi. Chỉ cần chị thấy đáng quan tâm là được. Việc này có thể đòi hỏi nhiều buổi tư vấn trước khi chị thấy được có một sự tiến triển nào đó. Nó không giống một chương trình hộp thư truyền thanh mà người chủ trì chương trình chỉ bảo bạn giữ máy nghe. Không có gì phải gấp gáp, chúng ta cứ thong thả tiến hành công việc cho tốt.”

 

 

“Tôi muốn hỏi là liệu chị có thể nhớ được một sự kiện nào đó liên quan đến những cái tên hay không?” Bà Sakaki đặt câu hỏi trong buổi tư vấn thứ hai. “Tên của chị, tên của một ai đó khác, tên của một con vật cưng, tên một địa điểm chị đã từng đến thăm chẳng hạn? Nếu chị có bất cứ một ký ức nào liên quan đến một cái tên, tôi muốn chị kể cho tôi nghe về điều đó. Có thể rất tầm thường cũng được, không sao, miễn là nó có dính dáng đến một cái tên. Hãy cố nhớ xem.”

 

Mizuki nghĩ trong vài phút.

 

“Tôi không nghĩ là mình có một ký ức cụ thể nào đó về một cái tên,” cuối cùng nàng đành phải lên tiếng. “Ít nhất là lúc này, không có cái gì hiện lên trong trí nhớ của tôi cả… Ồ, khoan đã…Tôi có một kỷ niệm liên quan đến một tấm phù hiệu.”

 

“Một tấm phù hiệu. Rất tốt, chị Mizuki à.”

 

“Song đấy không phải là phù hiệu của tôi.” Mizuki nói. “Đấy là phù hiệu của một người khác.”

 

“Không có vấn đề gì cả.” Bà Sakaki nói. “Kể cho tôi nghe chuyện đó đi.”

 

“Như tuần trước, tôi có kể cho chị nghe, trước đây tôi học tại một trường nữ sinh tư thục suốt từ thời trung học cơ sở đến trung học phổ thông.” Mizuki bắt đầu vào chuyện. “Tôi là dân Nagoya mà ngôi trường của tôi lại nằm ở Yokohama vì thế, thời đi học, tôi phải sống trong khu nội trú của trường và chỉ về nhà vào dịp cuối tuần. Cứ tối thứ sáu, tôi lại bắt tàu Shinkansen để về nhà và rồi trở lại trường vào tối chủ nhật. Chỉ mất có hai tiếng để về Nagoya, vì thế tôi hầu như không cảm thấy cô đơn.”

 

Bà Sakaki gật đầu. “Nhưng chẳng phải ở Nagoya cũng có nhiều trường tư thục tốt hay sao? Tại sao chị lại phải đến học ở tận Yokohama?”

 

“Mẹ tôi từng học ở trường này và bà muốn một trong hai cô con gái của mình cũng học ở đó. Vả lại, tôi thấy sống xa gia đình cũng có thể là điều hay. Trường của tôi là một trường của hội truyền giáo nhưng khá tự do. Ở đó, tôi có mấy người bạn tốt. Bọn họ đều giống tôi ở chỗ tất cả đều đến từ những nơi khác. Họ chọn học trường này vì mẹ của họ cũng đã từng là nữ sinh của trường. Tôi học ở đấy sáu năm và nhìn chung, tôi thích ngôi trường này. Có điều, thức ăn ở đó dở tệ.”

 

Bà Sakaki mỉm cười. “Chị nói mình có một bà chị?”

 

“Đúng. Chị ấy hơn tôi hai tuổi.”

 

“Tại sao chị ấy không học ở trường này?”

 

“Chị ấy là người thích ru rú ở nhà, thêm vào đó, sức khoẻ của chị ấy cũng có vấn đề. Vì thế, chị đi học ở trường gần nhà và sống với bố mẹ tôi. Tôi luôn có tính cách độc lập hơn chị mình. Khi học xong tiểu học, bố mẹ tôi hỏi tôi có muốn đi học ở Yokohama hay không, tôi đã trả lời “có”. Cái viễn tưởng cứ đến cuối tuần, mình lại được đi tàu Shinkansen nghĩ cũng thú vị.

 

Phần lớn thời gian học tại trường, tôi phải sống chung phòng với bạn nhưng đến năm trung học phổ thông, tôi được ở một mình một phòng. Tôi cũng được bầu vào ban đại diện sinh viên của khu nội trú. Mọi sinh viên trong khu nội trú đều có phù hiệu treo trên một tấm bảng đặt ở lối vào khu nhà. Mặt trước của tấm phù hiệu sinh viên được in màu đen, mặt sau được in màu đỏ. Bất cứ khi nào đi ra ngoài, sinh viên trong khu nội trú phải lật tấm phù hiệu sinh viên ra mặt sau và khi về, lại phải lật tấm phù hiệu trở lại. Vì vậy, nếu thấy tên của một nữ sinh màu đen thì có nghĩa là cô ấy đang ở trong phòng mình; còn nếu thấy màu đỏ, tức là nữ sinh đó đã đi ra ngoài. Nếu đi đâu đó qua đêm hay phải ra ngoài ký túc xá một lúc, sinh viên phải lấy phù hiệu của mình ra khỏi tấm bảng và đem nó theo. Đó là một hệ thống rất tiện ích. Sinh viên lần lượt phải ngồi trực ở cái bàn đặt ở cửa ra vào và khi có một cú điện thoại gọi đến, chỉ cần liếc nhìn tấm bảng, cũng có thể biết được nữ sinh mà người ta đang cần gặp hiện ở đâu.

 

Trở lại, câu chuyện của tôi xảy ra vào tháng mười. Một buổi tối, trước giờ ăn, tôi đang ở trong phòng của mình làm bài về nhà thì một nữ sinh khoá dưới tên là Ỵuko Matsunaka đến tìm tôi. Hồi đó, cô ấy là nữ sinh xinh nhất khu nội trú – nước da sáng, tóc dài, khuôn mặt đẹp như búp bê. Cha mẹ cô ấy quản lý một nhà khách nổi tiếng ở Kanazawa và khá giàu. Cô ấy không học cùng lớp với tôi vì thế tôi không chắc lắm nhưng tôi nghe người ta nói học lực của cô ấy rất tốt. Nói khác đi, cô ấy là một người nổi bật. Rất nhiều nữ sinh khoá dưới ngưỡng mộ Yuko. Nhưng Yuko không vì thế mà kênh kiệu: cô ấy rất thân thiện. Cô ấy thuộc típ người thâm trầm, không biểu lộ cảm xúc nhiều. Không phải bao giờ tôi cũng hiểu được điều mà cô ấy đang nghĩ. Nữ sinh khoá dưới rất nể trọng cô ấy nhưng tôi cho là cô ấy không có người bạn thân nào cả.”

