Tag Archives: văn học nhật bản

Yoko Ogawa – Nhật ký thai kỳ

Making-Peace-2008-oil-on-canvas-48x40

29 tháng 12 ( Thứ Hai): Hôm nay, chị tôi đến bệnh viện M. Vì chị hầu như chưa gặp một bác sĩ nào khác ngoài bác sĩ Nikaido nên cuộc hẹn làm chị thấy căng thẳng. Chị cứ trì hoãn việc này mãi, khi thì lo lắng về chuyện chọn trang phục, lúc lại băn khoăn không biết nên nói như thế nào với bác sĩ, cho đến ngày cuối cùng trong năm phòng khám bệnh viện làm việc. Sáng hôm nay, chị vẫn còn chưa yên tâm.

“Không biết chị phải cho họ xem biểu đồ thân nhiệt của bao nhiêu tháng nhỉ?” Chị lơ đãng ngước lên khỏi bàn ăn sáng nhưng không hề có động tác gì cho thấy chị muốn đứng dậy.

“Tại sao chị không mang tất cả đi?” Tôi hỏi lại.

“Nhưng như thế thì phải mang biểu đồ của cả hai năm ư?” Chị lên giọng, đồng thời vừa khuấy chiếc thìa trong hũ sữa chua. “Hai mươi tư cái biểu đồ. Trong khi đó, chỉ có mấy ngày là liên quan đến cái bầu. Chị nghĩ mình chỉ đưa cho họ xem biểu đồ của tháng này mà thôi.”

“Vậy suốt hai năm, ngày nào chị cũng đo thân nhiệt để làm gì?”

“Chị không thể nào chịu nổi khi nghĩ rằng có một vị bác sĩ nào đó cứ mân mó những bảng biểu đồ ấy trước mắt mình, cứ như thể ông ta muốn săm soi mọi chi tiết để xem chị đã có bầu như thế nào vậy.” Chị chăm chú nhìn sữa chua dính vào thìa của mình. Những giọt sữa trở nên lờ nhờ, sánh và trắng, rồi rơi trở lại xuống hũ.

“Chị cứ quan trọng hoá vấn đề,” tôi vừa nói vừa đậy hũ sữa chua lại, đem cất vào tủ lạnh. “Chúng chỉ là mấy cái biểu đồ thôi mà.”

Cuối cùng thì chị quyết định đem đến bác sĩ tất cả các biểu đồ nhưng viêc này làm chị phải mất thời gian một chút. Tôi không hiểu sao chị tôi ngày nào cũng cẩn thận đo thân nhiệt vậy mà lại cẩu thả đối với chính những bảng biểu đồ ấy. Những tờ giấy vẽ biểu đồ, đáng ra phải được cất giữ trong phòng ngủ của chị, lại lạc sang tận giá để tạp chí hay bàn điện thoại. Thỉnh thoảng, tôi lại bắt gặp chúng khi lật giở một tờ báo hay lúc gọi điện. Bây giờ tôi mới nhận ra có một cảm giác lạ lùng khi mình tìm thấy những mẩu giấy có đường viền răng cưa này. Những lần ấy tôi thường thầm phỏng đoán: “Hẳn là chị đã đến kỳ rụng trứng” hoặc “ Thân nhiệt bình quân tháng này của chị xuống thấp.”

Chị tôi chọn bệnh viện M vì những lý do tình cảm. Tôi muốn đưa chị đến một bệnh viện nào đó lớn hơn, trang thiết bị tốt hơn nhưng chị tôi đã quyết định chọn bệnh viện này. Chị bảo: “Từ hồi còn nhỏ, chị đã nghĩ rằng sau này nếu có con, nhất định chị sẽ sinh ở đó.”

Bệnh viện M là một bệnh viện phụ sản nhỏ của tư nhân ở gần nhà chúng tôi từ thời ông nội. Khi chị em tôi còn nhỏ, chúng tôi thường lén vào trong vườn bệnh viện chơi. Nhìn từ phía trước, khu nhà gỗ ba tầng của bệnh viện trông thật âm u với những bức tường rêu, một tấm biển đã mờ mất một nửa và những cửa sổ bạc hơi sương. Nhưng nếu đi từ vườn ra phía sau lại thấy khu nhà này sáng sủa, nhiều nắng. Không hiểu sao sự tương phản ấy lại cuốn hút chị em tôi.

Phía sau khu nhà bệnh viện có một bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận mà chị em tôi đều thích lăn mình trên đó. Khi tôi lăn mình, những hình ảnh vụt thoáng của bãi cỏ xanh và bầu trời lấp loáng luân chuyển nhau trong mắt tôi rồi nhòa thành một màu ngọc lam nhạt. Trong khoảnh khắc, bầu trời, ngọn gió, mặt đất chợt nhẹ tênh và tôi có cảm giác như đang bềnh bồng trong không gian vậy. Khoảnh khắc đó, với tôi, thật đáng yêu.

Nhưng trò chơi lý thú của hai chị em tôi là khám phá xem chuyện gì đang diễn ra bên trong bệnh viện. Trèo lên những chiếc thùng vốn đựng bông gạc nay đã bỏ không, chúng tôi dòm qua cửa sổ vào phòng khám.

“Chị em mình sẽ gặp rắc rối đấy nếu như người ta bắt được,” tôi nói. Tôi luôn nhát hơn chị mình.

“Yên tâm đi, họ không làm gì đâu. Bọn mình chỉ là trẻ con thôi mà.” Chị vừa nói vừa lẳng lặng lấy gấu áo dụi vào cửa kính để lau đi những chỗ mờ do hơi thở của chúng tôi đọng lại. Áp mặt vào cửa sổ, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi sơn trắng còn mới bên trong. Cái mùi ấy, như một chỗ nhức đau nằm sâu trong óc, vẫn làm tôi nhớ đến cái bệnh viện này sau bao nhiêu năm tháng.

Căn phòng luôn không có người vào giữa trưa, trước khi giờ khám buổi chiều bắt đầu và chúng tôi có thể ngắm nhìn nó thoải mái. Một hàng chai lọ được đặt trên một cái khay hình ô van gợi một điều gì đó rất bí ẩn. Chúng không có nắp đậy hay dán tem niêm phong, chỉ có những chiếc nút thủy tinh mà tôi vô cùng muốn được nhấc chúng ra. Những chiếc chai đã ố màu của những dung dịch chứa trong chúng: nâu, tía hoặc đỏ sẫm và khi nắng hắt qua chúng, những chất lỏng ấy dường như long lanh.

Một chiếc ống nghe, mấy cái banh và một máy đo huyết áp nằm trên bàn bác sĩ. Cái ống thanh mảnh, cong cong, cái thiết bị gắn cố định màu xỉn bạc và quả bóp hình trái lê bằng cao su của cái máy đo huyết áp khiến nó trông giống như một con côn trùng lạ lẫm làm tổ giữa những dụng cụ khác.Có một vẻ đẹp kỳ quặc ở những hàng chữ khó hiểu in trên những biểu đồ y học. Một tấm áp phích trên tường có ghi: “Nơi xử lý trường hợp đẻ ngược”. Bức tranh vẽ một phụ nữ gần như nằm sấp, ngực áp xuống sàn nhà. Chị ta mặc một chiếc váy bó chật đến nỗi tưởng như đang trần truồng. Chị ta nằm đấy, trong tấm áp phích đã ngả vàng, mắt nhìn ngây dại về một nơi xa xăm đâu đó. Thế rồi khi tiếng chuông từ một ngôi trường lân cận nào đó vang lên là chúng tôi biết đã đến giờ khám bệnh buổi chiều. Chúng tôi phải rời khỏi nơi này khi nghe thấy tiếng của các y tá trở về sau bữa trưa.

Đôi khi tôi nhìn thấy những người phụ nữ nhìn ra cửa sổ từ tầng ba. Họ dường như mới sinh xong. Họ mặc trên mình tấm áo choàng tắm dày cộm, tóc buộc vổng lên như đuôi ngựa. Không ai trong số họ trang điểm cả. Mấy nhánh tóc của họ lòa xòa bên thái dương và khuôn mặt của họ không một chút biểu cảm. Tôi không hiểu tại sao họ lại không thấy sung sướng hơn khi được nằm ngủ ở tầng trên của một phòng khám đầy những đồ vật thú vị như thế.

Chị tôi trở về trước giờ trưa. Tôi gặp chị ngay ở hành lang trước nhà khi đang chuẩn bị đi làm.

“Họ nói sao?”

“Chị có bầu tháng thứ hai rồi – chính xác là sáu tuần.”

“Họ có thể nói chính xác như vậy ư?”

“Có thể, khi họ xem tất cả các biểu đồ,” chị vừa nói vừa cởi áo khoác, vội vã đi qua tôi. Có vẻ như chị không thật hào hứng với cái tin này. “Bữa tối ăn gì vậy?”

“Súp hải sản,” tôi đáp. “Sò và mực ống đang rẻ mà.”

Chị đổi đề tài nhanh đến nỗi tôi quên hẳn việc phải nói lời chúc với chị. Nhưng rồi sau đó, tôi lại băn khoăn không biết liệu từ “chúc” có thích hợp với đứa trẻ sắp sửa ra đời – kết quả của chị và anh rể – hay không nữa. Tôi tra từ “chúc” trong từ điển: nghĩa của nó là “mong cho ai đó vui vẻ”.

“Chẳng có ý nghĩa gì lắm,” tôi vừa lẩm bẩm vừa dò ngón tay theo những hàng chữ mà bản thân chúng cũng chẳng hứa hẹn điều gì vui vẻ cả.

30 tháng 12 (Thứ Ba), 6 tuần + 1 ngày: Từ hồi còn nhỏ, tôi đã không thích ngày ba mươi tháng mười hai. Bao giờ tôi cũng có thể chịu đựng ngày ba mươi mốt bằng cách tự nhủ mình: cuối cùng thì cũng hết một năm. Nhưng ngày ba mươi, không hiểu sao, cứ luôn rối tung cả lên, không chuyện này thì chuyện khác. Làm bữa cơm truyền thống mừng năm mới, dọn dẹp nhà cửa, đi mua sắm – không việc nào tôi hoàn tất được trọn vẹn.

Khi cha mẹ tôi đau ốm rồi qua đời, người này đi ngay sau người kia thì những việc Tết nhất đối với tôi thậm chí còn sơ sài hơn. Điều này cũng không thay đổi khi anh rể đến ở cùng chúng tôi. Tuy vậy, bữa sáng hôm nay thoải mái hơn một chút so với ngày thường vì tôi không phải đến trường còn văn phòng của anh rể cũng đóng cửa nghỉ tết.

“Khi thiếu ngủ thì ngay cả ánh mặt trời mùa đông cũng làm người ta chói mắt,” anh vừa nói, mắt nheo nheo sau cặp kính, vừa từ từ hạ mình xuống ghế. Nắng từ vườn rọi vào nhà, hắt trên mặt bàn và ba đôi dép đi trong nhà của chúng tôi loang bóng dài trên sàn.

“Hôm qua anh về muộn à?” Tôi hỏi. Hôm qua anh đi liên hoan tất niên của phòng khám nha khoa nơi anh làm việc. Có lẽ tôi đã ngủ khi anh về nhà.

“Anh phải bắt chuyến tàu cuối ngày,” anh rể trả lời. Khi anh nâng tách cà phê của mình lên, một mùi ngòn ngọt thoang thoảng bay ra. Anh cho nhiều kem và đường vào cà phê của mình đến nỗi phòng bếp như có mùi của tiệm bánh ngọt ăn sáng. Tôi vẫn thường tự hỏi làm sao một người chuyên đi làm nẹp răng và răng giả cho thiên hạ lại có thể uống một thứ cà phê ngọt như vậy mà chẳng hề lo gì đến việc bị sâu răng. “Tàu cuối ngày bao giờ cũng tồi tệ hơn giờ cao điểm,” anh nói thêm. “Nó luôn chật cứng và ai cũng say khướt.” Chị tôi lấy dao xắt bơ trát lên miếng bánh mì của mình.

Kể từ buổi gặp bác sĩ phụ khoa hôm qua, việc chị có bầu giờ đây đã rõ ràng nhưng dường như chị chẳng có gì đổi khác. Bình thường, một sự việc nhỏ nhặt nhất như tiệm tóc quen của chị đóng cửa, con mèo giả của nhà hàng xóm chết, vòi dẫn nước chính bị hỏng – cũng đủ làm cho chị thấy bất an và phải chạy đến chỗ bác sĩ Nikaido.

Tôi không hiểu chị tôi đã báo cái tin ấy cho anh rể như thế nào. Tôi thật sự không hiểu họ nói gì khi không có tôi ở bên. Thực ra thì tôi chẳng hiểu gì về các cặp vợ chồng. Đối với tôi, họ như một hiện tượng nào đó ở thể khí không lý giải được – một sự vật không hình dạng, không màu sắc, khó hiểu, bị kẹt trong một chiếc cốc thí nghiệm.

“Món này nhiều hạt tiêu quá,” chị vừa cắm dĩa vào món trứng ốp lết vừa lầm bầm. Bởi chị lúc nào cũng có chuyện để kêu ca về thực phẩm nên tôi cứ vờ như không nghe thấy. Lòng đào trứng rỏ giọt xuống từ đầu dĩa của chị như một dòng máu vàng. Anh rể tôi đang ăn những lát kiwi. Tôi thì không thể chịu nổi trái kiwi – hạt của nó làm tôi liên tưởng đến những con bọ nhỏ màu đen, mà trái kiwi sáng nay lại rất chín và mềm. Những hạt mồ hôi đã tụ lại trên mặt bơ.

Rõ ràng cả hai người đều không tỏ ra lo lắng đem chuyện cái bầu ra bàn nên tôi cũng không nhắc đến nó nữa. Ngoài vườn chim đang hót. Vài gợn mây tan ra phía góc trời xa xa. Tiếng chạm bát đĩa đan xen với tiếng nhai của mọi người.

Không một ai trong chúng tôi ý thức rõ năm cũ đã sắp hết. Không có một cành thông nào để trang trí cửa, cũng không có đỗ đen hay mochi1 trong nhà. “Em nghĩ là ít nhất chúng ta nên dọn dẹp nhà cửa,” tôi nói cứ như chỉ cho riêng mình nghe mà thôi.

“Bây giờ đã có bầu, em không nên làm việc này quá sức,” anh rể vừa nhằn trái kiwi vừa quay sang chị tôi nói. Anh nói một điều hiển nhiên cứ như thể đấy là một chân lý sâu sắc.

8 tháng 1 (Thứ Năm), 7 tuần + 3 ngày:  Chị tôi bắt đầu ốm nghén. Tôi không hiểu vì sao nó lại xuất hiện đột ngột như vậy. Ngay từ đầu, chị đã nói chị sẽ không bị ốm nghén, chị ghét cái tính trạng mỏi mòn ấy. Chị tin chắc những hiện tượng như ngủ nhân tạo hay mất cảm giác chẳng hạn sẽ không có ở chị. Nhưng trưa nay, khi chúng tôi đang ngồi ăn mì ống và pho mát thì bỗng nhiên, chị giơ chiếc thìa của mình lên và trân trân nhìn nó.

“Cái thìa này trông ngộ nhỉ?” chị nói. Tôi thì thấy nó hoàn toàn bình thường.

“Nó có mùi rất kỳ cục,” chị căng lỗ mũi ngửi chiếc thìa và nói.

“Kỳ cục như thế nào?”

“Chị không biết nữa… nó như cát ấy. Khi còn bé, em đã bao giờ ngã vào một hố cát chưa? Như thế đó, khô và ráp.” Chị đặt lại chiếc thìa vào đĩa của mình rồi lau miệng.

“Chị ăn xong rồi à?” Tôi hỏi. Chị gật đầu, rồi vẫn cứ ngồi chống cằm bên bàn. Ấm nước bắt đầu reo trên lò. Chị nhìn tôi nhưng không nói gì nên tôi cứ tiếp tục ăn.

“Chẳng lẽ nước sốt mì không làm em nghĩ đến những loại nước trái cây giúp tiêu hoá hay sao?” Chị thì thào. Chị cúi đầu về phía trước, nhìn tôi chằm chặp, đầu nghiêng về một bên. Tôi gõ chiếc thìa của mình vào đĩa. “Và màu của nó nữa, nhìn có giống mỡ lợn không? Cả những sợi mì cũng lạ. Chúng cứ trôi thun thút vào miệng khiến chị tưởng như mình đang ăn những khúc ruột, những cái ống nhỏ, trơn chứa đầy dịch dạ dày vậy.” Tôi cầm chiếc thìa trên tay, nhìn chị vừa nói vừa ứa nước dãi mà thấy buồn khi chị trở nên như thế này. Chị cứ nói mãi, nói mãi, cho đến khi không còn gì để nói nữa và rồi đứng dậy đi. Món mì ống đã trở thành một cái gì đó bùng nhùng, trắng và lạnh, trên đĩa chị.

28 tháng 1 (Thứ Tư), 10 tuần + 2 ngày: Tình trạng ốm nghén của chị trở nên tồi tệ hơn. Dường như chị tin rằng nó chẳng thể khá lên dần dần, cũng không biến mất hoàn toàn được và điều đó làm chị chán nản. Nài ép thế nào đi nữa, chị cũng không thể ăn được cái gì cả. Tôi gợi ý đủ các món có thể nghĩ ra được nhưng chị đều từ chối. Thậm chí, tôi còn lục tìm tất cả sách nấu ăn trong nhà và cùng chị xem chúng nhưng việc này cũng vô hiệu. Bây giờ tôi mới nhận ra ăn thật sự cũng là một việc không đơn giản.

Tuy nhiên, nếu chị không ăn gì thì ắt sẽ đau bụng vì thế cuối cùng chị cũng bảo chị cần một cái gì đó “để cho vào mồm”. (Chị không thể thốt ra được từ “ăn” nữa.) Chị quyết định chọn một cái bánh sừng bò. Bánh quế hay khoai tây cũng được nhưng một cái bánh sừng bò còn thừa lại sau bữa sáng ló ra từ giỏ bánh mì có lẽ đã lọt vào mắt chị. Chị xé chiếc bánh thành từng mẩu nhỏ, ấn vào miệng, nuốt mà không nhai. Rồi để cho trôi, chị nhấp một ngụm nhỏ nước khoáng, mặt nhăn lại khổ sở khi nuốt mẩu bánh. Chẳng giống như người ta ăn chút nào mà giống như đang thực hiện một nghi thức, nghi lễ thần bí nào đó hơn.

Anh rể tôi mang về nhà mấy bài báo mà anh nghĩ có thể giúp ích: “Làm thế nào mà tôi qua được kỳ ốm nghén” hay “Những ông chồng có thể giúp gì cho các bà vợ đang ốm nghén”. Thật khó tin nhưng cái bầu dường như ảnh hưởng đến cả chuyện ăn uống của anh nữa. Ở bàn ăn, anh chỉ ngồi gẩy thức ăn, hầu như chẳng ăn gì cả. “Anh không thể nào ăn được khi chị đang có cảm giác tiêu cực như thế,”anh thở dài bảo. Có lẽ chị nghĩ anh làm như vậy chỉ cốt để chứng tỏ sự tử tế của mình nhưng tôi để ý thấy lúc xoa lưng cho chị khi chị đang cố nuốt một mẩu bánh, mặt của anh nhợt nhạt khủng khiếp và một tay anh phải bụm miệng lại. Họ ôm lấy nhau rũ rượi như một đôi chim bị thương rồi dìu nhau về phòng ngủ đến tận sáng hôm sau mới thấy mặt.

Tôi thương hại cho anh rể vì anh chẳng có lý do gì để cảm thấy ốm đau như vậy và tức giận bởi những tiếng thở dài, rên rẩm thì thầm của anh. Tự nhiên tôi nghĩ mình sẽ yêu người đàn ông nào có thể chén ngon lành cả một bữa tối kiểu Pháp đủ ba món ngay cả khi anh ta biết rõ tôi đang nằm liệt giường vì ốm nghén.

6 tháng 2 (Thứ Sáu), 11 tuần + 4 ngày: Bây giờ tôi ăn một mình. Tôi cứ vừa nhẩn nha ăn vừa ngắm những luống hoa hay một chiếc xẻng bị bỏ quên trong vườn hay những cụm mây nhởn nhơ bay qua. Tôi thích những khoảnh khắc yên tĩnh như thế, thậm chí thỉnh thoảng, tôi còn uống bia hay hút thuốc trong bữa trưa, điều mà chị tôi vốn rất ghét. Tôi không cô đơn. Ăn một mình có lẽ hợp với tôi. Nhưng sáng nay, khi tôi đang rán thịt muối và trứng thì chị tôi hớt hải chạy xuống cầu thang.

“Mùi gì kinh khủng vậy?” Chị vừa giật tóc mình vừa gào lên. “Chẳng nhẽ em không thể không làm một việc gì đó được sao?” Dường như chị sắp bật khóc. Bàn chân trần lộ ra dưới chiếc quần pijama của chị trông thật lạnh giá và trong suốt tựa thủy tinh. Chị tắt bếp mà cứ như thể muốn giật phăng cái núm điều chỉnh ra khỏi bếp lò.

“Chỉ là thịt muối và trứng thôi mà chị,” tôi nói nhỏ.

“Thế thì tại sao cả nhà này lại lợm cái mùi ghê tởm ấy? Nào bơ, nào mỡ, rồi lại trứng, lại thịt lợn – trời ơi, tôi ngộp thở mất!” Chị gục đầu xuống bàn nức nở. Tôi không biết phải làm gì, đành bật quạt thông gió lên và mở cửa sổ ra.

Lần này chị khóc rất thê thiết. Nhìn chị khóc, có cảm giác như đang xem một cảnh trong một vở kịch vậy. Tóc chị xoà xuống mặt, hai bờ vai cứ run lên. Tôi vỗ vỗ lưng chị để an ủi.

“Em phải làm cái gì đó đi!” Chị nói trong tiếng nghẹn ngào. “Khi tỉnh dậy, cả cơ thể chị như bị ám nhiễm bởi cái mùi khắm lặm đó. Nó ở trong miệng chị, trong phổi chị. Dường như nó xâm chiếm toàn bộ cơ thể bên trong chị.”

“Em xin lỗi,” tôi lí nhí. “Em sẽ cẩn thận hơn.”

“Mà không chỉ thịt muối và trứng thôi đâu. Cả chảo rán, bát đĩa, rồi xà bông trong phòng tắm, màn cửa trong buồng ngủ – tất cả đều dậy mùi. Nó lan khắp cái nhà này như một con a míp khổng lồ ngấu nghiến hết tất cả các mùi khác, cứ thế, cứ thế mãi.” Chị ngồi đó sùi sụt, khuôn mặt đẫm nước tì trên bàn còn tôi thì vẫn chỉ biết đứng đấy, đặt tay lên lưng chị, quan sát những ô kẻ ca rô trên bộ pijama của chị. Tiếng mô tơ của quạt thông gió nghe to hơn bình thường.

