Tag Archives: sự thất bại

Costica Bradatan – Little Tramp

(Về bộ phim Modern Times [1936] của Charlie Chaplin)

Vừa đúng ba năm sau khi Chìm nổi giữa Paris và London được xuất bản, lịch sử của nghệ thuật sống bụi đời đã ghi nhận một khoảnh khắc quan trọng khác: bộ phim Modern Times [Thời hiện đại] của Charlie Chaplin. Khác với Orwell, Chaplin không phải học để trở thành một kẻ lang thang vất vưởng; ông đã được sinh ra như thế – trên một chiếc xe lưu động của người di-gan. Ông xuất thân từ tầng lớp cùng đáy của London, nơi mà một người ở tầng lớp trên như Orwell phải rất cố gắng mới len xuống được đó để học bài học về xã hội. Trong khi Orwell được nuôi ăn học ở Eton thì Chaplin buộc phải đi làm. Lên bảy tuổi, ông đã biết lao động kiếm tiền cho gia đình. Ông chưa bao giờ trưởng thành bởi lẽ ông đã luôn già dặn. “Bạn phát hiện được khi đói người ta sẽ thế nào,” Orwell nhận định vậy với phần nào sự ngạc nhiên trong đó khi bắt đầu thí nghiệm sống bụi đời của mình.[1] Chaplin chưa bao giờ cần phải phát hiện điều đó – ông vốn dĩ đã sinh ra trong đói khổ.

Với hoàn cảnh ra đời và tuổi thơ như vậy, Chaplin có lẽ muốn trở thành cái gì cũng được, miễn không phải thân phận bụi đời, thế nhưng cuối cùng ông lại trở thành hình tượng nổi tiếng nhất của loại người đó: Little Tramp, một tên Bụi đời nhỏ con. Trong rất nhiều bộ phim, bắt đầu từ năm 1914, ông đã sử dụng hình tượng kẻ bụi đời này để chọc cười khán giả. Nhưng Thời hiện đại khác với tất cả những hóa thân trước đó, không chỉ bởi bộ phim đạt đến trình độ thẩm mỹ cao mà còn bởi cảm quan sâu sắc về xã hội mà nó biểu đạt. Thành tựu chủ yếu trong sự nghiệp của Chaplin là việc ông gián cách được với nền chính trị hẹp hòi, quân phiệt và giữ mình luôn là chính mình: một nghệ sĩ với khả năng bậc thầy trong việc phơi bày toàn bộ cấu trúc xã hội quanh mình và ông làm vậy không phải chỉ đến khiến người ta cười mà còn thôi thúc người ta phải nghĩ. Nếu Thời hiện đại có tạo được tác động chính trị đáng kể nào, đó không phải là do những quan điểm chính trị của Chaplin, dù chúng là gì đi nữa, mà bởi sức mạnh nghệ thuật và triết học của nó. “Ông trình hiện chứ không đưa ra các giải pháp chính trị,” Graham Greene đã bình luận như vậy khi bộ phim ra mắt.[2]

Chính Mahatma Gandhi là người, dù không chủ ý, đã gợi ý cho Chaplin về bộ phim này. Hai con người ấy đã gặp nhau tại London năm 1931. Trong khi Chaplin biết mọi điều về vị Thánh của Ấn Độ và không thật sự hào hứng để gặp ông mà lại còn căng thẳng, bồn chồn như một cậu học sinh, thì Gandhi dường như chẳng biết Chaplin là ai nữa. Ông chưa từng xem bộ phim nào của Chaplin, hay bất cứ bộ phim nào khác. Dẫu cuộc gặp ngắn ngủi, nó vẫn giúp Chaplin hiểu được quan điểm phê phán của Gandhi về tính hiện đại và công nghệ, điều sẽ làm thay đổi nhãn quan của ông.

Nhân vật Little Tramp bị nuốt trọn và bị khạc ra toàn bộ bởi máy móc như chúng ta có thể thấy ở ngay những cảnh đầu của phim. Từ đó, gã bị đưa đến một bệnh viện để khôi phục lại sự hài hước của mình nhưng cuối cùng lại mất việc. Hình tượng cỗ máy ở cảnh đầu của phim là một trong những thứ đáng nhớ nhất nhưng phần còn lại của câu chuyện cũng không kém ám ảnh. Simone Weil xem bộ phim là tấm gương phản chiếu hình ảnh của xã hội công nghiệp phương Tây trong trạng thái trần trụi của nó. Hầu như không có khung hình tĩnh trong Thời hiện đại; mỗi một khung hình đều nói với chúng ta một cách mạnh mẽ về những điều quan trọng mà thông thường chúng ta muốn phớt lờ hoặc im lặng cho qua nhiều hơn. Cũng như Weil, Chaplin nhiệt tình trong việc đưa ra những quan sát và thôi thúc suy tư về những vấn đề mà xã hội của họ (và của cả chủng ta) cảm thấy không thể đề cập đến.

Dòng phụ đề của phim là một câu mỉa mai chua chát tột cùng của Chaplin: “Đây là một câu chuyện về thời đại công nghiệp, về sự nghiệp cá nhân- cuộc thập tự chinh của nhân loại trong hành trình mưu cầu hạnh phúc.” Chuyện phim chỉ có vậy nhưng bởi được kể từ điểm nhìn của kẻ bị loại trừ, nó trở thành câu chuyện cay đắng về tình trạng thất nghiệp kinh niên, sự xuống cấp của xã hội và nỗi bất hạnh đeo đẳng. Cuộc mưu cầu hạnh phúc mà ta nhìn thấy trên màn ảnh ấy rốt cục là nỗ lực đến cùng của một kẻ cố giữ cho mình còn nổi nênh được giữa đời, thế nhưng quá trình đó cũng không khác gì việc bị chìm dần xuống đáy.

Nghe có vẻ lạ lùng nhưng có một cảm giác rất rõ nét về một sự bình thản bao trùm cả bộ phim, thứ có thể xem như là hình ảnh phản chiếu của “niềm an ủi lớn lao” mà Orwell nhìn ra được ở sự nghèo khốn. “Đó là một cảm giác về sự khuây khỏa, gần như là một khoái cảm, khi cuối cùng biết mình thật sự vào đường cùng,” ông viết. “Bạn rất hay nói về việc lên voi xuống cho – và rồi, đây là chó, bạn đã thật sự xuống chó và bạn có thể chịu được tình thế này. Nó trút bỏ đi rất nhiều âu lo.”[3]

Sự bình thản này, chúng ta sẽ nhận ra, có sự liên quan nào đó với vai trò hết sức đặc biệt của Little Tramp như một nạn nhân bị hiến tế. Ở bất kỳ chỗ nào –  bên băng chuyền sản xuất, trong nhà tù, ngoài quán cà phê, lúc tạm nghỉ chân ở một khu nhà giàu, khi rong ruổi trên phố – Little Tramp, như là chân dung xã hội về kẻ thất bại, cũng luôn thực hiện cùng một chức năng: gã là hiện thân cho nỗi sợ hãi và niềm âu lo kinh khủng nhất của xã hội. Không còn gì bất an hơn đối với một xã hội nghiện công việc và mải miết truy cầu sự giàu có hơn là cảnh đời uể oải, phất phơ. Những kẻ phất phơ, như Tom Lutz viết, “thể hiện những huyễn tưởng mà chúng ta thích thú nhất và những sợ hãi thẳm sâu nhất.”[4] Thất nghiệp, vô gia cư, chết đói, quẫn trí, phạm tội, rời rã, thất bại – Little Tramp được xem như đã trừ tà tất cả những thứ đó.

Mượn thuật ngữ của Jung, ta có thể nói Little Tramp là cái bóng của xã hội. Nhân vật của Chaplin là hiện thân của tất cả những gì chúng ta muốn gạt khỏi đời mình, những gì khiến chúng ta thấy bản thân hổ nhục và đáng khinh, chúng ta không muốn chấp nhận chúng như là thứ thuộc về ta. Và bởi có quá nhiều thứ mà một xã hội bị ám ảnh bởi sự sang giàu không muốn thừa nhận về nó, thế nên Little Tramp dường như phải lãnh một nghĩa vụ. Gã có thể không nghề không nghiệp nhưng hóa ra gã phải gánh vác thứ công việc nặng nhọc hơn tất cả: ngăn các thành viên khác của xã hội khỏi sự mất phương hướng. Không có gì ngạc nhiên khi được thông báo về việc mình được ra tù sớm, gã lại thấy thà tiếp tục ngồi tù còn hơn: “Tôi không thể ở lại đây lâu hơn chút nữa ư?”gã hỏi. “Tôi rất hạnh phúc khi ở đây.”

Dù làm việc gì đi nữa, Little Tramp đều thể hiện bản thân như một con người đứng đắn – biết chăm sóc, giàu tình cảm, lịch thiệp, nhiều tài, nhiều năng lượng và trí tưởng tượng. Gã là tất cả những gì mà xã hội của gã muốn có nhưng chẳng bao giờ đủ khả năng để có. Quả thực, gã bụi đời này không tương thích với sự phân định thành công-thất bại không phải chỉ bởi ở con người hắn toát lên vẻ lịch lãm mà bởi về bản chất, gã đâu có chỗ trong xã hội này: ở gã có quá nhiều chất nghệ sĩ, điều xung đột với những gì mà xã hội muốn từ chúng ta. Gã không đủ phẩm chất của một kẻ tuân thủ, những cử động của cơ thể gã lại không hoàn toàn bị máy móc hóa – và tệ hơn cả -gã vẫn giữ lại được ở mức độ nào đó sự tự do nội tại trong một thế giới mà một thứ như thể chỉ gây bất lợi về kinh tế. Có đủ lý do để xã hội khạc gã ra khỏi nó, dẫu rằng khi đó, nó đánh mất luôn tâm hồn của mình.

Khi bắt đầu kế hoạch sống bụi đời, George Orwell không chỉ muốn tìm kiếm cảm hứng văn chương mà còn cả một hình thức cứu chuộc về xã hội. Ông biết những gì mình làm là chưa có tiền lệ nhưng ông vẫn phải thực hiện. Sự phức tạp, như ông nhận thấy, nằm ở chỗ “những người thông minh, có học, chính những người thường được kỳ vọng sẽ có những quan điểm khai phóng, lại chưa bao giờ hòa lẫn vào những người nghèo.”[5] Như là những công dân tốt, có đầu óc cởi mở, chúng ta có thể bận tâm về sự bần cùng, thậm chí còn cố gắng tìm kiếm giải pháp – tất cả đều với một niềm tin tốt đẹp. Song chúng ta sẽ làm việc này từ ví trí an toàn của kẻ đứng ở cao hơn. Những nguyên tắc cao cả của chúng ta, thứ văn hóa đẳng cấp mà chúng ta thuộc về, và sự vi tế về trí thức thường sẽ đóng vai trò như một bức màn phòng vệ ngăn cách chúng ta với thế giới của sự bần cùng đó: chúng  ta sẽ giải quyết “vấn đề đói nghèo” hay “cuộc khủng hoảng của tình trạng vô gia cư”, chứ không bao giờ với những con người bẩn thỉu, hôi hám hay những kẻ không nhà không cửa bằng xương bằng thịt. Đấy là cách chúng ta, vừa sang cả, vừa đớn hèn, lau sạch tay mình và bỏ lại những gã bụi đời nhỏ bé của thế giới này trong sự bẩn thỉu, nghèo khốn, ăn sương nằm gió. Và với cách ấy, Little Tramp đã được khắc họa không phải như một nạn nhân ngẫu nhiên mà là một nạn nhân bị hiến tế vĩnh viễn.

