Tag Archives: costica bradatan

Costica Bradatan – Little Tramp

(Về bộ phim Modern Times [1936] của Charlie Chaplin)

Vừa đúng ba năm sau khi Chìm nổi giữa Paris và London được xuất bản, lịch sử của nghệ thuật sống bụi đời đã ghi nhận một khoảnh khắc quan trọng khác: bộ phim Modern Times [Thời hiện đại] của Charlie Chaplin. Khác với Orwell, Chaplin không phải học để trở thành một kẻ lang thang vất vưởng; ông đã được sinh ra như thế – trên một chiếc xe lưu động của người di-gan. Ông xuất thân từ tầng lớp cùng đáy của London, nơi mà một người ở tầng lớp trên như Orwell phải rất cố gắng mới len xuống được đó để học bài học về xã hội. Trong khi Orwell được nuôi ăn học ở Eton thì Chaplin buộc phải đi làm. Lên bảy tuổi, ông đã biết lao động kiếm tiền cho gia đình. Ông chưa bao giờ trưởng thành bởi lẽ ông đã luôn già dặn. “Bạn phát hiện được khi đói người ta sẽ thế nào,” Orwell nhận định vậy với phần nào sự ngạc nhiên trong đó khi bắt đầu thí nghiệm sống bụi đời của mình.[1] Chaplin chưa bao giờ cần phải phát hiện điều đó – ông vốn dĩ đã sinh ra trong đói khổ.

Với hoàn cảnh ra đời và tuổi thơ như vậy, Chaplin có lẽ muốn trở thành cái gì cũng được, miễn không phải thân phận bụi đời, thế nhưng cuối cùng ông lại trở thành hình tượng nổi tiếng nhất của loại người đó: Little Tramp, một tên Bụi đời nhỏ con. Trong rất nhiều bộ phim, bắt đầu từ năm 1914, ông đã sử dụng hình tượng kẻ bụi đời này để chọc cười khán giả. Nhưng Thời hiện đại khác với tất cả những hóa thân trước đó, không chỉ bởi bộ phim đạt đến trình độ thẩm mỹ cao mà còn bởi cảm quan sâu sắc về xã hội mà nó biểu đạt. Thành tựu chủ yếu trong sự nghiệp của Chaplin là việc ông gián cách được với nền chính trị hẹp hòi, quân phiệt và giữ mình luôn là chính mình: một nghệ sĩ với khả năng bậc thầy trong việc phơi bày toàn bộ cấu trúc xã hội quanh mình và ông làm vậy không phải chỉ đến khiến người ta cười mà còn thôi thúc người ta phải nghĩ. Nếu Thời hiện đại có tạo được tác động chính trị đáng kể nào, đó không phải là do những quan điểm chính trị của Chaplin, dù chúng là gì đi nữa, mà bởi sức mạnh nghệ thuật và triết học của nó. “Ông trình hiện chứ không đưa ra các giải pháp chính trị,” Graham Greene đã bình luận như vậy khi bộ phim ra mắt.[2]

Chính Mahatma Gandhi là người, dù không chủ ý, đã gợi ý cho Chaplin về bộ phim này. Hai con người ấy đã gặp nhau tại London năm 1931. Trong khi Chaplin biết mọi điều về vị Thánh của Ấn Độ và không thật sự hào hứng để gặp ông mà lại còn căng thẳng, bồn chồn như một cậu học sinh, thì Gandhi dường như chẳng biết Chaplin là ai nữa. Ông chưa từng xem bộ phim nào của Chaplin, hay bất cứ bộ phim nào khác. Dẫu cuộc gặp ngắn ngủi, nó vẫn giúp Chaplin hiểu được quan điểm phê phán của Gandhi về tính hiện đại và công nghệ, điều sẽ làm thay đổi nhãn quan của ông.

Nhân vật Little Tramp bị nuốt trọn và bị khạc ra toàn bộ bởi máy móc như chúng ta có thể thấy ở ngay những cảnh đầu của phim. Từ đó, gã bị đưa đến một bệnh viện để khôi phục lại sự hài hước của mình nhưng cuối cùng lại mất việc. Hình tượng cỗ máy ở cảnh đầu của phim là một trong những thứ đáng nhớ nhất nhưng phần còn lại của câu chuyện cũng không kém ám ảnh. Simone Weil xem bộ phim là tấm gương phản chiếu hình ảnh của xã hội công nghiệp phương Tây trong trạng thái trần trụi của nó. Hầu như không có khung hình tĩnh trong Thời hiện đại; mỗi một khung hình đều nói với chúng ta một cách mạnh mẽ về những điều quan trọng mà thông thường chúng ta muốn phớt lờ hoặc im lặng cho qua nhiều hơn. Cũng như Weil, Chaplin nhiệt tình trong việc đưa ra những quan sát và thôi thúc suy tư về những vấn đề mà xã hội của họ (và của cả chủng ta) cảm thấy không thể đề cập đến.

Dòng phụ đề của phim là một câu mỉa mai chua chát tột cùng của Chaplin: “Đây là một câu chuyện về thời đại công nghiệp, về sự nghiệp cá nhân- cuộc thập tự chinh của nhân loại trong hành trình mưu cầu hạnh phúc.” Chuyện phim chỉ có vậy nhưng bởi được kể từ điểm nhìn của kẻ bị loại trừ, nó trở thành câu chuyện cay đắng về tình trạng thất nghiệp kinh niên, sự xuống cấp của xã hội và nỗi bất hạnh đeo đẳng. Cuộc mưu cầu hạnh phúc mà ta nhìn thấy trên màn ảnh ấy rốt cục là nỗ lực đến cùng của một kẻ cố giữ cho mình còn nổi nênh được giữa đời, thế nhưng quá trình đó cũng không khác gì việc bị chìm dần xuống đáy.

Nghe có vẻ lạ lùng nhưng có một cảm giác rất rõ nét về một sự bình thản bao trùm cả bộ phim, thứ có thể xem như là hình ảnh phản chiếu của “niềm an ủi lớn lao” mà Orwell nhìn ra được ở sự nghèo khốn. “Đó là một cảm giác về sự khuây khỏa, gần như là một khoái cảm, khi cuối cùng biết mình thật sự vào đường cùng,” ông viết. “Bạn rất hay nói về việc lên voi xuống cho – và rồi, đây là chó, bạn đã thật sự xuống chó và bạn có thể chịu được tình thế này. Nó trút bỏ đi rất nhiều âu lo.”[3]

Sự bình thản này, chúng ta sẽ nhận ra, có sự liên quan nào đó với vai trò hết sức đặc biệt của Little Tramp như một nạn nhân bị hiến tế. Ở bất kỳ chỗ nào –  bên băng chuyền sản xuất, trong nhà tù, ngoài quán cà phê, lúc tạm nghỉ chân ở một khu nhà giàu, khi rong ruổi trên phố – Little Tramp, như là chân dung xã hội về kẻ thất bại, cũng luôn thực hiện cùng một chức năng: gã là hiện thân cho nỗi sợ hãi và niềm âu lo kinh khủng nhất của xã hội. Không còn gì bất an hơn đối với một xã hội nghiện công việc và mải miết truy cầu sự giàu có hơn là cảnh đời uể oải, phất phơ. Những kẻ phất phơ, như Tom Lutz viết, “thể hiện những huyễn tưởng mà chúng ta thích thú nhất và những sợ hãi thẳm sâu nhất.”[4] Thất nghiệp, vô gia cư, chết đói, quẫn trí, phạm tội, rời rã, thất bại – Little Tramp được xem như đã trừ tà tất cả những thứ đó.

Mượn thuật ngữ của Jung, ta có thể nói Little Tramp là cái bóng của xã hội. Nhân vật của Chaplin là hiện thân của tất cả những gì chúng ta muốn gạt khỏi đời mình, những gì khiến chúng ta thấy bản thân hổ nhục và đáng khinh, chúng ta không muốn chấp nhận chúng như là thứ thuộc về ta. Và bởi có quá nhiều thứ mà một xã hội bị ám ảnh bởi sự sang giàu không muốn thừa nhận về nó, thế nên Little Tramp dường như phải lãnh một nghĩa vụ. Gã có thể không nghề không nghiệp nhưng hóa ra gã phải gánh vác thứ công việc nặng nhọc hơn tất cả: ngăn các thành viên khác của xã hội khỏi sự mất phương hướng. Không có gì ngạc nhiên khi được thông báo về việc mình được ra tù sớm, gã lại thấy thà tiếp tục ngồi tù còn hơn: “Tôi không thể ở lại đây lâu hơn chút nữa ư?”gã hỏi. “Tôi rất hạnh phúc khi ở đây.”