“Em biết, em biết rồi,” tôi thì thầm. Tôi hít một hơi thở sâu, nhưng chẳng ngửi thấy gì cả. Vẫn là phòng bếp buổi sáng đấy thôi. Những chiếc tách cà phê được xếp ngăn nắp trong tủ ly. Những chiếc khăn lau bát trắng phơi trên giá. Một mảng trời xanh lạnh lẽo hiện qua cửa sổ.

Tôi không biết chị đã khóc trong bao lâu. Có thể chỉ mấy phút thôi nhưng dường như có cảm giác chị đã khóc lâu hơn thế. Nhưng dù thế nào đi nữa thì chị cũng đã khóc cho đến khi không thể khóc được nữa. Rồi chị hắt một hơi thở dài, chậm rãi và ngước nhìn tôi. Hai má và mi mắt chị đầm đìa nhưng nét mặt chị lại bình thản.

“Từ giờ, em sẽ không sử dụng phòng bếp khi chị ở đây,” tôi nói. Chị gật đầu. Thịt muối và trứng của tôi đã trở nên lạnh tanh, nằm yên trong chảo rán.

10 tháng 2 (Thứ Ba), 12 tuần +1 ngày: Đã mười hai tuần rồi nhưng tình trạng ốm nghén của chị vẫn tồi tệ như trước. Nó dính chặt lấy chị như một chiếc áo cánh ướt nhẹp. Đó có thể là lý do khiến hôm nay, chị đến chỗ bác sĩ Nikaido. Thần kinh, hoóc môn, cảm xúc của chị – dường như tất cả đều có vấn đề không ổn. Như mọi lần trước khi đến chỗ bác sĩ, chị lại bỏ hàng giờ để nghĩ xem nên mặc gì. Chị trải hết áo choàng, váy ngắn, áo len, khăn quàng lên trên giường và ngắm nhìn chúng kỹ lưỡng. Chị cũng mất một hồi lâu để trang điểm. Tôi cứ lo tất cả sự cầu kỳ thái quá này của chị sẽ làm cho anh rể nổi ghen mất. Ốm nghén làm cho hông chị thắt lại, gò má hơi hóp đi, răng như đều hơn; trông chị còn xinh hơn trước. Người ngoài khó mà đoán được là chị đang mang bầu.

Tôi đã từng gặp bác sĩ Nikaido một lần, khi ông ta đưa chị tôi về nhà vào một hôm trời bão. Đó là một người đàn ông trung niên, khuôn mặt không có điểm gì đặc biệt và ông ta chẳng để lại trong tôi một ấn tượng nào cả. Thật sự tôi tuyệt nhiên không thể nhớ nổi một đặc điểm nào ở ông, chẳng hạn như dái tai dày hay những ngón tay cứng cáp. Ông ta đứng yên lặng sau lưng chị tôi, mắt cúi xuống. Có thể là lúc ấy vai và tóc ông đều sũng nước mưa nên trông ông rất buồn.

Tôi không biết phương pháp điều trị của ông là gì; chị tôi có nói đến những bài kiểm tra tâm lý và loại thuốc thang nào đó. Từ hồi học trung học, gặp chuyện  gì, chị cũng tìm đến ông, tính đến giờ đã hơn mười năm, không gián đoạn nhưng tôi không hiểu liệu chị có thật sự khá hơn. Những vấn đề về cảm xúc ở chị có lẽ chưa bao giờ yên ổn cả, chúng như cụm rong biển lênh đênh khắp đại dương, chưa bao giờ thấy một bến bờ nào an toàn để dạt vào. Tuy nhiên, chị bảo rằng khi ở văn phòng bác sĩ, chị thấy tốt hơn nhiều.

“Giống như khi người ta gội đầu cho mình ở tiệm vậy,” chị nói. “Có cảm giác mình được ai đó chăm sóc – thật tuyệt vời.” Chị khoan khoái lim dim mắt, mơ màng nghĩ đến ông bác sĩ.

Nhưng tôi thì thấy thật khó có thể tin bác sĩ Nikaido là một bác sĩ tâm lý giỏi. Dáng ông đứng lặng bên cửa trong cái đêm trời nổi bão đó khiến ông trông giống một bệnh nhân sợ hãi hơn là một bác sĩ.

Mặt trời đã lặn và mặt trăng dát vàng đã nhô lên trên nền trời tối nhưng chị tôi vẫn chưa về nhà. “Đáng ra cô ấy không nên ra ngoài khi trời lạnh như thế này,” anh rể than thở. Khi một chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, anh vội chạy ra đón chị. Mắt chị long lanh khi cởi khăn quàng ra và chị có vẻ như đã bình tĩnh hơn nhiều so với buổi sáng. Song cho dù đến bác sĩ Nikaido thường xuyên, tình trạng ốm nghén của chị vẫn tệ như trước.

1 tháng 3 (Chủ Nhật), 14 tuần + 6 ngày: Bỗng tôi nhận ra mình đã chẳng nghĩ gì đến đứa bé cả. Tôi nghĩ đáng lẽ mình phải tò mò xem nó là con trai hay con gái, anh chị tôi sẽ đặt tên cho nó là gì, nên mua loại quần áo trẻ nào. Tôi hình dung người ta thường thích nghĩ đến những chuyện như vậy. Thế nhưng chị tôi và anh rể không bao giờ nói về đứa bé trước mặt tôi. Họ xử sự như thể chẳng có mối liên hệ nào giữa cái bầu với một hài nhi, trên thực tế, đang nằm trong bụng chị. Điều đó có lẽ lý giải vì sao đứa bé ấy không tồn tại một cách cụ thể đối với tôi.

Lúc này, tôi dùng từ “nhiễm sắc thể” để nhắc mình nhớ có một đứa trẻ thật sự đang nằm ở đó. Từ “nhiễm sắc thể” giúp cho tôi có một ý niệm nào đó về hình thức của nó. Tôi đã một lần nhìn thấy hình ảnh về các nhiễm sắc thể trong một tạp chí khoa học. Chúng trông giống như những đôi kén bướm đang xếp hàng. Thân chúng thuôn thuôn, kích cỡ và hình dạng chỉ vừa đủ để có thể lấy ngón tay bấu. Những cặp nhiễm sắc thể này đều khác nhau: có cặp cong cong ở đầu như chiếc ba toong, lại có cặp thẳng đuột và song song, còn có cặp thì quấn vào nhau như một cặp song sinh dính liền thân. Tôi gạt đi trong đầu mình hình ảnh những cặp kén song sinh khi nghĩ đến đứa con của chị.

14 tháng 3 (Thứ Bảy), 16 tuần + 5 ngày: Trông chị không giống người có bầu một chút nào, mặc dù chị đã sang tháng thứ năm. Từ hàng tuần nay, chị chẳng dùng gì ngoài bánh sừng bò cùng nước khoáng và chị đã sụt cân khá nhiều. Ngoài những lần đến bác sĩ Nikaido, cả ngày chị chỉ nằm trên giường như thể đang ốm nặng lắm.

Điều duy nhất mà tôi có thể làm cho chị là tránh tạo ra bất cứ một mùi gì vì thế tôi đã thay tất cả xà bông đang có trong nhà bằng một loại không có hương. Tôi trút tất cả ớt bột, húng tây, xô thơm trên giá để gia vị vào trong một cái hộp thiếc. Tôi mang tất cả đồ trang điểm từ phòng chị sang phòng mình. Và khi chị bắt đầu phàn nàn về mùi của kem đánh răng thì anh rể đi mua về một cái vòi sục răng. Tất nhiên, tôi cố gắng không nấu nướng gì khi chị ở gần. Nhưng nếu cần thiết phải làm một cái gì đó thì tôi mang nồi cơm, lò vi sóng hay máy nghiền cà phê ra ngoài vườn và trải một tấm chiếu xuống đất.

Thật thanh thản khi ăn ngoài trời một mình như thế này, vừa ăn tôi vừa ngước nhìn trời. Thời gian này những buổi tối đã trở nên ấm hơn vì mùa xuân sắp về, không khí cũng đã dịu lại. Tay và chân tôi do tì vào chiếu nên tê đau một chút nhưng mọi thứ khác đều thú vị; bụi bách nhật hồng, hàng gạch viền quanh những luống hoa, những vì sao nhấp nhánh – tất cả đều sắc nét, trong sáng. Ngoại trừ tiếng chó sủa phía xa xa, buổi tối hoàn toàn thanh tĩnh.

Tôi cắm nồi cơm vào một ổ điện nối thêm được kéo ra từ bếp, chẳng mấy chốc, hơi nước đã bốc lên qua lỗ thông hơi và tan vào bóng tối. Một gói nhỏ thịt hầm ăn liền đang chín dần trong lò vi sóng. Thi thoảng, một làn gió nhẹ lướt qua, lay động cây lá, cuốn theo hơi nước bay đi.

Ở ngoài vườn, tôi ăn chậm hơn. Chén, bát bày trên chiếu được tôi xếp ở những góc hơi khác nhau. Tôi rưới nước hầm, cẩn thận để không bị sánh ra ngoài, tự dưng thấy mình như đang chơi đồ hàng vậy. Một ánh sáng mờ mờ được thắp lên bên cửa sổ của phòng chị trên tầng hai. Tôi nghĩ giờ này chắc chị đang cuộn mình trên giường trong sự phủ vây của tất cả những thứ mùi này. Và rồi, tôi há to miệng như muốn cắn cả bóng tối cùng với miếng thịt hầm.

31 tháng 3 (Thứ Ba), 19 tuần + 1 ngày: Hôm nay, tôi dậy sớm vì siêu thị nơi tôi phải đến theo phân công của chỗ làm thêm cách nhà khá xa. Trời đầy sương đến nỗi khi đến nhà ga thì cả hai mí mắt tôi đều lạnh và ướt nhèm.

Công việc này phù hợp với tôi vì mỗi lần nhận nhiệm vụ, tôi lại được sếp điều đến một siêu thị ở một khu vực không mấy quen thuộc trong thành phố và chưa bao giờ tôi phải đến một siêu thị nào tới hai lần. Siêu thị thường được xây trên một khoanh đất nhỏ nằm trước một nhà ga, có vạch sang đường dành cho người đi bộ, có chỗ để xe đạp và một bến xe buýt gần đó. Nhìn người người đi vào cửa hàng, tôi có cảm tưởng như mình đang trong một chuyến tham quan nào vậy.

Ở lối vào dành cho người làm trong siêu thị, tôi chìa thẻ nhân viên của nơi làm thêm ra và viên bảo vệ gật đầu khó chịu..Siêu thị này trông cũng chán khi nhìn ở phía sau với những chiếc hộp, những mảnh vải nhựa ẩm ướt và mấy cọng rau vương vãi trên sàn nhà.  Đèn huỳnh quang thì sáng lờ mờ. Tôi lang thang trong quầy hàng với chiếc túi đựng đầy đồ nghề, tìm một vị trí tốt nhất để thực hiện công việc của mình. Ngày hôm nay, tôi  chọn vị trí ở giữa quầy bán thịt và gian hàng đông lạnh.

Đầu tiên, tôi chất mấy cái thùng bỏ không lấy từ nhà kho lên để dựng một cái bệ. Sau đó, tôi trải lên nó một tấm khăn trải bàn in hoa và bày ra một cái đĩa. Tôi đặt bánh quy lên đĩa rồi lấy một cái máy đánh kem bằng điện từ trong túi ra và bắt đầu đánh kem.

Cửa hàng vừa mới tân trang nên sàn nhà sạch bóng, mọi thứ dường như đều lấp loá. Tôi chấm chỗ kem vừa đánh lên từng chiếc bánh quy và mời khách hàng khi họ đi ngang qua. Tôi cứ phải luôn miệng nói đi nói lại mấy câu chào hàng chính xác y như những gì được in trong sách hướng dẫn của nơi làm thêm: “Xin mời quý khách nếm thử. Hàng mới ra hôm nay. Còn gì xứng hơn với chiếc bánh yêu thích mà quý khách tự làm ở nhà?” Hiếm khi tôi nói thêm một cái gì khác.

Đủ loại người đi qua chỗ tôi đang đứng – một quý bà đi xăng đan, một chàng thanh niên mặc đồ thể thao, một phụ nữ Philipin với mái tóc quăn. Một vài người lấy một chiếc bánh quy tôi bày trên đĩa và ăn. Có người đi qua nhìn với vẻ nghi ngờ. Lại có người lấy một hộp kem cho vào túi mình mà chẳng nói năng gì. Tôi đều mỉm cười với tất cả. Tiền lương của tôi không liên quan đến số lượng hộp kem mà tôi bán được, do đó, tỏ ra niềm nở với mọi người có lẽ là việc dễ dàng nhất.

Những người đi mua sắm đi qua tôi, trên tay là những chiếc giỏ mua hàng, cứ như thể tất cả đang bập bềnh theo một dòng suối hàng hoá. Bỗng nhiên tôi nhận ra gần như mọi thứ ở đây đều có thể ăn được và điều ấy có vẻ thật hiểm độc. Có một nỗi bất an nào đó khi thấy bao nhiêu con người tụ lại một nơi để tìm kiếm thực phẩm. Và rồi tôi nhớ đến chị mình, nhớ đến ánh mắt buồn bã của chị khi nhìn chằm chằm vào một mẩu bánh ngọt nhỏ xíu, nhớ đến hình ảnh chị muốn bật khóc khi cố nuốt và những vụn bánh trắng vung vãi lung tung trên bàn.

16 tháng 4 (Thứ Năm), 21 tuần + 3 ngày: Hôm nay, lần đầu tiên, chị tôi mặc váy bầu. Bụng của chị trông có vẻ lớn hơn nhưng khi chạm vào đó, tôi lại thấy nó chẳng đổi thay gì hết. Tôi thấy khó có thể tin có một sự sống ở dưới tay mình. Chắc chị phải mất một thời gian khó khăn để quen với chiếc váy. Chị cứ ngồi nghịch vơ vẩn mãi với sợi dây thắt lưng.

Nhưng những cơn ốm nghén của chị đã biến mất, cũng đột ngột như khi nó phát bệnh. Từ lúc những cơn buồn nôn của chị bắt đầu xuất hiện, chị đã hoàn toàn tránh xa phòng bếp, vì thế tôi rất bối rối khi thấy chị lại đứng dựa vào bàn làm bếp sau khi tiễn anh rể đi làm sáng nay.

Bởi chúng tôi không nấu nướng gì nên phòng bếp sạch bong. Tất cả đồ làm bếp đã được cất đi, bàn làm bếp sạch sẽ, khô ráo, máy rửa bát để không. Căn phòng lạnh và trang nghiêm như một phòng trưng bày. Chị nhìn quanh một lát rồi ngồi xuống bên bàn ăn. Bình thường thế nào trên bàn cũng ngổn ngang chai lọ mà chúng tôi đã quên cất đi nhưng hôm nay thì chẳng có cái gì ở đó cả. Chị ngước nhìn tôi như muốn nói điều gì. Đường diềm của chiếc váy luấn quấn gót chân chị.

“Chị có muốn một cái bánh sừng bò không?” Tôi hỏi một cách hết sức thận trọng.

“Làm ơn đừng thốt ra cái từ đáng sợ ấy,” chị nói. Tôi gật đầu ngoan ngoãn. “Những chị muốn một cái gì đó khác,” chị nói tiếp, gần như là thì thào.

“Được thôi,” tôi nói rồi vội chạy đến tủ lạnh, chợt nhận ra lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày trời, chị tôi mới tỏ ra có chút hứng thú về chuyện ăn uống. Nhưng hoàn toàn không có gì trong tủ, chỉ có một ánh sáng trơ trọi soi rọi sự trống rỗng mà thôi. Tôi đóng cửa tủ lại, thở dài rồi đến chạn tìm, nhưng ở đó cũng không có gì nốt.

“Em không có cái gì sao?” Chị nói với giọng lo lắng.

“Để em xem nào,” tôi vừa nói vừa lục lọi hết các túi, các hộp, các bình. “Có một chút bột làm thạch, nửa gói bột mì, mấy cái nấm khô, phẩm đỏ, men bia, va ni còn thừa…” Tôi nhìn thấy hai cái bánh sừng bò còn sót nhưng nhanh chóng để chúng lại.

“Nhưng chị muốn ăn một cái gì đấy,” chị nói như thể đưa ra một quyết định tức thì.

“Từ từ đã. Chắc phải có thứ gì quanh đây chứ!” Tôi lục lại chạn một lần nữa, từng ngăn một. Ở tận dưới đáy, tôi tìm thấy một ít gạo mà một lần chúng tôi đã mua về để làm bánh.  Nhìn vào đát trên hộp thì thấy chỗ gạo này đã để được hơn hai năm rồi và giờ chúng đã khô khốc như nhãn cầu của xác ướp vậy. “Cái này thì thế nào?” Tôi đẩy cái túi về phía chị hỏi. Chị gật đầu.

Nhìn chị ăn một thứ cứng ngắc như vậy mà nét mặt vẫn ngời lên thỏa mãn thấy thật lạ lùng. Răng hàm của chị đảo liên tục, chị vốc hết nắm này đến nắm khác từ túi ra. Dường như toàn bộ tâm trí và cơ thể chị dồn hết vào mỗi việc ăn. Khi ăn đến những hạt gạo cuối cùng, chị nhìn chúng nằm trong lòng tay giây lát, ngắm nghía nó một cách trìu mến trước khi chầm chậm đưa nó vào miệng. Đến lúc ấy, tôi hiểu rằng chị đã qua kỳ ốm nghén.

1 tháng 5 (Thứ Sáu), 23 tuần + 4 ngày: Mười ngày qua, chị tôi đã lấy lại gần năm ký mà chị đã mất trong suốt 14 tuần ốm nghén. Giờ thì lúc nào chị cũng có một cái gì ăn được trong tay khi không ngủ. Nếu không ngồi ở bàn ăn thì hẳn lúc ấy, chị đang cầm một túi bánh ngọt trên tay hay đang đi tìm một cái mở đồ hộp hay mò mẫm ngăn tủ lạnh. Cứ như thể toàn bộ sự sống của chị giờ đây chỉ còn là việc ăn mà thôi. Lúc nào chị cũng ăn, ăn như phản xạ, ăn như thở. Mắt chị trong veo và vô cảm, đôi mắt như bị dán chặt vào một nơi xa xăm nào đó. Cơ miệng của chị cử động rất khỏe như bắp đùi của vận động viên đang chạy nước rút vậy. Nhưng với tôi thì hầu như không có gì thay đổi. Cũng như khi chị ốm, tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ngồi yên và quan sát.

28 tháng 3 (Thứ Năm), 27 tuần + 3 ngày: Chị càng ăn nhiều thì bụng chị lại càng lớn. Nó phồng căng lên ngay từ dưới ngực đến tận phần bụng dưới. Khi để tôi chạm vào nó, tôi giật mình vì thấy nó cứng đến vậy. Và nó không hoàn toàn cân đối; nó hơi lệch về một bên. Cả điều này nữa cũng đáng ngạc nhiên.

“Giờ đang là thời điểm mà các mí mắt bắt đầu tách ra,” chị bảo tôi. “Nếu bào thai này là con trai thì cơ quan sinh dục ngoài của nó đang bắt đầu hạ xuống từ khoang bụng.” Giọng của chị khi miêu tả đứa bé thật lạnh. Và có cái gì đó không ổn trong những từ mà chị dùng – “bào thai”, “cơ quan sinh dục ngoài”, “khoang bụng” – nó có cái gì đó không thích hợp lắm với một bà mẹ đang đợi đến kỳ sinh nở. Nhìn bụng chị, tôi băn khoăn không biết liệu những nhiễm sắc thể trong đó có bình thường hay không, liệu chúng có ngọ nguậy ở đâu đó bên trong chị không.

Có một sự cố nhỏ xảy ra tại siêu thị nơi tôi làm việc hôm nay. Một cậu nhân viên nhà kho trượt chân bởi một cọng rau diếp và làm đổ cả một xe đầy trứng. Việc xảy ra ngay chỗ tôi đang đứng chào hàng nên tôi thấy rất rõ. Vỏ trứng vỡ và lòng trứng vàng nhớp nháp dây ra khắp sàn nhà. Dấu giày vải của cậu nhân viên còn hằn in trên lá rau diếp. Mấy hộp trứng đổ xuống chỗ bày hoa quả, làm cho những trái táo, trái dưa và chuối lấm lem lòng trứng trắng.

Sau sự cố ấy, người quản lý siêu thị cho tôi một túi bưởi lớn mà ông bảo không thể bán đươc nữa. Tôi hớn hở mang những trái bưởi ấy về nhà vì mấy ngày này, nhà tôi dường như lúc nào cũng không đủ thức ăn. Khi trút túi bưởi ra bàn, tôi ngửi thấy chúng hơi có mùi trứng. Đó là những trái bưởi vàng to được nhập từ Mỹ và tôi quyết định chế biến nó thành mứt.

Bổ những quả bưởi này, lấy phần ruột của nó ra là cả một việc nặng nhọc. Chị và anh rể tôi đã đi ra ngoài ăn đồ Trung Hoa. Đêm xuống, căn nhà hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có tiếng dao thỉnh thoảng chạm vào nồi, tiếng một trái bưởi lăn trên bàn hay tiếng ho khẽ của tôi. Ngón tay của tôi dấp dính nước từ trái bưởi. Ánh sáng trong phòng bếp soi rõ cả hàng hạt trong múi bưởi. Những trái bưởi thậm chí trông còn bóng sáng hơn khi lớp đường tôi rắc lên chúng tan đi. Tôi lần lượt cho những tép bưởi xinh xinh hình trăng lưỡi liềm vào trong nồi.

Lớp vỏ dày nằm lăn lóc trên bàn không hiểu sao có cái gì đó rất hài hước. Tôi bỏ lớp cùi đi, xắt vỏ thành những miếng nhỏ trước khi cho vào nồi. Nước bưởi vàng phọt ra khắp nơi, bắn lên lưỡi dao, lên bàn thái thức ăn và vào tay tôi. Cả vỏ bưởi cũng có những đường vân gọn gàng, đều đặn như màng da của con người khi được quan sát dưới kính hiển vi.

Cuối cùng, tôi bật bếp lò lên và ngồi xuống nghỉ ngơi. Tiếng của nồi mứt bưởi sắp chín như bị cuốn đi, chìm vào đêm. Hơi nước chua từ nồi dâng lên. Nhìn trái bưởi đang tan dần, bỗng dưng tôi lại nhớ đến một cuộc hội thảo mà mấy đứa bạn kéo tôi đến dự vài tháng trước. Tên của chương trình hội thảo là: “Nạn ô nhiễm: Trái Đất của chúng ta; Cơ thể của chúng ta.” Không có nhiều người đến dự nhưng những người có mặt ở đây có vẻ là một nhóm bạn thân. Là người bên ngoài, tôi chọn một cái bàn ở góc phòng ngồi xuống và nhìn những hàng dương trong khuôn viên trường qua cửa sổ.