 

 

Khi Mizuki mở cửa phòng mình thì thấy Yuko Matsunaka đang đứng đó, mặc một chiếc áo len cổ lọ bó thân và quần jeans. “Bạn có thể nói chuyện với tôi một lát được không?” Yuko hỏi. “Được chứ,” Mizuki đáp và thấy ngạc nhiên. “Hiện giờ tôi không phải làm việc gì quan trọng cả.” Mặc dù biết Yuko nhưng Mizuki chưa bao giờ nói chuyện riêng với cô ta. Chưa bao giờ Mizuki nghĩ một người như Yuko lại đến xin mình lời khuyên cho một vấn đề riêng tư nào đấy. Mizuki ra dấu mời Yuko ngồi xuống trong khi lấy nước nóng trong phích để pha trà.

 

“Mizuki này, bạn đã bao giờ cảm thấy ghen tị hay không?” Đột nhiên, Yuko đặt câu hỏi.

 

Mizuki ngạc nhiên bởi câu hỏi ấy nhưng nàng suy nghĩ rất nghiêm túc về nó trong một lúc.

 

“Không, tôi nghĩ là mình chưa bao giờ thấy như vậy,” nàng trả lời câu hỏi của Yuko.

“Thậm chí dù chỉ một lần?”

 

Mizuki lắc đầu. “Ít nhất, khi bạn hỏi tôi bất ngờ thế này, tôi không thể nhớ ra được. Bạn định nói đến sự ghen tị như thế nào kia?”

 

“Chẳng hạn, bạn yêu một ai đó nhưng anh ta lại yêu một người khác. Giống như việc bạn rất, rất muốn một thứ gì đấy nhưng lại có ai kia chộp lấy nó. Hoặc giả như có một việc nào đó bạn không thể thực hiện được nhưng có một người khác làm được việc đó mà chẳng cần phải cố gắng gì… Đại loại như vậy.”

 

“Tôi không nghĩ là mình đã từng có cảm giác như thế,” Mizuki nói. “Còn bạn?”

 

“Nhiều lắm.”

 

Mizuki không biết nói gì. Một cô gái như Yuko còn muốn thứ gì trên đời nữa? Cô ta xinh đẹp, giàu có, học giỏi, nổi tiếng. Cha mẹ cô ta cưng chiều hết mực. Mizuki nghe đồn cô ta đang hò hẹn với một chàng sinh viên đại học điển trai. Vậy thì cô ta còn ghen tị với ai trên thế gian này nữa đây?

 

“Chẳng hạn như có một lần nào khiến bạn thấy ghen tị như vậy?” Mizuki hỏi.

 

“Có lẽ tôi không nói ra thì hơn,” Yuko nói, cân nhắc từng từ. “Nghe hết mọi chi tiết sẽ chẳng ích gì. Nhưng có một thời gian, tôi đã rất muốn hỏi bạn điều ấy. Đã có bao giờ bạn cảm thấy ghen tị?”

 

Mizuki không hiểu Yuko muốn gì ở nàng nhưng nàng quyết định trả lời cô ấy một cách thành thực nhất. “Tôi nghĩ là mình chưa bao giờ thấy có cảm giác như vậy,” nàng nhắc lại. “Tôi không biết vì sao mình lại thế, có lẽ bạn sẽ thấy hơi lạ lùng. Không phải là tôi quá đỗi tự tin hay có được tất cả những gì mình muốn. Thực sự cũng có nhiều thứ mà tôi nên lấy làm thất vọng, nhưng, không rõ vì sao, điều ấy lại không làm tôi thấy ghen tị với kẻ khác. Tôi không hiểu.”

 

Yuko Matsunaka khẽ mỉm cười. “Tôi không cho là sự ghen tị liên quan nhiều đến những điều kiện khách quan – kiểu như nếu người ta may mắn, người ta sẽ không biết ghen tị; còn nếu đời không cho ta hưởng phúc thì ta sẽ thấy ghen tị với kẻ khác may mắn hơn. Không, sự ghen tị ở con người không diễn ra như thế. Nó tựa như một khối u bên trong cơ thể người ta, mỗi ngày một lớn dần, một cách phi lý. Ngay cả khi ta biết nó ở đó, ta cũng chẳng thể làm được gì để ngăn nó lại.”

 

Mizuki nghe Yuko nói mà không ngắt lời. Hầu như chưa bao giờ Yuko có nhiều điều để nói trong một lúc như thế này.

 

“Thật khó giải thích sự ghen tị là gì cho một người chưa từng có cảm thấy điều đó,” Yuko nói. “Nhưng có một điều tôi biết rõ là người ta không dễ sống với cảm giác đó. Điều đó giống như việc mang theo một quả chuông nhỏ quanh mình, hết ngày này sang ngày khác vậy. Bạn nên cảm thấy may mắn vì chưa bao giờ cảm thấy như thế, Mizuki à.”

 

Yuko ngừng nói và nhìn Mizuki bằng một ánh mắt thay cho nụ cười. Cô ấy thật đáng yêu, Mizuki thầm nghĩ. Nếu được như cô ấy thì sẽ cảm thấy thế nào nhỉ? Sẽ cảm thấy thế nào khi đi đến đâu cũng khiến người ta bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của mình? Sắc đẹp- có phải đó là điều khiến người ta có thể kiêu hãnh về bản thân? Hay là một gánh nặng thì đúng hơn? Dẫu nghĩ vậy nhưng thật sự, Mizuki chưa một lần ghen tị với Yuko.

 

“Bây giờ tôi phải về nhà,” Yuko nói, mắt nhìn chằm chằm vào hai bàn tay đặt trên đùi mình. “Một người họ hàng nhà tôi vừa qua đời và tôi phải về dự đám tang. Tôi đã xin phép người quản lý nội trú rồi. Đến sáng thứ Hai, tôi sẽ quay về, nhưng trong khi tôi đi vắng, tôi muốn nhờ bạn giữ giùm tôi phù hiệu, được không?”

 

Cô ấy lấy tấm phù hiệu từ túi quần ra và đưa cho Mizuki.

 

“Tôi không ngại việc giữ nó giùm bạn,” Mizuki nói. “Nhưng tại sao bạn lại phức tạp hoá việc này khi đưa nó cho tôi? Để nó trong một cái ngăn bàn nào đấy không được sao?”

 

Yuko như dán mắt vào cái nhìn của Mizuki. “Tôi chỉ muốn bạn giữ lấy nó lần này,” cô ta nói. “Có một cái gì đó khiến tôi không yên tâm và tôi không muốn để nó lại trong phòng mình.”