Dù làm việc gì đi nữa, Little Tramp đều thể hiện bản thân như một con người đứng đắn – biết chăm sóc, giàu tình cảm, lịch thiệp, nhiều tài, nhiều năng lượng và trí tưởng tượng. Gã là tất cả những gì mà xã hội của gã muốn có nhưng chẳng bao giờ đủ khả năng để có. Quả thực, gã bụi đời này không tương thích với sự phân định thành công-thất bại không phải chỉ bởi ở con người hắn toát lên vẻ lịch lãm mà bởi về bản chất, gã đâu có chỗ trong xã hội này: ở gã có quá nhiều chất nghệ sĩ, điều xung đột với những gì mà xã hội muốn từ chúng ta. Gã không đủ phẩm chất của một kẻ tuân thủ, những cử động của cơ thể gã lại không hoàn toàn bị máy móc hóa – và tệ hơn cả -gã vẫn giữ lại được ở mức độ nào đó sự tự do nội tại trong một thế giới mà một thứ như thể chỉ gây bất lợi về kinh tế. Có đủ lý do để xã hội khạc gã ra khỏi nó, dẫu rằng khi đó, nó đánh mất luôn tâm hồn của mình.

Khi bắt đầu kế hoạch sống bụi đời, George Orwell không chỉ muốn tìm kiếm cảm hứng văn chương mà còn cả một hình thức cứu chuộc về xã hội. Ông biết những gì mình làm là chưa có tiền lệ nhưng ông vẫn phải thực hiện. Sự phức tạp, như ông nhận thấy, nằm ở chỗ “những người thông minh, có học, chính những người thường được kỳ vọng sẽ có những quan điểm khai phóng, lại chưa bao giờ hòa lẫn vào những người nghèo.”[5] Như là những công dân tốt, có đầu óc cởi mở, chúng ta có thể bận tâm về sự bần cùng, thậm chí còn cố gắng tìm kiếm giải pháp – tất cả đều với một niềm tin tốt đẹp. Song chúng ta sẽ làm việc này từ ví trí an toàn của kẻ đứng ở cao hơn. Những nguyên tắc cao cả của chúng ta, thứ văn hóa đẳng cấp mà chúng ta thuộc về, và sự vi tế về trí thức thường sẽ đóng vai trò như một bức màn phòng vệ ngăn cách chúng ta với thế giới của sự bần cùng đó: chúng  ta sẽ giải quyết “vấn đề đói nghèo” hay “cuộc khủng hoảng của tình trạng vô gia cư”, chứ không bao giờ với những con người bẩn thỉu, hôi hám hay những kẻ không nhà không cửa bằng xương bằng thịt. Đấy là cách chúng ta, vừa sang cả, vừa đớn hèn, lau sạch tay mình và bỏ lại những gã bụi đời nhỏ bé của thế giới này trong sự bẩn thỉu, nghèo khốn, ăn sương nằm gió. Và với cách ấy, Little Tramp đã được khắc họa không phải như một nạn nhân ngẫu nhiên mà là một nạn nhân bị hiến tế vĩnh viễn.

Tất cả điều này làm cho bộ phim của Chaplin trở thành một vở hài kịch buồn thảm nhất trong lịch sử điện ảnh Mỹ. “Thế thì cố gắng để làm gì?” người phụ nữ đồng hành cùng gã bụi đời này đã hỏi khi thấy tất cả lao lực của họ để trồi lên trên biển đời này cuối cùng đều thất bại. Câu trả lời rất rõ ràng, dù không được nói ra: Chẳng để làm gì. Dù gắng gỏi đến đâu đi nữa, họ cũng chỉ nhận về kết cục ê chề. Đây mới là kết luận hợp lý rút ra được từ câu chuyện – là câu văn mà bộ phim nên được dùng để kết phim.

Nhưng trong mấy giây cuối cùng ấy, khi để nhân vật của mình biến cái kết luận hiển nhiên này thành một cái kết có hậu một cách lạ thường, Chaplin đã không đương đầu được với áp lực của những kỳ vọng của xã hội mà ông sống trong đó. Không như Little Tramp.


Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, In Praise of Failure, Harvard University Press, 2023, trang 156-160.


Costica Bradatan – Trong tay của kẻ làm mọi thứ đảo điên (Về Simone Weil [1909-1943])

…Đời sống, tuy nhiên, luôn có thói quen là làm lắng mọi thứ xuống, đưa chúng vào các khuôn thức. Thậm chí đến cả những hành động bộc phát và sáng tạo nhất của chúng ta cuối cùng cũng có thể biến thành thói thường. Những dòng nham thạch nóng nhất, lỏng nhất rồi cũng thành đá. Điều ấy vừa không tránh được mà cũng vừa tốt nữa. Chúng ta sẽ chẳng đi được đến đâu nếu như không hình thành các thói quen, các thường lệ, những thứ giúp chúng ta định hướng những cố gắng của mình tốt hơn, khiến sự nếm trải thế giới của chúng ta bớt khó khăn hơn một chút. Song nếu có quá nhiều thói quen trong đời sống của chúng ta và có quá ít những thứ khuấy đảo chúng ta, rốt cục chúng ta rồi sẽ chết ở bên trong. Và cái chết ngay khi còn sống là hình thức chết tồi tệ nhất vì nó có khía cạnh quái đản: đó là tình trạng không phải sống mà cũng chưa phải chết. Một đời sống hiện sinh được dẫn dắt và biến thành thói quen quá nhiều không những khốn cùng mà còn cực kỳ tồi tệ. Bạn không sống một đời sống như thế, bạn để nó dẫn dắt, đến chỗ không đâu.

Đó là lý do tại sao chúng ta lại rất cần có một người như Simone Weil. Người ấy không dạy chúng ta nhiều về cách thoát khỏi đời sống (sự biến mất của Weil là một hành động độc đáo, chỉ riêng bà làm được), nhưng lại dạy chúng ta cách làm thế nào để sống tốt – trên phương diện tinh thần: nghĩa là, người ấy chỉ ta cách làm thế nào để phá vỡ các khuôn thức chết cứng mà cuộc sống này không ngừng muốn ràng buộc ta vào. Chúng ta cần Weil để cho ta biết cách giữ sự mẫn tiệp của tâm hồn bằng việc hướng đến một đời sống nhiều thách thức hơn là một đời sống dễ chịu- bằng việc dám liều lĩnh, dám thực hiện những bước nhảy trong niềm tin, dám dấn những bước đi mạo hiểm hơn là đặt mình yên vị trong những thói quen đem đến nhiều thoải mái. Bà nghiệt ngã với chính bà, và chúng ta cũng nên ứng xử với bản thân như thế nếu muốn có những bước tiến về tinh thần. Một sự nghiệt ngã như thế không là gì khác hơn một hình thức bậc cao của sự tử tế.

Weil chính là kẻ vĩ đại làm mọi thứ đảo điên theo truyền thống của Augustine, Pascal, Kierkegaard, Nietzsche và Cioran. Câu chuyện của bà minh họa cho một triết lý cổ xưa mà chúng ta dường như đã lãng quên:  để cứu rỗi đời mình, chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng, trong bất kỳ khoảnh khắc nào, từ giã nó. Đối mặt với vực thẳm, nhìn thẳng vào nó và xử sự như thể đây là thứ tự nhiên nhất trong thế giới này. Chính xác là trong những thời khắc như thế, trong tâm thế sẵn sàng như thế và nhờ vào sự khiêm hạ hoàn toàn mà nó khơi dậy, bạn đang ở đỉnh cao nhất của sự sống…

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, In Praise of Failure – Four Lessons in Humility, Harvard University Press, 2023, trang 54-5.

Costica Bradatan – Cách để bơi ngược dòng. Về Diogenes

Diogène
Họa sỹ Junes Bastein-Lepage (1848-1884)
Sơn dầu trên vải (1873) (lưu giữ tại Musée Marmottan Monet, Paris)

Một lần, Diogenes[1], nhà tư tưởng theo chủ nghĩa yếm thế[2], đến nhà hát lúc một vở diễn đã hạ màn, thậm chí mọi người khác còn đang ra về. Khi có người, bởi khó hiểu vì hành động này, hỏi ông tại sao làm vậy, Diogenes đã đáp: “Đây là việc mà cả đời tôi đã làm.” (Câu chuyện này là một trong số nhiều giai thoại mà Diogenes, nhà Khuyển nho, đóng vai chính, được kể lại bởi Laertius[3] trong tác phẩm Cuộc đời của các triết gia lỗi lạc.)

