Tag Archives: bài đăng báo

Tự sự học sinh thái: Động hướng, triển vọng và thể nghiệm

1. Những động hướng

Tự sự học sinh thái là một nhánh mới phát triển của tự sự học hậu kinh điển. Thuật ngữ này chính thức được đề xuất trong chuyên luận của Erin James xuất bản năm 2015 – The Storyworld Accord: Econarratology and Postcolonial Narratives (tạm dịch: Thỏa ước của thế giới truyện kể: Tự sự học sinh thái và các tự sự hậu thuộc địa) [6] Đến năm 2020, James cùng học giả Eric Morel đồng chủ biên tuyên tập Environment and Narrative: New Directions in Econarratology (tạm dịch: Môi trường và tự sự: Những hướng đi mới của tự sự học sinh thái) [7], in trong tủ sách uy tín hàng đầu về tự sự học Theory and Interprettion of Narrative. Gần đây nhất, tạp chí chuyên về lý thuyết Substance đã tổ chức một chuyên đề về phê bình sinh thái và hình thức của tự sự. Các công cụ và thao tác phân tích của tự sự học sinh thái, các thảo luận về phạm vi và ý nghĩa cùa lĩnh vực này là nội dung chủ đạo của các bài nghiên cứu trên số tạp chí này. Chưa kể từ giữa thập niên 2010 đến nay, rải rác có thêm nhiều những bài nghiên cứu lẻ hay các luận án sử dụng cách tiếp cận tự sự học để phân tích hay chất vấn ý nghĩa của các tự sự về môi trường. Có thể kể đến hai luận án: Eco-Narratology and Contemporary American Fiction (tạm dịch: Tự sự học sinh thái và tiểu thuyết đương đại Hoa Kỳ, 2021) của Kyle T. Henrichs bảo vệ tại Đại học Wisconsin-Milwaukee [5] và trước đó là Spaces of Indeterminacy: Aerial Description and Environmental Imagination in 20th Century American Fiction (tạm dịch: Những không gian bất định: Miêu tả không trung và tưởng tượng về môi trường trong tiểu thuyết Hoa Kỳ thế kỷ 20) của David Rodriguez bảo vệ tại State University of New York at Stony Brook (2019) [13].

Tự sự học sinh thái là sự cộng sinh của hai lĩnh vực tưởng như có rất ít mối liên hệ với nhau: tự sự học và phê bình sinh thái. Tự sự học sinh thái “duy trì sự quan tâm đối với việc nghiên cứu mối liên hệ giữa văn học và môi trường vật lý, nhưng nó làm công việc ấy với sự nhạy cảm với các cấu trúc và thủ pháp văn chương mà chúng ta sử dụng để truyền đạt sự trình hiện môi trường vật lý cho nhau thông qua các chuyện kể.” [6;  tr.23]

Theo James, chính những động hướng phát triển của từng lĩnh vực – phê bình sinh thái và tự sự học – đã dẫn đến sự cộng sinh này. Trước hết là làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái. Trỗi dậy từ thập niên 1990, làn sóng thứ nhất của phê bình sinh thái được hình thành trên niềm tin về một thứ thiên nhiên nằm ngoài ngôn ngữ mà văn chương có thể phản ánh và kêu gọi nhận thức về nó. Vấn đề môi trường được các nhà phê bình sinh thái xem như một tình trạng mang tính phổ quát của nhân loại, phạm vi các tác phẩm mà họ tập trung thảo luận là các điển phạm trong văn chương Anh Mỹ viết về thiên nhiên – các sáng tác thường thuộc về truyền thống của lối viết hiện thực hay thể loại phi hư cấu, xu hướng của họ là tìm kiếm những mối liên hệ giữa văn chương viết về tự nhiên với các diễn ngôn khoa học, đề cao sự bảo tồn như là hình thức quan trọng nhất để can thiệp vào cuộc khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. Đến đầu thập niên 2000, làn sóng thứ hai của phê bình sinh thái nổi lên. Ở làn sóng này, đối tượng và phạm vi nghiên cứu được mở rộng sang không gian đô thị và những môi trường bị suy thoái, và thay vì tập trung vào khuynh hướng bảo tồn, các nhà phê bình, qua cách đọc văn chương, đã dấy lên những vấn đề về công lý môi trường, chỉ ra sự liên đới giữa vấn đề môi trường và các tình trạng bất bình đẳng xã hội khác. Làn sóng thứ hai này cũng cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa việc nghiên cứu văn học và môi trường với các lý thuyết đương đại khác. Đây cũng là những điểm làm làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái sẽ kế thừa và đẩy vấn đề đi xa hơn, phức tạp hơn. Ở làn sóng thứ ba, thiên nhiên không nằm ngoài ngôn ngữ, bản thân cái được gọi là thiên nhiên cũng nằm trong địa hạt của diễn ngôn. Cuốn sách xuất bản năm 2005 của Lawrence Buell, The Future of Environmental Criticsm: Environmental Crisis and Literary Imagination (Tương lai của phê bình môi trường: Khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn chương), đã khẳng định cách con người tác động vào môi trường phụ thuộc vào cách con người nghĩ và nói về nó, tức các diễn ngôn, các tự sự về môi trường. Các tưởng tượng của văn chương, do đó, một mặt, có thể góp phần hợp thức hóa những cách ứng xử có tính chất bạo lực, bóc lột đối với thế giới tự nhiên nhưng mặt khác, cũng có thể gợi ra những chất vấn đối với các diễn ngôn thống trị cũng như những khả thể khác cho sự thay đổi nhận thức và hành động. Nhiệm vụ của phê bình sinh thái chính là giải cấu trúc những tưởng tượng văn chương về môi trường này. Một điểm nhấn quan trọng khác của làn sóng thứ ba là sự chú ý nhiều hơn đến phương diện hình thức thẩm mỹ của văn chương, trong khi ở các làn sóng trước đó, các phương diện thuộc về nội dung được xem trọng hơn. Trên thực tế, các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba đã đúng khi cho rằng nếu chỉ cần đọc văn chương để tìm ra những sự trình hiện chính xác về môi trường thì đó là một việc làm rất ít ý nghĩa bởi các văn bản khác sẽ cung cấp các thông tin dữ kiện tốt hơn là thơ ca hay tiểu thuyết. Nhưng học giả Ursula K. Heise có lý khi cho rằng: “Nếu chúng ta tin – như tôi giả định các nhà phê bình sinh thái và hậu thực dân đều vậy – sự cải hóa thực tại theo phương thức thẩm mỹ có một tiềm năng đặc biệt đối với việc định hình lại cách cá nhân và tập thể tưởng tượng về sinh thái xã hội (ecosocial imaginary), vậy thì cách mà các hình thức thẩm mỹ liên hệ với các cấu trúc văn hóa cũng như sinh học xứng đáng để chúng ta dành sự chú ý đặc biệt cho nó.” [4; tr.258]