Tất cả điều này làm cho bộ phim của Chaplin trở thành một vở hài kịch buồn thảm nhất trong lịch sử điện ảnh Mỹ. “Thế thì cố gắng để làm gì?” người phụ nữ đồng hành cùng gã bụi đời này đã hỏi khi thấy tất cả lao lực của họ để trồi lên trên biển đời này cuối cùng đều thất bại. Câu trả lời rất rõ ràng, dù không được nói ra: Chẳng để làm gì. Dù gắng gỏi đến đâu đi nữa, họ cũng chỉ nhận về kết cục ê chề. Đây mới là kết luận hợp lý rút ra được từ câu chuyện – là câu văn mà bộ phim nên được dùng để kết phim.

Nhưng trong mấy giây cuối cùng ấy, khi để nhân vật của mình biến cái kết luận hiển nhiên này thành một cái kết có hậu một cách lạ thường, Chaplin đã không đương đầu được với áp lực của những kỳ vọng của xã hội mà ông sống trong đó. Không như Little Tramp.


Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, In Praise of Failure, Harvard University Press, 2023, trang 156-160.


Costica Bradatan – Trong tay của kẻ làm mọi thứ đảo điên (Về Simone Weil [1909-1943])

…Đời sống, tuy nhiên, luôn có thói quen là làm lắng mọi thứ xuống, đưa chúng vào các khuôn thức. Thậm chí đến cả những hành động bộc phát và sáng tạo nhất của chúng ta cuối cùng cũng có thể biến thành thói thường. Những dòng nham thạch nóng nhất, lỏng nhất rồi cũng thành đá. Điều ấy vừa không tránh được mà cũng vừa tốt nữa. Chúng ta sẽ chẳng đi được đến đâu nếu như không hình thành các thói quen, các thường lệ, những thứ giúp chúng ta định hướng những cố gắng của mình tốt hơn, khiến sự nếm trải thế giới của chúng ta bớt khó khăn hơn một chút. Song nếu có quá nhiều thói quen trong đời sống của chúng ta và có quá ít những thứ khuấy đảo chúng ta, rốt cục chúng ta rồi sẽ chết ở bên trong. Và cái chết ngay khi còn sống là hình thức chết tồi tệ nhất vì nó có khía cạnh quái đản: đó là tình trạng không phải sống mà cũng chưa phải chết. Một đời sống hiện sinh được dẫn dắt và biến thành thói quen quá nhiều không những khốn cùng mà còn cực kỳ tồi tệ. Bạn không sống một đời sống như thế, bạn để nó dẫn dắt, đến chỗ không đâu.

Đó là lý do tại sao chúng ta lại rất cần có một người như Simone Weil. Người ấy không dạy chúng ta nhiều về cách thoát khỏi đời sống (sự biến mất của Weil là một hành động độc đáo, chỉ riêng bà làm được), nhưng lại dạy chúng ta cách làm thế nào để sống tốt – trên phương diện tinh thần: nghĩa là, người ấy chỉ ta cách làm thế nào để phá vỡ các khuôn thức chết cứng mà cuộc sống này không ngừng muốn ràng buộc ta vào. Chúng ta cần Weil để cho ta biết cách giữ sự mẫn tiệp của tâm hồn bằng việc hướng đến một đời sống nhiều thách thức hơn là một đời sống dễ chịu- bằng việc dám liều lĩnh, dám thực hiện những bước nhảy trong niềm tin, dám dấn những bước đi mạo hiểm hơn là đặt mình yên vị trong những thói quen đem đến nhiều thoải mái. Bà nghiệt ngã với chính bà, và chúng ta cũng nên ứng xử với bản thân như thế nếu muốn có những bước tiến về tinh thần. Một sự nghiệt ngã như thế không là gì khác hơn một hình thức bậc cao của sự tử tế.

Weil chính là kẻ vĩ đại làm mọi thứ đảo điên theo truyền thống của Augustine, Pascal, Kierkegaard, Nietzsche và Cioran. Câu chuyện của bà minh họa cho một triết lý cổ xưa mà chúng ta dường như đã lãng quên:  để cứu rỗi đời mình, chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng, trong bất kỳ khoảnh khắc nào, từ giã nó. Đối mặt với vực thẳm, nhìn thẳng vào nó và xử sự như thể đây là thứ tự nhiên nhất trong thế giới này. Chính xác là trong những thời khắc như thế, trong tâm thế sẵn sàng như thế và nhờ vào sự khiêm hạ hoàn toàn mà nó khơi dậy, bạn đang ở đỉnh cao nhất của sự sống…

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, In Praise of Failure – Four Lessons in Humility, Harvard University Press, 2023, trang 54-5.

Costica Bradatan – Lời nói đầu “Ngợi ca sự thất bại: Bốn bài học về đức khiêm hạ” (Harvard University Press, 2023)

Phần trích dịch dưới đây là lời nói đầu của Costica Bradatan trong cuốn sách mới nhất của ông In Praise of Failure: Four Lessons in Humility do Harvard University Press xuất bản năm 2023. Tương tự như Dying for Ideas, Bradatan tiếp tục đưa người đọc của ông trực diện với những khủng hoảng hiện sinh của sự làm người, kể lại cách mà các triết gia giúp ta hiểu ý nghĩa của những khủng hoảng này như thế nào. Nhưng như một người kể chuyện giỏi, cuốn sách hứa hẹn những kiến giải bất ngờ về chủ đề thất bại bằng một lối hành văn giàu tính thẩm mỹ.

Tôi rất mong năm nay có thể đi tới cùng dự án dịch thuật này. Bài dịch này cũng là một cố gắng để quay trở lại công việc dịch thuật, chống lại cảm giác chai mòn chữ nghĩa đã làm tê liệt sự viết lách của tôi trong mấy tháng trở lại đây.

*

Hãy hình dung bạn đang trên một chuyến bay, ở một độ cao lớn. Một trong các động cơ của máy bay bốc cháy, những bộ phận khác tình hình cũng không khả quan, và phi công buộc phải hạ cánh khẩn cấp. Rơi vào một tình huống như vậy chắc chắn là bất an cực độ nhưng đó cũng là khoảnh khắc khải thị. Đầu tiên, giữa tiếng la hét ở xung quanh và khi phải nghiến chặt răng lại, bạn không thể nghĩ được cái gì bình tĩnh, khách quan cả. Bạn phải chấp nhận nó, bạn đang bị tê liệt bởi nỗi sợ chết, giống như mọi người khác. Cuối cùng, máy bay hạ cánh an toàn, không ai bị hề hấn gì. Khi có thể định thần, bạn có thể nghĩ lại một chút rõ ràng hơn về sự cố vừa xảy ra. Và bạn bắt đầu nghiệm thấy được điều gì từ đó.

Chẳng hạn, bạn nghiệm thấy sự hiện sinh của con người là cái gì đó xảy ra, rất ngắn ngủi, giữa hai trực quan về hư vô. Hư vô thứ nhất – dày đặc, không thể thẩm thấu. Rồi có một sự rung lên. Rồi sau đó lại là hư vô, vô tận. “Một chớp sáng lóe lên chốc lát giữa hai vĩnh cửu của bóng tối,” mượn lời của Vladimir Nabokov. Đây là những thực tế tàn nhẫn của thân phận con người – thứ còn lại chỉ là sự thêm thắt. Dẫu ta có lựa chọn việc tái định khung hay kể lại các dữ kiện thì khi chúng ta nghĩ cái gì có trước mình và cái gì tiếp theo mình, chúng ta sẽ nhận ra mình không có nhiều thứ để nói. Chúng ta kề cận với hư vô – đấy là thực tế. Và phần lớn những gì chúng ta làm trong đời, dù ý thức được hay không, là nỗ lực để giải quyết cảm giác buồn nôn khi nhận thức được tình trạng kề- cận -với- hư- vô này. Huyền thoại, tôn giáo, tâm linh, triết học, khoa học, tác phẩm văn chương nghệ thuật – tất thảy đều tìm cách để chúng ta kham được dù chỉ một chút thực tại khó chịu đựng nổi này.

Một cách để né tránh là phủ nhận hoàn toàn tình trạng nan giải này. Đó là cách nhắm mắt lại để lạc quan. Hoàn cảnh của chúng ta, theo như hướng suy nghĩ này, rốt cục không đến nỗi bấp bênh như thế. Trong một số tự sự huyền thoại, chúng ta đã sống ở đâu đó trước khi mình được sinh ra ở đây, và rồi chúng ta sẽ được đầu thai sau khi chết. Một vài tôn giáo đi xa hơn nữa, hứa hẹn với chúng ta về đời sống vĩnh hằng. Hiển nhiên, đó là công việc kinh doanh tốt bởi bên cầu chưa bao giờ thiếu bên cung. Gần đây hơn, cái được gọi là chủ nghĩa xuyên nhân loại (transhumanism) cũng đã gia nhập thị trường đông đảo này. Các tu sĩ của giáo phái mới này đã thề thốt, rằng với các thiết bị điện tử thích hợp và sự điều chỉnh công nghệ (cùng với tài khoản ngân hàng dư dả), đời sống con người có thể được kéo dài vô tận. Những dự án khác về sự bất tử cũng có vẻ như đang làm điều tương tự, vì các vấn đề liên quan đến sự hữu tử của chúng ta khó mà giải quyết được.

Tuy nhiên, cho dù có bao nhiêu người trong chúng ta bị thu hút bởi những hứa hẹn của tôn giáo về đời sống vĩnh hằng, lúc nào cũng vẫn còn một vài người không cảm thấy bị thuyết phục. Về phía những người theo thuyết xuyên nhân loại, họ có thể biết được tương lai nhưng họ hầu như lại vô tri về quá khứ: những sản phẩm “cải thiện con người”, dưới những cái nhãn khác nhau, đã tồn tại trên thị trường ít nhất kể từ cái chết của Enkidu trong sử thi Gilgamesh. So với những gì mà các nhà giả kim thời trung cổ đem đến, các mặt hàng của những tư tưởng gia theo thuyết xuyên nhân loại có lẽ còn khá nhạt nhẽo. Dẫu vậy, những nỗ lực kéo dài đời sống cả ngàn năm cũng không khiến cái chết trở nên mất việc. Ngày nay, ta có thể sống lâu hơn nhưng cuối cùng ta vẫn cứ phải chết.

Một cách khác để đối phó với tình trạng kề-cận-hư-vô của chúng ta là trực diện nó, theo cách đấu bò, không có đường thoát, không có lưới an toàn, không có bất cứ một sự bao bọc nào. Bạn chỉ còn cách buộc phải tiến lên, mắt mở to ra, lúc nào cũng phải nhận thức rất rõ cái gì ở đó: không gì cả. Hãy nhớ những sự thật trần trụi về hoàn cảnh của chúng ta: không có gì trước mặt và không có gì sau lưng. Nếu bạn có vẻ quá ám ảnh về tình trạng kề-cận-hư-vô của mình và không bị thuyết phục bởi những lời hứa hẹn của tôn giáo về đời sống vĩnh hằng hay đủ điều kiện để chi trả cho việc kéo dài tuổi đời bằng công nghệ sinh học, thì đây chính là cách dành cho bạn. Chắc chắn, đấu bò là việc không hề dễ dàng, cũng chẳng nhẹ nhàng – đặc biệt là về phía con bò.  Bởi rốt cục, đấy mới là chúng ta: con bò đợi đến lúc bị làm cho kiệt sức, chứ không phải hiệp sĩ đấu bò, kẻ nghiền nát đối thủ và đi tiếp con đường của mình.