Như mọi “giai thoại” (trong tiếng Hy Lạp cổ là chreia) về các triết gia yếm thế, có nhiều lớp nghĩa dồn nén trong đó.

Trước hết, đó là quan điểm về việc làm triết học như một màn trình diễn sống mà Diogenes là đại diện tiêu biểu, bên cạnh một số ít các nhà tư tưởng cổ đại và hiện đại. Theo quan điểm này, triết học không phải là một công việc lý thuyết thuần túy, một công việc suy tư và biểu hiện ra bằng những biệt ngữ khó hiểu, mà đúng hơn là một cách nhập vai hay tồn tại.

Khi muốn chứng minh một luận điểm triết học nào đó, Diogenes không chỉ sử dụng lời nói mà cả toàn bộ cơ thể của ông, sự hiện diện cảm tính của ông trong thế giới này. Để đưa ra một luận điểm, bạn cần phải thực hiện một bước đi- đôi khi theo nghĩa đen của từ này.

Một câu chuyện khác kể lại, khi có một triết gia cố gắng chứng minh trước một công chúng dễ bị đánh lừa, rằng “chuyển động không hề tồn tại,” Diogenes không nói không rằng mà “đứng lên và đi quanh” – đấy là phản đề tốt nhất có thể có được trình bày theo cách tiết kiệm nhất.

Rồi một dịp khác, ông ngang nhiên xin bố thí từ một pho tượng. Khi được hỏi tại sao làm vậy, ông đáp: “Để thực hành việc bị bác bỏ.” Khi đồng loại của chúng ta lạnh lẽo như những pho tượng ở Athens vào mùa đông, bạn có thể cho họ biết điều gì đó về lòng hảo tâm bằng cách giả vờ mong đợi nhận được nó từ đá.

Một phần quan trọng trong sự trình diễn của Diogenes chính là việc vứt bỏ nỗi ngượng ngùng một cách có tính toán. Ông làm những việc mà phần lớn người ta phải tìm mọi cách để giữ riêng tư ngay giữa nơi công cộng, một cách hân hoan, gây hiệu quả mạnh về phương diện tu từ, chẳng hạn như: khạc nhổ, gãi, đại tiện, tiểu tiện, thủ dâm. Không phải Diogenes là kẻ mắc chứng phô dâm nhưng hẳn là ông đã thấy đó là một chiến lược hiệu quả để nhạo báng những tập tục, quy ước của xã hội và phô bày tính chất phản tự nhiên của chúng (một nguyên lý trung tâm của triết học Yếm thế luận).

Tại một bữa tối mà Diogenes tham dự, “một vài vị khách đã quẳng vào chỗ ông mấy khúc xương, như cách người ta cho chó ăn.” Các quý ngài lịch lãm hẳn đã có dịp hả hê khi làm bẽ mặt nhà Khuyển nho. Tối ấy, khi đã muộn, “theo cách của một con chó,” chuyện kể lại, vị triết gia này “đã đái vào đám khách khứa lúc ông ta ra về.” Hãy cẩn trọng với những ẩn dụ mà bạn sử dụng vì chúng có thể ám quẻ bạn.

Việc chúng ta còn bàn về ý nghĩa của những hành động gây scandal của ông sau 23 thế kỷ cho thấy Diogenes có nhiều điều nghiêm túc đáng để suy nghĩ hơn là chỉ đơn thuần có mục đích gây sốc. Động cơ của Diogenes ban đầu có thể là tạo ra scandal, nhưng hóa ra nó lại dẫn đến những hệ quả sâu xa hơn.

Về phương diện này, Diogenes, dù không cố ý, đáng được coi là người sáng lập nên một trường phái vĩ đại về sự ngu ngốc hiền minh với những tên tuổi lừng lẫy đi theo gồm các ẩn sĩ Cơ đốc giáo, các sheikh trong Sufi giáo, và các thiền sư. Khi một kẻ “khờ ngu thần thánh” người Sufi, Nasreddin Hoja[4], một lần ngồi xoay lưng trên thân lừa, mọi người thắc mắc, lời đáp của ông như thể lặp lại lời của Diogenes: “Không phải tôi đang ngồi xoay lưng trên thân lừa mà con lừa đang nhìn nhầm đường đó mà thôi.”

Bằng cách thực hành triết học một cách đầy nhiệt hứng như vậy, Diogenes đã xác lập vị trí của mình trong dòng mạch mà Pierre Hadot[5] gọi là “triết học như cách sống.” Triết học cổ đại, theo Hadot, không phải là hoạt động tạo lập và truyền bá các văn bản mà đúng hơn là một quá trình chuyển hóa bên trong mà người học triết sẽ nếm trải khi họ cam kết với các ý tưởng.

Khi Hegesias[6] hỏi xin Diogenes một trong số ghi chép của ông, nhà Khuyển nho đã đáp: “Cậu đúng là con lừa, Hegesias! Vì cậu đã không chọn những trái vả được vẽ ra mà đòi trái thật; thế nhưng cậu lại quên đi cách rèn luyện thật sự, thay vào đó, lại đi đòi đọc sách vở này nọ.”

Không còn một văn bản viết nào của Diogenes (giả định là có thứ như vậy), điều dường như lại hợp lý. Quả thực, một Diogenes không để lại sách vở gì đã tỏa ra cùng một thứ hào quang và vẻ đẹp u sầu của những pho tượng cổ đại mất đầu hoặc các chi vốn vẫn luôn hấp dẫn chúng ta. Có gì đó đáng ngờ, nếu không muốn nói rõ ràng là giả dối, nếu ta nhìn một pho tượng cổ được bảo tồn hoàn hảo. Một Diogenes mà sách vở có thể lấp đầy kệ sách cũng có thể đáng ngờ như thế. Chính phần vắng mặt mới là thứ tạo ta cảm giác trọn vẹn ở đây.

Ở một cấp độ sâu hơn, những gì mà ta nhận thấy ở giai thoại Diogenes đi xem kịch chính là hình tượng một triết gia chuyên làm điều trái khoáy. Socrates sinh thời vốn nổi tiếng là người hay phản đối nhưng Diogenes thì có đi xa hơn thế. Không có gì làm ông có nhiều khoái cảm hơn là làm ngược lại tất cả những gì mà mọi người khác đều làm. Không có gì ngạc nhiên khi một lần được hỏi, “Thứ gì là tuyệt vời nhất trên thế giới này,” Diogenes đã trả lời: “Tự do ngôn luận.”

Trong thời đại của chúng ta, một thời đại của chủ nghĩa tuân thủ không có gì phải day dứt và xu hướng bầy đàn trở nên phổ biến, một ý thức dám làm những chuyện ngược đời như thế có thể chính là điều có thể cứu rỗi đời sống của chúng ta – về chính trị, văn hóa, tri thức và tinh thần. Thứ chủ nghĩa ngược đời này cho thấy còn có nhiều cách khác để hành động và sống trong thế giới này. Trong bất cứ xã hội nào, cũng phải có một vài người dám đi ngược dòng chảy của những lời đạo đức giả.

Chúng ta cũng có thể thấy ở vị triết gia Yếm thế luận này hình ảnh của một con người phi quyền lực. Đó là Diogenes, kẻ chịu lưu đày – một con người không quê hương, không có bất cứ quyền lợi và sự bảo vệ nào. Sau một vụ scandal liên quan đến tiền nong mà gia đình ông có lẽ đã dính líu, Diogenes bị trục xuất khỏi xứ Sinope-quê hương của ông và sống cả đời về sau tại Athens và Corinth. Ông luôn ứng xứ cứ như thể ông chẳng muốn bận tâm gì nữa. Khi có người nhắc ông về vụ scandal đó, ông bảo: “Nhưng nhờ vậy, anh bạn khờ khạo ạ, tôi mới trở thành triết gia!”

Khi người ta hỏi ông từ đâu đến, ông đáp lại hãnh diện: “Cosmopolites” (“Tôi là công dân của thế giới này”). Ông ta đã tạo ra từ ấy bằng cách trả lời như vậy.

Tuy nhiên, một câu chuyện khác kể với chúng ta nhiều hơn. Bất kể bao nhiêu chuyện oái oăm nực cười của ông, Laertius viết, người dân Athen vẫn dành một sự ngưỡng mộ đối với vị triết gia chuyên làm những điều trái khoáy ngụ cư tại thành bang của mình. Đó là lý do vì sao, “khi một cậu bé đập vỡ chậu rửa của Diogenes, họ đã cho cậu nhóc vài roi và tặng Diogenes chiếc chậu mới.” Không khó để hình dung vị triết gia này đã trở thành đối tượng của sự giễu cợt, tâm điểm của những chuyện đùa ngớ ngẩn, mục tiêu của những kẻ say sưa lúc đêm muộn – và ngay cả những cậu nhóc thành Athens cũng làm trò ác ý vô cớ đối với ông. Ông lúc nào cũng ở trong tình trạng của một kẻ đã sẵn sàng bị hiến tế. Bất chấp tất cả những gây hấn mà ông tạo ra, Diogenes là một kẻ không có gì để hộ thân.