Trong khi đó, tự sự học ở giai đoạn hậu kinh điển cũng có những chuyển dịch quan trọng. Theo James, có hai động hướng để tự sự học hậu kinh điển có thể dung hợp với phê bình sinh thái. Thứ nhất, đó là tự sự học bối cảnh. Tự sự học trong truyền thống kinh điển trước đó vốn chỉ tập trung vào cấu trúc nội tại của văn bản nghệ thuật, xem các khái niệm công cụ để phân tích như là những phạm trù trung tính. Tự sự học bối cảnh, như James khái quát, “móc nối các cấu trúc tự sự với các bối cảnh ra đời của chúng để xem xét cách mà các thành tố văn bản có thể mã hóa hay thách thức những ý thức hệ nhất định.” [6; tr.14]  Chẳng hạn, với cách tiếp cận của tự sự học bối cảnh, việc một khung cảnh thiên nhiên được nhìn ngắm qua điểm nhìn của một người kể chuyện nữ hay nhân vật nữ không chỉ đơn giản là một thủ pháp mà là một mã ý thức hệ cần phải lưu ý và gợi ra những hình dung khác so với khi khung cảnh ấy được trình hiện từ điểm nhìn của người kể chuyện hay nhận vật nam. Sự “khác” này lại cần được xem xét như là cách mà các tự sự này chất vấn hay củng cố các khuôn mẫu trong cách nhìn khung cảnh đó, cách trao cho khung cảnh đó những ý nghĩa nhất định. Động hướng thứ hai kết gắn phê bình sinh thái và tự sự học là tự sự học tri nhận – một nhánh rất năng động của tự sự học hậu kinh điển. Tự sự học tri nhận nghiên cứu văn bản tự sự trong mối quan hệ với các cơ chế của tâm trí ở người đọc, hay nói giản dị hơn, nó quan tâm đến cách mà các câu chuyện có thể dẫn dắt hình dung, tưởng tượng cũng như tác động vào cảm xúc của người đọc. Nếu tác động của con người vào môi trường phụ thuộc khá nhiều bởi những tưởng tượng, hình dung về nó, bởi những câu chuyện được đan dệt xung quanh nó thì tự sự học tri nhận là một cách tiếp cận khả thủ để nhìn ra và chất vấn cách những tưởng tượng, câu chuyện này chi phối nhận thức và ứng xử của người đọc đối với môi trường.

Trong chuyên luận của mình, James đã sử dụng khái niệm chìa khóa “thế giới truyện kể” (storyworld) của nhà tự sự học tri nhận David Herman để khai triển nghiên cứu của mình. Theo Herman, thế giới truyện kể là “những mô hình tinh thần bao gồm các thành tố liên đới với nhau: ai làm chuyện gì đối với ai, khi nào, ở đâu, tại sao và theo cách nào đó trong thế giới này để người đọc có thể tái định vị được… khi họ muốn hiểu một câu chuyện.” [6; tr.20-1] Để hiểu một câu chuyện, Herman giải thích rằng “người diễn dịch câu chuyện phải cố gắng tái thiết không chỉ những gì đã xảy ra mà còn cả bối cảnh xung quanh, môi trường lồng vào thế giới truyện kể, những đặc điểm của chúng, những hành động và sự kiện mà chúng liên đới.” [6; tr.21]