“Con người được huấn luyện đến nỗi,” triết gia Simone Weil từng viết, “kẻ nghiền nát không cảm thấy gì hết mà chính kẻ bị nghiền nát mới thực sự cảm nhận được chuyện gì đang diễn ra.” Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ chẳng có hình thức nào của tri thức nhân loại cao hơn thứ tri thức cho phép chúng ta hiểu chuyện gì đang diễn ra – nhìn thấy mọi thứ như chúng là, đối lập với cách chúng ta muốn chúng là. Bên cạnh đó, một chủ nghĩa bi quan không khoan nhượng là một triết lý vô cùng khả thi. Với lời răn đầu tiên của kẻ bi quan (“Hễ khi nào nghi hoặc, hãy giả định về điều tồi tệ nhất!”), ta sẽ không bao giờ quá ngỡ ngàng. Bất cứ chuyện gì xảy ra trên đường, dù tệ hại đến đâu, sẽ không làm ta mất cân bằng. Vì lý do này, những người tiếp cận tình trạng kề-cận-hư-vô của mình với con mắt mở sẽ biết cách sống một cách điềm tĩnh, bình thản và hiếm khi than phiền. Điều tồi tệ nhất có thể trút xuống họ chính là thứ mà họ đã hình dung từ trước.

Trên hết, cách tiếp cận bằng con mắt mở cho phép chúng ta tự tháo gỡ bản thân trong ý thức về lòng tự trọng khỏi những mối ràng buộc của đời sống hiện sinh. Đời sống là một căn bệnh mãn tính, gây nghiện và chúng ta thì khẩn thiết muốn có một phương thức chữa trị.

Phương thức trị liệu bằng sự thất bại mà tôi trình bày trong cuốn sách này có thể gây nhạc nhiên. Sau quá nhiều tôn thờ đối với sự thành công, sự thất bại trở thành một giá trị đáng vứt bỏ. Không còn gì tồi tệ hơn ở đời này bằng sự thất bại – ốm đau, xui xẻo, kể cả sự ngu độn bẩm sinh cũng không thể so sánh được với nó. Nhưng sự thất bại xứng đáng được trân trọng hơn. Trên thực tế, có nhiều điều để ta có thể dành sự ngợi ca cho nó. 

Sự thất bại cần thiết đối với chúng ta, trong tư cách con người. Cách chúng ta hiểu về thất bại xác định nên chúng ta, trong khi thành công chỉ mang tính chất bổ trợ, phù du, và không phát lộ được gì nhiều. Chúng ta có thể sống mà không thành công, nhưng chúng ta sẽ không biết sống để làm gì nếu không biết chấp nhận sự bất toàn, sự bấp bênh, sự hữu tử của mình, mà tất cả những điều này đều là linh hiện của thất bại.

Khi nó xảy ra, thất bại tạo một khoảng cách giữa chúng ta và thế giới, giữa bản ngã chúng ta với người khác. Khoảng cách này cho ta một cảm giác rất rõ rệt rằng mình không vừa khớp, mình bị lệch pha với thế giới và người khác, và có một cái gì đó không ổn ở đây. Tất cả điều này khiến ta phải nghiêm túc chất vấn vị trí của ta trong đời sống này. Và đó có thể là điều tốt nhất xảy ra đối với chúng ta: sự tỉnh thức mang ý nghĩa hiện sinh này chính xác là những gì ta cần nếu ta muốn hiện thực hóa chính mình. Không có cách chữa lành nào sẽ đến trừ khi bắt đầu bằng sự thức tỉnh này.

Nếu bạn trải nghiệm sự thất bại và bị xâm chiếm bởi những cảm xúc như thấy mình bất toàn, không -thuộc- về -đâu, thì đừng kháng cự chúng- mà hãy đi theo chúng. Chúng sẽ nói với bạn rằng bạn đang đi đúng đường đấy. Chúng ta có thể ở trong thế giới này nhưng không thuộc về thế giới này. Hiểu biết này là khởi điểm của tỉnh thức và nó đặt sự thất bại vào trọng tâm của một cuộc truy cầu tinh thần quan trọng, dù có thể vị trí này của sự thất bại cũng khiêm nhường thôi.

Vậy thất bại có thể cứu rỗi đời ta không? Bạn có thể chất vấn. Phải, nó có thể. Miễn là bạn sử dụng nó một cách khéo léo. Làm thế nào mà thất bại lại trở thành thứ có công dụng tốt – đấy là câu chuyện mà cuốn sách này muốn kể. Như bạn sẽ nhận thấy khi đi hết cuốn sách, hoàn toàn không phải là một thảm họa mà những kẻ căm ghét nó hay mô tả, thất bại là thứ có thể rất hiệu nghiệm cho việc con người hiện thực hóa bản ngã, chữa hàng và khai sáng. Dù rằng nó sẽ không dễ chịu bởi thất bại vốn dĩ là câu chuyện phức tạp.

Thất bại giống như tội lỗi nguyên thủy trong Kinh Thánh: ai cũng có nó. Bất kể giai cấp, tầng lớp, chủng tộc, phái tính, chúng ta đều sinh ra để thất bại, Chúng ta còn thất bại chừng nào còn sống và chúng ta trao truyền nó lại cho người khác. Giống như tội lỗi, việc thừa nhận sự thất bại có thể khiến người ta có cảm thấy ô nhục, hổ thẹn và lúng túng. Và tôi đã nói đến sự “xấu xí” chưa nhỉ? Thất bại cũng xấu xí nữa – xấu xí như tội lỗi, người ta vẫn nói vậy. Thất bại có thể tàn bạo, buồn nôn và mang tính hủy hoại như bản thân đời sống.

Tuy nhiên, với tất cả tính phổ quát của nó, thất bại nhìn chung lại chẳng được nghiên cứu, nó bị quên lãng hoặc bị coi thường. Tệ hơn: nó hóa thành một thứ thời thượng bởi các bậc thầy self-help, các phù thủ trong lĩnh vực marketing, các CEO nghỉ hưu quá dư thừa thời gian. Tất cả bọn họ đều chế nhạo sự thất bại, mà không có bất cứ sự châm biếm nào, bằng cách đóng nhãn lại cho nó và bán nó như là một bước đệm để đi đến thành công vậy.

Những kẻ bán dạo thất bại-như-là-thành công này đã tìm cách, trong nhiều việc khác mà họ đã làm, để làm xơ xác câu nói u ám nhưng sâu sắc, mình triết của Samuel Beckett – bạn có lẽ biết ông. Thứ mà họ luôn không nhắc đến là, ngay ở câu kế tiếp, sau cụm từ mà họ hay trích lại đến phát ngán, Beckett đã nói về một thứ còn tốt hơn cả “thất bại tốt hơn” (“failing better”) – thất bại tệ hơn (failing worse): “Hãy thứ lại lần nữa. Thất bại lần nữa. Thất bại tốt hơn. Hay thất bại thế hơn. Thất bại tệ hơn lần nữa. Rồi vẫn tệ hơn nữa. Đến khi phát bệnh mãi mãi. Buồn nôn mãi mãi.”

Không phải vô cớ mà Beckett lại làm với Cioran. Một lần, ông đã viết cho bạn mình: “Giữa những đổ nát của anh, tôi cảm thấy mình như thể ở nhà” (“Dans vos ruines je me sens à l’aise”). “Phát bệnh mãi mãi”, “buồn nôn mãi mãi” – khó tìm được cách diễn đạt nào tốt hơn miêu tả tình thế hiện sinh gian nan của chúng ta. Với Beckett, chính thất bại đã đến đến sự hiện thực hóa bản ngã, sự chữa lành căn bệnh bản thể gắn liền tình trạng kề-cận-hư-vô của chúng ta. Theo ý nghĩa ấy, Ngợi ca sự thất bại mà một cuốn sách mang tinh thần của Beckett.

Và bạn cũng có thể đặt câu hỏi, làm thế nào để chúng ta phân biệt thất bại đích thực và thất bại giả tạo, thứ mà các bậc thầy self-help vẫn rao bán? Đơn giản thôi: thất bại luôn khiêm nhường. Nếu không vậy, nó không phải là thất bại đích thực, nó chỉ là “bước đệm để đi đến thành công” – một sự tự lừa dối trong một tên gọi khác.

Ngợi ca sự thất bại không nói về sự thất bại vì chính nó, nó nói về sự khiêm hạ mà thất bại sinh ra, quá trình chữa lành mà nó khởi sự. Chỉ sự khiêm hạ, “một thái độ vô ngã đối với hiện thực,” như Iris Murdoch định nghĩa, mới cho phép chúng ta nắm bắt cái gì đang diễn ra. Khi đạt đến sự khiêm hạ ấy, chúng ta sẽ biết mình đang trên hành trình phục hồi, vì chúng ta bắt đầu gỡ mình khởi những ràng rịt của cuộc hiện sinh.

Thế nên, nếu bạn theo đuổi sự thành công mà không biết đến sự khiêm hạ, bạn hoàn toàn có thể làm ngơ trước cuốn sách này. Nó không giúp gì cho bạn – nó chỉ có thể dẫn bạn đi chệch đường.

Vì thất bại vốn vô biên và những biểu hiện của nó cũng vậy, nên miêu tả nó chi tiết không khác gì việc cậu bé trong giai thoại mà thánh Augustine kể: dùng vỏ sò múc nước từ biển để đổ vào cái hố nhỏ mà cậu đào trên bãi biển. Cố gắng ấy rõ ràng là vô vọng nhưng đó không phải là điều đáng bàn: vẻ đẹp điên rồ của cố gắng ấy mới là cái chúng ta theo đuổi.

“Dẫu điều này điên rồ, nhưng ta có thể nhìn thấy được phương pháp ở đó”, đó là nhận xét của Hamlet, một hình tượng đại diện cho sự thất bại mang tính bi kịch nhất trong văn chương nhân loại. Vì thất bại bao quanh, vây bủa chúng ta, sẽ không phải vô lý khi hình dung nó đến như những vòng tròn: những vòng tròn đồng tâm với ta, dần dần co thắt lại, dồn ép ta ngay tại trung tâm – y như trong tâm bão vậy.

Trong nghiên cứu về sự thất bại này, phương pháp của tôi là bắt đầu từ vòng ngoài và lần lượt từng vòng một, tiếp cận hình thức thất bại gần gũi nhất, mật thiết nhất với chúng ta. Tôi bắt đầu từ vòng ngoài cùng, thất bại mang tính vật chất, thứ mà tôi cho rằng xa xôi nhất. Từ “xa xôi” ở đây không mang nét nghĩa chỉ khoảng cách không gian, nó gợi ra những nhức nhối tinh thần nhiều hơn: chúng ta rất khác với các sự vật, dẫu cho chúng ta sống giữa chúng, sử dụng chúng và phụ thuộc vào chúng. Sự thất bại của các sự vật ảnh hưởng đến chúng ta và sự hoàn thiện của chúng cũng vậy, thứ có thể phi nhân hóa chúng ta. Ở vòng này, tôi sẽ xem xét cách mà Simone Weil cảm nhận về tình trạng không thể thích nghi và “không thuộc về” thế giới đã dẫn đến việc bà xây dựng nên một dự án kéo dài cả đời về sự siêu vượt bản ngã và giải vật chất hóa bản ngã. Cuộc đời của Weil là một nghiên cứu về sự khiêm hạ tột cùng: bà thà xóa bỏ sự hiện hữu hơn là xúc phạm Thượng đế bởi chính sự hiện hữu của mình. Cuối cùng, quay lưng lại với thế giới, bà tự gỡ mình ra khỏi những ràng buộc hiện sinh theo cái cách kín đáo nhất mà bà có thể làm. Khi kỵ sĩ đấu bò xuất hiện, anh ta không thể tìm thấy bà: bà đã hoàn toàn tan biến.