Một phụ nữ gầy gò đeo một cặp kính kiểu cũ thuyết trình về mưa axit rồi sau đó, một vài câu hỏi hóc búa được nêu lên. Tôi vờ như đang tập trung nghe nhưng tay thì sốt ruột lật qua lật lại cuốn sách nhỏ mà người ta đưa cho mình ở lối vào phòng họp. Ở trang đầu tiên có hình một trái bưởi Mỹ với một lời ghi chú được in đậm: “Hãy cảnh giác với trái cây nhập khẩu. Chất chống nấm P.W.H có chứa chất gây ung thư hàm lượng cao và đã cho thấy có thể hủy hoại nhiễm sắc thể của người!” Dòng chữ ấy lúc này lại hiện lên trong đầu tôi khi đang ngồi trong phòng bếp này.

Múi và vỏ bưởi đã tan thành một chất lỏng hiền hòa điểm xuyết những sợi thạch. Tôi vừa tắt bếp lò thì chị tôi và anh rể về đến nhà. Chị đi thẳng vào bếp.

“Mùi gì lạ thế?” chị hỏi rồi ngó vào trong nồi. “ Chà! Mứt bưởi – tuyệt vời quá!” Chị không nói gì tiếp nữa trước khi tìm thấy một chiếc thìa và xúc lên một thìa mứt còn nóng. Vẫn giữ chặt ví trong tay, chị tôi, trong bộ váy bầu mới và đôi khuyên đẹp nhất, cứ thế đứng đưa thìa vào mồm. Anh rể đứng ở cửa nhìn chị.

Chị ăn hết thìa này đến thìa khác. Cái bụng căng vổng lên khiến chị trông có vẻ ngạo nghễ khi đứng bên bếp lò, nuốt từng giọt nước mứt nhơn nhớt xuống cổ họng. Khi nhìn chỗ nước mứt cuối cùng trong còn lại hơi sóng sánh ở đáy nồi, tôi không hiểu liệu cái chất P.W.H ấy có thật sự hủy hoại các nhiễm sắc thể?

15 tháng 6 (Thứ Hai),30 tuần tròn: Gió mùa về. Hầu như ngày nào trời cũng mưa. Không gian sầm sì và ảm đạm khiến chúng tôi phải bật đèn suốt cả ngày. Tiếng mưa cứ rả rích hoài bên tai tôi và trời lại lạnh đến nỗi tôi bắt đầu hồ nghi không biết liệu mùa hè  rồi có đến?

Nhưng bệnh thèm ăn của chị tôi thì chẳng thay đổi gì cả và mỡ đã bắt đầu tích lại ở má, ở cổ, rồi cả ở ngón tay và gót chân của chị nữa. Lớp mỡ dày, mềm.

Và tôi vẫn tiếp tục làm mứt. Bưởi chất đống khắp phòng bếp – trong giỏ trái cây, trên tủ lạnh, gần giá gia vị. Tôi gọt bưởi, lấy phần ruột, rắc đường lên, rồi xào nhỏ lửa. Thế rồi, trước khi tôi lấy mứt đổ vào bát thì chị tôi đã ăn rồi. Chị ngồi ở bàn, ẵm cái nồi trong tay và làm việc với cái thìa. Chị chẳng buồn phết nó lên bánh mì hay cái gì khác nữa. Nhìn chiếc thìa của chị cứ đưa lên đưa xuống, nhìn miệng chị nhai, có lẽ sẽ có người nghĩ hẳn là chị đang ăn món gì đó ngon lành, bổ dưỡng lắm, như cà ri hay cơm chẳng hạn. Thật là một cách ăn mứt kỳ quặc.

Mùi chua của trái bưởi hoà với mùi mưa. Chị dường như chẳng để ý gì tôi nhưng tôi thì vẫn cứ ngồi quan sát chị ăn. “Chị không sợ tức bụng sao nếu ăn nhiều như thế?” Tôi hỏi nhỏ. “Chị vẫn ăn chưa đủ à?” Vẫn không có câu trả lời. Có lẽ giọng nói của tôi đã bị nhấn chìm bởi tiếng mứt đang tan trong miệng chị hay tiếng gõ nhịp của mưa. Khi liếm hết thìa mứt cuối cùng, chị liếc nhìn tôi với một ánh mắt dịu dàng, mơ màng.

“Còn nữa không em?” Chị hỏi.

“Ngày mai em sẽ làm thêm,” tôi đáp với một giọng đều đều, vô âm sắc. Rồi sau đó, khi đã dùng hết số bưởi có trong nhà, tôi lại đến siêu thị nơi mình đang làm việc mua về một túi mới. Lần nào tôi cũng hỏi người bán hàng ở gian hoa quả xem đây có phải là bưởi nhập từ Mỹ không để cho chắc.

2 tháng 7 (Thứ Năm), 32 tuần + 3 ngày: Đã gần chín tháng rồi. Hôm nay, chị tôi có vẻ hơi buồn khi từ bệnh viện M về. Có lẽ người ta đã cảnh báo chị về việc để lên cân quá nhiều.

“Chị không hiểu tại sao ống sinh lại có thể tích mỡ được nhỉ,” chị nói. “Người ta bảo rằng phụ nữ lên cân quá nhiều sẽ sinh khó.” Chị tỏ ra bực bội, lấy ra cuốn sổ mà chị dùng để theo dõi thai. Tôi có thể nhìn thấy một dòng chữ ai đó đã viết bằng mực đỏ trên một trang giấy: “Giới hạn trọng lượng của cơ thể.” “Người ta bảo chị chỉ nên tăng khoảng 10 ký tính đến tháng cuối cùng khi mang bầu. Không nghi ngờ gì nữa, chị có chuyện rắc rối rồi.” Chị luồn tay vào tóc và thở dài. Chị đã lên gần hai mươi ký.

“Em không nghĩ là chị không thể làm được gì”, tôi liếc nhìn những ngón tay múp míp của chị khẽ nói khi đang đi vào bếp làm thêm mứt. Giờ thì đối với tôi, làm mứt bưởi, (gạt đi những ý nghĩ thật sự của tôi về việc này), đã trở thành một cái gì đó gần như là thói quen. Tôi làm mứt và chị ăn mứt, dễ dàng và tự nhiên như việc chải đầu khi thức dậy vào buổi sáng. “Chị thật sự có sợ bị sinh khó không?” Tôi hỏi nhưng không ngước lên khỏi bàn làm thức ăn.

“Dĩ nhiên,” giọng của chị nghe mỏng manh và yếu ớt. “Mấy ngày qua chị đã nghĩ rất nhiều về sự đau đớn – chị đã cố hình dung ra sự đau đớn khủng khiếp nhất mà mình đã từng cảm nhận được, không biết đau đẻ giống đau ung thư giai đoạn cuối hơn hay là giống như khi người ta bị cắt bỏ cả hai chân? Đại loại những thứ như thế đấy. Nhưng thật vô cùng khó để cụ thể hóa được nỗi đau ấy và chẳng vui vẻ gì khi cố hình dung điều đó.”

“Em có thể hiểu,” tôi vừa nói vừa gọt bưởi. Chị nắm chặt cuốn sổ trong tay. Hình đứa bé trên trang bìa trông méo mó; dường như nó đang khóc.

“Nhưng điều đáng sợ hơn là nghĩ đến việc phải đón đứa bé này,” chị nói. Chị đưa mắt nhìn xuống bụng. “Chị không thể tin nổi cái vật nằm trong này thật sự là con của mình. Điều đó dường như vẫn còn mơ hồ và trừu tượng. Nhưng chị không biết làm thế nào để thoát được điều đó. Buổi sáng, khi chị mới thức dậy, luôn có một khoảnh khắc mà chị tin chắc rằng tất cả chỉ là giấc mơ – những cơn ốm nghén, bệnh viện, cái bụng này, tất cả mọi thứ. Khoảnh khắc ấy cho chị một cảm giác tự do kỳ diệu. Nhưng rồi khi nhìn lại mình, chị biết rằng nó là hiện thực. Chị buồn lắm, và chị nhận ra điều làm chị sợ hãi nhất chính là viễn cảnh khi phải đón đứa con của mình.”

Tôi nghe chị nói mà không quay lại nhìn chị. Vặn nhỏ lửa xuống, tôi dùng một cái muỗng khuấy nồi mứt. “Chẳng việc gì mà chị phải sợ như thế. Một đứa bé thì chỉ là một đứa bé mà thôi. Cơ thể của nó mềm mại, nó thích được vuốt ve, những ngón tay nhỏ xíu của nó thì nắm nắm lại và nó khóc nhiều. Vậy thôi.” Tôi nhìn chằm chằm vào chỗ mứt đang quấn quanh chiếc thìa.

“Nhưng không đơn giản như thế. Một khi nó được sinh ra, nó sẽ là của chị, dù chị có muốn hay không. Và chị chẳng thể làm gì được nó cả, kể cả khi nó có vết chàm nửa mặt, hay ngón tay dính vào nhau, hay nó không có não, hay nó là một cặp song sinh liền thân…” Chị tiếp tục liệt kê những khả năng đáng sợ khác thêm một lúc. Chiếc thìa tạo ra một âm thanh đều đều khi tôi vét đáy nồi lúc mứt bắt đầu đông lại.

Tôi chăm chú nhìn vào trong nồi, không biết có bao nhiêu chất P.W.H chứa trong đó. Dưới ánh đèn huỳnh quang, nồi mứt này làm tôi liên tưởng đến một hoá chất, một thứ gì đó chứa trong một chiếc chai trong suốt, hoàn toàn lý tưởng để làm phân rã các nhiễm sắc thể.

“Xong rồi,” tôi nói. Nắm lấy quai nồi, tôi đưa ra trước mặt chị. “Đây, chị ăn thêm đi.” Tôi chìa nồi mứt ra và chị nhìn vào nó một lát. Rồi không nói thêm lời nào nữa, chị bắt đầu ăn.

22 tháng 7 (Thứ Tư), 35 tuần + 2 ngày: Tôi đã cố nghĩ về đứa bé như một điều gì đó có ý nghĩa tích cực đối với chị tôi, anh rể và cả tôi nữa. Nhưng tôi chưa bao giờ làm được.Tôi không thể nào hình dung nổi về ánh mắt của anh rể khi anh bồng đứa trẻ trên tay hay bầu vú trắng nhởn của chị khi chị cho đứa bé bú. Tất cả những gì hiện hình trong tôi chỉ là bức ảnh những nhiễm sắc thể mà một lần tôi đã nhìn thấy trong một tạp chí khoa học.

11 tháng 8 (Thứ Ba), 38 tuần + 1 ngày: Đi làm về, tôi bắt gặp mẩu giấy nhắn anh rể tôi để lại trên bàn: “Chị đã đau đẻ. Anh chị phải đến bệnh viện đây!” Tôi cứ đọc đi đọc lại mấy chữ ấy. Khi liếc chéo ra xung quanh, tôi thấy một cái thìa còn dính mứt nằm trên bàn. Tôi vứt nó vào bồn rửa rồi nghĩ xem nên làm gì. Tôi đọc mẩu giấy nhắn của anh thêm lần nữa rồi rời nhà.

Mọi vật đều chan hoà trong ánh sáng. Những tấm kính chắn gió trên những chiếc xe hơi dường như rực sáng và những tia nuớc từ vòi phun trong công viên trở nên lóng lánh. Tôi rảo bước, vừa đi vừa chăm chú nhìn xuống đường và lau mồ hôi. Hai đứa bé đội mũ rơm chạy ngang qua. Cổng ngôi trường tiểu học đã đóng và sân chơi vắng hoe. Đi tiếp đoạn nữa, có một quầy bán hoa nhỏ nhưng tôi không thấy có người bán hàng hay người mua. Một chùm hoa baby nhỏ được cắm trong một chiếc bình thủy tinh.

Tôi rẽ ở góc phố và cuối cùng đến trước cửa bệnh viện. Đúng như chị tôi đã nói, ở đây, thời gian dường như dừng lại. Bệnh viện vẫn y như những gì còn bảo lưu trong ký ức tôi sau bao năm tháng –  vẫn cây long não to bên cạnh cổng vào, lớp kính mờ sương ở cửa trước, những chữ đã bị bong trên bảng hiệu. Và ở đây cũng không có một ai trong tầm mắt của tôi, ngoài cái bóng của tôi hằn rõ trên đường.

Tôi men theo bức tường vòng ra phía sau khu nhà bệnh viện, lách qua cánh cổng cũ đã hỏng để vào vườn. Tim tôi bắt đầu đập mạnh khi đặt chân lên bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận vẫn như ngày nào. Tôi ngước lên nhìn bệnh viện, lấy tay che cho mắt khỏi chói bởi ánh mặt trời phản chiếu trên cửa sổ.

Khi tôi đến gần toà nhà thì mùi sơn bay ra về phía tôi. Không khĩ tĩnh lặng, không có dấu hiệu nào của sự sống ở quanh tôi. Tôi là vật thể duy nhất đang chuyển động trong vườn. Bây giờ tôi đã đủ cao để có thể nhìn vào phòng khám mà không cần phải đứng trên một cái thùng nhưng không thấy bác sĩ hay y tá nào ở trong cả. Phòng khám tối và vắng lặng, như một phòng thí nghiệm khoa học ở trường sau khi giờ học kết thúc. Tôi đứng nhìn những chai thuốc, cái máy đo huyết áp, tấm áp phích vẽ người phụ nữ đẻ ngược, cái máy siêu âm. Kính cửa ấm lên khi tôi tì má vào.

Tôi nghe thấy có tiếng khóc trẻ con ở xa xa. Một tiếng khóc nhỏ, run run, đẫm nước mắt từ nơi đâu bên ngoài khoảng nắng vọng lại. Tiếng khóc ấy dường như trực tiếp ngấm vào màng nhĩ tôi và đầu tôi bắt đầu nhức buốt. Tôi lùi lại và ngước lên nhìn tầng ba. Tôi nhìn thấy một phụ nữ mặc áo ngủ đang nhìn chằm chằm về một nơi nào đó. Tóc chị xòa xuống má và mặt chị nhìn không rõ bởi góc tối bên trong phòng nên tôi không chắc đấy có phải là chị mình không. Môi chị hơi mấp máy và chị đang dụi mắt, giống như người ta thường dụi mắt khi sắp khóc. Tôi định đứng nhìn chị thêm nhưng góc chiếu của mặt trời thay đổi và chị nhòa đi trong ánh phản chiếu ấy.

Theo tiếng khóc của đứa bé, tôi trèo lên lối thoát hoả hoạn. Sàn gỗ dưới chân tôi rung kẽo kẹt. Cơ thể tôi lả đi và nóng lên nhưng bàn tay vịn vào rào chắn và đôi tai đang ngấm tiếng khóc đứa bé, lạ thay, lại lạnh. Khi bãi cỏ lùi xa dần dưới chân tôi, sắc xanh của nó thậm chí lại còn tươi sáng hơn.

Đứa bé tiếp tục khóc. Khi mở cửa tầng ba ra, tôi như bị mù trong giây lát khi mắt còn chưa điều chỉnh kịp để thích nghi với ánh sáng. Tôi đứng đấy, tập trung lắng nghe tiếng khóc của đứa bé cứ ré lên từng đợt cho đến lúc cuối cùng, tôi nhìn thấy một hành lang dẫn vào bóng tối. Tôi chạy về phía phòng của trẻ mới sinh để nhìn mặt đứa con bị hủy hoại của chị mình.

Chú thích

  1. mochi: một loại bánh truyền thống của Nhật Bản được làm từ bột gạo nếp.

 

Đôi nét về tác giả:

Yoko Ogawa sinh năm 1962 tại Okayama, Nhật Bản. Bà được xem là một gương mặt độc đáo của văn học Nhật Bản đương đại. Bà đã từng được nhận giải thưởng Akutagawa- giải thưởng văn học danh giá nhất của văn học Nhật Bản vào năm 1991.

Khác với nhiều nhà văn Nhật Bản cùng thời, thay vì đem vào trong tác phẩm những náo động, cuồng nộ, bạo lực của đời sống hiện đại, Yoko Ogawa lại xây dựng nên một thế giới im lặng, dường như không trọng lượng nhưng đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nỗi bất an. “Nhật ký thai kỳ” là một tác phẩm tiêu biểu cho cách tiếp cận hiện thực đời sống của nhà văn.

An Vân dịch

Chuyển ngữ từ bản Anh văn do Stephen Snyder dịch từ tiếng Nhật, “Pregnancy Diary”, đăng trên The New Yorker, ngày 26/12/2005.

Stuart Dybek – Sức mạnh kinh ngạc của những câu chuyện “ngắn hơn cả truyện ngắn”

paper lantern

Nhớ lại quá khứ một chút. Từ thời trung học, tôi đã viết những mẩu văn xuôi rất ngắn, lạ, đa dạng, dường như chẳng vừa vặn với bất cứ thể loại nào đã định hình. Tôi không có một chút gì tự phụ về những gì mình đang làm – chỉ là tôi thích viết những thứ như thế. Tôi nghĩ mình viết truyện, nhưng rất nhanh, tôi nhận ra mình đang theo đuổi một thứ hình thức không nằm trong một khung phân loại dễ dàng nào. Thời đó, người ta chỉ có thể xuất bản những mẩu văn xuôi rất ngắn trên những tạp chí thơ, nơi các biên tập viên thường nhất trí xem chúng như những bài “thơ văn xuôi”. Tôi đã giới thiệu những gì mình viết theo cách đó – bởi cũng chẳng có cách nào khác – dù trong thâm tâm, tôi nghĩ mình đang ăn gian.

Chúng ta vẫn chưa có cái tên thỏa đáng cho loại sáng tác này. Giờ đây, nó được gọi là “truyện chớp” (flash fiction), dù tôi nhớ có thời người ta đã gọi nó là truyện “ngắn ngắn” (short-short). (Grace Paley, một nhà văn mà tôi yêu quý cả về con người lẫn tác phẩm, có lần nói với tôi, “Truyện ngắn ngắn – cái tên đó nghe như một tiếng nói lắp hơn là một hình thức văn chương.”) Việc hình thức ngắn này thiếu một cái tên chắc chắn cho thấy nó rất đa dạng, rất biến động, khó xác định và những giới hạn của nó không ngừng gây nên những tranh cãi. Truyện chớp sở hữu một phẩm chất tự sự khiến chúng phân biệt với những bài thơ văn xuôi kinh điển; đồng thời chúng cũng lại có yếu tố trữ tình đậm nét, khiến chúng ngang hàng với thơ. Tính chất không tất định về hình thức này có thể có một sức hấp dẫn: nó có thể tạo ra những sự ngạc nhiên về hình thức và cảm xúc. Những bạn cũng có thể không muốn có quá nhiều khoảng trắng. Bạn chẳng bao giờ muốn bước vào một lãnh địa nơi bạn nghĩ, “Ôi dào, tôi có thể viết bất kỳ thứ gì, tôi muốn thoát khỏi khoảng trắng này”.

Vì tôi viết cả thơ lẫn truyện và chưa bao giờ tôi muốn dựng lên bức tường ngăn cách hai thể loại ấy nên tôi luôn muốn xóa nhòa ranh giới giữa những hình thức vốn ổn định hơn. Những nhà văn làm được điều này luôn gây hứng thú cho tôi. Nhưng rất hiếm có những nhà văn như thế, tôi nghĩ vậy, một phần vì thơ bị hờ hững trong văn hóa Mỹ. Thơ là thể loại có ý nghĩa cơ bản đối với con người, tình yêu dành cho thơ nằm sâu trong chúng ta, nhưng có cảm giác ở thời điểm này, phần lớn người ta nhận ra thơ từ những thể loại khác – ca khúc phổ thông, hip-hop, rap. Người ta cũng tranh cãi về điều này – có lần, có người nói với Paul Simon rằng ông viết những lời thơ còn ông thì đáp lại, “Ồ, không, thơ thì phải như Wallace Stevens chứ”- thế nhưng ca từ trong những bài hát của Bob Dylan, Bruce Springsteen hay của một vài nghệ sĩ hip-hop rõ ràng mang tính thơ. Trong văn xuôi hư cấu, xung lực thơ thường được dồn nén ở đoạn kết của câu chuyện, ở khoảnh khắc hiển linh (epiphany) mà chúng ta có thể bắt gặp được kể từ Joyce. Ở đoạn kết của một câu chuyện có khoảnh khắc hiển linh điển hình, ta có thấy được rất rõ sự sang số (gearshift) đột ngột từ tính tự sự sang tính trữ tình này; ta bắt đầu có cảm giác thơ bất ngờ hiện hữu ngay bên trong văn xuôi. Nhưng thường trạng thái ấy do một cái gì đó lớn bùng nổ, tạo ra sự đột biến – thơ được chứng thực trong những khoảnh khắc cảm xúc được đẩy đến cực điểm như vậy, còn không, nó chỉ là yếu tố rất phụ trong văn xuôi hư cấu Mỹ.

Tôi thích những nhà văn có thể tạo ra một sự tích hợp hòa quyện hơn giữa xung lực tự sự và trữ tình – và tôi nhận thấy, trong hình thức ngắn, xung lực trữ tình trở nên rất nổi bật. Một trong những tiếp xúc sớm nhất của tôi với loại tác phẩm này là khi tôi đọc In Our Time (Trong thời đại chúng ta) của Hemingway, vốn từ lâu đã khiến tôi chú ý. Những câu chuyện trong cuốn sách này được đặt rải rác lẫn với những phác thảo ngắn, đầy sức mạnh, đa phần không quá một đoạn văn. Cách mà Hemingway xây dựng một chỉnh thể gây ấn tượng mạnh về cảm xúc từ những phân mảnh này là một mẫu mực bậc thầy. Nhưng tôi luôn có cảm giác chúng vẫn cần dựa vào một cái gì đó nằm ngoài văn cảnh trong In Our Time. Khi đọc riêng những đoạn văn này, tôi không thích chúng như khi chúng hiện diện những khoảng lặng trong cuốn sách.

Vì thế, tôi bắt đầu tìm kiếm những câu chuyện cũng thể nghiệm với ý niệm tương tự về sự cô đọng và phân mảnh, nhưng chúng có thể tương đối độc lập. Tôi muốn tìm một bậc thầy của thể loại này – người có thể viết thứ văn xuôi cực ngắn có khả năng dồn nén cảm xúc mà chúng ta vẫn nghĩ chỉ những tác phẩm dài hơi hơn mới có thể đạt được.