 Khái niệm “thế giới truyện kể” có thể làm ta liên hệ đến một khái niệm có vẻ như gần gũi với nó được đề xuất bởi các nhà thi pháp học – “thế giới nghệ thuật”. Song sự khác biệt đáng kể nhất nằm ở chỗ trong khi thi pháp học chủ yếu coi thế giới nghệ thuật là sự mã hóa ý thức nghệ thuật của nhà văn, là một mô hình phóng chiếu sự cảm thụ, cắt nghĩa thế giới của tác giả thì khái niệm của Herman coi thế thế giới truyện kể còn là kết quả từ sự tri nhận của người đọc, là một môi trường phóng chiếu cảm xúc và tinh thần của người diễn giải. Người đọc dựa vào những thành tố có tính chất gợi ý (textual cues) trong văn bản để tạo dựng thế giới truyện kể – cái thế giới mà họ cư ngụ lâm thời khi đọc tác phẩm. Trạng thái cư ngụ lâm thời này được các nhà lí luận gọi bằng thuật ngữ “sự đắm mình trong thế giới tự sự” (narrative immersion).

Phạm vi khảo sát trong chuyên luận của James là các tự sự hậu thuộc địa và với phạm vi này, James nhận ra sự đụng độ, va chạm của các thế giới truyện kể, các tưởng tượng về môi trường tự nhiên là những khía cạnh phức tạp nhất liên quan đến tâm lý, tình cảm của con người. Các vấn đề của môi trường, do đó, không thể chỉ cần được nhận thức và giải quyết bởi khoa học hay chính trị. Môt tác phẩm được James nhắc đến như là minh họa cho sự xung đột giữa những cách con người tri nhận về tự nhiên là Hungry Tide của Amitav Ghosh.  Piya – một nhà nghiên cứu về hổ người Mỹ gốc Ấn, làm việc cho chương trình  Bảo tồn Hổ – không thể chấp nhận được người dân bản địa ở một ngôi làng nhỏ Ấn Độ dùng bẫy để bắt hổ, giết hổ vì đó là loài vật đe dọa tính mạng dân làng hàng ngày. Chương trình Piya đang làm việc trong khi ưu tiên đất đai và điều kiện sống cho loài hổ thì đồng thời lại đẩy người dân bản địa khỏi không gian sống của họ. Hình dung về hổ của Piya xung đột gay gắt với những hình dung của những người bạn bản địa của cô, những người coi hổ như một mối hiểm họa chứ không phải đối tượng phải bảo tồn, nghĩ rằng việc một con hổ vào một ngôi làng có người đang sinh sống là vì “nó muốn chết.” [6; tr. 2-3] Nhà sử học Yuval Noah Harari thường xuyên nhấn mạnh một luận điểm: loài người có xu hướng tin vào các câu chuyện hơn là các dữ kiện, thông số [3]. Vấn đề môi trường có thể xem là một trực quan tốt cho luận điểm này: cách nghĩ về loài hổ và cách ứng xử với nó của Piya và người dân bản địa Ấn Độ trông tiểu thuyết của Ghosh chịu sự chi phối của những câu chuyện về hổ gắn với những ý thức hệ khó hòa giải – triết lý bảo tồn thiên nhiên kiểu phương Tây và hệ thống niềm tin của dân bản địa. Trong cuốn sách của mình, James phát triển các công cụ và thao tác của tự sự học tri nhận để cho thấy các văn bản tự sự (hư cấu hoặc phi hư cấu) có thể định hình hay thách thức những tri nhận ở độc giả về môi trường như thế nào, gây ra những cảm thức sinh thái tinh vi ra sao. Chẳng hạn, ở chương 3 khi phân tích tiểu thuyết Sozaboy của nhà văn Nigeria Ken Saro-Wiwa (1941-1995), James chú ý đến văn phong đậm tính truyền khẩu mà Saro-Wiwa gọi là thứ “tiếng Anh thối rữa”. Thật ra đây là phương diện mà các nhà nghiên cứu về Saro-Wiwa đều bàn đến nhưng chủ yếu quan tâm đến tính chính trị của ngôn ngữ văn chương. James phân tích cách cấu tạo lời và phương thức trần thuật ở tiểu thuyết này, theo đó, cả tính truyền khẩu và thứ tiếng Anh thối rữa là những thành tố gợi dẫn của văn bản rất quyền năng. Chúng khiến người đọc như được nghe thấy những lời giãi bày trực tiếp của nhân vật trong truyện, đại diện cho người dân của vùng châu thổ Niger, một khu vực giàu trữ lượng về dầu nhưng cũng là nơi phải chịu đựng một lịch sử bị áp bức bởi các hệ thống kinh thế quốc gia và toàn cầu, trong đó, dầu là một mặt hàng quan trọng. Thông qua phương thức tạo ra hình tượng người nghe chuyện – được thể hiện qua đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 “you” trong cuốn tiểu thuyết, Saro-Wiwa đã ấn định người đọc vào vị thế của nhân vật “you”, từ đó, buộc độc giả phải tự tra vấn về vai trò của mình trong các cấu trúc kinh tế-chính trị thống soát và ngoại biên hóa cuộc sống của những người dân bản địa. [6; tr. 90-121]