Tiếp đó là vòng tròn của sự thất bại về chính trị. Chính trị liên đới đến tất cả chúng ta ở một mức độ nhất định, ngay cả những người lãnh đạm nhất với chính trị trong chúng ta; thật ra, đứng ngoài chính trị tự nó đã là một quyết định mang tính chính trị rồi. Vòng tròn của sự thất bại về chính trị còn gần với chúng ta hơn cả vòng tròn trước đó bởi chính trị không nằm ngoài chúng ta, nó là một phần của chúng ta. Thậm chí những kẻ nổi loạn và vô chính phủ đều có mối liên hệ với một cộng đồng chính trị nào đó và định nghĩa bản thân như là kẻ chống lại nó. Mahatma Gandhi, người ta mà ta làm quen ở vòng này, đã loay hoay mắc kẹt trong bầu không khí chính trị của thời đại mình, cùng lúc ấy, ông chưa bao giờ ngừng tìm kiếm sự thuần khiết. Từ một thôi thúc mãnh liệt hướng đến cái thuần khiết và hoàn thiện (điều đưa ông và thế nguy hiểm tương tự như với Robespierre và những người chủ trương theo đuổi sự thuần khiết về chính trị), Gandhi đôi khi đã thể hiện hành vi bất toàn đáng lo ngại. Thứ cứu chuộc ông, cuối cùng, có thể lại là chiều kích trần thế khác ở nhân cách ông. Khi kỵ sĩ đấu bò xuất hiện, anh ta gặp khó khăn để định vị Gandhi – vị Thánh dường như lúc nào cũng đã thuộc về một lãnh địa khác.

Vòng tròn tiếp theo là sự thất bại về mặt xã hội. Ngay cả khi chúng ta quyết định sống một mình, cách xa bất kỳ sự gắn kết với bất cứ con người nào, xã hội vẫn cứ là thứ day dứt trong ta – nó ám ảnh tâm trí và ngôn ngữ của ta. Chúng ta lúc nào cũng bị ràng buộc về phương diện xã hội và chính trong sự ràng buộc này, chúng ta trải nghiệm một hình thức đặc biệt phổ biến  của sự thất bại. Để trực tiếp đương dầu với thất bại về mặt xã hội, một số người đã quyết định xem nó như một thiên hướng cá nhân. E.M.Cioran, người mà phần lớn chương ba sẽ xoay quanh, đã dành cả đời mình để chủ động không làm gì cả, tạo nên một sự châm biếm toàn diện với những huyền thoại nền tảng của xã hội bị ám ảnh bởi sự giàu có và lấy sự làm việc làm trung tâm của chúng ta. “Bất cứ cái gì tốt đẹp mà chúng ta có thể có đều đến từ sự biếng lười của chúng ta, từ sự mất khả năng hành động, thực thi các dự án và kế hoạch của chúng ta,” ông viết. Cioran quan niệm chính sự không hành động này là phản ứng hữu lý duy nhất đối với một sự tồn tại vô nghĩa. Khải thị về sự vô nghĩa mang tính phổ quát chính là tôn giáo mà triết gia vô thần này dành trọn thời gian và tâm trí để sống với nó. Khi kỵ sĩ đấu bò xuất hiện, Cioran khiến anh ta phải cười lớn vì ngay từ đầu, anh ta đã quên mất lý do vì sao mình lại đến đây. Và dĩ nhiên Cioran cũng vậy,  – nhờ căn bệnh Alzheimer mà ông mắc.

Cuối cùng, vòng tròn gần với ta hơn cả: vòng trong của sự thất bại về mặt sinh học– sự hữu tử của bản thân ta. Dù chúng ta cố chạy xa đến đâu khỏi cái chết, rồi nó tất yếu cũng tóm kịp ta. Tuy vậy, nếu sự hữu tử có được ghi chép vào trong DNA của chúng ta đi nữa, ta vẫn thấy khó sống cùng nó. Nghĩ về cái chết là “nghĩ về cái không thể nghĩ”, Vladimir Jankélévitc đã nói vậy. Có lẽ như một lối thoát, các triết gia cổ đại như Seneca đã bận tâm về cái chết như là một vấn đề liên quan đến thực hành hơn là một vấn đề lý thuyết: họ tin rằng làm chủ nỗi sợ chết sẽ giúp ta có thể sống một đời sống tốt đẹp hơn. Tôi sẽ xem xét ở đây trường hợp lạ lùng của Yukio Mishima, người đã cố gắng thiết kế và thực hiện cái mà ông nghĩ là “một cái chết đẹp,”, người đã tự đặt bản thân một cách chắc chắn vào trong truyền thống về cái chết cao cả trong văn hóa Nhật Bản. Để đánh bại kỵ sĩ đấu bò, Mishima tự biến chính ông thành kỵ sĩ đấu bò.

Ngợi ca sự thất bại sẽ làm việc với một định nghĩa được khai triển dần dần – hay thực chất, được mở rộng – về sự thất bại. Bất kể khái niệm thành công được định nghĩa là gì thì thông thường nó vẫn hàm ẩn nét nghĩa về một “sự nối tiếp” các sự kiện, tình trạng (từ này bắt nguồn từ từ sucedere, trong tiếng Latin, có nghĩa là “theo sau”). Khi một cái gì đó thất bại, sự tiếp diễn sẽ không xảy ra nữa, theo sau đó là một cảm giác về sự trống rỗng. Thất bại là bất cứ điều gì mà chúng ta trải nghiệm như là một sự gián đoạn, khi một cái gì đó không tồn tại, hoạt động hay xảy ra như nó được kỳ vọng. Khi chúng ta trải qua những vòng tròn thất bại của mình – hoặc trực tiếp, như một kinh nghiệm đau thương, hoặc gián tiếp, thông qua tưởng tượng và trầm tư – chúng ta sẽ nhận thức ngày càng nhiều hơn về sự gián đoạn, đổ vỡ và khó chịu này. Và một trạng thái như vậy là xuất phát điểm tốt nhất cho bất kỳ hành trình nào của sự hiện thực hóa bản ngã.

Chúng ta vô cùng cần đến việc tích lũy kinh nghiệm về sự gián đoạn, đổ vỡ và khó chịu này nếu ta muốn đi đến chỗ chấp nhận tình trạng kề-cận-hư-vô của mình. Vì chỉ trong thử thách gắt gao của kinh nghiệm này, chúng ta mới đạt đến sự khiêm hạ – điều trao cho chúng ta cơ hội để có thể chữa được sự kiêu mạn và tư tưởng lấy chính mình làm trung tâm, sự tự ảo tưởng và tự đánh lừa bản thân của chúng ta, sự điều chỉnh vụng về của chúng ta đối với thực tại. Tiến trình đi qua bốn vòng tròn thất bại này không phải là một hành trình bình thường: nó là một hành trình thanh lọc (cathartic). Nếu đọc cuốn sách này, bạn cảm thấy bị hoang mang, điều đó có nghĩa là tôi đã không hoàn toàn thất bại. Vì thất bại là một kinh nghiệm gây hoang mang sâu sắc – hoang mang như bản thân đời sống này.

Trong mọi hành trình, hành trình kiếm tìm bản ngã là hành trình khó khăn nhất, lâu dài nhất mà ta phải thực hiện. Thế nhưng bạn đừng quá lo lắng: coi sự thất bại làm người dẫn lối, bạn có cơ hội, dẫu xa xôi, để đi tới cùng hành trình này. Sau cùng thì, những bác sĩ giỏi nhất vẫn luôn bảo chúng ta rằng: thứ hủy hoại ta cũng có có thể chữa lành ta. Nọc rắn chẳng phải vừa là thuốc độc mà cũng lại vừa là thuốc đó thôi.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, In Praise of Failure: Four Lessons in Humility, Harvard University Press, 2023.

Costica Bradatan – Dân chủ – thứ dành cho thánh thần

Athenian-Democracy-a.jpg

“Tại sao các nền dân chủ lại thất bại?”

Chúng ta nghe thấy câu hỏi đó nhiều lần mấy năm vừa qua, trong sách vở, trên các trang trao đổi quan  điểm, ở các chương trình tin tức trên truyền hình và trong một cuộc tranh luận công khai mà nỗi lo âu không ngừng gia tăng. Song tôi thì luôn nghĩ câu hỏi đó có thể được trả lời bằng câu hỏi khác: Tại sao lại không cơ chứ?

Lịch sử – cuốn cẩm nang đích thực mà chúng ta có về vấn đề này – cho chúng ta thấy: dân chủ là thứ hiếm hoi và chỉ thoáng lướt qua. Nó bừng lóe lên gần như một cách bí ẩn ở một nơi chốn may mắn nào đó, rồi lụi tàn dần, theo cái cách dường như cũng bí ẩn tương tự. Dân chủ chân chính là thứ khó đạt được, và một khi đạt được, thì lại mong manh. Trong bảng lược đồ lớn các sự kiện của nhân loại, nó là ngoại lệ, không phải quy luật.

Mặc dù dân chủ mang bản chất khó nắm bắt nhưng ý niệm cốt lõi của nó thì lại đơn giản đến chất phác: Là thành viên của một cộng đồng, chúng ta có tiếng nói bình đằng trong việc tổ chức đời sống cùng nhau. “Trong nền dân chủ như nó nên là”, Paul Woodruff viết trong cuốn sách xuất bản năm 2006 của ông – First Democracy: The Challenge of an Ancient Idea (Nền dân chủ đầu tiên: Thách thức của một ý niệm cổ xưa), “tất cả những người trưởng thành đều tự do tham dự vào cuộc thảo luận xung quanh vấn đề làm cách nào để mọi người có thể sống cùng nhau. Và không một ai được chừa ra để sở đắc một thứ quyền lực không bị kiểm soát vốn sẽ dẫn đến sự ngạo mạn và lạm dụng.” Bạn đã từng nghe bất cứ điều gì có vẻ hợp lý hơn thế chưa? Song ai nói rằng chúng ta có lý?

Về cơ bản, con người không được định hướng để sống trong dân chủ. Người ta thậm chí còn cho rằng dân chủ là “không tự nhiên” vì nó đi ngược với những bản năng và xung lực sống trong ta. Cái mang tính tự nhiên đối với chúng ta, cũng như với bất cứ tạo vật sống nào, là việc tìm cách sinh tồn và tái sinh. Và bởi mục đích đó, chúng ta luôn cố khẳng định bản thân đứng trên người khác một cách không ngừng nghỉ, không tự biết, không khoan nhượng. Chúng ta xô họ ra bên lề, dẫm đạp lên họ, vứt bỏ họ, thậm chí, nếu cần, sẵn sàng nghiền nát họ. Đằng sau vẻ ngoài tươi cười của nền văn minh nhân loại, luôn tồn tại một thứ động cơ mù quáng thúc đẩy con người tự khẳng định bản thân, tương tự như những gì ta quan sát được ở thế giới loài thú.

Chỉ cần cào lớp bề mặt của cộng đồng người, sẽ rất sớm bạn sẽ nhìn ra tính bầy đàn. Chính thứ “bản chất người phi lý và vô lý này”, nhà động vật học Konrad Lorenz đã viết như vậy trong cuốn sách của ông, On Aggression (Về sự hung hãn), đã thúc đẩy “hai đảng phái chính trị hay tôn giáo với những chương trình cứu rỗi nhân loại giống nhau đến kinh ngạc đấu tranh với nhau khốc liệt,” cũng chính nó đã thôi thúc “một Alexander hay một Napoleon hy sinh hàng triệu mạng sống để thỏa mãn tham vọng thống nhất thế giới dưới quyền trượng của mình.” Phần lớn lịch sử thế giới là câu chuyện của những cá nhân tự khẳng định mình thái quá để tìm được những cây quyền trượng khác nhau.

Chẳng quá khó hiểu khi một cá nhân như vậy được suy tôn, những người khác chỉ còn có thể hăm hở phục tùng y. Cứ như thể, trước sự hiện diện uy nghi của y, họ nhận ra mình có quá nhiều tự do trong tay và điều này đột nhiên làm họ ngột ngạt. Trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky, viên Đại pháp quan nói: “Không có mối bận tâm nào dai dẳng và khẩn thiết đối với con người, chừng nào hắn còn tự do, hơn là tìm được ai đó để hắn quỳ sụp xuống càng sớm càng tốt.” Và đó là sự đầu hàng mới ngọt ngào làm sao! Alexander Đại đế, Julius Caesar, Napoleon, Hitler và Mussolini đều là những người nói chuyện hấp dẫn, bỏ bùa đám đông và có sức mê hoặc về ảnh hưởng chính trị.