 

“Được thôi,” Mizuki nói.

 

“Tôi không muốn một con khỉ nào đó cuỗm mất nó trong khi tôi đi vắng.”

 

“Tôi không nghĩ là ở đây có con khỉ nào,” Mizuki nói với một giọng vui vui. Nhưng có vẻ Yuko không định pha trò đùa. Sau đó, Yuko rời phòng, để lại tấm phù hiệu của mình, một tách trà chưa hề nhấp và một khoảng không gian trống rỗng lạ lùng, nơi cô ấy từng ngồi lại.

 

 

“Đến ngày thứ hai, Yuko không quay về khu nội trú,” Mizuki kể tiếp chuyện cho bà Sakaki. “Giáo viên chủ nhiệm lớp của Yuko rất lo lằng và gọi điện về cho cha mẹ của cô ấy. Hoá ra, cô ấy không hề về nhà. Họ hàng của cô ấy cũng không có ai mất cả. Không có đám tang nào mà cô ấy phải đến viếng. Cô ấy đã nói dối tất cả mọi chuyện.  Khoảng một tuần sau, người ta tìm thấy xác của Yuko. Tôi biết được tin này khi trở về trường từ Nagoya ngày chủ nhật sau đó. Cô ấy đã cứa cổ tay mình ở một nơi nào đó trong rừng. Không ai biết vì sao cô ấy hành động như vậy. Cô ấy không để lại lời nhắn gửi nào. Bạn cùng phòng với cô ấy nói rằng trước đó, cô ấy vẫn bình thường như từ xưa đến nay, chưa bao giờ tỏ ra đặc biệt phiền muộn về một chuyện gì. Yuko đã tự tử mà không nói một lời với bất kỳ ai.”

 

“Nhưng chẳng phải Yuko Matsunaka đã cố kể cho chị một chuyện gì đó sao?” Bà Sakaki hỏi. “Khi cô ta đến phòng của chị và để lại phù hiệu của mình cho chị. Và rồi nói với chị về sự ghen tị.”

 

“Đúng là cô ấy nói đến sự ghen tị. Nhưng vào lúc đó, tôi không hiểu lắm, mặc dù sau này, tôi nhận ra chắc hẳn cô ấy muốn nói với ai đó về điều ấy trước khi chết.”

 

“Chị có nói cho ai biết chuyện cô ta đến tìm gặp chị không?”

 

“Không, tôi chưa bao giờ làm điều đó.”

 

“Tại sao?”

 

Mizuki nghiêng đầu và suy nghĩ một lúc. “Nếu tôi kể ra điều đó cho mọi người, có lẽ sẽ chỉ gây thêm những rắc rối mà thôi. Tôi không nghĩ là có ai đó hiểu được vấn đề.”

 

“Chị muốn nói là sự ghen tị là nguyên nhân dẫn đến sự tự tử của cô ta sao?”

 

“Đúng thế. Như tôi đã nói, một cô gái như Yuko thử hỏi còn phải ghen tị với ai? Lúc đó, mọi người ai cũng đau khổ. Vậy nên tôi quyết định sẽ giữ kín chuyện này cho riêng mình. Chị có thể hình dung được không khí của một khu nội trú dành cho nữ sinh – nói điều đó ra chẳng khác nào quẹt diêm trong một căn phòng đầy khí gas.”

 

“Chuyện gì xảy ra với tấm phù hiệu?”

 

“Tôi vẫn còn giữ nó. Nó nằm trong một cái hộp ở cuối buồng riêng của tôi. Cùng với tấm phù hiệu của tôi.”

 

“Vì sao chị lại giữ nó?”

 

“Lúc đó, ở trường tôi, mọi thứ đều náo động nên tôi đã bỏ lỡ cơ hội để trả lại nó. Càng chờ đợi, tôi càng thấy khó có thể trả lại nó một cách đơn giản được. Mà tôi lại không thể cam tâm vứt nó đi. Thêm nữa, tôi bắt đầu có ý nghĩ rằng có lẽ Yuko muốn tôi giữ lại tấm phù hiệu này. Còn tại sao cô ấy chọn tôi thì tôi không hiểu.”

 

“Có lẽ Yuko quan tâm đến chị bởi lý do nào đấy. Có lẽ ở chị có điểm gì đó cuốn hút cô ta.”

 

“Tôi không nghĩ đến như thế.”

 

Bà Sakaki im lặng, chăm chú nhìn Mizuki một lúc như thể để chắc chắn một điều gì đó.

 

“Tạm gạt chuyện đó sang một bên, nói một cách thành thực, chị chưa bao giờ cảm thấy ghen tị? Dù chỉ một lần trong đời?”

 

Mizuki không trả lời ngay. Cuối cùng, nàng mới lên tiếng: “Tôi không nghĩ là mình dã từng có cảm giác ấy. Tất nhiên, có những người may mắn hơn tôi. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đã từng ghen tị với họ. Tôi nghĩ là mỗi người có một cuộc đời khác nhau.”

 

“Và bởi mỗi người có một cuộc đời khác nhau nên không có cách gì để so sánh cả?”

 

“Tôi cho là vậy.”

 

“Một quan điểm thật thú vị.” Bà Sakaki nói, hai tay bà khoanh lại trên bàn, giọng nói nhẹ nhõm của bà như để lộ một sự thích thú. “Tóm lại, chị không hiểu sự ghen tị là gì, phải vậy không?”

 

“Tôi nghĩ mình hiểu được điều gì gây nên cảm giác ấy. Nhưng đúng là tôi không biết nó thật sự là cảm giác gì. Sự chế ngự của nó đối với con người ra sao? Nó kéo dài bao lâu? Con người ta phải khổ sở như thế nào vì nó? Tất cả những điều đó, tôi không hiểu.”

 

 

Về đến nhà, Mizuki vào trong buồng của mình và lôi ra một hộp các tông cũ, chỗ mà nàng để tấm phù hiệu của Yuko cùng với phù hiệu của mình. Tất cả những gì đáng nhớ trong đời của Mizuki đều chất trong chiếc hộp này, đủ mọi dạng: thư từ, nhật ký, album ảnh, phiếu thành tích học tập. Nàng vẫn có ý định loại bỏ tất cả những thứ này nhưng chưa có thời gian để phân loại, sắp xếp chúng vì thế mỗi lần chuyển nhà, nàng lại phải bê theo chiếc hộp này cùng mình. Nhưng tìm đến mỏi mắt, nàng vẫn không thấy chiếc phong bì trong đó nhét hai tấm phù hiệu. Nàng thấy hoang mang. Khi lần đầu chuyển tới căn hộ này, nàng đã kiểm tra chiếc hộp và nhớ rõ là mình đã nhìn thấy chiếc phong bì ấy. Kể từ dạo đó, nàng chưa một lần mở chiếc hộp này ra. Vì thế chiếc phong bì chỉ có thể nằm ở đây mà thôi. Nó còn có thể biến đi đâu được?