Theo đánh giá của chúng tôi, các thao tác phân tích tự sự học được James khai triển trong chuyên luận này đã đưa cách tiếp cận tự sự học về gần với phân tích diễn ngôn theo quan điểm hậu cấu trúc. Có thể nói, về cơ bản, James không kiến tạo một công cụ phân tích mới nào mà dựa vào hệ thống khái niệm đã được thiết lập bởi truyền thống tự sự học cấu trúc luận song bà đã biện luận để đắp cho chúng một số nội hàm mới và trao cho chúng những chức năng mới. Hai chức năng cơ bản trong số đó là gợi dẫn những quy chiếu về môi trường bên ngoài văn bản (trong khi tự sự học cấu trúc luận chỉ tập trung vào nội tại văn bản) và kích thích những phản ứng cảm xúc, tâm lý ở người đọc khi họ hình dung về môi trường qua câu chuyện được kể (vốn hầu như chưa được chú ý ở thời kỳ tự sự học cấu trúc luận). Từ công trình của James, chúng tôi cho rằng sự linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng các thao tác phân tích theo đường lối của tự sự học tri nhận còn có thể hứa hẹn làm  sáng tỏ thêm cơ chế của những tâm thức sinh thái như “ecophobia” (sự kỳ thị tự nhiên), “ecoambiguity” (mơ hồ sinh thái), “ecohorror” (nỗi sợ hãi tự nhiên)… Xét đến cùng, những tâm thức sinh thái này chính là niềm tin hoặc sự hồ nghi đối với những thế giới truyện kể về tự nhiên.

Tuyển tập Environment and Narrative do James và Morel chủ biên xuất bản vào năm 2020 quy tụ không chỉ những tên tuổi đang nổi của tự sự học hậu kinh điển những năm đầu thế kỷ XXI như Markku Lehtimaki, Marco Caracciolo mà còn cả một số cột trụ của làn sóng thứ ba phê bình sinh thái như  Ursula K. Heise, Greg Garrard. Bên cạnh khuynh hướng kết hợp phê bình sinh thái và tự sự học tri nhận mà James là học giả tiên phong, cuốn sách còn giới thiệu hai nhánh mà tự sự học sinh thái có thể phát triển xa hơn là mối quan hệ giữa tự sự học với các thực thể phi nhân loại (nonhuman) và đạo đức tự sự.

Nhánh thứ nhất có sự gặp gỡ với một khúc ngoặt trong triết học đương đại – khúc ngoặt “phi nhân loại” (nonhuman). Khúc ngoặt này liên quan đến nhu cầu đổi mới hệ hình tư duy của con người trong bối cảnh khủng hoảng của Kỷ Nhân Sinh, thời đại mà con người tạo ra những tác động nghiêm trọng đến thế giới tự nhiên và xem mình như là chủ nhân quyền lực nhất của Trái đất. Triết học và cả lý thuyết tự sự vốn được xem là những lĩnh vực tri thức lấy con người làm trung tâm và bản thân điều này cần phải bị tra vấn. Trong lĩnh vực triết học, việc tra vấn tính tự chủ (agency) của các thực thể phi nhân loại là mối bận tâm lớn, qua đó, con người cũng xác định lại chính mình trong thế giới này. Bài giảng nổi tiếng của Jacques Derrida, “The Animal That Therefore I Am” như nhại lại luận đề của Descartes  – “I think therefore I am”, qua đó thôi thúc những phản tư quan trọng. Đầu tiên, Derrida đề nghị xem xét lại định kiến trong trục đối lập nhị phân giữa thú và người, theo đó, con thú không có khả năng có được những thứ chỉ con người mới sở hữu như lý trí, ngôn ngữ, cảm xúc…, hay để dùng một thuật ngữ quan trọng của Derrida, thú không thể có logos – nó không có thể tư duy, không có diễn ngôn, không tự tạo nên các câu chuyện cho chính sự tồn tại của nó. Nhân tính, bởi vậy, là một kiến tạo diễn ngôn trên cơ sở loại trừ, trấn áp các khả năng mà thú cũng có thể có, chứ không phải chỉ là độc quyền của người.  Nói như Marie-Louise Mallet, phương pháp của Derrida không phải là sự đảo ngược từ thái cực này sang thái cực kia: “Hoàn toàn không phải là một sự đảo chiều quan điểm giản đơn, chẳng hạn như phục hồi cho ‘con thú’ tất cả những gì mà truyền thống đã tước đi khỏi nó, cũng hoàn toàn không phải là sự thay thế sự đối lập kinh điển bằng một sự hòa trộn, không thể phân biệt mà thực chất cũng là một sự thất bại giả dối không kém, phương pháp giải cấu trúc đã kiên nhẫn nhân bội lên những khác biệt, làm chúng ta phải chú ý vào sự mong mang và rỗng xốp của những ranh giới được giả định của cái ‘chính danh’ (proper) mà từ lâu chúng ta đã lợi dụng để dựng lên sự đối lập truyền thống giữa “người” và “thú”. Tuy nhiên, làm như vậy, chúng ta không chỉ gây bất ổn đối với tất cả những sự đảm bảo về “thú tính” của con thú nói chung mà còn gây bất ổn không kém đối với những khẳng quyết về nhân tính của con người…” [2; tr.x-xi] Gần đây hơn nữa, ngành nhân văn còn nổi lên nhánh nghiên cứu về tư duy cây (plant-thinking), trong đó hai học giả tiên phong là Luce Irigaray và Michael Marder. Với các học giả này, thế giới thực vật còn bị ngoại biên hơn cả thế giới động vật trong diễn ngôn triết học. Việc xác lập diễn ngôn về tư duy cây có khả năng phá vỡ sự độc tôn không chỉ chủ thể của sự nghĩ mà còn ở cả hình thức của sự nghĩ, vốn từ lâu được mặc định gắn liền với hoạt động của lý trí [10]. Có vẻ như các học giả vẽ ra một viễn cảnh không tưởng khi hình dung về một môi trường ý thức nơi nhân loại và thực thể phi nhân có thể hình thành những kiểu thức giao lưu, phá vỡ quan hệ mang tính thống trị. Nhưng xét đến cùng thì sự không tưởng ấy cũng có thể thôi thúc con người tìm ra những khả thể mới thay vì chỉ chấp nhận những giới hạn hiện tồn.