Mối quan hệ giữa họ và đám đông là mối quan hệ đặc biệt thân mật. Đối với những triều đại như thế này, hễ khi nào quyền lực được sử dụng và phô diễn, hiệu quả mà nó tạo ra đều mang chất dục tính sâu sắc. Chẳng hạn, thứ mà ta thấy trong bộ phim tuyên truyền cho Đức Quốc xã The Triumph of the Will (Thắng lợi của ý chí, 1935) – ở mức độ nào đó, phải ghi nhận tài năng trớ trêu của Leni Riefenstahl (1902-2003), nữ đạo diễn của bộ phim này – là hình ảnh con người đang trải nghiệm một thứ khoái cảm tập thể. Những phát ngôn của nhà chính trị quyến rũ có thể trống rỗng, thậm chí vô nghĩa, nhưng điều đó không mấy quan trọng; mỗi câu nói của y đều đưa đám đông bị kích động ấy đến những đỉnh cao mới của khoái cảm. Giờ đây, y có thể làm bất cứ điều gì với đám người đang bị mê muội đi theo mình. Họ sẽ tuân phục bất cứ sở thích nào của kẻ làm chủ.

Nói thẳng ra, chính cái ngữ cảnh đời sống con người này là cái nền mà trên đó, ý niệm dân chủ nảy sinh. Không ngạc nhiên, đó là một trận đánh thất thủ. Nền dân chủ chân chính không đưa ra những hứa hẹn lớn, không quyến rũ hay mê hoặc, nó chỉ khơi gợi con người vươn đến một chuẩn mực nhất định về phẩm giá con người. Nó không hề mang chất dục tính. So sánh với những gì diễn ra trong các thiết chế dân túy sẽ thấy dân chủ như là một mối quan hệ lãnh cảm. Nếu tỉnh táo, ai là kẻ sẽ nhận lấy những trách nhiệm buồn bã của dân chủ thay cho những sự tưởng thưởng tức thời mà một kẻ mị dân trao cho? Ai sẽ chọn sự lãnh cảm thay vì khoái cảm vô biên? Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điều này, ý niệm dân chủ đã đôi lần được hiện thực hóa trong lịch sử – đó là những khoảnh khắc đầy vinh dự khi nhân loại dường như muốn làm ngạc nhiên chính bản thân mình.

Một yếu tố cần cho dân chủ nảy sinh là cảm thức về sự khiêm hạ. Một tính khiêm hạ vừa mang tính tập thể, vừa được nội tại hóa, vừa thấu suốt, vừa xa rộng, nhưng chân thực. Đó là tính khiêm hạ khiến người ta biết vừa vặn với chính mình, vì nó xuất phát từ sự tự ý thức của con người về giá trị và giới hạn của bản thân, thậm chí nó còn khiến con người biết cười chính mình nữa. Kẻ mang tính khiêm hạ ấy, sau khi chứng kiến bao sự điên rồ và học được cách chấp nhận chúng, đã trở nên hiền minh và nhẫn nại. Nói khác đi, để làm một nhà dân chủ đúng nghĩa, phải hiểu khi sống cùng nhau, ta không ưu việt hơn kẻ khác, từ đó, biết ứng xử sao cho thấu đáo. Một phương diện chủ yếu của thực hành sống dân chủ là làm sao chấp nhận sự thất bại và bất toàn, ấp ủ ít ảo tưởng về xã hội con người. Các thiết chế dân chủ, các quy tắc và cơ chế của chúng, nên mang theo một nhãn quan về con người như là những thực thể bất toàn, khiếm khuyết và đầy thiếu sót.

Nên dân chủ Athen cổ đại đã phát kiến hai thiết chế minh họa rõ cho nhãn quan này. Thứ nhất, rút thăm: chỉ định người vào chính quyền bằng lá thăm. Với sự bình quyền mà tất cả các công dân Athen lúc bấy giờ – tức nam giới trưởng thành có địa vị tự do – được hưởng, cách hợp lý nhất để được đưa vào vị trí lãnh đạo là thông qua lựa chọn ngẫu nhiên. Quả thực, đối với các nhà dân chủ Athen, bầu cử sẽ bị tắc lại chính ở tâm điểm của dân chủ: Họ sẽ cho phép một số người nào đó khẳng định bản thân, đặt mình cao hơn kẻ khác một cách kiêu ngạo và bất nhẫn.

Thiết chế bất toàn mà hợp lý khác do người Athen đề xuất là loại trừ. Khi một công dân của thành bang trở nên nổi tiếng quá mức – nhiều tiềm năng bỏ bùa công chúng – dân Athen sẽ bỏ phiếu để trục xuất y khỏi thành bang trong vòng mười năm bằng cách ghi tên  y lên những mảnh gốm. Đó không phải là hình thức trừng phạt cho những việc mà kẻ có sức mê hoặc kia đã làm mà là một hình thức đề phòng trước những gì hắn có thể làm nếu không bị kiểm soát. Dân Athen hiểu họ là những kẻ rất dễ tổn thương và có nhiều điểm yếu để kháng cự nổi sức cám dỗ của chính trị (câu chuyện phức tạp giữa họ với Alcibiades [1]là bằng chứng sống động cho điều này) và kịp thời khước từ khoái cảm do nó mang lại. Là thứ do con người làm ra, dân chủ vốn dĩ mong manh, có thể tạng yếu – tốt hơn là không đặt nó vào phép thử.

Sau thí nghiệm triệt để của người Athen về sự bình đẳng, dân chủ đã xuất hiện trở lại ở một số nơi, nhưng thường là trong những hình thức mà người Athen cổ đại có lẽ sẽ rất băn khoăn khi gọi đó là dân chủ. Chẳng hạn, phần lớn hình thức dân chủ của nước Mỹ hiện nay (mà ngay tại thời điểm này có thể nói là phiên bản thịnh hành nhất), theo tiêu chí của dân Athen, sẽ được gọi là thứ “chính trị đầu xỏ”. Chỉ một số ít ỏi những kẻ giàu có may mắn mới được quyết định không chỉ những luật lệ của trò chơi chính trị mà còn việc ai thắng, ai thua trong cuộc chơi này. Mỉa mai thay, cái hệ thống này lại ủng hộ cho điều mà chúng ta muốn tránh nó bằng được khi ta lựa chọn dân chủ ngay từ đầu: con thú chính trị không nguôi khát thèm quyền lực, nóng lòng xác lập địa vị bản thân một cách ngạo mạn.

Tuy vậy, chúng ta không nên ngạc nhiên. Jean-Jacques Rousseau đã viết: “Nếu như có một quốc gia của thánh thần, quốc gia ấy sẽ cai quản theo đường lối dân chủ. Vì thế một hình thức hoàn hảo của chính quyền là thứ không dành cho người phàm.” Dân chủ là thứ khó thấy trong thế giới con người đến nỗi phần lớn thời gian chúng ta nói về nó, chúng ta thường quy chiếu đến một lý tưởng xa xôi hơn là một thực tế. Xét đến cùng, đó là câu chuyện của dân chủ: nó là một lý tưởng mà người ta luôn cố gắng đưa vào thực hành. Chưa bao giờ trọn vẹn và chưa bao giờ lâu dài – lúc nào cũng vụng về, rụt rè, cứ như thể chỉ là thứ diễn ra trong một thời gian thử nghiệm.

Song dân chủ là một trong những thứ khó nắm bắt – hạnh phúc là một thứ khác trong số đó – mà lời hứa hẹn của nó, dẫu bị trì hoãn vĩnh viễn, vẫn quan trọng hơn sự tồn tại thật sự của nó. Chúng ta có thể không bao giờ đạt được nó, nhưng chúng ta lại không đủ khả năng để ngừng mơ tưởng về nó.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, “Democracy Is For Gods”, https://www.nytimes.com/2019/07/05/opinion/why-democracies-fail.html

 

[1] Alcibiades (450-404 trước Công nguyên) là một chính khách, một nhà quân sự, một nhà hùng biện nổi tiếng ở Athen thời cổ đại. Ông đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn nửa sau cuộc chiến Peloponneus (431-404 trước Công nguyên) xảy ra giữa thành bang Athen và thành bang Sparta. Ông ưa dùng các chiến thuật không chính thống, và thường chiến thắng các thành bang bằng lừa dối và thương lượng hơn là vây hãm.

Costica Bradatan – Tại sao chúng ta thất bại? Và chúng ta thất bại như thế nào?

diogenes.jpg

Diogenes – Kẻ Hoài Nghi, triết gia đại diện cho chủ nghĩa Yếm thế thời Cổ đại (412 trước Công Nguyên – 323 trước Công nguyên) đã phải chạy trốn khỏi thành phố Sinope, quê hương mình vì liên đới đến một scandal gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tiền tệ của thành phố này. Tuy nhiên, ông đã tìm cách để giữ thể diện cho mình, và chuyển từ một sự nghiệp thất bại, dính líu đến việc làm bạc giả sang một sự nghiệp hứa hẹn hơn trong lĩnh vực triết học. Diogenes hẳn đã luôn nghĩ về những năm đầu đời phạm nhiều lỗi lầm của mình một cách trìu mến. Khi nhiều năm sau này, ở Athens, có người nhắc ông về vụ scandal làm bạc giả, ông đã đáp lại một cách kiêu hãnh: “Nhưng chính là vì chuyện đó, này anh bạn tội nghiệp ơi, tôi mới rẽ sang triết học đó.” Tuy nhiên, hai con đường sự nghiệp ấy không phải luôn tách biệt với nhau; Diogenes, chẳng hạn, có quyền khoe kỹ năng làm bạc giả của ông cũng hữu ích khi ông bắt đầu theo đuổi dự án triết học vĩ đại của mình, nhằm đánh giá lại toàn bộ giá trị của xã hội Hy Lạp.

Một cuộc đời túng quẫn dứt khoát không phải là giấc mơ của kẻ làm bạc giả, song Athens đã trao tặng Diogenes chính điều đó. Tình thế mỉa mai không buông tha ông: ông ở đây, tại một trong những nơi thịnh vượng nhất thế giới vào thời điểm đó, nơi mà tiền có thể mua được không thiếu thứ gì, thế nhưng, trớ trêu thay, kẻ trước kia vốn làm nghề đúc tiền nay không một xu dính túi, phải sống đời ăn mày và cóp nhặt từng cắc. Song Diogenes sẽ không là cả nếu không giàu trí tưởng tượng. Rất nhanh chóng, hẳn ông đã hình dung mình có thể biến tình thế khốn cùng của mình thành một nhãn quan triết học và biến sự ăn mày thành một hình thức nghệ thuật. Bằng việc làm vậy, ông có thể đánh bại Athens trong chính trò chơi của nó: ở một thành phố, nơi người ta đề cao sự ưu việt trong bất cứ hình thức cố gắng nào của con người, Diogenes sẽ chứng tỏ năng lực đạt đến trình độ thượng thừa trong nghệ thuật không làm gì cả; ông có thể trở thành một kẻ ngồi không xuất sắc nhất, một quý tộc của giới ăn mày. Trong khi sự tôn thờ thành công thẩm thấu vào mọi phương diện của đời sống Athens, Diogienes hẳn nhận ra ông có thể tạo dựng một sự nghiệp hoành tráng mà công việc của nó là trải nghiệm sự thất bại. Diogenes đã từng nói về thầy của mình, Antisthenes, với một thái độ hàm ơn: “Con người này đã biến tôi từ một người giàu có thành một gã ăn may, làm tôi phải sống trong những nhà kho chật hẹp hơn là một ngôi nhà rộng rãi.” Antisthenes, đối với ông, xứng đáng được ngợi ca vì đã biến ông thành một kẻ thất bại trong xã hội, và do đó, thành một triết gia lớn.