 

 

 

Mizuki vẫn giấu không cho chồng mình biết những buổi nàng đến trung tâm tư vấn. Nàng không chủ định làm thế nhưng giải thích việc này có thể làm cho toàn bộ câu chuyện trở nên phiền phức hơn thực chất. Vả lại, việc Mizuki quên mất tên mình và tuần một lần đến trung tâm tư vấn của khu dân cư dù sao cũng chẳng làm anh lo lắng.

 

Mizuki cũng giữ bí mật việc nàng để mất hai tấm phù hiệu. Nàng nghĩ nếu bà Sakaki không biết việc đó thì sẽ không gây ra những khác biệt nào đối với những buổi tư vấn dành cho nàng.

 

Hai tháng trôi qua. Cứ mỗi thứ tư, nàng lại đến trung tâm tư vấn theo lịch hẹn. Số lượng khách đến tư vấn ở đó đã gia tăng, bởi vậy bà Sakaki buộc phải giảm thời gian cho một cuộc tư vấn từ một tiếng xuống còn ba mươi phút. Tuy nhiên, điều đó cũng không ảnh hưởng gì bởi bây giờ hai người đã biết nhau và biết cách làm thế nào để tận dụng thời gian một cách tốt nhất khi gặp gỡ. Đôi khi Mizuki cũng mong muốn họ có thể nói chuyện lâu hơn nhưng với mức lệ phí thấp, nàng không có lý gì để phàn nàn.

 

“Đây là buổi nói chuyện thứ chín của chúng ta rồi,” bà Sakaki nói, năm phút trước khi kết thúc một cuộc hẹn. “Chị vẫn thường xuyên quên tên mình như truớc, nhưng tình hình không trở nên tồi tệ hơn, đúng không?”

 

“Vâng,” Mizuki trả lời.

 

“Tuyệt vời,” bà Sakaki nói. Bà cài lại chiếc bút bi ruột đen vào túi áo; hai tay xiết chặt đặt trên mặt bàn. Bà ngừng lặng trong giây lát. “Có thể – chỉ là có thể thôi – khi tuần sau chị đến đây, sẽ có một bước tiến lớn liên quan đến vấn đề mà chúng ta đang giải quyết.”

 

“Chị muốn nói đến bệnh quên tên mình của tôi ư?”

 

“Chính thế. Nếu mọi sự đều diễn tiến theo kế hoạch, tôi có thể tìm được nguyên nhân xác định, thậm chí còn có thể đưa nó ra cho chị xem nữa.”

 

“Nguyên nhân khiến tôi quên tên mình sao?”

 

“Đúng vậy.”

 

Mizuki quả tình không hiểu bà Sakaki đang nói gì. “Chị nói đến một nguyên nhân xác định… nghĩa là chị muốn nói đến một cái gì đó hữu hình chăng?”

 

“Dĩ nhiên, đó là một thứ hữu hình,” bà Sakaki trả lời, đồng thời xoa xoa hai bàn tay tỏ vẻ hài lòng. “Tôi không thể đi sâu vào chi tiết cho đến tận tuần sau. Tại thời điểm này, tôi vẫn không chắc liệu điều đó có thành hiện thực hay không. Tôi chỉ hy vọng là có.”

Mizuki gật đầu.

 

“Dù sao đi nữa, tôi muốn nói là chúng ta đã phải đau đầu biết bao nhiêu về chuyện này nhưng rồi mọi sự cuối cùng cũng đi đến một giải pháp. Người ta vẫn nói sống ở đời đi được ba bước lại phải lùi hai bước, chắc chị cũng biết? Vì vậy đừng lo âu. Hãy tin tưởng tôi, tuần sau chúng ta sẽ gặp lại. Và nhớ là đừng quên đặt lịch hẹn khi chị đi ra nhé!”

 

Bà Sakaki kết thúc chuỗi lời của mình với một cái nháy mắt.

 

 

Tuần kế tiếp, khi Mizuki bước vào văn phòng trung tâm tư vấn, bà Sakaki đã chào đón nàng với một nụ cười rạng rỡ nhất mà nàng từng nhìn thấy trên khuôn mặt bà.

 

“Tôi đã tìm ra nguyên nhân khiến chị quên mất tên mình rồi,” bà thông báo tin này với một vẻ tự hào. “Và tôi đã tìm được cách giải quyết.”

 

“Vậy tôi sẽ không còn quên tên của mình nữa đúng không?”

 

“Đúng. Chị sẽ không bao giờ quên tên mình nữa. Vấn đề đã được giải quyết.”

 

Bà Sakaki lấy một cái gì đó ra từ chiếc túi xách tay màu đen phía sau bà và đặt lên bàn. “Tôi tin những thứ này thuộc về chị.”

 

Đang ngồi trên ghế sofa, Mizuki đứng bật dậy và đi về phía chiếc bàn. Trên bàn là hai tấm phù hiệu. Một tấm có ghi tên “Mizuki Ozawa” còn tấm kia đề “Yuko Matsunaka”. Mặt của Mizuki tái nhợt. Nàng trở về chiếc ghế sofa, không thể nói năng gì trong một lúc. Nàng bụm cả hai tay vào miệng như để cố ngăn lời nói thốt ra.

 

“Không có gì lạ khi chị ngạc nhiên đến vậy,” bà Sakaki nói. “Nhưng không có gì phải sợ hết.”

 

“Làm thế nào mà chị…” Mizuki lên tiếng.

 

“Làm thế nào tôi lại tìm thấy những tấm phù hiệu của chị hồi trung học? Chị định hỏi vậy, đúng không?”

 

Mizuki gật đầu.

 

“Tôi đã tìm thấy lại chúng cho chị,” bà Sakaki nói. “Có kẻ đã lấy những tấm phù hiệu này ở chỗ chị và đó là nguyên nhân vì sao chị lại gặp trục trặc khi nhớ tên mình.”

 

“Nhưng ai lại…”

 

“Ai lại đột nhập vào nhà chị và lấy đi hai tấm phù hiệu, và vì mục đích gì?” bà Sakaki nối lời của Mizuki. “Thay vì để tôi trả lời câu hỏi này, tôi nghĩ tốt nhất chị nên hỏi cá nhân người chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ này.”

 

“Kẻ làm việc đó hiện có ở đây?” Mizuki kinh ngạc hỏi.