Một trong những nguồn cảm hứng đến với tôi đó là tác phẩm Invisible Cities (Những thành phố vô hình) của Italo Calvino, cho dù việc tách các đoạn văn ngắn trong cuốn sách thành những khoảng trắng có ý nghĩa như một thủ pháp nhiều hơn (tác phẩm thực sự mang phẩm chất của một tiểu thuyết). Isaac Babel, một nhà văn tôi yêu thích ở nhiều khía cạnh, đã thẻ nghiệm một hình thức dồn nén cao độ mà tôi muốn thấy ở những truyện cực ngắn – hễ khi nào một nhà văn có thể nén thật nhiều vào một không gian thật nhỏ, tôi luôn có cảm giác cái mà chúng ta vẫn gọi là “thơ” đang ẩn náu cận kề. Primo Levi là một trường hợp khác – mẩu viết ngắn của ông, “Tranquil Star”(Ngôi sao lặng lẽ), là một tác phẩm đem đến cho tôi khoái cảm lớn. Khi học đại học, tôi tìm thấy một mô hình mới: tôi nằm trong số những người bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của thơ haiku. Phân mảnh, phức hợp, nhưng cuối cùng luôn đem đến một cảm giác thỏa mãn, hình thức này hội tụ nhiều đặc điểm mà tôi muốn tìm kiếm trong văn xuôi.

Bây giờ, ở Mỹ, thơ haiku nhan nhản đến nỗi nó gần như trở thành một trò đùa. Ở đây, haiku có tính chất như một phát súng không cần ngắm: nó là một cách để trẻ con lớp bốn học viết các hình ảnh. Nhưng đây không phải là đặc điểm của thơ haiku ở Nhật Bản, hình thức của nó rất được chú trọng – nó là một bộ phận của văn học cổ điển. Một khía cạnh mà thơ haiku hầu như bị đánh mất ở các phiên bản phương Tây chính là phẩm chất, có thể gọi đại thể, của sự “song chiếu” (double vision). Đó là một cách nói về một hình thức sắp đặt những tương phản cận kề nhau (juxtaposition). Ý niệm này từng ảnh hưởng rất sâu sắc đến Ezra Pound, người, cố nhiên, còn hơn cả một dịch giả vĩ đại: ông muốn du nhập những hiệu quả văn chương từ những nền văn học khác vào trong nghệ thuật kể chuyện và kho từ vựng thi ca của văn chương Anh ngữ. Ta có thể cảm nhận được sự song chiếu này thể hiện như thế nào trong bài thơ nổi tiếng của Pound – “In a Station of Metro” (Ở ga xe điện ngầm)”:

Sự xuất hiện của những gương mặt này giữa đám dông

Những cánh hoa trên cành cây đen, ướt

(These apparition of these faces in the crowd;

Petals on a wet, black bough)

Cách mà bài thơ đặt một khoảnh khắc hiện tại – một ga xe điện ngầm đông đúc – bên cạnh hình ảnh của những cánh hoa tươi tắn tạo nên một kiểu một hình thức đồng hiện mang tính thơ. Hai hình ảnh, hai ý niệm được chồng lên nhau đồng thời – cả hai đều được làm nổi bật bởi phép so sánh. Chính sự song chiếu này mới là đặc điểm nổi bật của thơ haiku.

Tuy nhiên, haiku không phải là văn xuôi, những bài thơ haiku thậm chí còn ngắn hơn hầu hết các mẩu truyện chớp, chúng thực sự không cung cấp mô hình văn xuôi mà tôi muốn tìm kiếm. Nhưng cuối cùng, mối quan tâm của tôi về văn học Nhật Bản đã đưa tôi gặp gỡ với một nhà văn mà với cá nhân tôi, ông chính là người thực hành xuất sắc bậc nhất thứ ngôn ngữ tiết chế, giàu sức ám gợi: Yasunari Kawabata – cũng là bậc thầy của việc tạo ra những hình ảnh song chiếu mà ta vẫn thấy trong thơ haiku truyền thống.

Tác phẩm đầu tiên của ông mà tôi đọc là Người đẹp say ngủ. Ở cây bút văn xuôi này, tôi lập tức nhận thấy tất cả những gì mình yêu thích ở thơ ca Nhật Bản – một sự đơn giản nhưng đồng thời quá đỗi sâu sắc, giàu sức gợi mở. Tôi đọc tiếp một tiểu thuyết nữa của ông, cuốn Xứ tuyết và dẫu cuốn sách đó không dài quá 150 trang, nhưng hình như luôn luôn còn có một cái gì đó chưa hết ở đó. Và đến tuyển tập những tác phẩm ngắn của ông, Những truyện ngắn trong lòng bàn tay, tôi đã tìm được mô hình lý tưởng cho một loại tác phẩm mà mình muốn thể nghiệm.

Một hình thức phổ biến của thủ pháp song chiếu trong thơ haiku là đặt một cái gì đó thuộc quá khứ bên dưới một cái gì đó ở hiện tại. Một trong những truyện ngắn của Kawabata mà tôi yêu thích đã tạo ra sự cách tân – truyện “The Grasshopper and the Bell Criket” (Châu chấu và dế chuông): ở đây, một hình ảnh hiện tại tạo sinh một phóng chiếu về tương lai.

Câu chuyện mở đầu với hình ảnh một người đàn ông – ta không biết gì nhiều về ông – tản bộ vào lúc chiều tối theo thói quen vốn có. Ông bắt gặp một đám trẻ nhỏ đã chơi trò gì đó trong lễ hội mùa xuân. Chúng làm những chiếc đèn lồng bằng giấy – một loại đèn thủ công nhiều màu sắc rực rỡ, có thể hắt ra những mô hình ánh sáng. Một vài đứa trẻ cắt tên mình dán lên đèn, vì thế chiếc đèn có thể phóng chiếu những ký tự Nhật Bản vào màn đêm.

Ông lặng lẽ quan sát những em bé, khi chúng hào hứng đi bắt côn trùng dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng. Ở Nhật Bản, người ta vẫn thường ra ngoài trời bắt những con côn trùng như dế, bọ ngựa, hay những loại côn trùng có thể phát ra những âm thanh du dương khác rồi đặt chúng vào trong những cái lồng nhỏ. Cũng giống như trẻ em ở Mỹ chơi với những con đom đóm – bất ngờ vào một buổi tối mùa hè nào đó, trời làm ấm những con côn trung đẹp đẽ này, khiến chúng phát sáng trong bóng tối, bọn trẻ ra ngoài trời với chiếc hũ thủy tinh trong tay, đi bắt những con đom đóm, rồi quan sát chúng phát sáng cho đến khi bố mẹ nói, giờ các con thả chúng đi được rồi đấy. Trong câu chuyện này, một cậu bé bắt được một con côn trùng mà cậu nghĩ là châu chấu – một phần thưởng tuyệt vời mà tất cả những đứa trẻ khác đều thèm thuồng. Khi cậu bé trao cho cho cô bé mà cậu thích nhất, cô bé nói với cậu con côn trùng ấy thực ra là một con dế chuông, một loài côn trùng thậm chí còn hiếm hơn, được săn tìm nhiều hơn.

Có một cảnh tượng thật đẹp đẽ sau cuộc trao đổi này, hai em bé đứng nhìn nhau và có vẻ như cả hai em đều không để ý, ánh sáng từ những chiếc đèn lồng của mình, đỏ và xanh, hắt ngang qua ngực. Cậu bé dán tên mình lên chiếc đèn lồng của mình và cô bé thì cũng làm việc tương tự với cái tên và chiếc đèn của cô – tất nhiên, bạn phải hình dung được sự cô đúc tuyệt vời của một ký tự Nhật Bản, những con chữ ấy hắt sáng trong đêm – trong khoảnh khắc, tên của cậu bé rọi sáng trên ngực áo cô bé còn tên của cô lại hắt đỏ lên phần thắt lưng của cậu. Cả hai đều không biết điều này và đấy là điều gây xúc động – cứ như thể giữa cô bé và cậu bé đã hình thành một sự kết nối mà họ sẽ bao giờ không hiểu rõ, cho đến khi đã quá muộn.

Ở đoạn kết tuyệt vời, bất ngờ của câu chuyện này, người kể chuyện như muốn nói với cậu bé, ông biết tên cậu ta khi nhìn thấy cái tên ấy phóng chiếu lên người cô bé:

Fujio này, sau này lớn lên, cháu vẫn cứ cười thật thoải mái đi nhé trước vẻ vui mừng của người bạn gái khi nói với cô ấy, này, đây là một con châu chấu, dù thực ra cô ấy đang được tặng một con dế chuông. Và hãy cứ cười thật trìu mến trước nỗi thất vọng của cô bé ấy khi nói, này, đây, tặng em một con dế chuông nhưng thực ra cô ấy chỉ đang nhìn thấy một con châu chấu.

Thậm chí nếu cháu thật thông minh, tách khỏi đám bạn bè, một mình tìm kiếm nơi một bụi cây nào đấy, cháu cũng sẽ thấy thế gian này chẳng còn nhiều dế chuông nữa đâu. Có lẽ rồi cháu cũng sẽ chỉ tìm thấy một cô gái giống như một con châu chấu mà cháu lại nghĩ cô ấy là một con dế chuông.

Và cuối cùng cháu ơi, khi trái tim cháu nếm trải tổn thương, trở nên u uẩn thì một con dế chuông đích thực cũng chỉ như một con châu chấu mà thôi. Ngày đó rồi sẽ đến thôi, cái ngày dường như đối với cháu, thế giới này chỉ toàn châu chấu. Và ta nghĩ thật tiếc làm sao, chẳng có cách nào để cháu nhớ lại trò chơi ánh sáng đêm nay, khi tên cháu in hình màu xanh lên ngực cô gái nhờ chiếc đèn lồng đẹp đẽ của cháu.

Kawabata vốn bị ám ảnh bởi sự phản chiếu của các hình ảnh – tôi lại nhớ đến một câu chuyện, ở đó nhân vật nam bị lôi cuốn bởi một người phụ nữ khi thoáng nhìn thấy gương mặt nàng phản chiếu qua cửa sổ một con tàu. Trong truyện ngắn này,có thật nhiều hình ảnh phản chiếu, có thật nhiều cặp đôi theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng vốn rất đặc trưng cho phép song chiếu ở thể thơ haiku. Đó là các cặp ánh sáng-bóng tối, cô bé-cậu bé, người trưởng thành-trẻ thơ, hiện tại-tương lai, và ngay cả những con côn trùng bị bắt nhốt dường như cũng gợi ra một ý nghĩa kép nhất định.

Nhưng đây cũng là một trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất của câu chuyện. Một người kể chuyện dường như chỉ ra ngoài đi dạo, nhìn ngắm những đứa trẻ từ xa, người hầu như không hé lộ điều gì về chính mình, chỉ có thể có sự thấu thị như vậy vì ông ta đã trải nghiệm chính sự vỡ mộng khi mình trưởng thành. Những suy nghĩ thầm kín của ông có lẽ hé lộ về một quá khứ buồn đau của ông, về một trái tim từng chịu tổn thương, trở nên u uẩn và cả một nhận thức chín chắn rọi chiếu về tương lai của Fujio. Và ông nhìn thấy gì? Một giả thiết mà ta vừa thấy trước đó – một con côn trùng bị nhầm với một con côn trùng khác – trở thành một ẩn dụ giàu sức nặng về việc chúng ta thường lại không nhận ra được một sự tương hợp hiếm hoi, thật sự lãng mạn khi chúng ta nhìn thấy. Ông nhìn vào tương lai của Fujio, ông như thấy cậu bé không những sẽ không thấy được mối tơ duyên cho một tình yêu lớn mà còn sẽ trở nên thất vọng vì đã không nhận ra tình yêu lớn của đời mình khi cô bé ấy đang hiện hữu. Như thế, chỉ trong một đoạn văn ngắn, Kawabata đã đặt cận kề hiện tại và tương lai, người lớn và trẻ thơ, sự ngây thơ và sự mất mát. Tất cả chồng xếp lên nhau trong một khoảnh khắc đơn nhất – và trong một không gian nhỏ, những sự chồng xếp này tạo nên một cảm thức đẹp về con đường tất yếu mà tuổi thơ rồi sẽ đánh mất, sẽ phải trả giá cho sự trưởng thành.

Điều mà tôi cũng thích ở truyện ngắn này là cái kết bất ngờ – nhưng đấy không phải là cái kết theo kiểu O’Henry vốn đem đến sự ngạc nhiên bằng một khúc ngoặt nào đó. Thay vào đó, sự ngạc nhiên ở truyện ngắn này bắt nguồn từ sự tươi tắn của ngôn ngữ, sự chồng xếp tinh tế các lớp chủ đề. Đó là sự ngạc nhiên giàu cảm xúc và tính thơ, hơn bất cứ điều gì khác. “Châu chấu và dế chuông” là một truyện ngắn, độc lập; như có phép màu, nó tạo nên những cảm xúc phong phú, dồi dào. Tôi có đó là một kiệt tác nhỏ. Với tôi, nó là một sự xác nhận: bạn có thể làm việc với hình thức ngắn như vậy mà vẫn có thể tạo ra nhiều tầng lớp, nhiều hàm nghĩa.

Người ta có thể ngồi xuống, viết một cuốn sách với nhiều chủ ý khác nhau – họ chẳng biết những chủ ý ấy có được hiện ra hay không. Nhưng trong cuốn sách mới của tôi, Paper Lantern: Love Stories (Đèn lồng giấy: Những câu chuyện tình), tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi phép song chiếu mà tôi bắt gặp ở Kawabata. Tất cả những câu chuyện trong cuốn sách này đều thuộc thể loại truyện tình, những mỗi truyện lại được chồng xếp với những thể loại khác nữa. Truyện ngắn đầu tiên, “Tosca”, gợi liên tưởng đến thể loại opera, đến cảm xúc hoành tráng và âm hưởng nhạc kịch của hình thức ấy. Truyện “Oceanic” lại có sự song chiếu với thơ ca lãng mạn của Keats, Shelley và Byron. Một truyện ngắn khác có sự sắp đặt với một bộ phim loại B trong khi một truyện nữa lại có sự tương ứng với bản “Wild Horses” của ban Rolling Stones. Với phép song chiếu này, tôi hy vọng độc giả có thể có những bước nhảy trong liên tưởng, cảm xúc và nhận thức giữa hình thức vay mượn và câu chuyện về những người tình ở những truyện ngắn trong tập. Những đặc thù ở các nhân vật của tôi và khung thể loại rộng lớn hơn mà các truyện ngắn của tôi luôn cố gắng quy chiếu đến không ngừng có sự tương tác – đó là một nỗ lực nhằm tạo ra nhiều tầng liên tưởng mà tôi luôn ngưỡng mộ ở thể thơ haiku.

Tôi nghĩ những chiếc đèn lồng rực rỡ của Kawabata – một trong những hình ảnh yêu thích của ông – đã bước vào kho từ vựng thi pháp của tôi. Khi đặt nhan đề cho tập truyện là Đèn lồng giấy, trong đầu tôi thật sự không nghĩ đến ông một cách ý thức – nhưng có phải văn chương Kawabata đầy hình ảnh của chúng? Quả là vậy. Chúng nằm trong số những hình ảnh quan trọng của văn chương châu Á, cùng với những chiếc ô, những cánh hoa anh đào nổi tiếng. Đối với tôi, đèn lồng giấy chính là một ẩn dụ về nghệ thuật văn chương, cho cách mà ý nghĩa xuyên rọi qua trang viết. Cho dù giờ chúng ta đều viết bằng máy tính, tôi vẫn nghĩ về sự viết như là hành vi trải ngôn từ lên trang giấy. Và khi ta viết một câu chuyện hay một bài thơ, nó rọi sáng. Ý nghĩa chiếu qua ngôn từ như ánh sáng hắt qua lớp giấy của chiếc đèn, hắt vào đêm tối, phóng chiếu hình ảnh của nó lên trái tim của người khác.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Stuart Dybek, “The Surprising Power of Stories That are Shorter than Short Stories”, http://www.theatlantic.com/entertainment/archive/2014/06/the-enormous-power-of-extremely-short-stories/372570/

Kenzaburo Oe – Viết như là cách để hủy giọng của mình

Kenzaburo-Oe-00

Kenzaburo Oe (1935) là nhà văn Nhật Bản thứ hai được trao tặng giải thưởng Nobel Văn học (năm 1994), sau Yasunari Kawabata (1968). Độc giả Việt Nam ngay từ trước 1975 đã biết đến tác phẩm Nuôi thù của Kenzaburo Oe – tác phẩm đem lại cho ông giải thưởng Akutagawa danh giá của văn học Nhật Bản khi mới 23 tuổi – qua bản dịch của Diễm Châu. Sau này, cuốn tiểu thuyết A Personal Matter (Một nỗi đau riêng) của ông cũng đã được dịch giả Lê Ký Thương chuyển ngữ sang tiếng Việt. Ngoài ra, một số truyện ngắn khác của ông như “Aghwee – Quái vật trên trời”, “Người đàn bà lắng nghe cây mưa”… cũng đã có bản dịch tiếng Việt.

Kenzaburo Oe nằm trong số không nhiều những nhà văn sau khi được vinh danh với giải Nobel Văn học vẫn tiếp tục chứng minh năng lượng sáng tạo dồi dào của mình với những tác phẩm đầy tính thách thức mà tiêu biểu là cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của ông Death by Water (Nước tử). Bài phỏng vấn do Sarah Fray thực hiện đăng trên The Paris Review dưới đây không chỉ giúp độc giả hình dung được phương pháp lao động giống như một phu chữ của Oe mà còn cho thấy một nhà văn lớn còn là một độc giả lớn: tác giả mà nhà văn ấy chọn đọc, cách đọc mà nhà văn ấy thể hiện cũng đặc biệt, độc đáo, sâu sắc không kém những trang văn hư cấu của ông ta.

*

Sarah Fray (S.F):  Ông có kinh nghiệm nào về nghệ thuật viết muốn truyền đạt hay không?

Kenzaburo Oe (K.O): Tôi là kiểu nhà văn viết đi viết lại bản thảo nhiều lần. Tôi rất hào hứng sửa chữa mọi thứ. Nếu bạn nhìn những bản thảo của tôi, bạn có thể thấy có rất nhiều chỗ tôi đã sửa đổi. Vì thế, một trong những phương pháp sáng tác chính của tôi là “lặp lại với sự khác biệt”. Tôi bắt đầu một tác phẩm mới trước hết bằng việc tìm một cách tiếp cận mới đối với tác phẩm mà mình vừa hoàn thành – tôi cố gắng chiến đấu với cùng một đối thủ thêm một lần nữa. Trên bản thảo là kết quả của quá trình chiến đấu này, tôi lại tiếp tục làm việc tỉ mỉ. Quá trình lao động giống như một phu chữ này – cứ viết rồi xóa, rồi thay đổi – khiến những dấu vết của bản thảo cũ biến mất. Tôi coi tác phẩm của mình là một chỉnh thể của những khác biệt bên trong sự lặp lại.

Tôi vẫn thường nói sự công phu này là điều quan trọng nhất mà một người viết tiểu thuyết phải học. Edward Said[1] đã viết một cuốn sách rất hay có nhan đề Musical Elaborations (Công phu trong âm nhạc), trong đó ông đã phân tích ý nghĩa của sự công phu trong quá trình sáng tác của những nhà soạn nhạc vĩ đại như Bach, Beethoven và Brahms. Nhờ sự công phu này, những nhà soạn nhạc ấy đã tạo nên những cảm quan mới.

S.F: Làm sao ông nhận ra khi nào mình đã dụng công sửa chữa, thay đổi quá nhiều?

O.E: Đấy là một vấn đề. Tôi cứ sửa chữa, thay đổi và rồi độc giả của tôi theo thời gian cũng ngày một ít hơn. Lối viết của tôi trở nên khó đọc. Đó là một lối viết bện xoắn và phức tạp. Đấy là điều cần thiết để tôi hoàn thiện tác phẩm của mình, tạo ra một cảm quan mới nhưng cách đây 15 năm, tôi có một mối hoài nghi sâu sắc, rằng sự công phu này có phải là phương pháp hợp lý đối với một người viết tiểu thuyết hay không?

Về cơ bản, một nhà văn giỏi luôn có cảm nhận của riêng mình về lối viết. Có một thứ giọng điệu tự nhiên, từ chiều sâu, giọng nói ấy hiện hữu này từ bản nháp đầu tiên của bản thảo. Khi anh ta sửa chữa, hoàn thiện bản thảo đầu tiên, nó tiếp tục củng cố và đơn giản hóa cái giọng điệu tự nhiên, từ chiều sâu ấy. Khi tôi giảng dạy tại Đại học Princeton của Mỹ vào năm 1996-1997, tôi có cơ may được đọc cuốn Huckleberry Finn, in theo bản thảo đầu tiên của Mark Twain. Tôi đọc khoảng 100 trang và dần dần nhận ra ngay từ đầu, Twain đã có một lối viết chính xác. Kể cả khi ông viết một thứ tiếng Anh phi chuẩn thì lôí viết ấy vẫn có một thứ nhạc tính. Lao động của Mark Twain trên bản thảo khiến nhạc tính ấy rõ nét hơn. Đối với một nhà văn giỏi, phương pháp làm việc với bản thảo này là một điều gì đó rất tự nhiên. Một nhà văn giỏi thông thường không cố gắng phá hủy giọng của mình nhưng tôi thì lại luôn tìm cách làm điều ấy.

S.F: Tại sao ông lại muốn phá hủy giọng của mình?

K.O: Tôi muốn tạo ra một lối viết văn chương mới trong ngôn ngữ Nhật Bản. Trong lịch sử văn học Nhật Bản hiện đại, bắt đầu cách đây 120 năm, lối viết không có xu hướng phức tạp hóa. Nếu bạn quan sát những nhà văn Nhật Bản như Tanizaki hay Kawabata, bạn sẽ thấy họ đi theo truyền thống của văn học cổ điển Nhật Bản. Lối viết của họ là những ví dụ tinh tế về văn xuôi Nhật Bản ở thời kỳ vàng của nền văn học này; nó đi theo truyền thống của những thể thơ ngắn – tanka và haiku. Tôi tôn trọng truyền thống ấy nhưng tôi muốn viết một cái gì khác.

Tôi viết tiểu thuyết đầu tay năm tôi 22 tuổi, khi đang là sinh viên chuyên ngành Văn học Pháp. Mặc dù viết bằng tiếng Nhật nhưng tôi say mê tiểu thuyết và thơ ca Pháp, Anh: Gascar và Sartre, Auden và Eliot. Tôi không ngừng so sánh văn học Nhật với văn học Pháp, Anh. Tôi có thể đọc tiếng Pháp hay tiếng Anh suốt tám tiếng đồng hồ và sau đó viết tiếng Nhật trong khoảng hai tiếng. Tôi cứ nghĩ, một nhà văn Pháp sẽ diễn đạt điều này như thế nào? Một nhà văn Anh sẽ diễn đạt điều như thế nào? Bằng việc đọc ngoại ngữ và viết tiếng Nhật, tôi muốn bắc một nhịp cầu. Nhưng văn chương của tôi ngày càng trở nên khó.