Diogenes cảm thấy Socrates không phải là hình mẫu cho mình: ông lãnh đạm và thỏa hiệp, quá ràng buộc bởi vật chất. Socrates có một sự giao thiệp dễ chịu với thế giới, và bị khuất phục bởi những cám dỗ của thế giới ấy: thành công, tiếng tăm, những người hưởng ứng, hình ảnh trước công chúng. Diogenes, người vốn làm nghề đúc tiền, than phiền rằng Socrates “đã sống một đời sống xa hoa, vì ông đã dành quá nhiều bận tâm để nghĩ về ngôi nhà nhỏ của mình, chiếc giường nhỏ của mình và cả đôi dép mà ông đi.” Trong con mắt của Diogenes, điều này khiến Socrates trở nên đáng ngờ như một kẻ phản bội.

Và vì thế, Diogenes coi nhiệm vụ triết học của mình là phải đẩy những ý tưởng của Socrates đến điểm tới hạn của chúng. Khi Plato gọi Diogenes là một “Socrates hóa điên”, có lẽ ông muốn hàm ý nhiều hơn thế. Diogienes đã hiện thực hóa nhiều điều mà ở Socrates chỉ là ý tưởng. Từ Hypatia đến Thomas More, Jan Patocka, đã có một số nhà tư tưởng dám chết cái chết như Socrates, nhưng còn ít hơn nữa, nếu có, những kẻ chủ động sống một đời như Diogenes. Việc nhiều lời nói và hành động của ông chỉ được xem là giai thoại ngụy tạo không phải là vấn đề cần bàn ở đây; nếu có thì chính dữ kiện đó lại càng chứng minh cho sức ảnh hưởng của hình tượng này đối với trí tưởng tượng của chúng ta và đối với lòng sùng kính mà chúng ta dành cho sự “thất bại” của ông. Diogenes đã đặt sự thất bại vào trung tâm dự án triết học của ông một cách chắc chắn. Ông đã biến sự thất bại trở thành một nguyên tố mà mình có, như thể cá thì không thể chết chìm.

 

*

Chính bản chất bầy đàn của con người là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các triết gia ngay từ đầu. Dù chúng ta có ý thức về điều này hay không thì ở trong tất cả chúng ta luôn có một xu hướng lại giống mạnh mẽ, thôi thúc ta tìm kiếm sự đồng minh với những kẻ khác, lập thành các nhóm, các bầy và gắn bó mình với chúng. Bầy nhóm đem đến lời hứa hẹn cho việc được bảo vệ, một cảm giác an toàn, và nhiều hơi ấm của động vật – thành thực phải nói thế. Chừng nào ta còn một bộ phận của nhóm và chơi theo luật lệ của nó, chúng ta có thể hy vọng mình sống sót được. Đổi lại, chúng ta phải nhượng bộ một vài phần của sự tự do, tính tự trị, và chủ nghĩa cá nhân của chúng ta, nhưng thường đó không phải là một thỏa thuận tốt. Như là kẻ mang xu hướng lại giống, dù giờ đây chúng ta có thể sống một mình, song chúng ta vẫn thấy không gì tồi tệ hơn khi bị bỏ lại, hoàn toàn trơ trọi, tại một góc mà không có ai nói năng gì với mình. Dường như không có sự khắc nghiệt nào lớn hơn việc không thuộc về một bầy nhóm nào – không ai thừa nhận mình trong khi mình phơi bày cho tất cả – và do đó rơi vào tình trạng bị kết án lưu đày vĩnh viễn. Chúng ta hiểu điều đó một cách bản năng: bị bỏ mặc như vậy nghĩa là trở thành kẻ yếu thế trong đời sống xã hội, và chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì để tránh định mệnh ấy. Sự cô độc là một tên gọi khác của thất bại. Solomon Asch đã chứng minh hết sức thuyết phục việc chúng ta có thể quy phục những áp lực của bầy đàn đến mức độ nào, ngay trong những việc nhỏ nhặt nhất.

Như là một nhóm, các triết gia – những kẻ “trần gian” như bao người – cũng chơi trò chơi xã hội. Họ đã luôn chơi trò ấy. Các “chủ nghĩa” trong lịch sử triết học phần lớn khởi sinh từ sự đồng nhất của triết gia với một nhóm lớn hơn gồm “những trí tuệ có nhiều điểm tương đồng” cũng như từ nhu cầu thuộc về một nhóm gây ảnh hưởng nào đó – một cái gì đó có thể đem đến cảm giác về sự an toàn, bảo vệ và quyền lực mà chỉ một “mái nhà” mới có thể trao cho ta. Điều này đúng với những học trò thời cổ đại khi họ gia nhập một trường phái triết học để truy cầu sự thông thái, cũng như đúng với những học trò thời trung cổ hay sơ kỳ hiện đại khi trung thành đi theo sư phụ của mình từ trường đại học ở thành phố này đến thành phố khác. Thậm chí cho đến cuối thế kỷ XX, việc các giáo sư ở Đức luôn có một vài sinh viên thân cận với mình đi theo khi họ thỉnh giảng tại các đại học khác không phải chuyện bất thường. Tuy nhiên, bản chất của trường đại học hiện đại đã làm cho trò chơi xã hội của triết gia trở nên đặc biệt khắc nghiệt. Cuộc chơi của họ ở thế kỷ vừa qua đã trở thành một cái gì đó tinh vi hơn song đồng thời cũng tự hủy hoại hơn.

Các triết gia kinh viện hiếm khi thừa nhận bản chất bầy đàn của họ – chúng ta là những kẻ cực kỳ độc lập, là những kẻ chủ ý đả phá đức tin. Chúng tôi hiểu mình gắn kết lại với nhau vì triết học là lĩnh vực của sự bàn luận và tranh cãi – chẳng phải thế sao? – và vì tìm kiếm chân lý là một hoạt động tập thể và mang tính đối thoại tư tưởng trong bản chất. Đúng vậy. Song một cuộc đối thoại là sự trò chuyện giữa những kẻ bình đẳng với nhau. Và cho dù đã có những đối thoại thực sự giữa các triết gia kinh viện thì hình thức tương tác phổ biến nhất, tự đắc nhất ở đây là một cuộc trò chuyện – đôi khi lớn tiếng, đôi khi thầm thào, nhưng thường xuyên hơn, nó diễn ra trong sự nghiến răng im lặng – xoay quanh chủ đề quyền lực. Về việc ai có nó, ai không, những cách tốt nhất để có nó và giữ nó, ai lên hay ai xuống, và những câu hỏi khác tương tự. Đặc điểm nổi bật của cuộc chuyện trò này là nó mang tính trình diễn cao độ: quyền lực được sản xuất – chúng đạt được và mất đi, gia tăng hay bị suy yếu – khi cuộc chuyện trò kiểu này diễn ra. Nó có thể bắt đầu giữa những người bình đẳng, song cuộc chuyện trò dần dần sinh ra sự bất bình đẳng: nó gia tăng quyền lực của một số rất ít, dẫn đến chỗ phương hại cho rất nhiều người khác; nó vô hiệu hóa sự tương tác giữa những người tham gia trò chuyện, từ đó làm thay đổi nghiêm trọng bản chất của chính công việc làm triết học.

Quyền lực này bao hàm quyền lực đối với các ngân quỹ, nguồn lợi, cơ hội, uy tín học thuật, vị trí, sự công nhận, song nó – ở một phương diện tinh tế hơn, thiết thân hơn với những người tham gia trò chuyện – còn bao hàm cả quyền lực đối với ý nghĩa của ngôn từ. Trong cuốn Hồi ký (Memoirs), Hans Jonas đã nhớ lại một lần, khi ông và Hannah Arendt đang giảng dạy triết học tại Đại học Nghiên cứu xã hội, New School ở New York, vị trưởng khoa sau Đại học đã hỏi một số triết gia từ Đại học Chicago, rằng họ nghĩ gì về những tác phẩm của Jonas và Arendt. Những tưởng vị trưởng khoa sẽ lấy làm hãnh diện về những học giả ngôi sao đang làm việc với mình, nhưng hóa ra ông bị dội một gáo nước lạnh: “Đó không phải là triết học”, một người thuộc trường phái triết học phân tích tại Đại học Chicago quả quyết. “Nó cũng hay, việc có một thứ như thế cũng tốt, và cũng nên có những khoa làm việc về những thứ như  vậy. Tôi ủng hộ việc đó. Song cái tên dành cho nó vẫn chưa được phát kiến. Tôi không biết phải gọi nó là gì. Tôi chỉ biết đó không phải là triết học.” Quyền lực đặt tên cho các sự vật, mà những kẻ bị nó nghiền nát hiểu rõ hơn hết thảy, nằm trong số những quyền lực vĩ đại nhất ta có thể có: những gì ta phải làm, những gì ta đã và vẫn đang làm trong suốt cuộc đời mình – kể cả cái tên của ta – cũng là những gì mà những kẻ khác sở hữu thứ quyền lực đó có thể định đoạt.

Cũng quan trọng không kém là quyền lực trong việc định nghĩa thế nào là thành công hay thất bại; quyền năng đặt tên đồng thời cũng là quyền năng xác định trình độ và phân hạng, danh sách những người chiến thắng và thua cuộc. Người ta càng tiệm cận đến địa điểm của quyền lực này – mà đối với chúng ta đó là trường đại học, các tạp chí và nhà xuất bản hàn lâm, các quỹ tài trợ – thì người ta càng được xem là kẻ thành công. Và bởi không ai muốn bị nhìn nhận như một kẻ thất bại, sự quy tụ về mặt xã hội mà những định nghĩa và cách phân hạng này tạo ra là một diễn cảnh đang để nhìn ngắm: tất cả mọi người họp đàn lại ở đó. Để đến được đó, không có cái giá nào quá cao, không có hy sinh nào quá nhỏ, không có phí tổn nào vượt quá khả năng chi trả. Phần lớn những người bị cuốn vào trò chơi hàn lâm này đều bị mê mẩn, đến độ như nghiện, bởi hào quang của thứ quyền lực này. Tất cả mọi thứ nảy sinh từ đó dường như đều chân thật, cao quý, giá trị và đáng theo đuổi. Quyền lực này mới thật là kẻ ban phát hào phóng làm sao, kỳ diệu làm sao: không những nó phú cho ta một bản sắc mà nó còn đem đến cho ta cảm giác về giá trị của chính mình, một hứa hẹn về sự cứu rỗi. Nó nhấc ta ra khỏi cơn ác mộng tệ hại nhất hay bám lấy ta: viễn cảnh về sự thất bại.

Và đó chính xác là nơi mà chúng ta thất bại. Vì tất cả chuyện tập hợp thành bầy đàn này hoàn toàn xa lạ với một sự truy cầu chân lý thực sự; nó làm sai lệch bản chất của triết học và biến triết gia thành cái gì đó khác. Mắc kẹt trong trò chơi này, một triết gia có thể trở thành một chính trị gia, một cận thần, một đảng viên, một tay sai hay một thủ lĩnh bộ lạc – y có thể là bất cứ ai, trừ việc là một triết gia. Trò chơi chính trị làm triết gia xa rời với những gì căn cốt nhất mà triết học phải quan tâm, khiến cho những gì mà y nói ra (hay phần lớn những điều y nói, nếu muốn nói một cách nhã nhặn hơn) không phải do sự thôi thúc từ chính bản thân triết học, mà bởi một sức mạnh xa lạ nào đó. Sức hút của nó đã dịch chuyển từ chân lý sang quyền lực.