Sự dễ tổn thương của Diogenes cũng là sự dễ tổn thương của bản thân triết học, khi nó được thực hiện một cách đúng đắn. Nó có thể trưng ra một diện mạo bướng bỉnh và hành động như thể chẳng bận tâm đến việc gì cả, nhưng về sâu xa, triết học cũng dễ vỡ như chiếc chậu của Diogenes. Và nếu tình trạng không có gì để hộ thân của Diogenes đã không ngăn ông dấn mình vào những hành động mạo hiểm để giáo dục công chúng thì cấu tạo mong manh của triết học cũng chẳng phải là lý do để nó ngừng châm chích đời sống này.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, “How to Swim against the Stream. On Diogenes, https://lareviewofbooks.org/article/how-to-swim-against-the-stream-on-diogenes/


[1] Diogenes (412 [404] – 323 trước Công nguyên), người được coi là triết gia sáng lập trường phái triết học Yếm thế.

[2] Cynic: Ở Việt Nam, “Cynic” có thể được dịch là nhà tư tưởng theo chủ nghĩa yếm thế (Yếm thế luận) hoặc các nhà khuyển nho. Trong bài dịch này, tôi sử dụng cả hai cách dịch để tạo sự sinh động cho hành văn. Yếm thế luận có thể được hiểu một cách cơ bản là một trường phái trong triết học cổ đại Hy Lạp. Các nhà tư tưởng theo trường phái này (Các nhà Khuyển nho) chủ trương mục đích của đời sống là đức hạnh, hướng tới sự hòa thuận với tự nhiên. Họ cho rằng con người có thể đạt được hành phục bằng hình thức trau dồi bản ngã một cách nghiêm khắc, dũng cảm vứt bỏ các khao khát thông thường của người đời về sự giàu có, quyền lực, danh tiếng, thậm chí công khai chế nhạo các quy phạm xã hội ấy. Đời sống mà họ hướng đến là một đời sống đơn giản, phi sở hữu.

[3] Laertius (chưa xác định năm sinh, năm mất), người ghi ghép tiểu sử của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại.

[4] Nasreddin Hoja được biết đến như một sáng tạo của văn hóa folklore Hồi giáo từ vùng Balkan đến Trung Hoa, người nổi tiếng với những mẩu chuyện khôi hài, châm biếm. Mặc dù vậy, vẫn có ý kiến cho rằng ông là một nhân vật có thật trong lịch sử, sinh năm 1208, mất năm 1285, hiện còn di tích bia mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ.

[5] Pierre Hadot (1922-2010), triết gia người Pháp, chuyên gia về triết học cổ đại.

[6] Hegesias (không rõ năm sinh, năm mất), tương truyền là một học trò của Diogenes.

Costica Bradatan – Lời nói đầu “Ngợi ca sự thất bại: Bốn bài học về đức khiêm hạ” (Harvard University Press, 2023)

Phần trích dịch dưới đây là lời nói đầu của Costica Bradatan trong cuốn sách mới nhất của ông In Praise of Failure: Four Lessons in Humility do Harvard University Press xuất bản năm 2023. Tương tự như Dying for Ideas, Bradatan tiếp tục đưa người đọc của ông trực diện với những khủng hoảng hiện sinh của sự làm người, kể lại cách mà các triết gia giúp ta hiểu ý nghĩa của những khủng hoảng này như thế nào. Nhưng như một người kể chuyện giỏi, cuốn sách hứa hẹn những kiến giải bất ngờ về chủ đề thất bại bằng một lối hành văn giàu tính thẩm mỹ.

Tôi rất mong năm nay có thể đi tới cùng dự án dịch thuật này. Bài dịch này cũng là một cố gắng để quay trở lại công việc dịch thuật, chống lại cảm giác chai mòn chữ nghĩa đã làm tê liệt sự viết lách của tôi trong mấy tháng trở lại đây.

*

Hãy hình dung bạn đang trên một chuyến bay, ở một độ cao lớn. Một trong các động cơ của máy bay bốc cháy, những bộ phận khác tình hình cũng không khả quan, và phi công buộc phải hạ cánh khẩn cấp. Rơi vào một tình huống như vậy chắc chắn là bất an cực độ nhưng đó cũng là khoảnh khắc khải thị. Đầu tiên, giữa tiếng la hét ở xung quanh và khi phải nghiến chặt răng lại, bạn không thể nghĩ được cái gì bình tĩnh, khách quan cả. Bạn phải chấp nhận nó, bạn đang bị tê liệt bởi nỗi sợ chết, giống như mọi người khác. Cuối cùng, máy bay hạ cánh an toàn, không ai bị hề hấn gì. Khi có thể định thần, bạn có thể nghĩ lại một chút rõ ràng hơn về sự cố vừa xảy ra. Và bạn bắt đầu nghiệm thấy được điều gì từ đó.

Chẳng hạn, bạn nghiệm thấy sự hiện sinh của con người là cái gì đó xảy ra, rất ngắn ngủi, giữa hai trực quan về hư vô. Hư vô thứ nhất – dày đặc, không thể thẩm thấu. Rồi có một sự rung lên. Rồi sau đó lại là hư vô, vô tận. “Một chớp sáng lóe lên chốc lát giữa hai vĩnh cửu của bóng tối,” mượn lời của Vladimir Nabokov. Đây là những thực tế tàn nhẫn của thân phận con người – thứ còn lại chỉ là sự thêm thắt. Dẫu ta có lựa chọn việc tái định khung hay kể lại các dữ kiện thì khi chúng ta nghĩ cái gì có trước mình và cái gì tiếp theo mình, chúng ta sẽ nhận ra mình không có nhiều thứ để nói. Chúng ta kề cận với hư vô – đấy là thực tế. Và phần lớn những gì chúng ta làm trong đời, dù ý thức được hay không, là nỗ lực để giải quyết cảm giác buồn nôn khi nhận thức được tình trạng kề- cận -với- hư- vô này. Huyền thoại, tôn giáo, tâm linh, triết học, khoa học, tác phẩm văn chương nghệ thuật – tất thảy đều tìm cách để chúng ta kham được dù chỉ một chút thực tại khó chịu đựng nổi này.

Một cách để né tránh là phủ nhận hoàn toàn tình trạng nan giải này. Đó là cách nhắm mắt lại để lạc quan. Hoàn cảnh của chúng ta, theo như hướng suy nghĩ này, rốt cục không đến nỗi bấp bênh như thế. Trong một số tự sự huyền thoại, chúng ta đã sống ở đâu đó trước khi mình được sinh ra ở đây, và rồi chúng ta sẽ được đầu thai sau khi chết. Một vài tôn giáo đi xa hơn nữa, hứa hẹn với chúng ta về đời sống vĩnh hằng. Hiển nhiên, đó là công việc kinh doanh tốt bởi bên cầu chưa bao giờ thiếu bên cung. Gần đây hơn, cái được gọi là chủ nghĩa xuyên nhân loại (transhumanism) cũng đã gia nhập thị trường đông đảo này. Các tu sĩ của giáo phái mới này đã thề thốt, rằng với các thiết bị điện tử thích hợp và sự điều chỉnh công nghệ (cùng với tài khoản ngân hàng dư dả), đời sống con người có thể được kéo dài vô tận. Những dự án khác về sự bất tử cũng có vẻ như đang làm điều tương tự, vì các vấn đề liên quan đến sự hữu tử của chúng ta khó mà giải quyết được.

Tuy nhiên, cho dù có bao nhiêu người trong chúng ta bị thu hút bởi những hứa hẹn của tôn giáo về đời sống vĩnh hằng, lúc nào cũng vẫn còn một vài người không cảm thấy bị thuyết phục. Về phía những người theo thuyết xuyên nhân loại, họ có thể biết được tương lai nhưng họ hầu như lại vô tri về quá khứ: những sản phẩm “cải thiện con người”, dưới những cái nhãn khác nhau, đã tồn tại trên thị trường ít nhất kể từ cái chết của Enkidu trong sử thi Gilgamesh. So với những gì mà các nhà giả kim thời trung cổ đem đến, các mặt hàng của những tư tưởng gia theo thuyết xuyên nhân loại có lẽ còn khá nhạt nhẽo. Dẫu vậy, những nỗ lực kéo dài đời sống cả ngàn năm cũng không khiến cái chết trở nên mất việc. Ngày nay, ta có thể sống lâu hơn nhưng cuối cùng ta vẫn cứ phải chết.