Ở tuổi 60, tôi bắt đầu nghĩ phương pháp của mình có thể sai, hình ảnh mà tôi nghĩ về cách thức sáng tạo có thể sai. Tôi vẫn lao động như một phu chữ cho đến khi không tìm được bất cứ một khoảng trống nào còn chừa trên trang giấy nhưng giờ là giai đoạn thứ hai. Tôi viết lại một phiên bản rất đơn giản, sáng rõ của những gì mình vừa viết xong. Tôi kính nể những nhà văn có thể viết cả hai phong cách – như Céline, người vừa có thể viết phức tạp, vừa có thể viết rõ ràng.

Tôi đã khám phá lối viết mới này trong bộ ba về “cặp đôi giả” của mình: Changeling (Đứa trẻ thay thế), The Child of the Sorrowful Countenance (Đứa con với sắc mặt u hoài)Goodbye, My Book (Tạm biệt nhé, cuốn sách của tôi). Tôi cũng viết với phong cách sáng sủa như thế trong cuốn Rouse Up O Young Men of the New Age (Dậy đi, những chàng trai của thời đại mới), nhưng đó là tuyển tập truyện ngắn đã rất cũ của tôi. Trong cuốn sách ấy, tôi muốn nghe giọng của bản ngã thật sự của mình. Song các nhà phê bình vẫn chỉ trích tôi vì những câu văn khó đọc và những cấu trúc phức tạp.

S.F: Thật thú vị khi biết ông đọc cả các sách học thuật và lý thuyết văn chương. Ở Mỹ, phê bình văn học và sáng tác hầu như loại trừ lẫn nhau.

K.O: Các học giả là những người mà tôi trân trọng nhất. Mặc dù họ phải lao động trong một không gian hẹp, nhưng họ đã tìm được những cách đọc thực sự rất sáng tạo về một số tác giả. Đối với một tác giả tiểu thuyết có suy nghĩ cởi mở, những cách đọc ấy có thể gợi mở cho anh ta một sự cảm nhận sắc sảo hơn về tác phẩm của một nhà văn nào đó.

Khi tôi đọc nghiên cứu về Blake, Yeats hay Dante, tôi luôn cố gắng đọc trọn vẹn và chú ý tìm ra những phát hiện khác nhau giữa các học giả. Đấy là chỗ mà tôi có thể học được nhiều nhất. Cứ mấy năm lại có một nhà nghiên cứu công bố một cuốn sách về Dante và mỗi học giả đều có cách tiếp cận hay phương pháp riêng của mình. Tôi đọc một học giả và nghiên cứu của ông ấy trong một năm. Rồi đến năm sau thì lại đọc một học giả khác, cứ như vậy.

S.F: Ông lựa chọn tác giả để đọc như thế nào?

K.O:  Đôi khi đó là một sự tiếp nối tự nhiên những gì mà tôi đã đọc. Chẳng hạn, việc đọc Blake dẫn tôi đến với Yeats, rồi từ Yeats, tôi đọc Dante. Cũng có khi khác, đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên thuần túy. Trong một chuyến đi quảng bá sách tại Vương quốc Anh, tôi dừng chân ở Wales. Tôi ở đó ba ngày và hết sách để đọc. Vậy là tôi tìm đến một hiệu sách địa phương, hỏi người bán sách ở đó giới thiệu một vài cuốn sách tiếng Anh. Ông ta giới thiệu một tập thơ của một nhà thơ xứ này nhưng lưu ý với tôi cuốn sách không bán chạy lắm. Tên của nhà thơ ấy là R.S. Thomas và tôi mua tất cả những sách của ông ấy mà hiệu sách có. Khi đọc Thomas, tôi nhận thấy ông là thi sĩ quan trọng nhất mà tôi được đọc ở thời điểm ấy trong đời mình. Tôi cảm nhận ông có nhiều điểm chung với Walter Benjamin, dù tưởng như họ rất khác nhau. Cả hai đều quan tâm đến ngưỡng giữa cái thế tục và cái thần bí. Và rồi tôi đã bắt đầu nghĩ mình đã thiết lập một mối quan hệ tay ba với Thomas và Benjamin.

S.F: Bây giờ ông đang tìm hiểu tác giả nào?

K.O: Ngay lúc này, tôi đang đọc những bài thơ sáng tác ở giai đoạn cuối đời, từ 1929 đến 1939, của Yeats. Yeats qua đời ở tuổi 73 và tôi muốn tìm hiểu ông như thế nào khi ở tuổi tôi bây giờ, 72. Tôi thích một bài thơ của ông viết khi 71 tuổi: “An Acre of Grass” (Đồng cỏ). Tôi đã đọc đi đọc lại bài thơ này, cố gắng triển khai ý tưởng từ đó. Tiểu thuyết sắp tới của tôi sẽ kể về một nhóm những ông già điên khùng, trong đó có cả một tiểu thuyết gia và một chính trị gia, những kẻ nghĩ những thứ điên rồ.

Đặc biệt có một câu thơ của Yeats gây ấn tượng mạnh với tôi: “My temptation is quiet” (Sự cám dỗ của tôi thật yên tĩnh). Tôi không trải nghiệm nhiều cám dỗ hoang dã trong đời mình nhưng tôi có cái mà Yeats gọi là “sự điên cuồng của một ông già”. Yeats không phải là người làm những chuyện lập dị song những năm cuối đời, ông ấy đã đọc lại Nietzsche. Nietzsche đã trích lại lời của Plato, rằng tất cả những gì thú vị ở Hy Lạp cổ đại đều bắt nguồn từ sự điên rồ hay cuồng dại.

Vì thế, ngày mai, tôi sẽ dành hai tiếng để đọc Nietzsche, nhưng để tìm ra một góc tiếp cận ý niệm về sự điên rồ của một ông già theo kiểu khác. Song tôi sẽ đọc Nietzsche trong khi nghĩ về Yeats. Điều này cho phép tôi đọc Nietzsche khác đi, trải nghiệm việc đọc Nietzsche cùng với Yeats.

S.F: Ông có thấy phải cạnh tranh với những nhà văn như Haruki Murakami hay Banana Yoshimoto?

K.O:  Murakami viết một thứ tiếng Nhật trong sáng, đơn giản. Tác phẩm của ông ấy được dịch sang nhiều thứ tiếng và được đọc rộng rãi, nhất là ở Mỹ, Anh và Trung Hoa. Murakami đã tạo được một vị trí cho mình trên văn đàn quốc tế theo một cách mà Yukio Mishima và cả chính tôi không thể đạt được. Đây thực sự là hiện tượng quốc tế đầu tiên của văn học Nhật Bản. Tác phẩm của tôi có độc giả nhưng khi nhìn lại, tôi không chắc mình bảo đảm được một lượng độc giả bền vững, ngay ở Nhật Bản. Dù đây không phải là sự cạnh tranh song tôi cũng muốn nhìn thấy nhiều tác phẩm của mình được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức hơn và có một lượng độc giả trung thành của mình ở những đất nước ấy. Tôi không cố để viết cho đại chúng, nhưng tôi muốn chạm đến con người. Tôi muốn kể với mọi người về những tác phẩm văn chương và những tư tưởng đã ảnh hưởng sâu sắc đến bản thân mình. Là người đã đọc sách cả đời, tôi hy vọng được kết nối với những nhà văn mà tôi cho là quan trọng. Lựa chọn đầu tiên của tôi là Edward Said, đặc biệt những cuốn sách được viết về sau của ông tác động rất nhiều đến tôi. Thật khó hình dung tôi sẽ viết ra sao nếu như không được nghe Said hay nghĩ về những điều Said viết. Những ý tưởng của ông có ý nghĩa rất lớn trong tác phẩm của tôi. Chúng giúp tôi tạo nên những hình thức biểu đạt mới trong tiếng Nhật, hình thành những tư tưởng bằng tiếng Nhật. Tôi cũng thích con người ngoài đời của ông ấy.

S.F: Phần lớn tiểu thuyết của ông đều được xây dựng trên chất liệu là đời tư của người viết. Ông có cho rằng tiểu thuyết của ông thuộc về truyền thống tiểu thuyết trần thuật từ ngôi thứ nhất, mang tính tự thuật (I- novel) của văn chương Nhật Bản hay không?

K.O: Có một số tác phẩm lớn của truyền thống tiểu thuyết này. Homei Iwano, nhà văn Nhật Bản cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX, là một trong số những tác giả mà tôi yêu thích. Có một cụm từ mà ông sử dụng – “sự can đảm trong vô vọng và tàn bạo”. Nhưng loại tiểu thuyết tự thuật này xoay quanh những gì xảy ra khi đời sống hàng ngày của tác giả bị gián đoạn bởi một biến cô bất thường, đặc biệt – một trận sóng thần, một cơn động đất, cái chết của một người mẹ, người chồng. Nó chưa bao giờ mở ra vấn đề về vai trò của cá nhân trong xã hội. Tác phẩm của tôi bắt đầu từ chuyện đời tư nhưng tôi cố gắng mở ra những vấn đề xã hội.

Dickens và Balzac viết về thế giới một cách khách quan. Họ viết được như thế với một tinh thần hướng ngoại rộng mở. Nhưng vì tôi viết về thế giới thông qua chính bản thân mình nên vấn đề quan trọng nhất đối với tôi là làm thế nào kể được một câu chuyện, tìm được một giọng điệu. Rồi sau đó nhân vật của mình xuất hiện.

S.F:  Vậy tất cả tiểu thuyết của ông đều khúc xạ qua những kinh nghiệm cá nhân?

K.O: Tôi không bắt đầu viết một tiểu thuyết bằng một ý niệm được xác định trước về việc sẽ đưa nhân vật đi theo hướng nào hoặc sẽ tạo một nhân vật nào đó như thế nào. Đối với tôi, đấy là việc của công đoạn sửa chữa, viết lại, phức tạp hóa bản thảo. Thông qua quá trình viết lại và phức tạp hóa bản thảo này, các nhân vật mới và tình huống mới nảy sinh. Trang bản thảo là một mặt phẳng rất khác với đời thực. Trên mặt phẳng này, các nhân vật và câu chuyện tự phát triển.

Tuy nhiên, tất cả tiểu thuyết của tôi, theo một cách nào đó, đều là về chính tôi, về những gì tôi nghĩ khi mình còn trẻ, khi mình ở độ tuổi trung niên với một đứa con tật nguyền, một ông già. Tôi đào sâu lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất như là đối lập với lối kể chuyện ở ngôi thứ ba. Đấy là một vấn đề. Thực sự, một người viết tiểu thuyết tốt phải là người có khả năng viết ở ngôi thứ ba, nhưng tôi chưa bao giờ viết tốt khi kể chuyện từ ngôi thứ ba cả. Theo nghĩa đó, tôi là một tiểu thuyết gia nghiệp dư thôi. Dẫu rằng trong quá khứ, tôi đã từng viết ở ngôi thứ ba, nhưng nhân vật của tôi, không hiểu sao, bao giờ cũng giống chính tôi. Lý do nằm ở chỗ: chỉ từ ngôi thứ nhất tôi mới có thể định vị được chính xác hiện thực nội giới của mình.

Thí dụ, trong truyện “Aghwee The Sky Monster” (Aghwee – Quái vật trên trời), tôi viết về một người ở tình huống tương tự như mình khi Hikari[2], con trai tôi, được sinh ra nhưng nhân vật ấy lại có một quyết định khác với tôi. Cha của Aghwee quyết định không để đứa con quái thai của mình tiếp tục sống. Trong A Personal Matter (Một nỗi đau riêng), tôi cũng viết một nhân vật chính khác – Điểu – người lựa chọn sẽ sống cùng với đứa con của mình. Cả hai tác phẩm được viết cùng thời điểm. Song trong trường hợp này, đó thật sự là điều làm tôi lúng túng. Cùng viết về lựa chọn và hành động của người cha của Aghwee và Điểu, nhưng dường như tôi cứ nhập đời mình vào Điểu. Tôi không chủ định làm điều ấy nhưng sau đó tôi nhận ra đấy là điều mình đã làm.

S.F: Ông có nghĩ mang một đức tin đối với nhà văn là mang một gánh nặng?

K.O: Tôi không nghĩ đức tin theo kiểu tôn giáo là một gánh nặng nhưng những nhà văn, nhà tư tưởng mà tôi cảm thấy có sự gần gũi với mình về tinh thần dường như đều cùng chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của tôi liên quan đến vấn đề đức tin. Tôi đã hình thành thói quen học hỏi từ họ. Có những nhà văn tôi không cảm thấy gần gũi vì tôi không chia sẻ được những cảm xúc và suy nghĩ của họ về đức tin. Tolstoy, chẳng hạn, là người mà tôi không thật sự thấy đồng điệu với mình.

Tôi không có đức tin, cũng không nghĩ trong tương lai mình sẽ có, nhưng tôi không phải là một kẻ vô thần. Đức tin của tôi là đức tin của một con người thế tục. Bạn có thể gọi đó là “đạo đức”. Trong đời mình, tôi có hình thành một vài châm ngôn sống nhưng những châm ngôn ấy đều do lý trí, tư duy, kinh nghiệm của tôi đúc kết nên. Đời sống của tôi là đời sống của một con người thế tục và tôi đã học, đã hiểu về con người theo cách đó. Nếu có một vùng nào đó, nơi tôi có thể chạm đến cái siêu nghiệm thì đó là phần đời của tôi bên cạnh Hikari suốt 44 năm qua. Từ mối quan hệ giữa tôi và Hikari và từ sự cảm nhận của tôi về âm nhạc của con trai mình, tôi đã thoáng nhìn thấy cái siêu nghiệm.

Hải Ngọc trích dịch.

Nguồn: Kenzaburo Oe, “The Art of Fiction”, phỏng vấn do Sarah Fray thực hiện, The Paris Review No.183, số Mùa Đông, năm 2007.


[1] Edward Said (1935-2003), giáo sư  văn học Anh và văn học so sánh tại Đại học Columbia Hoa Kỳ. Nhà nghiên cứu gốc Palestine này được xem là người đặt nền móng cho thuyết hậu thực dân (post-colonialism).

[2] Hikari Oe là con trai cả trong ba người con của Kenzaburo Oe. Ngay khi ra đời, Hikari đã bị thương tổn về não và ngay cả các bác sĩ cũng khuyên gia đình không nên giữ lại đứa con này. Nhưng Kenzaburo Oe đã quyết định ngược lại. Đến nay, mặc dù là một người tự kỷ, gặp rất nhiều khó khăn về ngôn ngữ nhưng Hikari đã trở thành một trong những nhà soạn nhạc đáng chú ý với CD đầu tay bán được  hơn một triệu bản.

Haruki Murakami – Con khỉ trong khu Shinagawa

Lời dẫn: Lục lại máy tính, mới phát hiện ra truyện ngắn này của Haruki Murakami mình đã dịch khá lâu rồi, cách đây chừng 6 năm, và chưa từng post lên blog. Đọc lại thấy nhớ… Nhớ một thời mình có thể kiên nhẫn ngồi dịch một truyện ngắn như thế này dẫu biết chắc không thể đăng được trên báo nào để kiếm tí nhuận bút. Nhớ đến một thời mình từng tin rằng mình có thể trở thành người dịch văn học tử tế, dịch được những tác phẩm quan trọng (Ôi một thời trẻ trâu!!!). Nhớ đến một thời  The New Yorker hàng tuần còn hào phóng cho đọc free mục Fiction…Rất nhiều điều để nhớ như thế. Bây giờ mình thiếu can đảm hơn rất nhiều, thiếu kiên nhẫn hơn rất nhiều, và niềm tin vào khả năng dịch thuật cũng mai một đi rất nhiều. Dù sao, ngay lúc này, mình đang rất muốn khởi động lại việc dịch thuật nghiêm túc, nhất là dịch fiction. Hy vọng là nỗi nhớ cũng có thể trở thành một động lực.

*

Thỉnh thoảng nàng lại không thể nào nhớ nổi tên mình là gì. Chuyện này thường xảy ra khi ai đó bất ngờ hỏi tên nàng. Chẳng hạn, lúc nàng đang ở một cửa hàng thời trang để sửa lại gấu của một chiếc váy, cô nhân viên bán hàng hỏi: “Xin chị cho biết tên mình?”, đầu óc nàng bỗng nhiên hoàn toàn trống rỗng. Cách duy nhất giúp nàng có thể nhớ lại tên mình khi ấy là rút bằng lái xe ra để xem; hành động đó khiến cho người đang nói chuyện với nàng không khỏi cảm thấy kỳ quặc. Ngay cả lúc đang nói chuyện qua điện thoại, chuyện này cũng xảy ra và sự im lặng đầy lúng túng của nàng khi đành phải lục ví của mình để tìm bằng lái xe làm cho người ở đầu dây bên kia băn khoăn không biết là có chuyện gì.

 

Nàng có thể nhớ mọi thứ khác. Nàng chưa bao giờ quên tên của những người xung quanh mình. Địa chỉ của nàng, số điện thoại, ngày sinh, số hộ chiếu – nàng không hề gặp khó khăn gì để nhớ ra những thứ đó. Nàng có thể nói trơn tru số điện thoại của những người bạn mình, của những khách hàng quan trọng. Khi nàng tự giới thiệu tên mình, nàng cũng chưa bao giờ thấy trí nhớ của mình trục trặc. Nếu biết trước tình huống gì sẽ xảy đến, trí nhớ của nàng sẽ không có vấn đề gì cả. Nhưng lúc đang vội hay không được chuẩn bị thì trí nhớ của nàng cứ như thể bị chập mạch vậy. Càng đánh vật với trí nhớ, nàng càng thấy rõ, dẫu có cố hết sức mình, nàng cũng chẳng thể nào nhớ nổi mình được gọi là gì.

 

 

Tên của nàng sau khi kết hôn là Mizuki Ando; tên thời con gái của nàng là Ozawa. Cả hai cái tên đó đều rất bình thường, không gây ấn tượng gì đặc biệt nhưng dù như vậy, điều đó vẫn không thể giải thích được vì sao những cái tên đó, trong trường hợp nàng đang bận bịu, lại có thể biến mất khỏi trí nhớ nàng. Nàng đã mang cái tên Mizuki Ando được ba năm kể từ khi kết hôn với người đàn ông tên là Takashi Ando. Ban đầu, nàng không thể quen được với cái tên đó. Hình dạng và âm thanh của cái tên ấy dường như không hợp với nàng. Song dần dà, sau khi nàng phải nhắc đi nhắc lại và ký cái tên ấy một vài lần, nàng bắt đầu thấy thoải mái hơn với nó. So với một số khả năng khác đối với cái tên mình – chẳng hạn như Mizuki Mizuki, hay Mizuki Miki (trên thực tế, nàng đã từng hò hẹn với một gã tên là Miki trong một thời gian)- nàng thấy cái tên Mizuki Ando cũng không đến nỗi nào.

 

Sau khi kết hôn độ hai năm thì tên của nàng bắt đầu trượt khỏi trí nhớ của nàng. Thoạt đầu, chuyện này chỉ xảy ra khoảng một tháng một lần nhưng rồi dần dần, nó xuất hiện thường xuyên hơn. Bây giờ thì trong tuần, ít nhất là có một lần, nàng quên mất tên mình. Nếu nàng đem theo ví bên mình thì mọi chuyện cũng ổn. Nhưng nếu để thất lạc cái ví thì chính nàng cũng bị thất lạc. Dĩ nhiên, nàng không hoàn toàn bị mất tích – nàng vẫn còn nhớ địa chỉ và số điện thoại của mình. Trường hợp của nàng không giống như những nhân vật bị mất trí nhớ hoàn toàn trong các bộ phim. Dẫu vậy, việc quên mất tên mình vẫn khiến nàng thấy buồn chán. Sống một cuộc đời vô danh, nàng nghĩ, chẳng khác gì chìm trong một giấc mơ mà người ta không bao giờ thức dậy được.

 

 

Mizuki đến một cửa hàng bán đồ trang sức, mua một chiếc dây chuyền đeo tay mỏng, đơn giản và khắc tên mình lên đó: “Mizuki (Ozawa) Ando.” Nàng thấy làm thế khiến mình không khác nào một con mèo hay con chó, nhưng nàng vẫn cẩn thận đeo chiếc dây chuyền ấy mỗi khi rời nhà. Nếu quên tên mình, nàng chỉ cần liếc xuống cổ tay là thấy tên mình trên chiếc dây chuyền đeo tay này. Không còn phải giật ví ra nữa, cũng không còn phải thấy những ánh nhìn lạ lùng của những người khác.

 

Nàng không kể cho chồng mình biết chuyện rắc rối ấy. Nàng hiểu chồng nàng sẽ nghĩ ngay là nàng không hạnh phúc với cuộc hôn nhân của mình. Anh ấy luôn suy nghĩ một cách logic đến thái quá trước mọi chuyện. Cố nhiên, điều này không gây hại gì cả; đấy chỉ là tính cách của anh ấy mà thôi – lúc nào cũng đầy lý lẽ. Anh ấy lại cũng là người nói nhiều, một khi đã bắt đầu một chủ đề nào đó, không dễ gì anh lại bỏ lửng câu chuyện. Vì thế, nàng đành giữ kín chuyện đó trong lòng. Tuy nhiên, nàng nghĩ những gì mà chồng mình nói – hay đúng hơn, những gì mà chồng nàng có thể nói ra khi biết chuyện của nàng- không có sở cứ. Nàng không hề bất mãn về cuộc hôn nhân của mình. Ngoài việc đôi khi chồng nàng tỏ ra duy lý quá mức, nàng không thấy có điều gì đáng than phiền về anh cả.