 

“Tất nhiên. Chúng tôi đã bắt được kẻ đó và lấy lại những tấm phù hiệu. Nghĩa là, không phải tự tôi tóm cổ được hắn. Chồng tôi và một nhân viên của ông đã làm việc này. Chị nhớ tôi đã có lần nói chồng tôi là đội trưởng của ban Công trình công cộng ở khu vực này chứ?”

 

Mizuki gật đầu không suy nghĩ gì.

 

“Chị nghĩ sao khi bây giờ chúng ta sẽ đi gặp thủ phạm? Chị có thể trực diện với hắn, cho hắn một trận tơi bời.”

 

Mizuki đi theo bà Sakaki ra khỏi văn phòng trung tâm tư vấn, xuống sảnh rồi bước vào thang máy. Họ đi xuống tầng hầm của toà nhà và đi dọc theo một đoạn hành lang vắng hoe đến chỗ một cánh cửa ở tận cùng tầng hầm.

 

Bên trong có một người đàn ông cao gầy độ năm mươi tuổi và một người đàn ông vóc dáng lớn hơn, khoảng chừng hai lăm, hai sáu, cả hai đều mặc bộ đồ làm việc may bằng vải kaki nhẹ. Người đàn ông nhiều tuổi hơn đính phù hiệu trên ngực áo ghi tên “Sakaki”; phù hiệu người đàn ông trẻ hơn ghi tên “Sakurada”. Sakurada đang cầm một chiếc gậy tuần đêm.

 

“Chị Ando, đúng không?” ông Sakaki hỏi và rồi tự giới thiệu: “Tôi là Yoshio Sakaki, chồng của Tetsuko. Và đây là anh Sakurada, người làm việc cùng tôi.”

 

“Rất vui được gặp anh,” Mizuki nói.

 

“Nó có gây cho anh rắc rối gì không?” bà Sakaki hỏi chồng mình.

 

“Không, anh nghĩ nó thuộc dạng biết chịu đựng tình thế,” ông Sakaki trả lời. “Ở đây, Sakurada đã để mắt đến nó suốt buổi sáng và rõ ràng nó biết lễ độ. Thế nên chúng ta cứ tiến hành công việc.”

 

Lại có một cánh cửa nữa ở cuối phòng. Sakurada mở nó ra và bật đèn lên. Anh ta đảo mắt quanh phòng rồi quay lại nhìn những người khác. “Trông ổn chứ? Thôi, chúng ta đi vào đi,” anh ta nói.

 

Họ bước vào một căn phòng giống như một dạng nhà kho nhỏ; trong phòng chỉ có độc một chiếc ghế, trên đó một con khỉ đang ngồi. Nó lớn hơn một con khỉ bình thường – nhỏ hơn một người trưởng thành và to hơn một học sinh tiểu học, có lẽ vậy. Lông của nó sậm, dài hơn mức thông thường đối với một con khỉ. Khó có thể đoán được tuổi của nó nhưng rõ ràng nó không ít tuổi. Chân tay con khỉ bấu chặt lấy cái ghế gỗ và chiếc đuôi dài của nó chấm đất. Khi Mizuki bước vào, con khỉ lén nhìn nàng rất nhanh rồi lại cùi gắm nhìn xuống mặt đất.

 

“Một con khỉ ư?” Mizuki quá đỗi ngỡ ngàng.

 

“Đúng vậy,” bà Sakaki trả lời. “Một con khỉ đã lấy trộm những tấm phù hiệu, mang chúng khỏi căn hộ của chị, đúng vào thời điểm chị bắt đầu quên tên mình.”

 

Tôi không muốn một con khỉ nào đó cuỗm nó đi mất. Yuko đã nói thế. Vậy, rốt cuộc, đấy không phải là một câu pha trò, Mizuki đã hiểu. Nàng bỗng gai người.

 

“Tôi rất tiếc,” con khỉ nói, giọng trầm trầm nhưng can đảm, dường như có nhạc tính trong  giọng nói ấy.

 

“Nó nói được ư?” Mizuki sững sờ thốt lên.

 

“Dạ vâng, tôi biết nói,” con khỉ trả lời, sắc thái biểu cảm vẫn không đổi. “Còn có một việc nữa tôi muốn xin lỗi chị. Khi đột nhập vào nơi ở của chị, tôi không định lấy đi thứ gì khác ngoài những tấm phù hiệu nhưng bởi đói quá, nên tôi đã xơi hai quả chuối để trên bàn. Trông chúng ngon quá, tôi không cầm lòng nổi.”

 

“A! Gan thật!” Sakurada lấy cây gậy tuần vụt mấy phát vào gan bàn tay con khỉ. “Ai dám chắc mày không xoáy thứ gì khác nữa? Để tôi cho nó ăn đòn, buộc nó phải khai ra!”

 

“Cứ bình tĩnh!” Ông Sakaki bảo anh ta. “Nó đã tự giác thú nhận việc ăn mấy quả chuối, thêm nữa, tôi không thấy nó giống loài khỉ dữ. Đừng làm gì quá mạnh tay cho đến khi chúng ta nghe được sự thực. Nếu người ta phát hiện chúng ta đang đối xử thô bạo với một con vật ở văn phòng quản lý chung cư thì gay go đấy!”

 

“Tại sao mi lại lấy trộm những tấm phù hiệu?” Mizuki hỏi con khỉ.

 

“Đấy là việc của tôi,” con khỉ trả lời. “Tôi là con khỉ chuyên đi lấy tên của con người. Đó là một thứ bệnh mà tôi phải chịu đựng. Một khi thấy chú ý đến một cái tên nào đó, tôi không thể kìm lòng mình lại. Nhưng xin thưa, không phải bất kỳ cái tên nào cũng tác động đến tôi. Tôi bắt gặp một cái tên cuốn hút mình và tôi nghĩ mình phải có được cái tên đó. Tôi biết làm thế là sai trái nhưng tôi không thể tự kiểm soát được bản thân.”

 

“Mi đã cố đột nhập vào khu nội trú và muốn lấy cắp phù hiệu của Yuko?”

 

“Thưa vâng, là tôi. Tôi đã si mê điên cuồng cô Matsunaka. Chưa bao giờ trong đời tôi lại bị cuốn hút bởi một người nào đó đến mức như thế. Nhưng khi biết tôi không thể nào biến cô ấy thành của riêng mình, tôi đã nghĩ, dù gì đi nữa, ít nhất, mình cũng phải có được cái tên của cô ấy. Chỉ cần sở hữu được cái tên của cô ấy, tôi cũng thấy mãn nguyện. Nhưng trước khi tôi thực hiện kế hoạch của mình thì cô ấy đã qua đời.”