Tác động của khúc ngoặt phi nhân loại này trong triết học đến các nhà nghiên cứu tự sự được thể hiện ở việc xem xét, chất vấn cách trình hiện các thực thể phi nhân loại trong các tự sự văn học, điện ảnh trở thành một chủ đề cần thảo luận. Trên thực tế, có nhiều tự sự không chỉ mô tả thế giới phi nhân loại như là các thành tố tạo nên nền cảnh của câu chuyện mà còn biến các thực thể phi nhân loại này thành nhân vật hay người kể chuyện thông qua các hệ thống tu từ, đặc biệt là phép nhân hóa. Tuy nhiên, không hẳn lúc nào các tự sự này cũng trùng khít với thể loại ngụ ngôn, nơi các hình tượng phi nhân loại chỉ là ẩn dụ về con người và phóng chiếu các kinh nghiệm của con người. Có thể nêu một số truyện ngắn của Franz Kafka như “Báo cáo gửi viện hàn lâm”, “Josephine – nữ ca sĩ dân tộc chuột”, “Hang ổ”… như là ví dụ cho trường hợp này. Ở đây, các kỹ thuật tự sự như điểm nhìn, tiêu cự, các thủ pháp miêu tả ý thức được sử dụng không phải để mô phỏng các kinh nghiệm của con người mà để gợi mở kinh nghiệm của các tồn tại phi nhân tính. Chúng, vì thế, có thể đóng vai trò như “những công cụ tưởng tượng quan trọng để phê bình, tháo dỡ, tái thiết các ý niệm về tính người trong thế giới hiện đại, nơi người ta đã không thể hình dung nổi thế nào là người nếu xem xét tính người như một cái gì đó bị cô lập và tách biệt với những cộng đồng sự sống rộng rãi hơn.” [7; tr.7]

Sự kết hợp giữa phê bình sinh thái và đạo đức tự sự cũng là một sự kết hợp khá tự nhiên. Vấn đề đạo đức tự sự trở thành mối quan tâm của tự sự học hậu kinh điển khi tự sự được ý thức như một hành động giao tiếp có mục đích. Theo James Phelan, đạo đức tự sự xoay quanh bốn vấn đề: (1)- đạo đức của câu chuyện được kể; (2) – đạo đức của hành động kể chuyện; (3) – đạo đức của sự viết/ sự tạo lập câu chuyện; (4) – đạo đức của sự đọc/ tiếp nhận câu chuyện. Các vấn đề này đều liên quan đến các câu hỏi về thẩm quyền của người kể chuyện, đến lập trường của người viết, của nhân vật để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, con người xấu-tốt, đáng cảm thông-đáng lên án ra sao, đến việc các gợi dẫn của văn bản có thể ấn định một trường nhìn đạo đức và khơi dậy những cảm xúc đạo đức như thế nào… [2] Tất cả những khía cạnh này đều có những móc nối tinh vi và chặt chẽ đến việc câu chuyện ấy được kể theo cách nào. Nói tóm lại, văn học thực hiện chức năng đạo đức bằng chính hình thức thẩm mỹ của nó.