 

Mizuki và chồng vừa vay được một khoản có thế chấp và mua một căn hộ trong một khu chung cư mới ở Shinagawa. Chồng của nàng năm nay ba mươi tuổi, đang làm trong một phòng pha chế của một công ty dược phẩm. Mizuki, hai mươi sáu tuổi, là nhân viên cho một đại lý của hãng Honda, hàng ngày làm công việc trả lời điện thoại, pha cà phê cho khách hàng, copy tài liệu, sắp xếp hồ sơ giấy tờ và cập nhật thông tin về khách hàng. Một ông bác của Mizuki có chân trong ban quản trị của hãng Honda đã thu xếp cho nàng chỗ làm này sau khi nàng tốt nghiệp một trường cao đẳng dành cho phụ nữ ở Tokyo. Đây không phải là công việc năng động nhất mà nàng có thể hình dung được nhưng nó đòi hỏi nàng phải có trách nhiệm nhất định, và hơn hết, công việc này cũng không đến nỗi tệ. Khi nào các nhân viên bán hàng đi vắng thì nàng làm thay công việc của họ và nàng luôn nhã nhặn trả lời các câu hỏi của khách hàng. Nàng đã quan sát các nhân viên bán hàng làm việc và nhanh chóng nắm bắt được những thông tin kỹ thuật cần thiết. Nàng thuộc lòng bảng phân loại theo tổng số dặm mà xe đi được của tất cả các loại xe mẫu ở phòng trưng bày và có thể thuyết phục bất cứ khách hàng nào khi giới thiệu về các loại xe, chẳng hạn, lái xe Odyssey giống như lái một chiếc xe mui trần bình thường hơn là loại xe tải cỡ nhỏ. Mizuki là người xã giao tốt, nàng có một nụ cười duyên dáng khiến khách hàng luôn thấy dễ chịu khi tiếp xúc. Nàng cũng biết thay đổi “chiến thuật” giao tiếp một cách tinh tế, dựa vào kinh nghiệm nhận biết tính cách khách hàng của nàng. Có điều không may là nàng không có quyền để giảm giá, thoả thuận đổi xe cũ lấy xe mới, hay khuyến mại cho khách hàng vì thế, ngay cả khi nàng đã thuyết phục khách hàng chấp nhận ký tên vào hợp đồng thì cuối cùng nàng vẫn phải chuyển giao mọi thứ cho một trong số các nhân viên bán hàng, người đảm nhận công việc này. Phần thưởng duy nhất mà nàng có thể mong đợi là thỉnh thoảng được một nhân viên bán hàng mời một bữa tối để chia sẻ vụ trúng quả của mình.

 

Cũng có đôi khi nàng nghĩ: đại lý của mình có thể bán được nhiều ô tô hơn nếu giao cho mình làm công việc chào hàng. Nhưng hình như không ai có ý nghĩ như vậy. Cách thức hoạt động của công ty là vậy: những người làm công việc chào bán hàng thuộc một bộ phận, nhân viên văn phòng lại thuộc một bộ phận khác và ngoại trừ những trường hợp rất hy hữu, hai bộ phận này không thể lấn sân nhau. Nhưng cũng không quan trọng; nàng không phải là người tham vọng và cũng không cầu thăng tiến. Ngày làm tám tiếng, từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều, về nhà thì được nghỉ ngơi và thư giãn khi không phải làm việc – như thế nàng thấy thích hơn.

 

Ở chỗ làm, Mizuki vẫn dùng cái tên thời con gái của mình. Nàng biết nếu thay đổi cái tên ấy, nàng sẽ phải thay đổi tất cả các dữ liệu liên quan đến mình trong máy chủ của công ty. Điều ấy quá rắc rối nên nàng cứ để tên như cũ. Nàng được liệt vào danh sách những người đã kết hôn để xem xét mức thuế nhưng tên của nàng thì vẫn không thay đổi. Nàng cũng hiểu làm thế không đúng nhưng không một ai trong đại lý nơi nàng làm việc có ý kiến gì về chuyện này. Vậy nên, Mizuki vẫn là cái tên in trên danh thiếp và lịch trực của nàng. Chồng của nàng cũng biết nàng vẫn dùng cái tên thời con gái của mình ở nơi làm việc (thỉnh thoảng anh cũng có gọi điện đến chỗ làm của nàng) nhưng anh cũng thấy không có vấn đề gì trong chuyện đó cả. Anh hiểu nàng giữ cái tên ấy đơn giản là vì tiện lợi. Khi hiểu cái lý của việc mà vợ mình làm, anh không hề phàn nàn gì hết. Theo nghĩa đó, anh là người hết sức dễ tính.

 

 

Mizuki bắt đầu lo lắng không biết hiện tượng quên tên của chính mình ở nàng có phải là triệu chứng của một căn bệnh đáng sợ nào không, ví dụ, liệu nó có phải là dấu hiệu manh nha của chứng Alzheimer1? Thế giới đầy những căn bệnh chết người, không thể ngờ được. Nàng cũng vừa mới biết đến hai thứ bệnh đáng sợ như thế là chứng nhược cơ và bệnh Huntington2. Còn biết bao nhiêu những căn bệnh khác mà nàng chưa từng nghe đến. Và đối với hầu hết các căn bệnh, triệu chứng ban đầu của chúng đều rất nhỏ. Nhỏ nhưng lại là những triệu chứng bất bình thường. Quên tên mình phải chăng là triệu chứng như thế?

 

Nàng đến một bệnh viện lớn và giải thích tình trạng của mình cho bác sĩ. Nhưng viên bác sĩ trẻ khám bệnh cho nàng hôm ấy – trông anh ta nhợt nhạt và mệt mỏi như một bệnh nhân hơn là một bác sĩ điều trị – chẳng khám cẩn thận gì cả. “Chị còn quên thứ gì khác không, ngoài tên mình?” anh ta hỏi. “Không,” nàng trả lời.“Hiện giờ, tôi chỉ không nhớ được tên mình thôi.” “Hừm. Nghe có vẻ giống một ca bệnh về tâm thần nhiều hơn,” anh ta nói, giọng nói tuyệt nhiên không biểu lộ một sự quan tâm hay thông cảm nào. “Nếu chị bắt đầu quên thêm những thứ khác, xin hãy trở lại chỗ chúng tôi. Khi đó, chúng ta có thể thực hiện một vài bài kiểm tra xem sao.” Có lẽ anh ta muốn ngụ ý rằng: “Chúng tôi ở đây còn cả một đống bệnh nhân tình trạng còn trầm trọng hơn chị nhiều.”

 

Rồi một ngày, trong thông báo gửi cho khu dân cư, Mizuki đọc được một mẩu tin: cơ quan quản lý khu đô thị sẽ mở một trung tâm tư vấn tâm lý. Đó là một mẩu tin nhỏ mà thông thường nàng sẽ không để ý đến. Trung tâm sẽ mở cửa hai lần trong một tháng, do một chuyên gia tâm lý điều hành, tư vấn riêng cho từng khách hàng với lệ phí đặc biệt ưu đãi. Bất cứ cư dân nào tại khu Shinagawa từ mười tám tuổi trở lên đều có thể tiếp cận dịch vụ này, mẩu tin nói vậy, và tất cả mọi thông tin của khách đều được đảm bảo giữ kín theo nghĩa chặt chẽ nhất của từ này. Mizuki không chắc một trung tâm tư vấn do khu phố tài trợ như thế này liệu giúp ích được gì cho mình nhưng nàng vẫn quyết định thử xem sao. Công việc ở đại lý thường bận rộn vào cuối tuần nhưng nếu nàng xin nghỉ một ngày trong tuần thì không có vấn đề gì và nàng cũng có thể điều chỉnh thời gian biểu để khớp với lịch làm việc của trung tâm tư vấn, một việc có thể xem là không tưởng đối với người làm việc bình thường. Giá phải trả cho một ca tư vấn với thời hạn nửa tiếng đồng hồ là 2000 yên. Một khoản tiền không quá lớn đối với khả năng chi trả của nàng.

 

Khi đến trung tâm tư vấn của khu dân cư, nàng nhận ra mình là  người khách duy nhất. “Chương trình này mở ra hơi bất ngờ”, nhân viên tiếp tân giải thích. “Hầu như mọi người chưa biết gì về nó. Nhưng một khi người ta biết được, trung tâm sẽ bận rộn hơn. Tôi tin là vậy.”

 

Chuyên gia tư vấn của trung tâm tên là Tetsuko Sakaki – một phụ nữ chắc gần năm mươi tuổi, vóc dáng nặng nề nhưng thái độ cởi mở. Bà ta để tóc ngắn, nhuộm màu nâu nhạt, khuôn mặt rộng với nụ cười rất tươi tắn, dễ mến. Bà mặc một bộ đồ mùa hè nhạt màu, một chiếc áo cánh may bằng lụa bóng, trên cổ đeo một chuỗi ngọc trai giả và đi giày gót thấp. Bà trông giống một bà nội trợ hàng xóm thân thiện hơn.là một chuyên gia tư vấn tâm lý.

 

“Chồng tôi làm ở phòng quản lý khu đô thị này,” bà ta mào đầu câu chuyện. “Ông ấy là đội trưởng của ban Công trình công cộng. Vì thế mà chúng tôi có thể nhận được sự ủng hộ của văn phòng quản lý khu đô thị để mở trung tâm này. Chị là khách đầu tiên của chúng tôi và chúng tôi rất vui được đón tiếp chị. Hôm nay tôi không có cuộc hẹn nào khác nên chúng ta có thời gian và hãy nói chuyện cởi mở với nhau, được chứ?” Bà chuyên gia tư vấn nói với một nhịp độ khoan thai. Ấn tượng bao trùm về người phụ nữ này là sự chậm rãi và cân nhắc.

 

“Rất vui khi được gặp chị,” Mizuki nói. Nói vậy nhưng thật lòng, Mizuki vẫn băn khoăn không biết kiểu người như thế này giúp được gì cho mình.

 

“Chị có thể yên tâm là tôi đã có bằng cấp trong lĩnh vực tư vấn tâm lý và cũng có nhiều kinh nghiệm,” bà chuyên gia nói thêm, như thể bà đọc được ý nghĩ trong đầu Mizuki.

 

Bà Sakaki ngồi sau chiếc bàn làm việc làm bằng kim loại nhẹ. Mizuki ngồi trên một chiếc sofa nhỏ, kiểu cổ, trông nó có vẻ như vừa được lôi từ nhà kho ra vậy. Lò xo của chiếc sofa này dường như sắp hỏng và mùi mốc của nó khiến mũi nàng thấy nhột nhột.

 

Nàng dựa người vào thành ghế và bắt đầu kể lại chuyện gì đang xảy ra với mình. Bà Sakaki vừa nghe vừa gật gù. Bà không đặt bất kỳ câu hỏi nào, cũng không tỏ ra có một chút ngạc nhiên gì. Bà chỉ chăm chú lắng nghe câu chuyện của Mizuki và ngoại trừ đôi lần cau mày như thể đang suy xét điều gì, nét mặt của bà hầu như không thay đổi. Đôi môi mỉm cười rất kín đáo trên khuôn mặt bà, giống như trăng mùa xuân lúc chập tối,  không hề có chút dao động nào biểu hiện.

 

“Việc chị khắc tên lên cái dây chuyền đeo tay như thế là một ý tưởng rất hay đấy!” bà ta bình luận sau khi Mizuki kết thúc câu chuyện. “Tôi thích cách chị giải quyết vấn đề của mình. Trước hết là phải nghĩ ra được một giải pháp thực tế để giảm thiểu sự bất tiện. Giải quyết vấn đề một cách thực tế có ích hơn nhiều so với việc mình cứ ngẫm ngợi về nó. Và chiếc dây chuyền đeo tay này thật dễ thương. Nó rất hợp với chị.”

 

“Chị có nghĩ là việc quên tên của ai đó có thể liên quan đến một căn bệnh nào đấy nghiêm trọng hơn không?” Mizuki hỏi. “Và đã có trường hợp nào như vậy chưa?”

 

“Tôi không nghĩ là có căn bệnh nào mà triệu chứng xác định ban đầu của nó lại như vây cả,” bà Sakaki trả lời. “Tuy thế, tôi cũng thấy lo lắng một chút vì theo thời gian, triệu chứng của các căn bệnh có thể đã trở nên phức tạp hơn. Tôi cho rằng có khả năng hiện tượng này dẫn đến những triệu chứng khác, hoặc chứng mất trí nhớ của chị có thể lan rộng sang những vùng khác của thần kinh. Vì vậy, chúng ta cứ kiểm tra từng bước một và xác định xem nó bắt đầu từ đâu.”

 

Bà Sakaki bắt đầu đặt một số câu hỏi căn bản về cuộc sống của Mizuki. “Chị lập gia đình được bao lâu rồi?” “Công việc của chị là gì?” “Sức khoẻ của chị hiện như thế nào?” Rồi bà ta tiếp tục đặt các câu hỏi về thời thơ ấu của Mizuki, về gia đình, trường lớp của nàng. Những thứ nàng thích và không thích. Những thứ nàng giỏi và không giỏi. Mizuki cố gắng trả lời các câu hỏi một cách thật thà nhất và nhanh nhất trong chừng mực có thể.

 

Mizuki xuất thân từ một gia đình bình thường. Cha của nàng làm cho một công ty bảo hiểm lớn và tuy không phải là gia đình khá giả nhưng nàng không hề nhớ là đã có lần nào đó, gia đình của mình phải khổ sở về chuyện tiền bạc. Cha nàng là một người nghiêm nghị còn mẹ nàng thuộc típ phụ nữ khéo léo, chỉ tội hay cằn nhằn một chút. Chị gái nàng hồi đi học luôn đứng đầu lớp, mặc dù nàng cảm thấy chị mình có phần nông cạn và nàng biết đôi khi chị ấy cũng quay bài. Nhưng Mizuki không hề có vấn đề đặc biệt nào trong quan hệ với gia đình. Chưa một lần nào nàng có xung đột lớn với những người trong nhà. Bản thân Mizuki là đứa trẻ thuộc dạng không có gì nổi bật. Mizuki chưa ốm một lần nào. Nàng cũng chưa bao giờ thấy bút rứt về ngoại hình của mình, cho dù chưa từng có một ai khen nàng xinh đẹp cả. Tự nàng thấy mình cũng là người thông minh; về học lực, nàng đứng gần tốp đầu của lớp hơn là thuộc vào tốp sau nhưng lại chẳng xuất sắc ở một môn nào hết. Ở trường, nàng cũng có vài người bạn thân nhưng phần lớn bọn họ đã lập gia đình và chuyển đến sống ở những thành phố khác nên bây giờ họ hiếm khi liên lạc với nhau.

 

Nàng không có điều gì để kêu ca về cuộc hôn nhân của mình. Thời gian đầu, nàng và chồng mình cũng có những trục trặc mà cặp vợ chồng mới cưới nào cũng thường mắc phải, nhưng rồi, dần dần, cả hai đều cố gắng xuề xoà với nhau, không chấp nhặt để có cuộc sống yên ấm. Chồng của nàng không phải là người hoàn hảo nhưng anh ấy có nhiều phẩm chất tốt: tử tế, trách nhiệm, sạch sẽ, không khó tính trong chuyện ăn uống và không bao giờ phàn nàn, ca cẩm. Anh ấy cũng có vẻ có quan hệ tốt với đồng nghiệp và các sếp trong cơ quan.

 

Khi trả lời tất cả những câu hỏi này, Mizuki bỗng giật mình nhận ra nàng đã sống một cuộc sống mới tẻ nhạt làm sao! Thậm chí không hề có một sự kiện đặc biệt nào, dù chỉ một chút thôi, chạm đến đời nàng. Nếu đời nàng là một bộ phim, ắt hẳn đấy sẽ là một thứ phim tài liệu về tự nhiên với kinh phí thấp đảm bảo ru người ta ngủ được. Một bộ phim chỉ có những phong cảnh trơ trọi trải dài vô tận về phía chân trời. Không có thay đổi nào trong cảnh, không có đoạn cận cảnh nào, không có gì điềm báo và cũng không có gì khêu gợi. Mizuki hiểu công việc của một chuyên gia tư vấn tâm lý là lắng nghe khách của mình nhưng nàng bắt đầu cảm thấy tội nghiệp cho người phụ nữ đang phải kiên nhẫn nghe một câu chuyện đời nhàm tẻ như vậy. Nếu là mình, và nếu mình phải lắng nghe vô số câu chuyện đời nhạt nhẽo như đời mình bây giờ, dám chắc đến một lúc nào đó, mình sẽ đổ gục bởi nỗi chán chường tột đỉnh – Mizuki nghĩ thầm.

 

Thế nhưng Tetsuko Sakaki vẫn ngồi nghe Muzuki một cách chăm chú, và còn ghi lại mấy ghi chú vắn tắt. Khi bà ta lên tiếng, giọng nói của bà không bộc lộ một chút gì mệt mỏi, mà lại rất ấm áp và thể hiện một sự quan tâm chân thành. Mizuki thấy mình bình tâm một cách lạ lùng. Nàng nhận ra chưa từng có một người nào lắng nghe mình kiên nhẫn như thế. Khi cuộc chuyện trò của họ kết thúc, sau chỉ chừng độ một tiếng đồng hồ, Mizuki có cảm giác như mình vừa trút được một gánh nặng nào đó.

 

“Chị Ando này, thứ Tư tuần sau, cũng vào khoảng thời gian này, chị có thể đến chỗ chúng tôi được chứ?” bà Sakaki hỏi với nụ cười niềm nở.

 

“Chắc là được,” Mizuki đáp. “Chị không thấy phiền nếu tôi tìm đến đây sao?”

 

“Dĩ nhiên là không rồi. Chỉ cần chị thấy đáng quan tâm là được. Việc này có thể đòi hỏi nhiều buổi tư vấn trước khi chị thấy được có một sự tiến triển nào đó. Nó không giống một chương trình hộp thư truyền thanh mà người chủ trì chương trình chỉ bảo bạn giữ máy nghe. Không có gì phải gấp gáp, chúng ta cứ thong thả tiến hành công việc cho tốt.”

 

 

“Tôi muốn hỏi là liệu chị có thể nhớ được một sự kiện nào đó liên quan đến những cái tên hay không?” Bà Sakaki đặt câu hỏi trong buổi tư vấn thứ hai. “Tên của chị, tên của một ai đó khác, tên của một con vật cưng, tên một địa điểm chị đã từng đến thăm chẳng hạn? Nếu chị có bất cứ một ký ức nào liên quan đến một cái tên, tôi muốn chị kể cho tôi nghe về điều đó. Có thể rất tầm thường cũng được, không sao, miễn là nó có dính dáng đến một cái tên. Hãy cố nhớ xem.”

 

Mizuki nghĩ trong vài phút.

 

“Tôi không nghĩ là mình có một ký ức cụ thể nào đó về một cái tên,” cuối cùng nàng đành phải lên tiếng. “Ít nhất là lúc này, không có cái gì hiện lên trong trí nhớ của tôi cả… Ồ, khoan đã…Tôi có một kỷ niệm liên quan đến một tấm phù hiệu.”

 

“Một tấm phù hiệu. Rất tốt, chị Mizuki à.”

 

“Song đấy không phải là phù hiệu của tôi.” Mizuki nói. “Đấy là phù hiệu của một người khác.”

 

“Không có vấn đề gì cả.” Bà Sakaki nói. “Kể cho tôi nghe chuyện đó đi.”

 

“Như tuần trước, tôi có kể cho chị nghe, trước đây tôi học tại một trường nữ sinh tư thục suốt từ thời trung học cơ sở đến trung học phổ thông.” Mizuki bắt đầu vào chuyện. “Tôi là dân Nagoya mà ngôi trường của tôi lại nằm ở Yokohama vì thế, thời đi học, tôi phải sống trong khu nội trú của trường và chỉ về nhà vào dịp cuối tuần. Cứ tối thứ sáu, tôi lại bắt tàu Shinkansen để về nhà và rồi trở lại trường vào tối chủ nhật. Chỉ mất có hai tiếng để về Nagoya, vì thế tôi hầu như không cảm thấy cô đơn.”

 

Bà Sakaki gật đầu. “Nhưng chẳng phải ở Nagoya cũng có nhiều trường tư thục tốt hay sao? Tại sao chị lại phải đến học ở tận Yokohama?”

 

“Mẹ tôi từng học ở trường này và bà muốn một trong hai cô con gái của mình cũng học ở đó. Vả lại, tôi thấy sống xa gia đình cũng có thể là điều hay. Trường của tôi là một trường của hội truyền giáo nhưng khá tự do. Ở đó, tôi có mấy người bạn tốt. Bọn họ đều giống tôi ở chỗ tất cả đều đến từ những nơi khác. Họ chọn học trường này vì mẹ của họ cũng đã từng là nữ sinh của trường. Tôi học ở đấy sáu năm và nhìn chung, tôi thích ngôi trường này. Có điều, thức ăn ở đó dở tệ.”

 

Bà Sakaki mỉm cười. “Chị nói mình có một bà chị?”

 

“Đúng. Chị ấy hơn tôi hai tuổi.”

 

“Tại sao chị ấy không học ở trường này?”

 

“Chị ấy là người thích ru rú ở nhà, thêm vào đó, sức khoẻ của chị ấy cũng có vấn đề. Vì thế, chị đi học ở trường gần nhà và sống với bố mẹ tôi. Tôi luôn có tính cách độc lập hơn chị mình. Khi học xong tiểu học, bố mẹ tôi hỏi tôi có muốn đi học ở Yokohama hay không, tôi đã trả lời “có”. Cái viễn tưởng cứ đến cuối tuần, mình lại được đi tàu Shinkansen nghĩ cũng thú vị.

 

Phần lớn thời gian học tại trường, tôi phải sống chung phòng với bạn nhưng đến năm trung học phổ thông, tôi được ở một mình một phòng. Tôi cũng được bầu vào ban đại diện sinh viên của khu nội trú. Mọi sinh viên trong khu nội trú đều có phù hiệu treo trên một tấm bảng đặt ở lối vào khu nhà. Mặt trước của tấm phù hiệu sinh viên được in màu đen, mặt sau được in màu đỏ. Bất cứ khi nào đi ra ngoài, sinh viên trong khu nội trú phải lật tấm phù hiệu sinh viên ra mặt sau và khi về, lại phải lật tấm phù hiệu trở lại. Vì vậy, nếu thấy tên của một nữ sinh màu đen thì có nghĩa là cô ấy đang ở trong phòng mình; còn nếu thấy màu đỏ, tức là nữ sinh đó đã đi ra ngoài. Nếu đi đâu đó qua đêm hay phải ra ngoài ký túc xá một lúc, sinh viên phải lấy phù hiệu của mình ra khỏi tấm bảng và đem nó theo. Đó là một hệ thống rất tiện ích. Sinh viên lần lượt phải ngồi trực ở cái bàn đặt ở cửa ra vào và khi có một cú điện thoại gọi đến, chỉ cần liếc nhìn tấm bảng, cũng có thể biết được nữ sinh mà người ta đang cần gặp hiện ở đâu.

 

Trở lại, câu chuyện của tôi xảy ra vào tháng mười. Một buổi tối, trước giờ ăn, tôi đang ở trong phòng của mình làm bài về nhà thì một nữ sinh khoá dưới tên là Ỵuko Matsunaka đến tìm tôi. Hồi đó, cô ấy là nữ sinh xinh nhất khu nội trú – nước da sáng, tóc dài, khuôn mặt đẹp như búp bê. Cha mẹ cô ấy quản lý một nhà khách nổi tiếng ở Kanazawa và khá giàu. Cô ấy không học cùng lớp với tôi vì thế tôi không chắc lắm nhưng tôi nghe người ta nói học lực của cô ấy rất tốt. Nói khác đi, cô ấy là một người nổi bật. Rất nhiều nữ sinh khoá dưới ngưỡng mộ Yuko. Nhưng Yuko không vì thế mà kênh kiệu: cô ấy rất thân thiện. Cô ấy thuộc típ người thâm trầm, không biểu lộ cảm xúc nhiều. Không phải bao giờ tôi cũng hiểu được điều mà cô ấy đang nghĩ. Nữ sinh khoá dưới rất nể trọng cô ấy nhưng tôi cho là cô ấy không có người bạn thân nào cả.”