Một cách khác để đối phó với tình trạng kề-cận-hư-vô của chúng ta là trực diện nó, theo cách đấu bò, không có đường thoát, không có lưới an toàn, không có bất cứ một sự bao bọc nào. Bạn chỉ còn cách buộc phải tiến lên, mắt mở to ra, lúc nào cũng phải nhận thức rất rõ cái gì ở đó: không gì cả. Hãy nhớ những sự thật trần trụi về hoàn cảnh của chúng ta: không có gì trước mặt và không có gì sau lưng. Nếu bạn có vẻ quá ám ảnh về tình trạng kề-cận-hư-vô của mình và không bị thuyết phục bởi những lời hứa hẹn của tôn giáo về đời sống vĩnh hằng hay đủ điều kiện để chi trả cho việc kéo dài tuổi đời bằng công nghệ sinh học, thì đây chính là cách dành cho bạn. Chắc chắn, đấu bò là việc không hề dễ dàng, cũng chẳng nhẹ nhàng – đặc biệt là về phía con bò.  Bởi rốt cục, đấy mới là chúng ta: con bò đợi đến lúc bị làm cho kiệt sức, chứ không phải hiệp sĩ đấu bò, kẻ nghiền nát đối thủ và đi tiếp con đường của mình.

“Con người được huấn luyện đến nỗi,” triết gia Simone Weil từng viết, “kẻ nghiền nát không cảm thấy gì hết mà chính kẻ bị nghiền nát mới thực sự cảm nhận được chuyện gì đang diễn ra.” Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ chẳng có hình thức nào của tri thức nhân loại cao hơn thứ tri thức cho phép chúng ta hiểu chuyện gì đang diễn ra – nhìn thấy mọi thứ như chúng là, đối lập với cách chúng ta muốn chúng là. Bên cạnh đó, một chủ nghĩa bi quan không khoan nhượng là một triết lý vô cùng khả thi. Với lời răn đầu tiên của kẻ bi quan (“Hễ khi nào nghi hoặc, hãy giả định về điều tồi tệ nhất!”), ta sẽ không bao giờ quá ngỡ ngàng. Bất cứ chuyện gì xảy ra trên đường, dù tệ hại đến đâu, sẽ không làm ta mất cân bằng. Vì lý do này, những người tiếp cận tình trạng kề-cận-hư-vô của mình với con mắt mở sẽ biết cách sống một cách điềm tĩnh, bình thản và hiếm khi than phiền. Điều tồi tệ nhất có thể trút xuống họ chính là thứ mà họ đã hình dung từ trước.

Trên hết, cách tiếp cận bằng con mắt mở cho phép chúng ta tự tháo gỡ bản thân trong ý thức về lòng tự trọng khỏi những mối ràng buộc của đời sống hiện sinh. Đời sống là một căn bệnh mãn tính, gây nghiện và chúng ta thì khẩn thiết muốn có một phương thức chữa trị.

Phương thức trị liệu bằng sự thất bại mà tôi trình bày trong cuốn sách này có thể gây nhạc nhiên. Sau quá nhiều tôn thờ đối với sự thành công, sự thất bại trở thành một giá trị đáng vứt bỏ. Không còn gì tồi tệ hơn ở đời này bằng sự thất bại – ốm đau, xui xẻo, kể cả sự ngu độn bẩm sinh cũng không thể so sánh được với nó. Nhưng sự thất bại xứng đáng được trân trọng hơn. Trên thực tế, có nhiều điều để ta có thể dành sự ngợi ca cho nó. 

Sự thất bại cần thiết đối với chúng ta, trong tư cách con người. Cách chúng ta hiểu về thất bại xác định nên chúng ta, trong khi thành công chỉ mang tính chất bổ trợ, phù du, và không phát lộ được gì nhiều. Chúng ta có thể sống mà không thành công, nhưng chúng ta sẽ không biết sống để làm gì nếu không biết chấp nhận sự bất toàn, sự bấp bênh, sự hữu tử của mình, mà tất cả những điều này đều là linh hiện của thất bại.

Khi nó xảy ra, thất bại tạo một khoảng cách giữa chúng ta và thế giới, giữa bản ngã chúng ta với người khác. Khoảng cách này cho ta một cảm giác rất rõ rệt rằng mình không vừa khớp, mình bị lệch pha với thế giới và người khác, và có một cái gì đó không ổn ở đây. Tất cả điều này khiến ta phải nghiêm túc chất vấn vị trí của ta trong đời sống này. Và đó có thể là điều tốt nhất xảy ra đối với chúng ta: sự tỉnh thức mang ý nghĩa hiện sinh này chính xác là những gì ta cần nếu ta muốn hiện thực hóa chính mình. Không có cách chữa lành nào sẽ đến trừ khi bắt đầu bằng sự thức tỉnh này.

Nếu bạn trải nghiệm sự thất bại và bị xâm chiếm bởi những cảm xúc như thấy mình bất toàn, không -thuộc- về -đâu, thì đừng kháng cự chúng- mà hãy đi theo chúng. Chúng sẽ nói với bạn rằng bạn đang đi đúng đường đấy. Chúng ta có thể ở trong thế giới này nhưng không thuộc về thế giới này. Hiểu biết này là khởi điểm của tỉnh thức và nó đặt sự thất bại vào trọng tâm của một cuộc truy cầu tinh thần quan trọng, dù có thể vị trí này của sự thất bại cũng khiêm nhường thôi.

Vậy thất bại có thể cứu rỗi đời ta không? Bạn có thể chất vấn. Phải, nó có thể. Miễn là bạn sử dụng nó một cách khéo léo. Làm thế nào mà thất bại lại trở thành thứ có công dụng tốt – đấy là câu chuyện mà cuốn sách này muốn kể. Như bạn sẽ nhận thấy khi đi hết cuốn sách, hoàn toàn không phải là một thảm họa mà những kẻ căm ghét nó hay mô tả, thất bại là thứ có thể rất hiệu nghiệm cho việc con người hiện thực hóa bản ngã, chữa hàng và khai sáng. Dù rằng nó sẽ không dễ chịu bởi thất bại vốn dĩ là câu chuyện phức tạp.

Thất bại giống như tội lỗi nguyên thủy trong Kinh Thánh: ai cũng có nó. Bất kể giai cấp, tầng lớp, chủng tộc, phái tính, chúng ta đều sinh ra để thất bại, Chúng ta còn thất bại chừng nào còn sống và chúng ta trao truyền nó lại cho người khác. Giống như tội lỗi, việc thừa nhận sự thất bại có thể khiến người ta có cảm thấy ô nhục, hổ thẹn và lúng túng. Và tôi đã nói đến sự “xấu xí” chưa nhỉ? Thất bại cũng xấu xí nữa – xấu xí như tội lỗi, người ta vẫn nói vậy. Thất bại có thể tàn bạo, buồn nôn và mang tính hủy hoại như bản thân đời sống.

Tuy nhiên, với tất cả tính phổ quát của nó, thất bại nhìn chung lại chẳng được nghiên cứu, nó bị quên lãng hoặc bị coi thường. Tệ hơn: nó hóa thành một thứ thời thượng bởi các bậc thầy self-help, các phù thủ trong lĩnh vực marketing, các CEO nghỉ hưu quá dư thừa thời gian. Tất cả bọn họ đều chế nhạo sự thất bại, mà không có bất cứ sự châm biếm nào, bằng cách đóng nhãn lại cho nó và bán nó như là một bước đệm để đi đến thành công vậy.

Những kẻ bán dạo thất bại-như-là-thành công này đã tìm cách, trong nhiều việc khác mà họ đã làm, để làm xơ xác câu nói u ám nhưng sâu sắc, mình triết của Samuel Beckett – bạn có lẽ biết ông. Thứ mà họ luôn không nhắc đến là, ngay ở câu kế tiếp, sau cụm từ mà họ hay trích lại đến phát ngán, Beckett đã nói về một thứ còn tốt hơn cả “thất bại tốt hơn” (“failing better”) – thất bại tệ hơn (failing worse): “Hãy thứ lại lần nữa. Thất bại lần nữa. Thất bại tốt hơn. Hay thất bại thế hơn. Thất bại tệ hơn lần nữa. Rồi vẫn tệ hơn nữa. Đến khi phát bệnh mãi mãi. Buồn nôn mãi mãi.”