Phê bình sinh thái ở làn sóng thứ ba, như trên đã trình bày, coi các tự sự về tự nhiên là đối tượng của mình. Bản thân lý thuyết này, ngay ở giai đoạn hình thành, đã mang tham vọng kiến lập nền tảng đạo đức mới để con người chung sống với những tạo vật khác của hành tinh. Trải qua những làn sóng vận động, các lý thuyết gia đã càng ngày càng nhận thức rõ mối quan hệ ràng rịt giữa vấn đề môi trường và các vấn đề như giai cấp, chủng tộc, phái tính, các cộng đồng thiểu số, nhược tiểu… Tính chất vấn, vốn được xem là tinh thần cốt lõi của lý thuyết, trong trường hợp này, đã mang ý nghĩa đạo đức khi nó phá vỡ tính đơn nhất của các chuyện kể về thế giới tự nhiên, phức tạp hóa những mặc định về con người và các thực thể phi nhân loại, để từ đó có thể nhìn thấy những bất cập, bất công, bất bình đẳng đang được làm cho trở nên bình thường, khó nhận thấy và do vậy, loại trừ những khả năng kháng cự và thay đổi. Bản thân chuyên luận của James xuất bản trước đó đã ý thức rất rõ về sự gợi mở và can dự về mặt đạo đức đối với các vấn đề môi trường của tự sự học sinh thái. Qua những phân tích các trường hợp nghiên cứu cụ thể, bà đi đến kết luận: “Các tự sự, thông qua quyền năng giúp cho người đọc sống trải các môi trường và các kinh nghiệm môi trường khác với mình, có thể phát lộ những điểm khác biệt về tri nhận, làm rõ những mối quan tâm của những người tưởng tượng và sống trong một môi trường theo cách đặc thù của họ và đặt người đọc trực diện với những quan điểm khác hay đối lập với họ. Theo cách ấy, chúng có thể mở ra các kênh giao tiếp truyền đạt về cách mà con người mường tượng và cư ngụ trong môi trường của họ, khích lệ một nhận thức về môi trường giúp ích cho việc xây dựng những chính sách về môi trường công bằng hợp, hợp lý hơn và không thiên lệch.” [6; tr. 208] Việc văn chương thúc đẩy người đọc tri nhận sự đa dạng, phức tạp của những môi trường và cách ứng xử đối với môi trường thông qua thế giới truyện kể tiềm tàng sự mời gọi niềm cảm thông và quan trọng hơn thế, những đối thoại xuyên văn hóa.

2. Triển vọng

Năm 2021, khi viết bài tổng kết số chuyên đề của tạp chí Substance về tự sự và môi trường, James ghi nhận một thực tế: “Lý thuyết tự sự đã được kích hoạt bởi những mối quan tâm về môi trường, dù là thông qua những thảo luận về người kể chuyện phi nhân loại (nonhuman), những tiềm năng (và cạm bẫy) của sự thấu cảm tự sự xuyên giống loài (transspecies), những đường biên của các tự sự trong Kỷ Nhân Sinh, hay vai trò mà các tự sự và thế giới truyện kể có thể đảm nhận trong việc khơi dậy phản ứng đối với thực trạng biến đổi khí hậu.” [9; tr.150] Tự sự học sinh thái, trong khoảng thời gian chưa thật dài, đã chứng tỏ sự năng động của mình khi các nhà nghiên cứu đã mở rộng vùng đối tượng nghiên cứu, phát triển nhiều câu hỏi nghiên cứu từ đó đánh dấu những hướng đi mới. Những bước đi đương thời của tự sự học và phê bình sinh thái có xu hướng tương thích với nhau, điều này khiến tự sự học sinh thái không phải là một nhánh nghiên cứu đóng.

Triển vọng của tự sự học sinh thái được ghi nhận trước hết ở khả năng tác động của nó. Trong lời nói đầu tuyển tập Environment and Narrative, James và Morel đã xác định rằng: bởi cách chúng ta ứng xử với tự nhiên chịu nhiều ảnh hưởng từ các câu chuyện và ngược lại nên nhận thức của chúng ta về tự sự cũng thay đổi khi môi trường thay đổi. Cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay, một phần đáng kể, cũng liên đới đến cuộc khủng hoảng của các tự sự về môi trường mà tự sự học sinh thái, với các phương pháp và thao tác phân tích của mình, có thể cho thấy rõ. James không phóng đại cách văn chương và nghiên cứu văn chương có thể khắc phục cuộc khủng hoảng này. Trong chuyên luận The Storyworld Accord, bà viết: “Tôi không cho rằng việc đọc các câu chuyện là một giải pháp tự nó. Theo nhiều cách, cách các thế giới truyện kể và kinh nghiệm chủ quan mà chúng mã hóa còn làm cho việc tìm giải pháp trở nên khó khăn hơn khi nó mở rộng hiểu biết của chúng ta về những cách khác nhau mà con người hình dung và can dự vào thế giới. Tuy nhiên, các thế giới truyện kể có thể thúc đẩy sự tôn trọng đối với sự so sánh, sự khác biệt, tính chủ quan và sự tôn trọng này, đến lượt mình, có thể thúc đẩy những thảo luận tinh tế hơn, sâu sắc hơn về môi trường cũng như các chính sách liên quan đến môi trường.” [6; tr.208] Mài sắc sự nhạy cảm, tinh tế, sâu sắc trong cách nghĩ, mở rộng những khả năng suy tư – đó luôn là điều mà văn chương có thể làm tốt hơn cả cho con người.

Bối cảnh khủng hoảng môi trường của Kỷ Nhân Sinh đã tạo ra một thể loại đặc trưng được các nhà tự sự học ưu tiên xem xét như là những trường hợp nghiên cứu điển hình – tiểu thuyết cli-fi (tạm dịch tiểu thuyết khí hậu), một thể loại dự phóng những viển cảnh phản không tưởng của thế giới trong điều kiện biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, bối cảnh này còn có thể ảnh hưởng đến bản thân lý thuyết tự sự. Điều này được James trình bày trong tiểu luận “Narrative in the Anthropocene” (Tự sự trong Kỷ Nhân Sinh) mà dưới đây, chúng tôi sẽ lược thuật lại những luận điểm chính.