 

“Mi có liên quan gì đến vụ tự tử của cô ấy không?”

 

“Không.” Con khỉ vừa nói vừa lắc đầu đau khổ. “Tôi không có liên quan gì đến việc đó.  Cô ấy tự tử chỉ là vì có một thứ bóng tối ở bên trong chế ngự, trấn áp mình.”

 

“Nhưng làm sao mi biết được, sau ngần ấy năm, phù hiệu của Yuko ở trong nhà ta?”

 

“Tôi đã phải mất một thời gian dài để tìm ra nó. Khi cô Matsunaka qua đời, tôi đã cố lấy tấm phù hiệu của cô ấy trên bảng tin nhưng nó không còn ở đó. Không ai biết nó ở đâu. Tôi đã khổ sở suy nghĩ xem nó có thể nằm ở chỗ nào nhưng càng đánh vật suy nghĩ, tôi càng không xác định được. Lúc đó, tôi không hề nghĩ cô Matsunaka để lại tấm phù hiệu ở chỗ chị vì chị không thật sự chơi thân với cô ấy.”

 

“Đúng vậy,” Mizuki nói.

 

“Thế rồi, một ngày nọ, một ý nghĩ loé lên trong đầu tôi rằng có thể – chỉ là có thể thôi – cô ấy đã trao nó cho chị. Ý nghĩ ấy nhen lên trong tôi vào hồi mùa xuân năm ngoái. Mất một thời gian dài, tôi mới tìm được chị và biết rằng chị đã lập gia đình, tên của chị bây giờ là Mizuki Ando, rằng chị hiện đang sống trong một chung cư ở Shinagawa. Một con khỉ mò mẫm thực hiện một cuộc điều tra như vậy, chị có thể hình dung được, phải thế không? Đấy, tôi đã tìm đến chỗ chị và lấy tấm phù hiệu đi như thế.”

 

“Nhưng tại sao mi lại lấy cả tấm phù hiệu của ta nữa? Sao không đem đi chỉ tấm phù hiệu của Yuko thôi? Mi có biết ta đã phải chịu đựng như thế nào vì cái trò của mi không?”

 

“Tôi xin lỗi, rất xin lỗi,” con khỉ gục đầu xấu hổ. “Khi nhìn thấy một cái tên nào đó mà tôi thích, tôi chỉ muốn chộp lấy nó. Đó là một cảm giác bối rối nhưng thật sự cái tên của chị đã làm xúc động trái tim bé nhỏ tội nghiệp của tôi. Như tôi đã nói trước đó, đó là một thứ bệnh. Tôi bị chi phối bởi một sự hối thúc mà mình không khống chế được. Tôi biết làm thế là sai nhưng rồi tôi vẫn làm việc ấy. Tôi thực tâm muốn xin lỗi vì tất cả những phiền phức mà tôi đã gây ra cho chị.”

 

“Con khỉ này trốn trong hệ thống cống của Shinagawa,” bà Sakaki nói xen vào. “Vì vậy, tôi đã bảo chồng mình yêu cầu một vài đồng nghiệp trẻ tuổi của ông ấy bắt nó.”

 

“Cậu Sakurada này hầu như một mình làm hết việc đó,” ông Sakaki nói.

 

“Ban Công trình công cộng đã phải canh và để ý xem khi nào một nhân vật như thế này đến tìm chỗ nấp trong hệ thống cống của chúng ta.” Sakurada nói với một vẻ hãnh diện. “Con khỉ này rõ ràng có một chỗ nấp dưới lòng đất khu Takanawa, nơi mà nó đã dùng như một căn cứ để từ đó tiến hành lục lọi khắp Tokyo.”

 

“Trong thành phố không có chỗ nào cho chúng tôi sống,” con khỉ nói. “Có quá ít cây cối, quá ít những chỗ có bóng râm vào ban ngày. Nếu đi trên mặt đất, thế nào người ta cũng vây lấy và tìm cách bắt chúng tôi. Trẻ con thì vứt các thứ vào chúng tôi, lấy súng BB3 bắn chúng tôi. Lũ chó thì rượt theo. Đám phóng viên truyền hình thì bất thình lình xuất hiện và chiếu những luồng sáng cực mạnh vào chúng tôi. Vì vây, chúng tôi đành phải trốn dưới lòng đất.”

 

“Nhưng bằng cách nào mà chị lại biết được con khỉ này trốn trong hệ thống cống ở đây?” Mizuki hỏi bà Sakaki.

 

“Trong thời gian chúng ta nói chuyện với nhau hai tháng qua, nhiều thứ dần dần trở nên sáng tỏ đối với tôi,” bà Sakaki giải thích. “Giống như màn sương tan dần vậy. Tôi suy đoán hẳn phải có cái gì đó lấy đi những cái tên và dù là thứ gì đi nữa, nhất định, nó đang trốn dưới lòng đất. Làm phép loại trừ các khả năng, tôi cho rằng nó chỉ có thể ở đường ngầm hoặc dưới cống. Vì vậy, tôi đã nói với chồng tôi rằng tôi nghi có một sinh thể nào đấy, không phải con người, đang sống dưới cống và bảo ông ấy thử kiểm tra xem. Và rồi, không nghi ngờ gì nữa, ông ấy đã tóm được con khỉ này.”

 

Mizuki không biết nói gì sau một hồi. “Nhưng…Làm thế nào mà chỉ nghe tôi kể chuyện, chị lại có thể hiểu ra sự tình như thế?”, cuối cùng, nàng mới có thể thốt ra được.

 

“Có lẽ với tư cách là chồng của Tetsuko, tôi nói thế này e không khách quan,” ông Sakaki nói với một nét mặt nghiêm trang, “nhưng vợ tôi là một người đặc biệt, có những khả năng không bình thường. Suốt hai mươi hai năm chung sống, tôi đã nhiều lần chứng kiến những chuyện lạ lùng. Bởi vậy tôi đã hết sức cố gắng để giúp bà ấy mở trung tâm tư vấn ở khu đô thị này. Tôi biết chỉ cần bà ấy có một nơi để phát huy những năng lực của mình, cư dân khu Shinagawa này sẽ được hưởng lợi.”

 

“Mọi người định làm gì với con khỉ này?”

 

“Không thể để nó sống được,” Sakurada nói ngay, không cần suy nghĩ. “Cho dù nó nói gì đi nữa, cái loài đã có thói xấu như thế này, chẳng mấy chốc sẽ lại ngựa quen đường cũ mà thôi. Không tin con khỉ này được!”