Khi điều này xảy ra, thay vì xuất phát từ những vấn đề hiện sinh hay những ám ảnh triết học, nó lại đến từ một động cơ thành thật- muốn truyền đạt một cái gì đó quan trọng, do đó, sự viết trở thành chiến lược: viết là nỗ lực để báo hiệu sự hiện diện của nhà văn bên trong một cấu trúc quyền lực nào đó, sự sẵn sàng chơi theo luật lệ của nó và không gây ra rắc rối. Triết gia muốn theo đuổi sự thành công phải làm việc trên một phạm vi rộng những chủ đề thời thượng, phải là người cởi mở, linh hoạt, sẵn sàng uốn nắn và điều chỉnh khi cần để vuốt ve những kẻ nắm quyền, làm hài lòng họ, bắt các đối thủ phải im lặng, trở thành những kẻ có thẩm quyền mới, thành những người lính tốt. Hiển nhiên, những việc này được thực hiện giữa những dòng chữ – vì nếu không như vậy, nội dung của triết học sẽ chỉ là những chủ đề khó hiểu trong siêu hình học, những luận điểm mới về ý chí tự do, những vấn đề hóc búa, cái gì được xem như điều thiện vĩ đại nhất như ta thấy ở triết học Plato, hay trong những bước tiến gần đây nhất của triết học tinh thần. Nhưng một thứ triết học giữa dòng như thế được viết theo tinh thần chính trị, chứ không phải triết học. Thành công của nó cũng chính là thất bại của nó.

Điều này, đương nhiên, không chỉ đúng với các triết gia. Học giả từ những lĩnh vực khác cũng thất bại theo cách tương tự; tác phẩm của họ mang tính chính trị khi nó phục vụ cho những mục đích xa lạ với cuộc truy cầu bản thân chân lý. Điều khiến cho sự thất bại của triết gia thảm hại một cách đặc biệt chính là thực tế này: ngaoì những khoảnh khắc gắn kết với xã hội, triết học, ở tận cùng bản chất của nó, là một thứ “bài tập” mang tính riêng tư sâu sắc. Khó có thể nhìn thấy một khía cạnh nào mang tính bầy đàn ở việc người ta đưa bản ngã của mình vào một trật tự nào đó, vật vã tìm ý nghĩa trong một thế giới vô nghĩa, nỗ lực để hiểu bản ngã của mình và những cơ chế tạo nên đời sống của nó. Công việc triết học diễn ra khi chúng ta ở trong trạng thái riêng tư nhất, triết học và ta gặp gỡ với nhau chính tại nơi mà Michel de Montaigne gọi là “phòng sau của cửa tiệm” – nơi được xem như là sân khấu đúng nghĩa nhất cho quá trình khởi sinh và vận hành tư tưởng. Với Montaigne, không gian của cuộc gặp gỡ này riêng tư đến mức ngay cả thành viên trong gia đình cũng không được phép bước vào.

Chúng ta nhất định phải dành một căn phòng phía sau đó cho riêng ta, ở đó, ta thiết lập nên tự do thật sự của mình, nơi ta ẩn dật và bảo vệ sự đơn độc của chính ta. Tại đây, cuộc đối thoại thông thường của chúng ta luôn là cuộc đối thoại giữa ta và bản ngã của chính mình, một cuộc đối thoại riêng tư đến độ không có sự kết hợp hay giao tiếp bên ngoài có thể tìm được chỗ.

Bên ngoài “phòng sau của cửa tiệm” ấy, triết học chiếm lĩnh một không gian xã hội nơi nó có thể vẫn duy trì hoạt động của mình một cách chân thực. Suy cho cùng, các nhà tư tưởng cũng cần tìm kiếm người khác làm đồng minh; mối quan hệ đồng minh trong triết học cũng hình thành từ lâu đời như chính bản thân triết học vậy. Tuy nhiên, không gian này lại khá rạch ròi và chật hẹp: một khi triết gia bước ra bên ngoài vòng tròn của mình, rắc rối có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Vì, để giữ sự chân thực, triết học nhất thiết phải mang tinh thần phê phán, dám nói thẳng, không ve vuốt. Nếu công việc làm triết học đúng nghĩa là “suy tư chống lại chính mình” được tiến hành hệ thống, không khoan nhượng, không cho phép bất kỳ lưới an toàn hay đường thoát nào, vậy thì những người khác (kể cả những nhà tư tưởng đồng minh) có thể mong đợi cách xử sự gì ở triết gia? Theo một nghĩa quan trọng, chừng nào triết gia còn bị ràng buộc bởi thực hành nói ra sự thật, sớm muộn gì y cũng tìm thấy mình trong một tình thế hiểm nghèo: trở thành một hình ảnh lập dị, đi ngược dòng, lẻ loi, không được ai bảo vệ và đồng thời phơi bày ra tất cả. Triết gia tìm thấy mình chính ở “góc mà không ai buồn nói chuyện với mình.” Y, do vậy, là một kẻ thất bại trên phương diện xã hội không phải do ngẫu nhiên, mà như từ thôi thúc tự thân.

Nếu giờ đây y quy phục quyền lực của nhóm, triết gia sẽ còn thất bại đến hai lần. Đầu tiên, y thất bại vì trong con mắt kẻ khác, y đã là một tên thất bại rồi – một gã yếu đuối,  một kẻ bị ruồng bỏ. Sau đó, y thất bại vì y không biết làm thế nào mà trở thành một tên thất bại: làm thế nào để tận dụng vị trí đặc quyền của kẻ ngoài cuộc cho những mục đích triết học. Vì, trong triết học, trở thành một kẻ thất bại là một điều quan trọng – thậm chí gần như một ân huệ. Hoàn toàn không bị nghiền nát bởi sự thất bại trên phương diện xã hội của mình, triết gia có thể phát huy công dụng tuyệt vời của điều này: nhìn sâu vào những hoạt động của tinh thần, những sự việc trong xã hội con người, vực thẳm của tâm hồn con người. Nếu như biết cách khai thác sự thất bại này, thì chính nó sẽ khiến triết gia có thể trở thành một nhà tư tưởng phong phú hơn, sâu sắc hơn và sáng tạo hơn.

Chính sự độc đáo là nạn nhân đầu tiên ở đây. Để chơi trò chơi chính trị, các triết gia cần là một “vận động viên tốt”, như cách nói của họ, để tránh việc bị tách ra lẻ loi, giảm bớt sự dị biệt của mình, kìm hãm những ý tưởng “rồ dại” và mầm mống của sự điên khùng vốn đặc biệt được cần đến trong triết học. Không còn hào hứng thách thức những triết lý đã được thừa nhận, gây rắc rối và hoang mang, một khi bị mắc kẹt trong trò chơi này, điều tồi tệ nhất giờ đây có thể xảy đến với họ là bị lôi ra làm trò cười, bị chế giễu bởi những kẻ có địa vị ngang mình – đó sẽ là kết thúc của cuộc chơi mà họ tham gia. Điều này dẫn đến hậu quả lâu dài là sự xuất hiện của một vùng nhạt nhẽo mênh mông trong triết học kinh viện, sự chán chường của nó ngày càng lộ ra ngay cả khi số người tham dự tại các hội thảo ngày càng tăng lên. Thói bầy đàn của triết gia đi liền với hình phạt của chính nó. Anh không thể cùng lúc vừa là một người độc đáo trong tư tưởng mà lại vừa thông minh về chính trị; anh không thể có được sự chính trực của mình đồng thời lại vừa ăn nó luôn.

Giờ đây có thể dễ hiểu tại sao một vài nhân vật trong số những hình tượng độc đáo nhất, đột phá nhất trong tư tưởng hiện đại, từ Spinoza, Kierkegaard đến Thoreau lại làm việc bên ngoài trường đại học. Trường đại học của Nietzsche làm ông phát ốm – hiểu theo nghĩa đen. Và trường đại học làm Schopenhauer suốt đời nguyền rủa những “giáo sư triết học.” Năm 1928, một nhóm học giả hàn lâm danh tiếng thuộc Đại học Goethe tại Frankfurt đã cho rằng luận án tiến sĩ của Walter Benjamin có nhiều thiếu sót nghiêm trọng, do đó, từ chối nhận ông vào vị trí giảng viên. Simone Weil nhận thấy nhiều ngành nghề – từ công nhân nhà máy hay nông dân ngoài đồng – đều làm bà cảm thấy hạnh phúc hơn công việc của một giáo sư đại học. Với sự tự châm biếm rất đặc trưng của mình, Cioran ghi danh học nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học tại Đại học Sorbonne với mục đích duy nhất là để có thể vào căng-tin giá rẻ của trường; ông bỏ dở chương trình học tiến sĩ khi họ không cho phép ông ăn ở đó nữa. Tất cả những kẻ “thất bại” trong học thuật này hóa ra lại trở thành những triết gia độc đáo và sâu sắc bậc nhất. Họ thôi thúc chúng ta nhìn vào thế giới và nhìn vào chính mình bằng con mắt mới; chúng ta không còn là mình như trước đó sau khi tiếp xúc với họ. Nhưng nếu họ có thể cho ra đời một cái gì chân thực, thì đó là vì nó vượt khỏi khuôn của trường đại học, chứ không phải vì nó nằm trong đó.

Chắc chắn không thể phủ nhận đã có một số lượng đáng kể những công trình triết học có chất lượng ra đời từ môi trường đại học. Các học giả, trong nhiều thế kỷ, đã công bố những trước tác triết học quan trọng, và nhiều trào lưu triết học lớn đã được khởi sinh từ thế giới của đại học. Song không hẳn chỉ như thế. Nếu ta nhìn vào số lượng những người tham gia vào lĩnh vực này, thời gian, nguồn lực, cơ hội và tài năng mà họ sử dụng vào công việc thì kết quả là đáng thất vọng. Chẳng hạn, Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ có tới hơn 9000 thành viên tham gia, quy mô xấp xỉ lực lượng quân đội của Ireland. Những người Hy Lạp cổ đại khai sinh ra triết học và gần như thiết lập mọi thứ cần thiết trong lĩnh vực này, với chỉ một nhúm người, còn chưa bằng một trung đội.

 

*

Chúng ta sẽ may mắn nếu như mình thất bại trong tư cách một nhà tư tưởng trên sân khấu xã hội. Những sự thất bại của chúng ta còn nằm ở sâu hơn, nó làm chúng ta mắc kẹt nặng nền hơn. Vì sự thất bại có thể hiện ra ở những khía cạnh riêng tư nhất của triết học, như một con giun, nó len lỏi vào chính phần cốt lõi của tư tưởng.

Mặc dù triết học bắt đầu như một động cơ hoàn toàn riêng tư, một trạng thái say mê tuyệt đối đến mức người ta không thể nào không đắm mình hoàn toàn trong đó, nhưng khi phải xác lập và diễn đạt nó, chúng ta lại thường phải theo một thứ ngôn ngữ không phải của ta. Bất kể những mối bận tâm của chúng ta có riêng tư thế nào, bất kể cách chúng ta hình thành triết lý chân thực thế nào, thì hầu hết các nhà tư tưởng, thậm chí ngay cả một số nhân vật xuất sắc nhất, cũng không thể phát kiến được một thú ngôn ngữ triết học cũng mang tính cá nhân tương đương. Thay vào đó, chúng ta tìm nơi nương náu trong một hay một vài bảng từ vựng triết học đang tồn tại nào đó: học thuyết Plato, Aquinas, Hegel, Marx, Thực chứng logic, Hiện tượng học. Sự cô đơn triệt để của việc làm triết học có lẽ trở thành một sự áp chế quá nặng để chịu đựng, và khi chúng ta mang nó đến một nơi – một bảng từ vựng triết học được chia sẻ – nơi sự cô đơn của ta kết nối với những sự cô đơn của kẻ khác, và nhờ đó, chúng ta thấy dễ dàng sống với nó hơn.