 

 

Khi Mizuki mở cửa phòng mình thì thấy Yuko Matsunaka đang đứng đó, mặc một chiếc áo len cổ lọ bó thân và quần jeans. “Bạn có thể nói chuyện với tôi một lát được không?” Yuko hỏi. “Được chứ,” Mizuki đáp và thấy ngạc nhiên. “Hiện giờ tôi không phải làm việc gì quan trọng cả.” Mặc dù biết Yuko nhưng Mizuki chưa bao giờ nói chuyện riêng với cô ta. Chưa bao giờ Mizuki nghĩ một người như Yuko lại đến xin mình lời khuyên cho một vấn đề riêng tư nào đấy. Mizuki ra dấu mời Yuko ngồi xuống trong khi lấy nước nóng trong phích để pha trà.

 

“Mizuki này, bạn đã bao giờ cảm thấy ghen tị hay không?” Đột nhiên, Yuko đặt câu hỏi.

 

Mizuki ngạc nhiên bởi câu hỏi ấy nhưng nàng suy nghĩ rất nghiêm túc về nó trong một lúc.

 

“Không, tôi nghĩ là mình chưa bao giờ thấy như vậy,” nàng trả lời câu hỏi của Yuko.

“Thậm chí dù chỉ một lần?”

 

Mizuki lắc đầu. “Ít nhất, khi bạn hỏi tôi bất ngờ thế này, tôi không thể nhớ ra được. Bạn định nói đến sự ghen tị như thế nào kia?”

 

“Chẳng hạn, bạn yêu một ai đó nhưng anh ta lại yêu một người khác. Giống như việc bạn rất, rất muốn một thứ gì đấy nhưng lại có ai kia chộp lấy nó. Hoặc giả như có một việc nào đó bạn không thể thực hiện được nhưng có một người khác làm được việc đó mà chẳng cần phải cố gắng gì… Đại loại như vậy.”

 

“Tôi không nghĩ là mình đã từng có cảm giác như thế,” Mizuki nói. “Còn bạn?”

 

“Nhiều lắm.”

 

Mizuki không biết nói gì. Một cô gái như Yuko còn muốn thứ gì trên đời nữa? Cô ta xinh đẹp, giàu có, học giỏi, nổi tiếng. Cha mẹ cô ta cưng chiều hết mực. Mizuki nghe đồn cô ta đang hò hẹn với một chàng sinh viên đại học điển trai. Vậy thì cô ta còn ghen tị với ai trên thế gian này nữa đây?

 

“Chẳng hạn như có một lần nào khiến bạn thấy ghen tị như vậy?” Mizuki hỏi.

 

“Có lẽ tôi không nói ra thì hơn,” Yuko nói, cân nhắc từng từ. “Nghe hết mọi chi tiết sẽ chẳng ích gì. Nhưng có một thời gian, tôi đã rất muốn hỏi bạn điều ấy. Đã có bao giờ bạn cảm thấy ghen tị?”

 

Mizuki không hiểu Yuko muốn gì ở nàng nhưng nàng quyết định trả lời cô ấy một cách thành thực nhất. “Tôi nghĩ là mình chưa bao giờ thấy có cảm giác như vậy,” nàng nhắc lại. “Tôi không biết vì sao mình lại thế, có lẽ bạn sẽ thấy hơi lạ lùng. Không phải là tôi quá đỗi tự tin hay có được tất cả những gì mình muốn. Thực sự cũng có nhiều thứ mà tôi nên lấy làm thất vọng, nhưng, không rõ vì sao, điều ấy lại không làm tôi thấy ghen tị với kẻ khác. Tôi không hiểu.”

 

Yuko Matsunaka khẽ mỉm cười. “Tôi không cho là sự ghen tị liên quan nhiều đến những điều kiện khách quan – kiểu như nếu người ta may mắn, người ta sẽ không biết ghen tị; còn nếu đời không cho ta hưởng phúc thì ta sẽ thấy ghen tị với kẻ khác may mắn hơn. Không, sự ghen tị ở con người không diễn ra như thế. Nó tựa như một khối u bên trong cơ thể người ta, mỗi ngày một lớn dần, một cách phi lý. Ngay cả khi ta biết nó ở đó, ta cũng chẳng thể làm được gì để ngăn nó lại.”

 

Mizuki nghe Yuko nói mà không ngắt lời. Hầu như chưa bao giờ Yuko có nhiều điều để nói trong một lúc như thế này.

 

“Thật khó giải thích sự ghen tị là gì cho một người chưa từng có cảm thấy điều đó,” Yuko nói. “Nhưng có một điều tôi biết rõ là người ta không dễ sống với cảm giác đó. Điều đó giống như việc mang theo một quả chuông nhỏ quanh mình, hết ngày này sang ngày khác vậy. Bạn nên cảm thấy may mắn vì chưa bao giờ cảm thấy như thế, Mizuki à.”

 

Yuko ngừng nói và nhìn Mizuki bằng một ánh mắt thay cho nụ cười. Cô ấy thật đáng yêu, Mizuki thầm nghĩ. Nếu được như cô ấy thì sẽ cảm thấy thế nào nhỉ? Sẽ cảm thấy thế nào khi đi đến đâu cũng khiến người ta bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của mình? Sắc đẹp- có phải đó là điều khiến người ta có thể kiêu hãnh về bản thân? Hay là một gánh nặng thì đúng hơn? Dẫu nghĩ vậy nhưng thật sự, Mizuki chưa một lần ghen tị với Yuko.

 

“Bây giờ tôi phải về nhà,” Yuko nói, mắt nhìn chằm chằm vào hai bàn tay đặt trên đùi mình. “Một người họ hàng nhà tôi vừa qua đời và tôi phải về dự đám tang. Tôi đã xin phép người quản lý nội trú rồi. Đến sáng thứ Hai, tôi sẽ quay về, nhưng trong khi tôi đi vắng, tôi muốn nhờ bạn giữ giùm tôi phù hiệu, được không?”

 

Cô ấy lấy tấm phù hiệu từ túi quần ra và đưa cho Mizuki.

 

“Tôi không ngại việc giữ nó giùm bạn,” Mizuki nói. “Nhưng tại sao bạn lại phức tạp hoá việc này khi đưa nó cho tôi? Để nó trong một cái ngăn bàn nào đấy không được sao?”

 

Yuko như dán mắt vào cái nhìn của Mizuki. “Tôi chỉ muốn bạn giữ lấy nó lần này,” cô ta nói. “Có một cái gì đó khiến tôi không yên tâm và tôi không muốn để nó lại trong phòng mình.”

 

“Được thôi,” Mizuki nói.

 

“Tôi không muốn một con khỉ nào đó cuỗm mất nó trong khi tôi đi vắng.”

 

“Tôi không nghĩ là ở đây có con khỉ nào,” Mizuki nói với một giọng vui vui. Nhưng có vẻ Yuko không định pha trò đùa. Sau đó, Yuko rời phòng, để lại tấm phù hiệu của mình, một tách trà chưa hề nhấp và một khoảng không gian trống rỗng lạ lùng, nơi cô ấy từng ngồi lại.

 

 

“Đến ngày thứ hai, Yuko không quay về khu nội trú,” Mizuki kể tiếp chuyện cho bà Sakaki. “Giáo viên chủ nhiệm lớp của Yuko rất lo lằng và gọi điện về cho cha mẹ của cô ấy. Hoá ra, cô ấy không hề về nhà. Họ hàng của cô ấy cũng không có ai mất cả. Không có đám tang nào mà cô ấy phải đến viếng. Cô ấy đã nói dối tất cả mọi chuyện.  Khoảng một tuần sau, người ta tìm thấy xác của Yuko. Tôi biết được tin này khi trở về trường từ Nagoya ngày chủ nhật sau đó. Cô ấy đã cứa cổ tay mình ở một nơi nào đó trong rừng. Không ai biết vì sao cô ấy hành động như vậy. Cô ấy không để lại lời nhắn gửi nào. Bạn cùng phòng với cô ấy nói rằng trước đó, cô ấy vẫn bình thường như từ xưa đến nay, chưa bao giờ tỏ ra đặc biệt phiền muộn về một chuyện gì. Yuko đã tự tử mà không nói một lời với bất kỳ ai.”

 

“Nhưng chẳng phải Yuko Matsunaka đã cố kể cho chị một chuyện gì đó sao?” Bà Sakaki hỏi. “Khi cô ta đến phòng của chị và để lại phù hiệu của mình cho chị. Và rồi nói với chị về sự ghen tị.”

 

“Đúng là cô ấy nói đến sự ghen tị. Nhưng vào lúc đó, tôi không hiểu lắm, mặc dù sau này, tôi nhận ra chắc hẳn cô ấy muốn nói với ai đó về điều ấy trước khi chết.”

 

“Chị có nói cho ai biết chuyện cô ta đến tìm gặp chị không?”

 

“Không, tôi chưa bao giờ làm điều đó.”

 

“Tại sao?”

 

Mizuki nghiêng đầu và suy nghĩ một lúc. “Nếu tôi kể ra điều đó cho mọi người, có lẽ sẽ chỉ gây thêm những rắc rối mà thôi. Tôi không nghĩ là có ai đó hiểu được vấn đề.”

 

“Chị muốn nói là sự ghen tị là nguyên nhân dẫn đến sự tự tử của cô ta sao?”

 

“Đúng thế. Như tôi đã nói, một cô gái như Yuko thử hỏi còn phải ghen tị với ai? Lúc đó, mọi người ai cũng đau khổ. Vậy nên tôi quyết định sẽ giữ kín chuyện này cho riêng mình. Chị có thể hình dung được không khí của một khu nội trú dành cho nữ sinh – nói điều đó ra chẳng khác nào quẹt diêm trong một căn phòng đầy khí gas.”

 

“Chuyện gì xảy ra với tấm phù hiệu?”

 

“Tôi vẫn còn giữ nó. Nó nằm trong một cái hộp ở cuối buồng riêng của tôi. Cùng với tấm phù hiệu của tôi.”

 

“Vì sao chị lại giữ nó?”

 

“Lúc đó, ở trường tôi, mọi thứ đều náo động nên tôi đã bỏ lỡ cơ hội để trả lại nó. Càng chờ đợi, tôi càng thấy khó có thể trả lại nó một cách đơn giản được. Mà tôi lại không thể cam tâm vứt nó đi. Thêm nữa, tôi bắt đầu có ý nghĩ rằng có lẽ Yuko muốn tôi giữ lại tấm phù hiệu này. Còn tại sao cô ấy chọn tôi thì tôi không hiểu.”

 

“Có lẽ Yuko quan tâm đến chị bởi lý do nào đấy. Có lẽ ở chị có điểm gì đó cuốn hút cô ta.”

 

“Tôi không nghĩ đến như thế.”

 

Bà Sakaki im lặng, chăm chú nhìn Mizuki một lúc như thể để chắc chắn một điều gì đó.

 

“Tạm gạt chuyện đó sang một bên, nói một cách thành thực, chị chưa bao giờ cảm thấy ghen tị? Dù chỉ một lần trong đời?”

 

Mizuki không trả lời ngay. Cuối cùng, nàng mới lên tiếng: “Tôi không nghĩ là mình dã từng có cảm giác ấy. Tất nhiên, có những người may mắn hơn tôi. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đã từng ghen tị với họ. Tôi nghĩ là mỗi người có một cuộc đời khác nhau.”

 

“Và bởi mỗi người có một cuộc đời khác nhau nên không có cách gì để so sánh cả?”

 

“Tôi cho là vậy.”

 

“Một quan điểm thật thú vị.” Bà Sakaki nói, hai tay bà khoanh lại trên bàn, giọng nói nhẹ nhõm của bà như để lộ một sự thích thú. “Tóm lại, chị không hiểu sự ghen tị là gì, phải vậy không?”

 

“Tôi nghĩ mình hiểu được điều gì gây nên cảm giác ấy. Nhưng đúng là tôi không biết nó thật sự là cảm giác gì. Sự chế ngự của nó đối với con người ra sao? Nó kéo dài bao lâu? Con người ta phải khổ sở như thế nào vì nó? Tất cả những điều đó, tôi không hiểu.”

 

 

Về đến nhà, Mizuki vào trong buồng của mình và lôi ra một hộp các tông cũ, chỗ mà nàng để tấm phù hiệu của Yuko cùng với phù hiệu của mình. Tất cả những gì đáng nhớ trong đời của Mizuki đều chất trong chiếc hộp này, đủ mọi dạng: thư từ, nhật ký, album ảnh, phiếu thành tích học tập. Nàng vẫn có ý định loại bỏ tất cả những thứ này nhưng chưa có thời gian để phân loại, sắp xếp chúng vì thế mỗi lần chuyển nhà, nàng lại phải bê theo chiếc hộp này cùng mình. Nhưng tìm đến mỏi mắt, nàng vẫn không thấy chiếc phong bì trong đó nhét hai tấm phù hiệu. Nàng thấy hoang mang. Khi lần đầu chuyển tới căn hộ này, nàng đã kiểm tra chiếc hộp và nhớ rõ là mình đã nhìn thấy chiếc phong bì ấy. Kể từ dạo đó, nàng chưa một lần mở chiếc hộp này ra. Vì thế chiếc phong bì chỉ có thể nằm ở đây mà thôi. Nó còn có thể biến đi đâu được?

 

 

 

Mizuki vẫn giấu không cho chồng mình biết những buổi nàng đến trung tâm tư vấn. Nàng không chủ định làm thế nhưng giải thích việc này có thể làm cho toàn bộ câu chuyện trở nên phiền phức hơn thực chất. Vả lại, việc Mizuki quên mất tên mình và tuần một lần đến trung tâm tư vấn của khu dân cư dù sao cũng chẳng làm anh lo lắng.

 

Mizuki cũng giữ bí mật việc nàng để mất hai tấm phù hiệu. Nàng nghĩ nếu bà Sakaki không biết việc đó thì sẽ không gây ra những khác biệt nào đối với những buổi tư vấn dành cho nàng.

 

Hai tháng trôi qua. Cứ mỗi thứ tư, nàng lại đến trung tâm tư vấn theo lịch hẹn. Số lượng khách đến tư vấn ở đó đã gia tăng, bởi vậy bà Sakaki buộc phải giảm thời gian cho một cuộc tư vấn từ một tiếng xuống còn ba mươi phút. Tuy nhiên, điều đó cũng không ảnh hưởng gì bởi bây giờ hai người đã biết nhau và biết cách làm thế nào để tận dụng thời gian một cách tốt nhất khi gặp gỡ. Đôi khi Mizuki cũng mong muốn họ có thể nói chuyện lâu hơn nhưng với mức lệ phí thấp, nàng không có lý gì để phàn nàn.

 

“Đây là buổi nói chuyện thứ chín của chúng ta rồi,” bà Sakaki nói, năm phút trước khi kết thúc một cuộc hẹn. “Chị vẫn thường xuyên quên tên mình như truớc, nhưng tình hình không trở nên tồi tệ hơn, đúng không?”

 

“Vâng,” Mizuki trả lời.

 

“Tuyệt vời,” bà Sakaki nói. Bà cài lại chiếc bút bi ruột đen vào túi áo; hai tay xiết chặt đặt trên mặt bàn. Bà ngừng lặng trong giây lát. “Có thể – chỉ là có thể thôi – khi tuần sau chị đến đây, sẽ có một bước tiến lớn liên quan đến vấn đề mà chúng ta đang giải quyết.”

 

“Chị muốn nói đến bệnh quên tên mình của tôi ư?”

 

“Chính thế. Nếu mọi sự đều diễn tiến theo kế hoạch, tôi có thể tìm được nguyên nhân xác định, thậm chí còn có thể đưa nó ra cho chị xem nữa.”

 

“Nguyên nhân khiến tôi quên tên mình sao?”

 

“Đúng vậy.”

 

Mizuki quả tình không hiểu bà Sakaki đang nói gì. “Chị nói đến một nguyên nhân xác định… nghĩa là chị muốn nói đến một cái gì đó hữu hình chăng?”

 

“Dĩ nhiên, đó là một thứ hữu hình,” bà Sakaki trả lời, đồng thời xoa xoa hai bàn tay tỏ vẻ hài lòng. “Tôi không thể đi sâu vào chi tiết cho đến tận tuần sau. Tại thời điểm này, tôi vẫn không chắc liệu điều đó có thành hiện thực hay không. Tôi chỉ hy vọng là có.”

Mizuki gật đầu.

 

“Dù sao đi nữa, tôi muốn nói là chúng ta đã phải đau đầu biết bao nhiêu về chuyện này nhưng rồi mọi sự cuối cùng cũng đi đến một giải pháp. Người ta vẫn nói sống ở đời đi được ba bước lại phải lùi hai bước, chắc chị cũng biết? Vì vậy đừng lo âu. Hãy tin tưởng tôi, tuần sau chúng ta sẽ gặp lại. Và nhớ là đừng quên đặt lịch hẹn khi chị đi ra nhé!”

 

Bà Sakaki kết thúc chuỗi lời của mình với một cái nháy mắt.

 

 

Tuần kế tiếp, khi Mizuki bước vào văn phòng trung tâm tư vấn, bà Sakaki đã chào đón nàng với một nụ cười rạng rỡ nhất mà nàng từng nhìn thấy trên khuôn mặt bà.

 

“Tôi đã tìm ra nguyên nhân khiến chị quên mất tên mình rồi,” bà thông báo tin này với một vẻ tự hào. “Và tôi đã tìm được cách giải quyết.”

 

“Vậy tôi sẽ không còn quên tên của mình nữa đúng không?”

 

“Đúng. Chị sẽ không bao giờ quên tên mình nữa. Vấn đề đã được giải quyết.”

 

Bà Sakaki lấy một cái gì đó ra từ chiếc túi xách tay màu đen phía sau bà và đặt lên bàn. “Tôi tin những thứ này thuộc về chị.”

 

Đang ngồi trên ghế sofa, Mizuki đứng bật dậy và đi về phía chiếc bàn. Trên bàn là hai tấm phù hiệu. Một tấm có ghi tên “Mizuki Ozawa” còn tấm kia đề “Yuko Matsunaka”. Mặt của Mizuki tái nhợt. Nàng trở về chiếc ghế sofa, không thể nói năng gì trong một lúc. Nàng bụm cả hai tay vào miệng như để cố ngăn lời nói thốt ra.

 

“Không có gì lạ khi chị ngạc nhiên đến vậy,” bà Sakaki nói. “Nhưng không có gì phải sợ hết.”

 

“Làm thế nào mà chị…” Mizuki lên tiếng.

 

“Làm thế nào tôi lại tìm thấy những tấm phù hiệu của chị hồi trung học? Chị định hỏi vậy, đúng không?”

 

Mizuki gật đầu.

 

“Tôi đã tìm thấy lại chúng cho chị,” bà Sakaki nói. “Có kẻ đã lấy những tấm phù hiệu này ở chỗ chị và đó là nguyên nhân vì sao chị lại gặp trục trặc khi nhớ tên mình.”

 

“Nhưng ai lại…”

 

“Ai lại đột nhập vào nhà chị và lấy đi hai tấm phù hiệu, và vì mục đích gì?” bà Sakaki nối lời của Mizuki. “Thay vì để tôi trả lời câu hỏi này, tôi nghĩ tốt nhất chị nên hỏi cá nhân người chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ này.”

 

“Kẻ làm việc đó hiện có ở đây?” Mizuki kinh ngạc hỏi.

 

“Tất nhiên. Chúng tôi đã bắt được kẻ đó và lấy lại những tấm phù hiệu. Nghĩa là, không phải tự tôi tóm cổ được hắn. Chồng tôi và một nhân viên của ông đã làm việc này. Chị nhớ tôi đã có lần nói chồng tôi là đội trưởng của ban Công trình công cộng ở khu vực này chứ?”

 

Mizuki gật đầu không suy nghĩ gì.

 

“Chị nghĩ sao khi bây giờ chúng ta sẽ đi gặp thủ phạm? Chị có thể trực diện với hắn, cho hắn một trận tơi bời.”

 

Mizuki đi theo bà Sakaki ra khỏi văn phòng trung tâm tư vấn, xuống sảnh rồi bước vào thang máy. Họ đi xuống tầng hầm của toà nhà và đi dọc theo một đoạn hành lang vắng hoe đến chỗ một cánh cửa ở tận cùng tầng hầm.

 

Bên trong có một người đàn ông cao gầy độ năm mươi tuổi và một người đàn ông vóc dáng lớn hơn, khoảng chừng hai lăm, hai sáu, cả hai đều mặc bộ đồ làm việc may bằng vải kaki nhẹ. Người đàn ông nhiều tuổi hơn đính phù hiệu trên ngực áo ghi tên “Sakaki”; phù hiệu người đàn ông trẻ hơn ghi tên “Sakurada”. Sakurada đang cầm một chiếc gậy tuần đêm.

 

“Chị Ando, đúng không?” ông Sakaki hỏi và rồi tự giới thiệu: “Tôi là Yoshio Sakaki, chồng của Tetsuko. Và đây là anh Sakurada, người làm việc cùng tôi.”

 

“Rất vui được gặp anh,” Mizuki nói.

 

“Nó có gây cho anh rắc rối gì không?” bà Sakaki hỏi chồng mình.

 

“Không, anh nghĩ nó thuộc dạng biết chịu đựng tình thế,” ông Sakaki trả lời. “Ở đây, Sakurada đã để mắt đến nó suốt buổi sáng và rõ ràng nó biết lễ độ. Thế nên chúng ta cứ tiến hành công việc.”

 

Lại có một cánh cửa nữa ở cuối phòng. Sakurada mở nó ra và bật đèn lên. Anh ta đảo mắt quanh phòng rồi quay lại nhìn những người khác. “Trông ổn chứ? Thôi, chúng ta đi vào đi,” anh ta nói.

 

Họ bước vào một căn phòng giống như một dạng nhà kho nhỏ; trong phòng chỉ có độc một chiếc ghế, trên đó một con khỉ đang ngồi. Nó lớn hơn một con khỉ bình thường – nhỏ hơn một người trưởng thành và to hơn một học sinh tiểu học, có lẽ vậy. Lông của nó sậm, dài hơn mức thông thường đối với một con khỉ. Khó có thể đoán được tuổi của nó nhưng rõ ràng nó không ít tuổi. Chân tay con khỉ bấu chặt lấy cái ghế gỗ và chiếc đuôi dài của nó chấm đất. Khi Mizuki bước vào, con khỉ lén nhìn nàng rất nhanh rồi lại cùi gắm nhìn xuống mặt đất.