Không phải vô cớ mà Beckett lại làm với Cioran. Một lần, ông đã viết cho bạn mình: “Giữa những đổ nát của anh, tôi cảm thấy mình như thể ở nhà” (“Dans vos ruines je me sens à l’aise”). “Phát bệnh mãi mãi”, “buồn nôn mãi mãi” – khó tìm được cách diễn đạt nào tốt hơn miêu tả tình thế hiện sinh gian nan của chúng ta. Với Beckett, chính thất bại đã đến đến sự hiện thực hóa bản ngã, sự chữa lành căn bệnh bản thể gắn liền tình trạng kề-cận-hư-vô của chúng ta. Theo ý nghĩa ấy, Ngợi ca sự thất bại mà một cuốn sách mang tinh thần của Beckett.

Và bạn cũng có thể đặt câu hỏi, làm thế nào để chúng ta phân biệt thất bại đích thực và thất bại giả tạo, thứ mà các bậc thầy self-help vẫn rao bán? Đơn giản thôi: thất bại luôn khiêm nhường. Nếu không vậy, nó không phải là thất bại đích thực, nó chỉ là “bước đệm để đi đến thành công” – một sự tự lừa dối trong một tên gọi khác.

Ngợi ca sự thất bại không nói về sự thất bại vì chính nó, nó nói về sự khiêm hạ mà thất bại sinh ra, quá trình chữa lành mà nó khởi sự. Chỉ sự khiêm hạ, “một thái độ vô ngã đối với hiện thực,” như Iris Murdoch định nghĩa, mới cho phép chúng ta nắm bắt cái gì đang diễn ra. Khi đạt đến sự khiêm hạ ấy, chúng ta sẽ biết mình đang trên hành trình phục hồi, vì chúng ta bắt đầu gỡ mình khởi những ràng rịt của cuộc hiện sinh.

Thế nên, nếu bạn theo đuổi sự thành công mà không biết đến sự khiêm hạ, bạn hoàn toàn có thể làm ngơ trước cuốn sách này. Nó không giúp gì cho bạn – nó chỉ có thể dẫn bạn đi chệch đường.

Vì thất bại vốn vô biên và những biểu hiện của nó cũng vậy, nên miêu tả nó chi tiết không khác gì việc cậu bé trong giai thoại mà thánh Augustine kể: dùng vỏ sò múc nước từ biển để đổ vào cái hố nhỏ mà cậu đào trên bãi biển. Cố gắng ấy rõ ràng là vô vọng nhưng đó không phải là điều đáng bàn: vẻ đẹp điên rồ của cố gắng ấy mới là cái chúng ta theo đuổi.

“Dẫu điều này điên rồ, nhưng ta có thể nhìn thấy được phương pháp ở đó”, đó là nhận xét của Hamlet, một hình tượng đại diện cho sự thất bại mang tính bi kịch nhất trong văn chương nhân loại. Vì thất bại bao quanh, vây bủa chúng ta, sẽ không phải vô lý khi hình dung nó đến như những vòng tròn: những vòng tròn đồng tâm với ta, dần dần co thắt lại, dồn ép ta ngay tại trung tâm – y như trong tâm bão vậy.

Trong nghiên cứu về sự thất bại này, phương pháp của tôi là bắt đầu từ vòng ngoài và lần lượt từng vòng một, tiếp cận hình thức thất bại gần gũi nhất, mật thiết nhất với chúng ta. Tôi bắt đầu từ vòng ngoài cùng, thất bại mang tính vật chất, thứ mà tôi cho rằng xa xôi nhất. Từ “xa xôi” ở đây không mang nét nghĩa chỉ khoảng cách không gian, nó gợi ra những nhức nhối tinh thần nhiều hơn: chúng ta rất khác với các sự vật, dẫu cho chúng ta sống giữa chúng, sử dụng chúng và phụ thuộc vào chúng. Sự thất bại của các sự vật ảnh hưởng đến chúng ta và sự hoàn thiện của chúng cũng vậy, thứ có thể phi nhân hóa chúng ta. Ở vòng này, tôi sẽ xem xét cách mà Simone Weil cảm nhận về tình trạng không thể thích nghi và “không thuộc về” thế giới đã dẫn đến việc bà xây dựng nên một dự án kéo dài cả đời về sự siêu vượt bản ngã và giải vật chất hóa bản ngã. Cuộc đời của Weil là một nghiên cứu về sự khiêm hạ tột cùng: bà thà xóa bỏ sự hiện hữu hơn là xúc phạm Thượng đế bởi chính sự hiện hữu của mình. Cuối cùng, quay lưng lại với thế giới, bà tự gỡ mình ra khỏi những ràng buộc hiện sinh theo cái cách kín đáo nhất mà bà có thể làm. Khi kỵ sĩ đấu bò xuất hiện, anh ta không thể tìm thấy bà: bà đã hoàn toàn tan biến.

Tiếp đó là vòng tròn của sự thất bại về chính trị. Chính trị liên đới đến tất cả chúng ta ở một mức độ nhất định, ngay cả những người lãnh đạm nhất với chính trị trong chúng ta; thật ra, đứng ngoài chính trị tự nó đã là một quyết định mang tính chính trị rồi. Vòng tròn của sự thất bại về chính trị còn gần với chúng ta hơn cả vòng tròn trước đó bởi chính trị không nằm ngoài chúng ta, nó là một phần của chúng ta. Thậm chí những kẻ nổi loạn và vô chính phủ đều có mối liên hệ với một cộng đồng chính trị nào đó và định nghĩa bản thân như là kẻ chống lại nó. Mahatma Gandhi, người ta mà ta làm quen ở vòng này, đã loay hoay mắc kẹt trong bầu không khí chính trị của thời đại mình, cùng lúc ấy, ông chưa bao giờ ngừng tìm kiếm sự thuần khiết. Từ một thôi thúc mãnh liệt hướng đến cái thuần khiết và hoàn thiện (điều đưa ông và thế nguy hiểm tương tự như với Robespierre và những người chủ trương theo đuổi sự thuần khiết về chính trị), Gandhi đôi khi đã thể hiện hành vi bất toàn đáng lo ngại. Thứ cứu chuộc ông, cuối cùng, có thể lại là chiều kích trần thế khác ở nhân cách ông. Khi kỵ sĩ đấu bò xuất hiện, anh ta gặp khó khăn để định vị Gandhi – vị Thánh dường như lúc nào cũng đã thuộc về một lãnh địa khác.

Vòng tròn tiếp theo là sự thất bại về mặt xã hội. Ngay cả khi chúng ta quyết định sống một mình, cách xa bất kỳ sự gắn kết với bất cứ con người nào, xã hội vẫn cứ là thứ day dứt trong ta – nó ám ảnh tâm trí và ngôn ngữ của ta. Chúng ta lúc nào cũng bị ràng buộc về phương diện xã hội và chính trong sự ràng buộc này, chúng ta trải nghiệm một hình thức đặc biệt phổ biến  của sự thất bại. Để trực tiếp đương dầu với thất bại về mặt xã hội, một số người đã quyết định xem nó như một thiên hướng cá nhân. E.M.Cioran, người mà phần lớn chương ba sẽ xoay quanh, đã dành cả đời mình để chủ động không làm gì cả, tạo nên một sự châm biếm toàn diện với những huyền thoại nền tảng của xã hội bị ám ảnh bởi sự giàu có và lấy sự làm việc làm trung tâm của chúng ta. “Bất cứ cái gì tốt đẹp mà chúng ta có thể có đều đến từ sự biếng lười của chúng ta, từ sự mất khả năng hành động, thực thi các dự án và kế hoạch của chúng ta,” ông viết. Cioran quan niệm chính sự không hành động này là phản ứng hữu lý duy nhất đối với một sự tồn tại vô nghĩa. Khải thị về sự vô nghĩa mang tính phổ quát chính là tôn giáo mà triết gia vô thần này dành trọn thời gian và tâm trí để sống với nó. Khi kỵ sĩ đấu bò xuất hiện, Cioran khiến anh ta phải cười lớn vì ngay từ đầu, anh ta đã quên mất lý do vì sao mình lại đến đây. Và dĩ nhiên Cioran cũng vậy,  – nhờ căn bệnh Alzheimer mà ông mắc.