Vấn đề chắc chắn không chỉ bó hẹp trong phạm vi triết học; theo một nghĩa nào đó, mọi lĩnh vực sáng tạo chủ yếu đều phải đối diện với nó, theo cách của riêng mình và trong những điều kiện riêng của mình. Trong công trình The Anxiety of Influence (Sự lo âu về ảnh hưởng, 1973), Harold Bloom đã nói rất hay về gánh nặng của quá khứ mà bất kỳ thi sĩ trẻ nào cũng phải xoay sở khi muốn thể hiện chính mình. Theo ông, một thứ ngôn ngữ thi ca mới phải được phát kiến mỗi khi có một thi sĩ “mạnh” khác xuất hiện và đây là một công việc phức tạp khi ta ý thức được sức ảnh hưởng bao trùm của thứ ngôn ngữ thi ca đã có trước đó. Luôn có một cuộc đấu tranh khốc liệt – một xung đột – diễn ra trong tâm hồn của nhà thơ, giữa một bên là thế giới thi ca của riêng y và một bên là cái thế giới đã có trước y, và y phải đấu tranh với cái thế giới ấy để khiến cho tiếng nói của mình được lắng nghe. Các triết gia được thừa nhận là những kẻ sáng tạo ngôn ngữ vừa ít ỏi, lại vừa xa cách, song ảnh hưởng của họ lại lớn lao, thậm chí còn mạnh mẽ hơn các thi sĩ “mạnh” theo quan điểm của Bloom nữa. Dù họ có “đọc nhầm” hay “diễn giải nhầm” các nhà tư tưởng trước mình (như cách của các nhà thơ, theo quan sát của Bloom) hay tự giải phóng ra khỏi tác phẩm của họ, làm lại mọi thứ từ đầu thì các triết gia-sáng tạo này đều kết thúc bằng việc tự khẳng định theo cách dứt khoát thoát ra khỏi những từ vựng hiện đang tồn tại. Plato, Aristotle, Kant, Hegel, Marx, Husserl – chỉ nhắc đến một vài tên tuổi như vậy – là những triết gia quan trọng không phải chỉ vì giá trị nội tại của tư tưởng mà họ xác lập mà còn vì hệ thống từ vựng triết học riêng mà mỗi người sáng tạo nên. Những vũ trụ khái niệm mà họ sáng tạo còn sống lâu hơn chính bản thân họ và định hình lịch sử triết học theo cả những cách vô hình và hữu hình. Các triết gia ấy đã làm thay đổi cách những người khác nói, nghĩ và sống, trong đó có cả những người chưa từng nghe đến tên của họ. Họ chính là những nhà tư tưởng “mạnh”, không cưỡng lại được.

Một khi có một bảng từ vựng triết học được thiết lập, nó sẽ trở thành nơi thân mật mà những nhà tư tưởng khác có thể trú mình trong đó. Họ không có những ngần ngại khi phải sống trong nhà người khác. Thất bại trong việc tạo nên một bảng từ vựng cá nhân dường như không làm bận tâm nhiều triết gia như trường hợp các nhà thơ; hầu hết các nhà tư tưởng không mang nỗi “lo âu về ảnh hưởng.” Song từ việc Aristotle tách khỏi Plato, Marx tách mình khỏi Hegel, có thể thấy một truyền thống nổi bật ở triết học phương Tây trong việc các triết gia từ bỏ người thầy của mình. Sự gián đoạn, đoạn tuyệt và khủng hoảng là những từ khóa ở đây. Nietzsche, người đã trải qua một cuộc chia tay ầm ĩ (với cả Schopenhauer vf Wagner), thậm chí đã xây dựng cả một lý thuyết nhỏ về những sự chia tay trong triết học. Trong Zarathustra đã nói như thế, ông đã để người thầy nói với những môn đồ của mình:

Giờ ta đi một mình, các môn đồ của ta. Các người nữa, giờ đây, cũng hãy đi một mình. Vì ta muốn thế.

Hãy rời bỏ ta và hãy kháng cự Zarathustra! Và thậm chí tốt hơn nữa, hãy xấu hổ về chính ông ta! Có lẽ ông ta đã lừa các ngươi.

Con người của tri thức không những phải yêu kẻ thù của y mà còn phải có khả năng ghét bỏ chính bè bạn của y.

Người ta sẽ báo đáp ông thầy của mình một cách tệ hại nếu người ta chẳng là gì khác, ngoài một học trò. Và tại sao các người lại không muốn giật phăng đi vòng hoa của ta?

 Bản thân Nietzsche đã là một ví dụ tiêu biểu cho tinh thần đoạn tuyệt dứt khoát với những bậc thầy của mình – thậm chí là sự đoạn tuyệt với bất kỳ ông thầy, trường học hay các trào lưu chủ nghĩa nào. Ông là người sáng tạo ngôn ngữ triết học một cách phi thường; không có gì nặng nề, kỹ thuật, kinh viện, khó nhọc trong thứ ngôn ngữ mà ông dùng. Một thứ chén thánh của phong cách triết học, đó có lẽ dường như là thứ mà Nietzsche gặp được tình cờ: ông đã hình thành được một nghệ thuật biểu đạt những luận điểm triết học khó nhất bằng một thứ ngôn ngữ cá nhân tinh tế nhất có thể – đó là thứ ngôn ngữ mà người ta không những không thể bắt chước ông mà còn mãi mãi lảng tránh. Là một trong những triết gia hiện đại sâu sắc bậc nhất nhưng ông lại là kẻ không thể nói “như một triết gia.”

Sử dụng một bảng từ vựng triết học đã có không nhất thiết làm giảm đi chiều sâu của một nhà tư tưởng; một vài bộ óc sáng suốt nhất vẫn sử dụng khung khái niệm và bảng từ vựng triết học của người khác và vẫn tạo nên những tác phẩm sáng tạo, có sức sống lâu bền. Có những người theo tư tưởng Aquinas mà không phải là thánh Aquinas, theo Hegel mà chưa từng gặp Hegel và có những người Marxist còn có ảnh hưởng lâu hơn cả Marx. Một thứ chủ nghĩa có thể lại trở thành một mảnh đất mỡ màu cho các ý tưởng, một địa điểm cho những tư tưởng nghiêm túc, thậm chí cho cả sự cách tân. Điều đó cũng tốt. Những hệ quả thực sự của sự thất bại này xuất hiện ở đâu đó khác và chúng có thể khó chịu một cách khác thường.

Khi ta dò cán cân đo mức độ sáng tạo theo chiều giảm dần – từ những người sáng tạo từ vựng đến cực bên kia, đó là gì đi nữa – thì đến một điểm nào đó, ta sẽ đến một ngưỡng mà khi vượt qua nó, ta sẽ bước sang một thế giới phong cách khác. Các văn bản khi đó dường như không phải do những tác giả bằng xương bằng thịt viết nữa mà thuần túy mang tính cơ giới; chúng trông rất giống những trò chơi khăm dựa trên nội dung được tạo sinh ngẫu nhiên bởi phần mềm máy tính. Nó trở nên vô cùng khó khăn để phân biệt đâu là những thứ mang tính kỹ thuật và đâu là sự vô nghĩa thuần túy; các biệt ngữ hoàn toàm chiếm chỗ. Mọi thứ ở đây trở thành sự châm biếm chính bản thân nó: những kẻ theo thuyết Aquinas trở thành những nhà kinh viện nực cười; những người theo thuyết Hegel trở thành những kẻ chỉ nói tào lao; những người theo Marx sẽ chỉ cho ra những diễn ngôn tuyên truyền tạp nham và các nhà hậu cấu trúc luận sẽ chỉ xây nên một kho những chuyện tiếu lâm. Chúng ta biết rõ kết quả: chúng ta đều đã thấy, nhiều hơn là những gì ta muốn thấy, những tác phẩm, bài viết cực kỳ khó hiểu mà vì chúng, giới học thuật, không may, đã mang tiếng rất xấu. Và điều này còn diễn ra bên ngoài phạm vi của triết học: ta có thể nó từ lĩnh vực văn học so sánh đến nghiên cứu tôn giáo; không một lĩnh vực nhân văn nào lại an toàn đứng bên ngoài sự thất bại lớn lao này.

Trong suy nghĩ của tôi, chắc chắn những tác giả ấy cực kỳ cần một hình thức “thuộc về” nào đó. Con người, những kẻ trần thế như tất cả chúng ta đây, đều không muốn bị bỏ rơi: không được kết nạp, không được công nhận, không được yêu quý. Chúng ta phải căm ghét sự thất bại và để tránh nó, chúng ta, qua những văn bản mình viết, tìm cách để kết nối với một cộng đồng rộng lớn hơn của những tinh thần giống nhau. Tuy nhiên, những gì chúng ta tạo ra lại xả ra một cảm giác sâu sắc về sự tha hóa trí thức- vừa hết sức khổ sở khi đọc, mà cũng vừa không thể đi theo được. Sự đồng hành mà chúng ta hy vọng tìm thấy qua việc viết ra những thứ như thế hóa ra cuối cùng không thấy đâu: nó chỉ là một ảo ảnh thị giác được tạo nên bởi những biệt ngữ nhấn chìm suy nghĩ của ta. Chúng ta đào tẩu khỏi chính mình, trốn nấp và vùi chôn mình trong tất cả những thứ không thể hiểu nổi ấy. Và đó lại là nơi sự thất bại đón đợi ta. Một lần nữa, chúng ta thất bại chính bởi vì chúng ta sợ thất bại.

 

*

Tuy nhiên, theo một nghĩa nào đó, tất cả những từ vựng này – của những nhà tư tưởng địa chủ và những tá điền của họ, những nhà tư tưởng chân chính lẫn những người học theo họ, những phong cách cá nhân tuyệt vời lẫn những lối viết không thể hiểu nổi – cuối cùng sẽ chỉ là sự biểu đạt cho cái có thể được xem như thất bại lớn nhất của triết học: sự thất bại trong việc giữ im lặng. Đối diện với sự câm lặng của vũ trụ, với sự im lặng vĩ đại ấy, dù nói gì đi nữa, dù có những thứ lớn lao đến đâu, thì cái chúng ta có cũng chỉ là những câu chuyện nhỏ, những lời nói nhỏ. Chẳng có gì chúng ta nói ra khả dĩ tạo nên sự đổi khác. Tất cả nỗ lực của chúng ta – những bài luận của chúng ta – thất bại như một tất định. Một sự im lặng khiêm tốn: có lẽ đó là thành tựu cuối cùng của triết học, thành tựu cao nhất khả dĩ ta đạt đến. Song nếu cứ nhắc đi nhắc lại điều này quá nhiều thì cũng lại là một cách tự đánh bại mình.

 

*

Người ta kể rằng, một ngày nọ, một người Athens giỏi châm biếm nói với Diogienes, không giấu sự coi khinh: “Ông đóng vai triết gia mà không biết bất cứ gì cả.” Nhà triết học theo chủ nghĩa yếm thế đã đáp bằng nụ cười mỉa mai, chúng ta có thể hình dung ra điều ấy: “Nếu tôi chỉ giả vờ là kẻ thông thái đi nữa, thì chính điều đó cũng là dấu hiệu của một kẻ khao khát có sự thông thái.” Vậy thì, chúng ta có thể có một hy vọng nho nhỏ: dẫu những gì chúng ta làm có thể không phải là cái gì “thực”, chỉ là một bản sao thất bại của triết học như Plato, Aristotle hay hay Nietzsche đã hiểu về nó, chúng ta cũng không cần hất đi cả thằng bé cùng với chậu nước tắm. Để đi từ bản sao đến cái chân thực, chúng ta phải xác định lại quan hệ của mình với sự thất bại. Chúng ta cần thuần hóa sự thất bại và đặt nó vào nơi nó thuộc về: ở trung tâm của cái làm nên chúng ta.

Và bởi điều đó mà Diogienes thực sự là một bậc thầy vô giá: chúng ta có thể học từ ông không chỉ cách làm thế nào đánh bại được sự thất bại và sống cùng nó, mà còn làm thế nào để biến nó thành lợi thế, dùng nó để nuôi dưỡng, chăm sóc chính mình. Vì cá đâu có chết chìm. Hiển nhiên là thế.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, “Why We Fail and How?”, https://lareviewofbooks.org/article/why-we-fail-and-how/