 

“Một con khỉ ư?” Mizuki quá đỗi ngỡ ngàng.

 

“Đúng vậy,” bà Sakaki trả lời. “Một con khỉ đã lấy trộm những tấm phù hiệu, mang chúng khỏi căn hộ của chị, đúng vào thời điểm chị bắt đầu quên tên mình.”

 

Tôi không muốn một con khỉ nào đó cuỗm nó đi mất. Yuko đã nói thế. Vậy, rốt cuộc, đấy không phải là một câu pha trò, Mizuki đã hiểu. Nàng bỗng gai người.

 

“Tôi rất tiếc,” con khỉ nói, giọng trầm trầm nhưng can đảm, dường như có nhạc tính trong  giọng nói ấy.

 

“Nó nói được ư?” Mizuki sững sờ thốt lên.

 

“Dạ vâng, tôi biết nói,” con khỉ trả lời, sắc thái biểu cảm vẫn không đổi. “Còn có một việc nữa tôi muốn xin lỗi chị. Khi đột nhập vào nơi ở của chị, tôi không định lấy đi thứ gì khác ngoài những tấm phù hiệu nhưng bởi đói quá, nên tôi đã xơi hai quả chuối để trên bàn. Trông chúng ngon quá, tôi không cầm lòng nổi.”

 

“A! Gan thật!” Sakurada lấy cây gậy tuần vụt mấy phát vào gan bàn tay con khỉ. “Ai dám chắc mày không xoáy thứ gì khác nữa? Để tôi cho nó ăn đòn, buộc nó phải khai ra!”

 

“Cứ bình tĩnh!” Ông Sakaki bảo anh ta. “Nó đã tự giác thú nhận việc ăn mấy quả chuối, thêm nữa, tôi không thấy nó giống loài khỉ dữ. Đừng làm gì quá mạnh tay cho đến khi chúng ta nghe được sự thực. Nếu người ta phát hiện chúng ta đang đối xử thô bạo với một con vật ở văn phòng quản lý chung cư thì gay go đấy!”

 

“Tại sao mi lại lấy trộm những tấm phù hiệu?” Mizuki hỏi con khỉ.

 

“Đấy là việc của tôi,” con khỉ trả lời. “Tôi là con khỉ chuyên đi lấy tên của con người. Đó là một thứ bệnh mà tôi phải chịu đựng. Một khi thấy chú ý đến một cái tên nào đó, tôi không thể kìm lòng mình lại. Nhưng xin thưa, không phải bất kỳ cái tên nào cũng tác động đến tôi. Tôi bắt gặp một cái tên cuốn hút mình và tôi nghĩ mình phải có được cái tên đó. Tôi biết làm thế là sai trái nhưng tôi không thể tự kiểm soát được bản thân.”

 

“Mi đã cố đột nhập vào khu nội trú và muốn lấy cắp phù hiệu của Yuko?”

 

“Thưa vâng, là tôi. Tôi đã si mê điên cuồng cô Matsunaka. Chưa bao giờ trong đời tôi lại bị cuốn hút bởi một người nào đó đến mức như thế. Nhưng khi biết tôi không thể nào biến cô ấy thành của riêng mình, tôi đã nghĩ, dù gì đi nữa, ít nhất, mình cũng phải có được cái tên của cô ấy. Chỉ cần sở hữu được cái tên của cô ấy, tôi cũng thấy mãn nguyện. Nhưng trước khi tôi thực hiện kế hoạch của mình thì cô ấy đã qua đời.”

 

“Mi có liên quan gì đến vụ tự tử của cô ấy không?”

 

“Không.” Con khỉ vừa nói vừa lắc đầu đau khổ. “Tôi không có liên quan gì đến việc đó.  Cô ấy tự tử chỉ là vì có một thứ bóng tối ở bên trong chế ngự, trấn áp mình.”

 

“Nhưng làm sao mi biết được, sau ngần ấy năm, phù hiệu của Yuko ở trong nhà ta?”

 

“Tôi đã phải mất một thời gian dài để tìm ra nó. Khi cô Matsunaka qua đời, tôi đã cố lấy tấm phù hiệu của cô ấy trên bảng tin nhưng nó không còn ở đó. Không ai biết nó ở đâu. Tôi đã khổ sở suy nghĩ xem nó có thể nằm ở chỗ nào nhưng càng đánh vật suy nghĩ, tôi càng không xác định được. Lúc đó, tôi không hề nghĩ cô Matsunaka để lại tấm phù hiệu ở chỗ chị vì chị không thật sự chơi thân với cô ấy.”

 

“Đúng vậy,” Mizuki nói.

 

“Thế rồi, một ngày nọ, một ý nghĩ loé lên trong đầu tôi rằng có thể – chỉ là có thể thôi – cô ấy đã trao nó cho chị. Ý nghĩ ấy nhen lên trong tôi vào hồi mùa xuân năm ngoái. Mất một thời gian dài, tôi mới tìm được chị và biết rằng chị đã lập gia đình, tên của chị bây giờ là Mizuki Ando, rằng chị hiện đang sống trong một chung cư ở Shinagawa. Một con khỉ mò mẫm thực hiện một cuộc điều tra như vậy, chị có thể hình dung được, phải thế không? Đấy, tôi đã tìm đến chỗ chị và lấy tấm phù hiệu đi như thế.”

 

“Nhưng tại sao mi lại lấy cả tấm phù hiệu của ta nữa? Sao không đem đi chỉ tấm phù hiệu của Yuko thôi? Mi có biết ta đã phải chịu đựng như thế nào vì cái trò của mi không?”

 

“Tôi xin lỗi, rất xin lỗi,” con khỉ gục đầu xấu hổ. “Khi nhìn thấy một cái tên nào đó mà tôi thích, tôi chỉ muốn chộp lấy nó. Đó là một cảm giác bối rối nhưng thật sự cái tên của chị đã làm xúc động trái tim bé nhỏ tội nghiệp của tôi. Như tôi đã nói trước đó, đó là một thứ bệnh. Tôi bị chi phối bởi một sự hối thúc mà mình không khống chế được. Tôi biết làm thế là sai nhưng rồi tôi vẫn làm việc ấy. Tôi thực tâm muốn xin lỗi vì tất cả những phiền phức mà tôi đã gây ra cho chị.”

 

“Con khỉ này trốn trong hệ thống cống của Shinagawa,” bà Sakaki nói xen vào. “Vì vậy, tôi đã bảo chồng mình yêu cầu một vài đồng nghiệp trẻ tuổi của ông ấy bắt nó.”

 

“Cậu Sakurada này hầu như một mình làm hết việc đó,” ông Sakaki nói.

 

“Ban Công trình công cộng đã phải canh và để ý xem khi nào một nhân vật như thế này đến tìm chỗ nấp trong hệ thống cống của chúng ta.” Sakurada nói với một vẻ hãnh diện. “Con khỉ này rõ ràng có một chỗ nấp dưới lòng đất khu Takanawa, nơi mà nó đã dùng như một căn cứ để từ đó tiến hành lục lọi khắp Tokyo.”

 

“Trong thành phố không có chỗ nào cho chúng tôi sống,” con khỉ nói. “Có quá ít cây cối, quá ít những chỗ có bóng râm vào ban ngày. Nếu đi trên mặt đất, thế nào người ta cũng vây lấy và tìm cách bắt chúng tôi. Trẻ con thì vứt các thứ vào chúng tôi, lấy súng BB3 bắn chúng tôi. Lũ chó thì rượt theo. Đám phóng viên truyền hình thì bất thình lình xuất hiện và chiếu những luồng sáng cực mạnh vào chúng tôi. Vì vây, chúng tôi đành phải trốn dưới lòng đất.”

 

“Nhưng bằng cách nào mà chị lại biết được con khỉ này trốn trong hệ thống cống ở đây?” Mizuki hỏi bà Sakaki.

 

“Trong thời gian chúng ta nói chuyện với nhau hai tháng qua, nhiều thứ dần dần trở nên sáng tỏ đối với tôi,” bà Sakaki giải thích. “Giống như màn sương tan dần vậy. Tôi suy đoán hẳn phải có cái gì đó lấy đi những cái tên và dù là thứ gì đi nữa, nhất định, nó đang trốn dưới lòng đất. Làm phép loại trừ các khả năng, tôi cho rằng nó chỉ có thể ở đường ngầm hoặc dưới cống. Vì vậy, tôi đã nói với chồng tôi rằng tôi nghi có một sinh thể nào đấy, không phải con người, đang sống dưới cống và bảo ông ấy thử kiểm tra xem. Và rồi, không nghi ngờ gì nữa, ông ấy đã tóm được con khỉ này.”

 

Mizuki không biết nói gì sau một hồi. “Nhưng…Làm thế nào mà chỉ nghe tôi kể chuyện, chị lại có thể hiểu ra sự tình như thế?”, cuối cùng, nàng mới có thể thốt ra được.

 

“Có lẽ với tư cách là chồng của Tetsuko, tôi nói thế này e không khách quan,” ông Sakaki nói với một nét mặt nghiêm trang, “nhưng vợ tôi là một người đặc biệt, có những khả năng không bình thường. Suốt hai mươi hai năm chung sống, tôi đã nhiều lần chứng kiến những chuyện lạ lùng. Bởi vậy tôi đã hết sức cố gắng để giúp bà ấy mở trung tâm tư vấn ở khu đô thị này. Tôi biết chỉ cần bà ấy có một nơi để phát huy những năng lực của mình, cư dân khu Shinagawa này sẽ được hưởng lợi.”

 

“Mọi người định làm gì với con khỉ này?”

 

“Không thể để nó sống được,” Sakurada nói ngay, không cần suy nghĩ. “Cho dù nó nói gì đi nữa, cái loài đã có thói xấu như thế này, chẳng mấy chốc sẽ lại ngựa quen đường cũ mà thôi. Không tin con khỉ này được!”

 

“Từ từ đã nào,” ông Sakaki nói. “Cho dù chúng ta có viện lý do gì, nếu một nhóm bảo vệ quyền của các động vật phát hiện ra chúng ta giết một con khỉ, bọn họ sẽ đệ đơn kiện ngay và dám chắc mình phải chất tiền như núi để mà hầu toà. Cậu còn nhớ lần chúng ta giết lũ quạ và vụ rắc rối lớn liên quan đến việc đó chứ? Tôi không muốn lặp lại sự vụ ấy.”

 

“Tôi xin các vị, đừng giết tôi,” con khỉ cúi rập đầu van vỉ. “Những gì tôi làm là sai, tôi biết lỗi rồi. Tôi đã gây ra nhiều rắc rối. Không phải tôi cố cãi đâu nhưng hành động của tôi cũng có thể đem lại điều tốt nào đó.”

 

“Mi có thể đem lại điều tốt gì từ việc trộm cắp những cái tên người cơ chứ?” Ông Sakaki hỏi một cách gay gắt.

 

“Tôi lấy cắp những cái tên người, không hồ nghi gì về việc đó. Nhưng làm vậy, tôi cũng có thể tháo bỏ những gì mang tính chất tiêu cực gắn liền với những cái tên ấy. Tôi không định khoác lác nhưng nếu như hồi trước tôi có thể lấy trộm được tấm phù hiệu của Yuko Matsunaka, nhiều khả năng cô ấy đã không bỏ đời mình.”

 

“Vì sao mi lại cho rằng như vậy?” Mizuki hỏi.

 

“Cùng với cái tên, tôi còn có thể mang đi phần nào đó thứ bóng tối ở bên trong con người nàng,” con khỉ đáp.

 

“Nghe hay quá nhỉ,” Sakurada lên tiếng. “Tôi không tin đâu. Tính mạng con khỉ này đang treo trên sợi tóc – dĩ nhiên nó muốn bào chữa cho hành vi của mình.”

 

“Có lẽ không phải,” bà Sakaki đứng khoanh tay, nói. “Có lẽ nó có cái lý nào đó.” Bà quay về phía con khỉ. “Khi mi lấy đi những cái tên, có nghĩa là mi nhận về cả điều tốt lẫn điều xấu, phải vậy không?”

 

“Dạ, vâng, đúng,” con khỉ thưa. “Tôi không có sự lựa chọn nào cả. Tôi phải nhận lấy trọn gói, có thể nói như vậy.”

 

“Vậy – điều xấu nào gắn liền với cái tên của ta?” Mizuki hỏi con khỉ.

 

“Có lẽ tôi không nên nói,” con khi trả lời.

 

“Hãy nói cho ta biết,” Mizuki khẩn khoản. Nàng ngừng lại một lát rồi tiếp tục: “Nếu mi trả lời câu hỏi của ta, ta sẽ tha thứ cho mi. Và ta sẽ xin tất cả những người hiện diện ở đây tha thứ cho mi.”

 

“Chị muốn nói gì?”

 

“Nếu con khỉ này nói cho tôi biết sự thật, ông sẽ tha cho nó chứ?” Mizuki hỏi ông Sakaki.

 

“Về bản chất, nó không phải là con vật hung dữ. Nó cũng đã lãnh chịu đủ, vì thế, chúng ta hãy nghe những gì nó nói, rồi sau đó, ông hãy đem nó đến núi Takao hay một nơi nào đó tương tự để phóng thích nó. Tôi nghĩ nó sẽ không quấy rầy bất cứ ai nữa đâu. Ông nghĩ sao?”

 

“Tôi không phản đối gì cả, chỉ cần chị thấy ổn là được,” ông Sakaki đáp. Ông quay lại nói với con khỉ: “Mi thấy thế nào? Mi thề là sẽ không quay trở lại phạm vi Tokyo nếu chúng ta thả ngươi về núi chứ?”

 

“Vâng, thưa ngài. Tôi thề là sẽ không quay trở lại,” con khỉ hứa một cách ngoan ngoãn. “Tôi sẽ không bao giờ gây phiền nhiễu đối với quý vị nữa. Tôi cũng đâu còn trẻ trung gì, đây sẽ là một sự khởi đầu mới trong đời tôi.”

 

“Được rồi, vậy, nói đi, điều tồi tệ nào ám lấy cái tên của ta?” Mizuki nhìn thẳng vào đôi mắt nhỏ đỏ hoe của con khỉ và hỏi.

 

“Nếu tôi nói ra, điều đó có thể làm chị thương tổn.”

 

“Ta không quan tâm. Cứ nói.”

 

Con khỉ ngẫm nghĩ một lúc, những nếp nhăn hằn sâu trên trán. “Tôi nghĩ sẽ tốt hơn cho chị khi không phải nghe điều này,” con khỉ nói.

 

“Ta đã bảo mi là không việc gì rồi mà. Ta thật sự muốn biết.”

 

“Vậy, được. Tôi sẽ nói cho chị biết,” con khỉ nói. “Mẹ của chị không yêu chị. Bà ấy chưa bao giờ yêu chị, dù chỉ một phút, kể từ khi chị được sinh ra. Tôi không biết vì sao nhưng ấy là sự thật. Chị gái của chị cũng không ưa chị. Mẹ chị gửi chị đến trường học ở Yokohama bởi vì bà ấy muốn rũ bỏ chị. Bà ấy muốn đẩy chị đi cho khuất mắt, càng xa càng tốt. Cha của chị không phải là người xấu nhưng ông ấy không phải là người có tính cách mạnh mẽ, ông ấy không thể che chở cho chị được. Bởi những lý do ấy, ngay từ hồi còn nhỏ, chị chưa bao giờ được đón nhận đủ tình yêu thương. Tôi nghĩ chị cũng mơ hồ nhận thức được điều đó nhưng chị đã cố tình ngoảnh mặt đi, không nhìn vào nó. Chị đã giam kín cái hiện thực đau đớn đó trong một góc nhỏ tối tăm, nhỏ bé, sâu trong lòng mình và vùi lấp nó lại. Chị đã cố kiềm chế tất cả những cảm xúc tiêu cực. Khuynh hướng tự vệ đó đã biến thành một phần bản chất của con người chị. Vì tất cả những điều này, chị chưa bao giờ là người có khả năng yêu thương ai đó một cách sâu sắc, vô điều kiện.”

Mizuki lặng im.

 

“Cuộc sống gia đình của chị có vẻ hạnh phúc, không có vấn đề gì. Có lẽ đúng là như vậy thật. Nhưng chị không thực sự yêu chồng mình. Tôi nói đúng chứ? Thậm chí, khi chị có con, thì tình trạng cũng vẫn vậy mà thôi.”

 

Mizuki không nói gì hết. Nàng sụp người xuống sàn nhà và nhắm nghiền mắt lại. Nàng có cảm giác như toàn bộ cơ thể mình như đang rã rời thành từng mảnh. Da thịt của nàng, nội tạng của nàng, xương cơ của nàng – tất thảy đều nát tan. Tất cả những gì nàng nghe thấy chỉ là tiếng thở của mình.

 

“Thật kinh khủng khi để cho một con khỉ mở miệng,” Sakurada lắc đầu giận dữ. “Sếp, tôi không thể chịu đựng được con khỉ này thêm được nữa. Hãy cho nó một trận lên bờ xuống ruộng để biết thân biết phận!”

 

“Hượm đã,” Mizuki lên tiếng. “Những gì con khỉ nói là sự thật. Tôi đã biết điều đó từ lâu nhưng tôi luôn cố nhắm mắt, bịt tai để quên đi. Nó đã nói ra sự thật, vì thế hãy tha cho nó. Hãy đưa nó đến núi và để nó đi.”

 

Bà Sakaki nhẹ nhàng đặt tay lên bờ vai của Mizuki. “Chị có chắc chắn là mình thấy ổn  rồi không?”

 

“Không sao đâu, chỉ cần tôi lấy lại được tên mình. Từ bây giờ, tôi sẽ sống với những gì ở bên ngoài kia. Đấy là cái tên của tôi. Và đấy là cuộc đời của tôi.”

 

 

Khi Mizuki tạm biệt con khỉ, nàng đưa cho nó tấm phù hiệu của Yuko Matsunaka.

 

“Cậu mới là người nên giữ lấy nó, chứ không phải tôi,” nàng bảo. “Hãy giữ cẩn thận cái tên của cô ấy. Và đừng lấy trộm cái tên của bất cứ người nào nữa.”

 

“Tôi sẽ giữ nó hết sức cẩn thận. Và tôi sẽ không bao giờ ăn trộm nữa, tôi xin hứa,” con khỉ nói.

 

“Cậu có biết vì sao Yuko lại để lại tấm phù hiệu này cho tôi trước lúc cô ấy chết không? Tại sao cô ấy lại chọn tôi?”

 

“Tôi không biết tại sao cả,” con khỉ trả lời. “Nhưng vì cô ấy làm vậy thế nên tôi và chị mới được gặp nhau, như là sự run rủi của số phận. Tôi cho là thế.”

 

“Chắc là cậu nói đúng,” Mizuki nói.

 

“Những gì tôi nói ra có làm chị đau đớn?”

 

“Có,” Mizuki đáp. “Nó khiến tôi rất đau khổ.”

 

“Tôi xin lỗi. Tôi không muốn nói ra điều ấy với chị.”

 

“Không sao cả. Thực tình tôi cũng đã biết điều đó rồi. Đó là điều mà sẽ đến một ngày, tôi phải đương đầu với nó.”

 

“Tôi thấy nhẹ lòng khi nghe chị nói vậy,” con khỉ bảo.

 

“Tạm biệt nhé,” Mizuki nói. “Tôi không nghĩ chúng ta sẽ lại gặp nhau đâu.”

 

“Xin hãy bảo trọng,” con khỉ tạ từ. “Cảm ơn mọi người đã cứu cuộc đời đáng thương của tôi.”

 

“Từ giờ, mi đừng có dại mà ló mặt ở Shinagawa nhé,” Sakurada lấy cây gậy tuần đập đập vào lòng tay con khỉ cảnh cáo. “Lần này bọn ta tha cho mi vì sếp bảo vậy, nhưng nếu ta còn bắt được mi ở đây thêm một lần nữa, mi sẽ không còn cơ hội được cứu thoát nữa đâu đấy.”

 

 

“Vậy tuần tới chúng ta sẽ làm gì?” Bà Sakaki hỏi Mizuki sau khi hai người trở về văn phòng trung tâm tư vấn. “Chị còn có điều gì muốn trao đổi với tôi nữa không?”

 

Mizuki lắc đầu. “Không. Nhờ chị, tôi nghĩ vấn đề của mình đã được giải quyết. Tôi rất biết ơn chị vì tất cả những gì chị đã làm cho tôi.”

 

“Chị thấy không cần phải trao đổi tiếp về những gì mà con khỉ đã nói ra với chị sao?”

 

“Không. Tôi thấy tự mình nên giải quyết những việc đó. Tôi thấy mình cần phải bỏ thời gian để tự suy nghĩ lại về những điều ấy.”

 

Bà Sakaki gật đầu. “Nếu chị quyết tâm đối diện với nó,” bà nói, “tôi tin nó sẽ khiến chị trở nên mạnh mẽ hơn.”

 

Hai người phụ nữ bắt tay nhau và chào tạm biệt.

 

Về nhà, Mizuki lấy tấm phù hiệu của mình và sợi dây chuyền đeo tay ra, nhét chúng vào một chiếc phong bì màu nâu nhạt. Nàng đặt chiếc phong bì ấy vào chiếc hộp các tông để ở trong buồng mình. Cuối cùng thì nàng cũng đã lấy lại được cái tên của mình và trở về cuộc sống bình thường. Mọi thứ có thể lại trôi chảy. Và rồi đến một lúc nào đó, có thể lại không như vậy nữa. Nhưng ít nhất, lúc này, nàng đã có cái tên của mình. Cái tên của nàng. Chỉ của riêng nàng mà thôi.

 

 

Chú thích:

  1. Bệnh Alzheimer: bệnh teo não dẫn đến sự sa sút trí lực.
  2. Bệnh Huntington: một căn bệnh di truyền nguy hiểm phá huỷ nơ ron thần kinh trong não bộ liên quan đến năng lực cảm xúc, trí tuệ và vận động của con người. Bệnh Huntington có quá trình diễn tiến từ sự co giật khớp xương, thân mình, cơ mặt dẫn đến những vấn đề bất bình thường liên quan đến tâm thần. Bệnh này thường xuất hiện ở những người độ tuổi trung niên từ 30 đến 50 nhưng cũng có thể phát sinh ở những người ở độ tuổi trẻ hơn.
  3. Súng BB: một loại súng sử dụng loại đạn cỡ nhỏ gọi là BB. Loại súng này không có khả năng gây nguy hại nghiêm trọng đối với người và những con thú lớn, trừ khi nó bắn trúng vào những bộ phận nhạy cảm của cơ thể. Ở một số nước, loại súng này đã bị cấm.

Hải Ngọc dịch

Chuyển ngữ theo bản dịch từ Nhật ngữ sang Anh ngữ A Shinagawa Monkey của Philip Gabriel, đăng trên tạp chí The New Yorker, ngày 13/02/2006.