Cuối cùng, vòng tròn gần với ta hơn cả: vòng trong của sự thất bại về mặt sinh học– sự hữu tử của bản thân ta. Dù chúng ta cố chạy xa đến đâu khỏi cái chết, rồi nó tất yếu cũng tóm kịp ta. Tuy vậy, nếu sự hữu tử có được ghi chép vào trong DNA của chúng ta đi nữa, ta vẫn thấy khó sống cùng nó. Nghĩ về cái chết là “nghĩ về cái không thể nghĩ”, Vladimir Jankélévitc đã nói vậy. Có lẽ như một lối thoát, các triết gia cổ đại như Seneca đã bận tâm về cái chết như là một vấn đề liên quan đến thực hành hơn là một vấn đề lý thuyết: họ tin rằng làm chủ nỗi sợ chết sẽ giúp ta có thể sống một đời sống tốt đẹp hơn. Tôi sẽ xem xét ở đây trường hợp lạ lùng của Yukio Mishima, người đã cố gắng thiết kế và thực hiện cái mà ông nghĩ là “một cái chết đẹp,”, người đã tự đặt bản thân một cách chắc chắn vào trong truyền thống về cái chết cao cả trong văn hóa Nhật Bản. Để đánh bại kỵ sĩ đấu bò, Mishima tự biến chính ông thành kỵ sĩ đấu bò.

Ngợi ca sự thất bại sẽ làm việc với một định nghĩa được khai triển dần dần – hay thực chất, được mở rộng – về sự thất bại. Bất kể khái niệm thành công được định nghĩa là gì thì thông thường nó vẫn hàm ẩn nét nghĩa về một “sự nối tiếp” các sự kiện, tình trạng (từ này bắt nguồn từ từ sucedere, trong tiếng Latin, có nghĩa là “theo sau”). Khi một cái gì đó thất bại, sự tiếp diễn sẽ không xảy ra nữa, theo sau đó là một cảm giác về sự trống rỗng. Thất bại là bất cứ điều gì mà chúng ta trải nghiệm như là một sự gián đoạn, khi một cái gì đó không tồn tại, hoạt động hay xảy ra như nó được kỳ vọng. Khi chúng ta trải qua những vòng tròn thất bại của mình – hoặc trực tiếp, như một kinh nghiệm đau thương, hoặc gián tiếp, thông qua tưởng tượng và trầm tư – chúng ta sẽ nhận thức ngày càng nhiều hơn về sự gián đoạn, đổ vỡ và khó chịu này. Và một trạng thái như vậy là xuất phát điểm tốt nhất cho bất kỳ hành trình nào của sự hiện thực hóa bản ngã.

Chúng ta vô cùng cần đến việc tích lũy kinh nghiệm về sự gián đoạn, đổ vỡ và khó chịu này nếu ta muốn đi đến chỗ chấp nhận tình trạng kề-cận-hư-vô của mình. Vì chỉ trong thử thách gắt gao của kinh nghiệm này, chúng ta mới đạt đến sự khiêm hạ – điều trao cho chúng ta cơ hội để có thể chữa được sự kiêu mạn và tư tưởng lấy chính mình làm trung tâm, sự tự ảo tưởng và tự đánh lừa bản thân của chúng ta, sự điều chỉnh vụng về của chúng ta đối với thực tại. Tiến trình đi qua bốn vòng tròn thất bại này không phải là một hành trình bình thường: nó là một hành trình thanh lọc (cathartic). Nếu đọc cuốn sách này, bạn cảm thấy bị hoang mang, điều đó có nghĩa là tôi đã không hoàn toàn thất bại. Vì thất bại là một kinh nghiệm gây hoang mang sâu sắc – hoang mang như bản thân đời sống này.

Trong mọi hành trình, hành trình kiếm tìm bản ngã là hành trình khó khăn nhất, lâu dài nhất mà ta phải thực hiện. Thế nhưng bạn đừng quá lo lắng: coi sự thất bại làm người dẫn lối, bạn có cơ hội, dẫu xa xôi, để đi tới cùng hành trình này. Sau cùng thì, những bác sĩ giỏi nhất vẫn luôn bảo chúng ta rằng: thứ hủy hoại ta cũng có có thể chữa lành ta. Nọc rắn chẳng phải vừa là thuốc độc mà cũng lại vừa là thuốc đó thôi.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, In Praise of Failure: Four Lessons in Humility, Harvard University Press, 2023.

Costica Bradatan – Dân chủ – thứ dành cho thánh thần

Athenian-Democracy-a.jpg

“Tại sao các nền dân chủ lại thất bại?”

Chúng ta nghe thấy câu hỏi đó nhiều lần mấy năm vừa qua, trong sách vở, trên các trang trao đổi quan  điểm, ở các chương trình tin tức trên truyền hình và trong một cuộc tranh luận công khai mà nỗi lo âu không ngừng gia tăng. Song tôi thì luôn nghĩ câu hỏi đó có thể được trả lời bằng câu hỏi khác: Tại sao lại không cơ chứ?

Lịch sử – cuốn cẩm nang đích thực mà chúng ta có về vấn đề này – cho chúng ta thấy: dân chủ là thứ hiếm hoi và chỉ thoáng lướt qua. Nó bừng lóe lên gần như một cách bí ẩn ở một nơi chốn may mắn nào đó, rồi lụi tàn dần, theo cái cách dường như cũng bí ẩn tương tự. Dân chủ chân chính là thứ khó đạt được, và một khi đạt được, thì lại mong manh. Trong bảng lược đồ lớn các sự kiện của nhân loại, nó là ngoại lệ, không phải quy luật.

Mặc dù dân chủ mang bản chất khó nắm bắt nhưng ý niệm cốt lõi của nó thì lại đơn giản đến chất phác: Là thành viên của một cộng đồng, chúng ta có tiếng nói bình đằng trong việc tổ chức đời sống cùng nhau. “Trong nền dân chủ như nó nên là”, Paul Woodruff viết trong cuốn sách xuất bản năm 2006 của ông – First Democracy: The Challenge of an Ancient Idea (Nền dân chủ đầu tiên: Thách thức của một ý niệm cổ xưa), “tất cả những người trưởng thành đều tự do tham dự vào cuộc thảo luận xung quanh vấn đề làm cách nào để mọi người có thể sống cùng nhau. Và không một ai được chừa ra để sở đắc một thứ quyền lực không bị kiểm soát vốn sẽ dẫn đến sự ngạo mạn và lạm dụng.” Bạn đã từng nghe bất cứ điều gì có vẻ hợp lý hơn thế chưa? Song ai nói rằng chúng ta có lý?

Về cơ bản, con người không được định hướng để sống trong dân chủ. Người ta thậm chí còn cho rằng dân chủ là “không tự nhiên” vì nó đi ngược với những bản năng và xung lực sống trong ta. Cái mang tính tự nhiên đối với chúng ta, cũng như với bất cứ tạo vật sống nào, là việc tìm cách sinh tồn và tái sinh. Và bởi mục đích đó, chúng ta luôn cố khẳng định bản thân đứng trên người khác một cách không ngừng nghỉ, không tự biết, không khoan nhượng. Chúng ta xô họ ra bên lề, dẫm đạp lên họ, vứt bỏ họ, thậm chí, nếu cần, sẵn sàng nghiền nát họ. Đằng sau vẻ ngoài tươi cười của nền văn minh nhân loại, luôn tồn tại một thứ động cơ mù quáng thúc đẩy con người tự khẳng định bản thân, tương tự như những gì ta quan sát được ở thế giới loài thú.

Chỉ cần cào lớp bề mặt của cộng đồng người, sẽ rất sớm bạn sẽ nhìn ra tính bầy đàn. Chính thứ “bản chất người phi lý và vô lý này”, nhà động vật học Konrad Lorenz đã viết như vậy trong cuốn sách của ông, On Aggression (Về sự hung hãn), đã thúc đẩy “hai đảng phái chính trị hay tôn giáo với những chương trình cứu rỗi nhân loại giống nhau đến kinh ngạc đấu tranh với nhau khốc liệt,” cũng chính nó đã thôi thúc “một Alexander hay một Napoleon hy sinh hàng triệu mạng sống để thỏa mãn tham vọng thống nhất thế giới dưới quyền trượng của mình.” Phần lớn lịch sử thế giới là câu chuyện của những cá nhân tự khẳng định mình thái quá để tìm được những cây quyền trượng khác nhau.

Chẳng quá khó hiểu khi một cá nhân như vậy được suy tôn, những người khác chỉ còn có thể hăm hở phục tùng y. Cứ như thể, trước sự hiện diện uy nghi của y, họ nhận ra mình có quá nhiều tự do trong tay và điều này đột nhiên làm họ ngột ngạt. Trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky, viên Đại pháp quan nói: “Không có mối bận tâm nào dai dẳng và khẩn thiết đối với con người, chừng nào hắn còn tự do, hơn là tìm được ai đó để hắn quỳ sụp xuống càng sớm càng tốt.” Và đó là sự đầu hàng mới ngọt ngào làm sao! Alexander Đại đế, Julius Caesar, Napoleon, Hitler và Mussolini đều là những người nói chuyện hấp dẫn, bỏ bùa đám đông và có sức mê hoặc về ảnh hưởng chính trị.