 

“Từ từ đã nào,” ông Sakaki nói. “Cho dù chúng ta có viện lý do gì, nếu một nhóm bảo vệ quyền của các động vật phát hiện ra chúng ta giết một con khỉ, bọn họ sẽ đệ đơn kiện ngay và dám chắc mình phải chất tiền như núi để mà hầu toà. Cậu còn nhớ lần chúng ta giết lũ quạ và vụ rắc rối lớn liên quan đến việc đó chứ? Tôi không muốn lặp lại sự vụ ấy.”

 

“Tôi xin các vị, đừng giết tôi,” con khỉ cúi rập đầu van vỉ. “Những gì tôi làm là sai, tôi biết lỗi rồi. Tôi đã gây ra nhiều rắc rối. Không phải tôi cố cãi đâu nhưng hành động của tôi cũng có thể đem lại điều tốt nào đó.”

 

“Mi có thể đem lại điều tốt gì từ việc trộm cắp những cái tên người cơ chứ?” Ông Sakaki hỏi một cách gay gắt.

 

“Tôi lấy cắp những cái tên người, không hồ nghi gì về việc đó. Nhưng làm vậy, tôi cũng có thể tháo bỏ những gì mang tính chất tiêu cực gắn liền với những cái tên ấy. Tôi không định khoác lác nhưng nếu như hồi trước tôi có thể lấy trộm được tấm phù hiệu của Yuko Matsunaka, nhiều khả năng cô ấy đã không bỏ đời mình.”

 

“Vì sao mi lại cho rằng như vậy?” Mizuki hỏi.

 

“Cùng với cái tên, tôi còn có thể mang đi phần nào đó thứ bóng tối ở bên trong con người nàng,” con khỉ đáp.

 

“Nghe hay quá nhỉ,” Sakurada lên tiếng. “Tôi không tin đâu. Tính mạng con khỉ này đang treo trên sợi tóc – dĩ nhiên nó muốn bào chữa cho hành vi của mình.”

 

“Có lẽ không phải,” bà Sakaki đứng khoanh tay, nói. “Có lẽ nó có cái lý nào đó.” Bà quay về phía con khỉ. “Khi mi lấy đi những cái tên, có nghĩa là mi nhận về cả điều tốt lẫn điều xấu, phải vậy không?”

 

“Dạ, vâng, đúng,” con khỉ thưa. “Tôi không có sự lựa chọn nào cả. Tôi phải nhận lấy trọn gói, có thể nói như vậy.”

 

“Vậy – điều xấu nào gắn liền với cái tên của ta?” Mizuki hỏi con khỉ.

 

“Có lẽ tôi không nên nói,” con khi trả lời.

 

“Hãy nói cho ta biết,” Mizuki khẩn khoản. Nàng ngừng lại một lát rồi tiếp tục: “Nếu mi trả lời câu hỏi của ta, ta sẽ tha thứ cho mi. Và ta sẽ xin tất cả những người hiện diện ở đây tha thứ cho mi.”

 

“Chị muốn nói gì?”

 

“Nếu con khỉ này nói cho tôi biết sự thật, ông sẽ tha cho nó chứ?” Mizuki hỏi ông Sakaki.

 

“Về bản chất, nó không phải là con vật hung dữ. Nó cũng đã lãnh chịu đủ, vì thế, chúng ta hãy nghe những gì nó nói, rồi sau đó, ông hãy đem nó đến núi Takao hay một nơi nào đó tương tự để phóng thích nó. Tôi nghĩ nó sẽ không quấy rầy bất cứ ai nữa đâu. Ông nghĩ sao?”

 

“Tôi không phản đối gì cả, chỉ cần chị thấy ổn là được,” ông Sakaki đáp. Ông quay lại nói với con khỉ: “Mi thấy thế nào? Mi thề là sẽ không quay trở lại phạm vi Tokyo nếu chúng ta thả ngươi về núi chứ?”

 

“Vâng, thưa ngài. Tôi thề là sẽ không quay trở lại,” con khỉ hứa một cách ngoan ngoãn. “Tôi sẽ không bao giờ gây phiền nhiễu đối với quý vị nữa. Tôi cũng đâu còn trẻ trung gì, đây sẽ là một sự khởi đầu mới trong đời tôi.”

 

“Được rồi, vậy, nói đi, điều tồi tệ nào ám lấy cái tên của ta?” Mizuki nhìn thẳng vào đôi mắt nhỏ đỏ hoe của con khỉ và hỏi.

 

“Nếu tôi nói ra, điều đó có thể làm chị thương tổn.”

 

“Ta không quan tâm. Cứ nói.”

 

Con khỉ ngẫm nghĩ một lúc, những nếp nhăn hằn sâu trên trán. “Tôi nghĩ sẽ tốt hơn cho chị khi không phải nghe điều này,” con khỉ nói.

 

“Ta đã bảo mi là không việc gì rồi mà. Ta thật sự muốn biết.”

 

“Vậy, được. Tôi sẽ nói cho chị biết,” con khỉ nói. “Mẹ của chị không yêu chị. Bà ấy chưa bao giờ yêu chị, dù chỉ một phút, kể từ khi chị được sinh ra. Tôi không biết vì sao nhưng ấy là sự thật. Chị gái của chị cũng không ưa chị. Mẹ chị gửi chị đến trường học ở Yokohama bởi vì bà ấy muốn rũ bỏ chị. Bà ấy muốn đẩy chị đi cho khuất mắt, càng xa càng tốt. Cha của chị không phải là người xấu nhưng ông ấy không phải là người có tính cách mạnh mẽ, ông ấy không thể che chở cho chị được. Bởi những lý do ấy, ngay từ hồi còn nhỏ, chị chưa bao giờ được đón nhận đủ tình yêu thương. Tôi nghĩ chị cũng mơ hồ nhận thức được điều đó nhưng chị đã cố tình ngoảnh mặt đi, không nhìn vào nó. Chị đã giam kín cái hiện thực đau đớn đó trong một góc nhỏ tối tăm, nhỏ bé, sâu trong lòng mình và vùi lấp nó lại. Chị đã cố kiềm chế tất cả những cảm xúc tiêu cực. Khuynh hướng tự vệ đó đã biến thành một phần bản chất của con người chị. Vì tất cả những điều này, chị chưa bao giờ là người có khả năng yêu thương ai đó một cách sâu sắc, vô điều kiện.”

Mizuki lặng im.

 

“Cuộc sống gia đình của chị có vẻ hạnh phúc, không có vấn đề gì. Có lẽ đúng là như vậy thật. Nhưng chị không thực sự yêu chồng mình. Tôi nói đúng chứ? Thậm chí, khi chị có con, thì tình trạng cũng vẫn vậy mà thôi.”

 

Mizuki không nói gì hết. Nàng sụp người xuống sàn nhà và nhắm nghiền mắt lại. Nàng có cảm giác như toàn bộ cơ thể mình như đang rã rời thành từng mảnh. Da thịt của nàng, nội tạng của nàng, xương cơ của nàng – tất thảy đều nát tan. Tất cả những gì nàng nghe thấy chỉ là tiếng thở của mình.

 

“Thật kinh khủng khi để cho một con khỉ mở miệng,” Sakurada lắc đầu giận dữ. “Sếp, tôi không thể chịu đựng được con khỉ này thêm được nữa. Hãy cho nó một trận lên bờ xuống ruộng để biết thân biết phận!”

 

“Hượm đã,” Mizuki lên tiếng. “Những gì con khỉ nói là sự thật. Tôi đã biết điều đó từ lâu nhưng tôi luôn cố nhắm mắt, bịt tai để quên đi. Nó đã nói ra sự thật, vì thế hãy tha cho nó. Hãy đưa nó đến núi và để nó đi.”

 

Bà Sakaki nhẹ nhàng đặt tay lên bờ vai của Mizuki. “Chị có chắc chắn là mình thấy ổn  rồi không?”

 

“Không sao đâu, chỉ cần tôi lấy lại được tên mình. Từ bây giờ, tôi sẽ sống với những gì ở bên ngoài kia. Đấy là cái tên của tôi. Và đấy là cuộc đời của tôi.”

 

 

Khi Mizuki tạm biệt con khỉ, nàng đưa cho nó tấm phù hiệu của Yuko Matsunaka.

 

“Cậu mới là người nên giữ lấy nó, chứ không phải tôi,” nàng bảo. “Hãy giữ cẩn thận cái tên của cô ấy. Và đừng lấy trộm cái tên của bất cứ người nào nữa.”

 

“Tôi sẽ giữ nó hết sức cẩn thận. Và tôi sẽ không bao giờ ăn trộm nữa, tôi xin hứa,” con khỉ nói.

 

“Cậu có biết vì sao Yuko lại để lại tấm phù hiệu này cho tôi trước lúc cô ấy chết không? Tại sao cô ấy lại chọn tôi?”

 

“Tôi không biết tại sao cả,” con khỉ trả lời. “Nhưng vì cô ấy làm vậy thế nên tôi và chị mới được gặp nhau, như là sự run rủi của số phận. Tôi cho là thế.”

 

“Chắc là cậu nói đúng,” Mizuki nói.

 

“Những gì tôi nói ra có làm chị đau đớn?”

 

“Có,” Mizuki đáp. “Nó khiến tôi rất đau khổ.”

 

“Tôi xin lỗi. Tôi không muốn nói ra điều ấy với chị.”

 

“Không sao cả. Thực tình tôi cũng đã biết điều đó rồi. Đó là điều mà sẽ đến một ngày, tôi phải đương đầu với nó.”

 

“Tôi thấy nhẹ lòng khi nghe chị nói vậy,” con khỉ bảo.

 

“Tạm biệt nhé,” Mizuki nói. “Tôi không nghĩ chúng ta sẽ lại gặp nhau đâu.”

 

“Xin hãy bảo trọng,” con khỉ tạ từ. “Cảm ơn mọi người đã cứu cuộc đời đáng thương của tôi.”

 

“Từ giờ, mi đừng có dại mà ló mặt ở Shinagawa nhé,” Sakurada lấy cây gậy tuần đập đập vào lòng tay con khỉ cảnh cáo. “Lần này bọn ta tha cho mi vì sếp bảo vậy, nhưng nếu ta còn bắt được mi ở đây thêm một lần nữa, mi sẽ không còn cơ hội được cứu thoát nữa đâu đấy.”

 

 

“Vậy tuần tới chúng ta sẽ làm gì?” Bà Sakaki hỏi Mizuki sau khi hai người trở về văn phòng trung tâm tư vấn. “Chị còn có điều gì muốn trao đổi với tôi nữa không?”

 

Mizuki lắc đầu. “Không. Nhờ chị, tôi nghĩ vấn đề của mình đã được giải quyết. Tôi rất biết ơn chị vì tất cả những gì chị đã làm cho tôi.”

 

“Chị thấy không cần phải trao đổi tiếp về những gì mà con khỉ đã nói ra với chị sao?”

 

“Không. Tôi thấy tự mình nên giải quyết những việc đó. Tôi thấy mình cần phải bỏ thời gian để tự suy nghĩ lại về những điều ấy.”

 

Bà Sakaki gật đầu. “Nếu chị quyết tâm đối diện với nó,” bà nói, “tôi tin nó sẽ khiến chị trở nên mạnh mẽ hơn.”

 

Hai người phụ nữ bắt tay nhau và chào tạm biệt.

 

Về nhà, Mizuki lấy tấm phù hiệu của mình và sợi dây chuyền đeo tay ra, nhét chúng vào một chiếc phong bì màu nâu nhạt. Nàng đặt chiếc phong bì ấy vào chiếc hộp các tông để ở trong buồng mình. Cuối cùng thì nàng cũng đã lấy lại được cái tên của mình và trở về cuộc sống bình thường. Mọi thứ có thể lại trôi chảy. Và rồi đến một lúc nào đó, có thể lại không như vậy nữa. Nhưng ít nhất, lúc này, nàng đã có cái tên của mình. Cái tên của nàng. Chỉ của riêng nàng mà thôi.

 

 

Chú thích:

  1. Bệnh Alzheimer: bệnh teo não dẫn đến sự sa sút trí lực.
  2. Bệnh Huntington: một căn bệnh di truyền nguy hiểm phá huỷ nơ ron thần kinh trong não bộ liên quan đến năng lực cảm xúc, trí tuệ và vận động của con người. Bệnh Huntington có quá trình diễn tiến từ sự co giật khớp xương, thân mình, cơ mặt dẫn đến những vấn đề bất bình thường liên quan đến tâm thần. Bệnh này thường xuất hiện ở những người độ tuổi trung niên từ 30 đến 50 nhưng cũng có thể phát sinh ở những người ở độ tuổi trẻ hơn.
  3. Súng BB: một loại súng sử dụng loại đạn cỡ nhỏ gọi là BB. Loại súng này không có khả năng gây nguy hại nghiêm trọng đối với người và những con thú lớn, trừ khi nó bắn trúng vào những bộ phận nhạy cảm của cơ thể. Ở một số nước, loại súng này đã bị cấm.

Hải Ngọc dịch

Chuyển ngữ theo bản dịch từ Nhật ngữ sang Anh ngữ A Shinagawa Monkey của Philip Gabriel, đăng trên tạp chí The New Yorker, ngày 13/02/2006.