Mối quan hệ giữa họ và đám đông là mối quan hệ đặc biệt thân mật. Đối với những triều đại như thế này, hễ khi nào quyền lực được sử dụng và phô diễn, hiệu quả mà nó tạo ra đều mang chất dục tính sâu sắc. Chẳng hạn, thứ mà ta thấy trong bộ phim tuyên truyền cho Đức Quốc xã The Triumph of the Will (Thắng lợi của ý chí, 1935) – ở mức độ nào đó, phải ghi nhận tài năng trớ trêu của Leni Riefenstahl (1902-2003), nữ đạo diễn của bộ phim này – là hình ảnh con người đang trải nghiệm một thứ khoái cảm tập thể. Những phát ngôn của nhà chính trị quyến rũ có thể trống rỗng, thậm chí vô nghĩa, nhưng điều đó không mấy quan trọng; mỗi câu nói của y đều đưa đám đông bị kích động ấy đến những đỉnh cao mới của khoái cảm. Giờ đây, y có thể làm bất cứ điều gì với đám người đang bị mê muội đi theo mình. Họ sẽ tuân phục bất cứ sở thích nào của kẻ làm chủ.

Nói thẳng ra, chính cái ngữ cảnh đời sống con người này là cái nền mà trên đó, ý niệm dân chủ nảy sinh. Không ngạc nhiên, đó là một trận đánh thất thủ. Nền dân chủ chân chính không đưa ra những hứa hẹn lớn, không quyến rũ hay mê hoặc, nó chỉ khơi gợi con người vươn đến một chuẩn mực nhất định về phẩm giá con người. Nó không hề mang chất dục tính. So sánh với những gì diễn ra trong các thiết chế dân túy sẽ thấy dân chủ như là một mối quan hệ lãnh cảm. Nếu tỉnh táo, ai là kẻ sẽ nhận lấy những trách nhiệm buồn bã của dân chủ thay cho những sự tưởng thưởng tức thời mà một kẻ mị dân trao cho? Ai sẽ chọn sự lãnh cảm thay vì khoái cảm vô biên? Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điều này, ý niệm dân chủ đã đôi lần được hiện thực hóa trong lịch sử – đó là những khoảnh khắc đầy vinh dự khi nhân loại dường như muốn làm ngạc nhiên chính bản thân mình.

Một yếu tố cần cho dân chủ nảy sinh là cảm thức về sự khiêm hạ. Một tính khiêm hạ vừa mang tính tập thể, vừa được nội tại hóa, vừa thấu suốt, vừa xa rộng, nhưng chân thực. Đó là tính khiêm hạ khiến người ta biết vừa vặn với chính mình, vì nó xuất phát từ sự tự ý thức của con người về giá trị và giới hạn của bản thân, thậm chí nó còn khiến con người biết cười chính mình nữa. Kẻ mang tính khiêm hạ ấy, sau khi chứng kiến bao sự điên rồ và học được cách chấp nhận chúng, đã trở nên hiền minh và nhẫn nại. Nói khác đi, để làm một nhà dân chủ đúng nghĩa, phải hiểu khi sống cùng nhau, ta không ưu việt hơn kẻ khác, từ đó, biết ứng xử sao cho thấu đáo. Một phương diện chủ yếu của thực hành sống dân chủ là làm sao chấp nhận sự thất bại và bất toàn, ấp ủ ít ảo tưởng về xã hội con người. Các thiết chế dân chủ, các quy tắc và cơ chế của chúng, nên mang theo một nhãn quan về con người như là những thực thể bất toàn, khiếm khuyết và đầy thiếu sót.

Nên dân chủ Athen cổ đại đã phát kiến hai thiết chế minh họa rõ cho nhãn quan này. Thứ nhất, rút thăm: chỉ định người vào chính quyền bằng lá thăm. Với sự bình quyền mà tất cả các công dân Athen lúc bấy giờ – tức nam giới trưởng thành có địa vị tự do – được hưởng, cách hợp lý nhất để được đưa vào vị trí lãnh đạo là thông qua lựa chọn ngẫu nhiên. Quả thực, đối với các nhà dân chủ Athen, bầu cử sẽ bị tắc lại chính ở tâm điểm của dân chủ: Họ sẽ cho phép một số người nào đó khẳng định bản thân, đặt mình cao hơn kẻ khác một cách kiêu ngạo và bất nhẫn.

Thiết chế bất toàn mà hợp lý khác do người Athen đề xuất là loại trừ. Khi một công dân của thành bang trở nên nổi tiếng quá mức – nhiều tiềm năng bỏ bùa công chúng – dân Athen sẽ bỏ phiếu để trục xuất y khỏi thành bang trong vòng mười năm bằng cách ghi tên  y lên những mảnh gốm. Đó không phải là hình thức trừng phạt cho những việc mà kẻ có sức mê hoặc kia đã làm mà là một hình thức đề phòng trước những gì hắn có thể làm nếu không bị kiểm soát. Dân Athen hiểu họ là những kẻ rất dễ tổn thương và có nhiều điểm yếu để kháng cự nổi sức cám dỗ của chính trị (câu chuyện phức tạp giữa họ với Alcibiades [1]là bằng chứng sống động cho điều này) và kịp thời khước từ khoái cảm do nó mang lại. Là thứ do con người làm ra, dân chủ vốn dĩ mong manh, có thể tạng yếu – tốt hơn là không đặt nó vào phép thử.

Sau thí nghiệm triệt để của người Athen về sự bình đẳng, dân chủ đã xuất hiện trở lại ở một số nơi, nhưng thường là trong những hình thức mà người Athen cổ đại có lẽ sẽ rất băn khoăn khi gọi đó là dân chủ. Chẳng hạn, phần lớn hình thức dân chủ của nước Mỹ hiện nay (mà ngay tại thời điểm này có thể nói là phiên bản thịnh hành nhất), theo tiêu chí của dân Athen, sẽ được gọi là thứ “chính trị đầu xỏ”. Chỉ một số ít ỏi những kẻ giàu có may mắn mới được quyết định không chỉ những luật lệ của trò chơi chính trị mà còn việc ai thắng, ai thua trong cuộc chơi này. Mỉa mai thay, cái hệ thống này lại ủng hộ cho điều mà chúng ta muốn tránh nó bằng được khi ta lựa chọn dân chủ ngay từ đầu: con thú chính trị không nguôi khát thèm quyền lực, nóng lòng xác lập địa vị bản thân một cách ngạo mạn.

Tuy vậy, chúng ta không nên ngạc nhiên. Jean-Jacques Rousseau đã viết: “Nếu như có một quốc gia của thánh thần, quốc gia ấy sẽ cai quản theo đường lối dân chủ. Vì thế một hình thức hoàn hảo của chính quyền là thứ không dành cho người phàm.” Dân chủ là thứ khó thấy trong thế giới con người đến nỗi phần lớn thời gian chúng ta nói về nó, chúng ta thường quy chiếu đến một lý tưởng xa xôi hơn là một thực tế. Xét đến cùng, đó là câu chuyện của dân chủ: nó là một lý tưởng mà người ta luôn cố gắng đưa vào thực hành. Chưa bao giờ trọn vẹn và chưa bao giờ lâu dài – lúc nào cũng vụng về, rụt rè, cứ như thể chỉ là thứ diễn ra trong một thời gian thử nghiệm.

Song dân chủ là một trong những thứ khó nắm bắt – hạnh phúc là một thứ khác trong số đó – mà lời hứa hẹn của nó, dẫu bị trì hoãn vĩnh viễn, vẫn quan trọng hơn sự tồn tại thật sự của nó. Chúng ta có thể không bao giờ đạt được nó, nhưng chúng ta lại không đủ khả năng để ngừng mơ tưởng về nó.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Costica Bradatan, “Democracy Is For Gods”, https://www.nytimes.com/2019/07/05/opinion/why-democracies-fail.html

 

[1] Alcibiades (450-404 trước Công nguyên) là một chính khách, một nhà quân sự, một nhà hùng biện nổi tiếng ở Athen thời cổ đại. Ông đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn nửa sau cuộc chiến Peloponneus (431-404 trước Công nguyên) xảy ra giữa thành bang Athen và thành bang Sparta. Ông ưa dùng các chiến thuật không chính thống, và thường chiến thắng các thành bang bằng lừa dối và thương lượng hơn là vây hãm.