James bắt đầu tiểu luận của mình bằng việc mô tả bối cảnh đối thoại lý thuyết, trong đó, các nhà tự sự học phải lĩnh nhận sự hồ nghi từ phía các lý thuyết gia văn hóa như Claire Colebrook hay Timothy Morton, những người cho rằng “tự sự, như là một phương thức tu từ đã thật sự không thể thích hợp với thời đại hôm nay của chúng ta.” [8; tr.184] Lý do, theo Colebrook, nằm ở chỗ: tự sự vốn dĩ gắn bó mật thiệt với điểm nhìn và kinh nghiệm của con người, theo đó, nó “không thể trình hiện một cách đầy đủ quy mô thời gian và những hình dung rộng rãi hơn về đời sống của các thực thể phi nhân loại, mà đấy lại chính là những gì mà bối cảnh khủng hoảng môi trường hiện thời đang đòi hỏi.” [8; tr.184] Thực trạng biến đổi khí hậu – một đặc điểm nhận diện của Kỷ Nhân Sinh – là “một thảm họa đối với tưởng tượng của con người” và để đối phó với nó, “quay về với việc đọc, cảm thụ và giao tiếp tự sự là không đủ, chúng ta cần được lay tỉnh khỏi những câu chuyện chỉ toàn thấy con người ở trung tâm đang ru ngủ mình.” [8; tr.184] James phản biện lại những sự hồ nghi nói trên, đề xuất hướng suy nghĩ mới về bản chất của tự sự và nghiên cứu tự sự. Theo bà, giờ là lúc nên suy tư về mối kết gắn giữa tự sự và Kỷ Nhân Sinh bằng những câu hỏi như: “Các câu chuyện có thể giúp chúng ta nghĩ khác về Kỷ Nhân Sinh như thế nào? Làm thế nào mà các tự sự có thể cung cấp cho chúng ta một bối cảnh an toàn để thăm dò, khám phá cách con người kiến tạo hình ảnh thế giới và sống trong đó? Làm thế nào mà việc đọc các địa tầng, vòng sinh trưởng của cây, lõi băng, vốn tự chúng đã là trình hiện vật chất của chuỗi sự kiện, có thể thách thức những định nghĩa cơ bản nhất mà chúng ta có về tự sự và trần thuật? Làm sao những khái niệm mới về thời gian, không gian gắn với Kỷ Nhân Sinh có thể đa dạng hóa những mô hình tổ chức thời gian và không gian tự sự? Làm thế nào để nhận thức về tính tự chủ tập thể (collective agency) vốn được gắn với Kỷ Nhân Sinh có thể rọi ánh sáng mới vào các dạng thức tổ chức lời trần thuật? Và thật ra, Kỷ Nhân Sinh đã giúp chúng ta nghĩ khác đi về bản chất của tự sự như thế nào? Nó đã thôi thúc việc xây dựng những cấu trúc mới đi ngược lại với những hình thức tự sự truyền thống như thế nào?” Những câu hỏi trên, đương nhiên, không dễ trả lời nhưng sự phức tạp của chúng luôn tiềm tàng những khả thể mới để xây dựng nên cái mà James gọi “lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh” (Anthropocene narrative theory) [8; tr.185].

Giữa nghệ thuật tự sự và Kỷ Nhân Sinh có nhiều mối liên hệ mật thiết hơn là những gì các lý thuyết gia văn hóa hồ nghi. Theo James, bản thân thực tiễn sáng tạo và lý thuyết văn chương đã cho thấy chính hình thức tự sự mới có thể nắm bắt, thậm chí gợi mở những hình thức biểu đạt, sự bất khả đoán của dòng chảy thời gian, quy mô rộng rãi về không gian và những điểm nhìn từ các thực thể phi nhân loại. Đáng chú ý, sự tương đồng giữa nghệ thuật tự sự và Kỷ Nhân Sinh, theo mạch biện luận của James, nằm ở chỗ cả hai đều là “sản phẩm của thế giới văn hóa viết của nhân loại” [8; tr.186]. Một mặt, hình thức của các câu chuyện là một hình thức để con người kiến tạo thế giới; mặt khác, để tác động vào thế giới thì con người ở Kỷ Nhân Sinh cũng phải “viết lại” cái thế giới ấy sao cho các tác động của mình vào nó được hợp thức hóa. Những phá hoại của con người đối với môi trường trong Kỷ Nhân Sinh có mối liên hệ nhân quả với quyền năng kiến tạo thế giới của các câu chuyện mà con người đã dựng lên. Hơn nữa, thời điểm mà Kỷ Nhân Sinh thật sự bắt đầu định dạng rõ nét cũng là thời điểm mà tiểu thuyết – thể loại nòng cốt của tự sự văn học viết – trỗi dậy, cùng lúc với sự trỗi dậy của cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, khoa học của thời kỳ khai sáng, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa thế tục, sự hình thành của tư tưởng quốc gia dân tộc và tầng lớp trung lưu trong xã hội… James đi đến khái quát: “Thực vậy, một lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh biện luận rằng mọi tiểu thuyết đều tích hợp vào trong những nền tảng của nó những thái độ và ý hệ đã tạo nên Kỷ Nhân Sinh, dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu, do đó, theo nghĩa này, bằng hình thức của mình, tiểu thuyết là đại diện của thời đại này. Lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh cho rằng tiểu thuyết không những phản chiếu những thay đổi về xã hội và môi trường vật chất đã khởi sinh thời đại mà còn đề xuất một trường thí nghiệm cho sự khám phá theo cách tưởng tượng những hàm ý của những hành vi này trong ngôn từ.” [8; tr.189]

Lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh theo quan sát và dự phóng của James buộc chúng ta phải nhìn nhận lại giới hạn và khai phá những tiềm năng của những phạm trù, khái niệm quan trọng của tự sự học trong việc trình hiện thời đại này. Đầu tiên, nó nhìn ra tính tự sự tồn tại ngay trong tự nhiên, trong các thực thể phi nhân loại như địa tầng, lõi băng, vòng sinh trưởng của cây… Tuy nhiên, tính tự sự ở đây chỉ tồn tại ở mức tối thiểu: đá, băng, cây cối tự chúng không tạo ra được một tự sựu trọn vẹn, chúng thiểu người kể chuyện, người nghe chuyện, sự trình hiện một thế giới truyện kể… Nhưng chúng có thể gợi ý “khả năng cộng tác giữa người kể chuyện con người và các chất liệu phi nhân loại” [8; tr.191]. Đây không hề là một giả tưởng bởi như lời nhà địa chất học Jan Zalasiewicz mà James có dẫn lại, các địa tầng “chứa đựng trong chúng vô vàn các khả thể chuyện kể về các lịch sử của đại dương và sông ngòi, ao hồ và bờ bãi cũng như sa mạc khô cằn trước đây.” [8; tr.192] Việc nhìn ra nhiều hơn một lịch sử luôn là điều mang tính khai phóng cho con người và cho thế giới. Tự sự học cũng cần phải xét lại hoặc xây dựng những khái niệm mới về thời gian tự sự sao cho tương thích với tiến trình “bạo lực chậm” ở Kỷ Nhân Sinh, nhất là khi đã có những sáng tạo nghệ thuật đã ý thức được tình trạng này. Khái niệm “bạo lực chậm” được đề xuất bởi Rob Nixon để chỉ một thứ bạo lực “xuất hiện từ từ và không nhìn thấy được, gắn với những sự hủy hoại bị đình hoãn phát tán xuyên thời gian và không gian.” [11; tr.2] – một thứ bạo lực nằm ở trung tâm những bất công môi trường ở Kỷ Nhân Sinh. Bạo lực chậm có thể xem như một kiểu “cốt truyện” thiên về tính mô tả và hình thái cốt truyện này cũng là điều đỏi hỏi các nhà lý thuyết phải tư duy thêm, thay vì chỉ tập trung vào cốt truyện hành động như trước đây. Tương tự, tự sự học ở Kỷ Nhân Sinh được giao cho nhiệm vụ phải tư duy lại khái niệm không gian. Thay cho truyền thống vốn chỉ tập trung nghiên cứu các khái niệm tĩnh (thí dụ, các ký hiệu thường được dùng để mô tả không gian tự sự như vùng, cột mốc, ngưỡng, toàn cảnh nhìn từ trên xuống [bird’s eye-view…) , giờ đây các nhà tự sự học cần trau dồi hoặc kiến tạo các công cụ mới để xử lý các không gian lưu chuyển, phi tĩnh tại. Có thể nói về một khúc ngoặt trong nghiên cứu các tự sự về môi trường hiện nay như là một nỗ lực để khắc phục giới hạn này – nghiên cứu sông nước. Về phương diện trần thuật, lý thuyết tự sự ở Kỷ Nhân Sinh cũng cần phát triển những nhận thức mới về cấu trúc tự sự, chẳng hạn dạng thức người kể chuyện “chúng ta” (We-narrator) như một đối trọng với người kể chuyện biết hết, toàn tri, mang dáng dấp của Thượng đế, có lẽ đã không còn thích hợp cho những tự sự ở thời đại này. “Người kể chuyện chúng ta” khác với người kể chuyện toàn tri ở chỗ ý thức được tính chất không toàn vẹn, không bao quát hết thảy của cái tập thể mà mình thuộc về, đồng thời cũng ý thức được phía đối trọng với mình – “họ” (“them”) là ai. Chẳng hạn, trong các tự sự hậu thuộc địa, “người kể chuyện chúng ta” thường đại diện cho một bản sắc tập thể tương phản sâu sắc với quyền uy của đế chế (tức “họ”). Bối cảnh khủng hoảng của Kỷ Nhân Sinh còn đòi ta phải nhìn thẳng vào một thực tế luôn có những nhóm đặc quyền tự cho rằng chỉ có mình mới kể được câu chuyện về thời đại. “Người kể chuyện chúng ta” chính là một phương thức để đối thoại, chất vấn quyền uy này và điều này đã được thể nghiệm trong một số tiểu thuyết đương đại, chẳng hạn cuốn On Such a Full Sea (2014) của Lee Chang-Rae.

Tiểu luận của James, theo chúng tôi, là một trong những tiểu luận đột phá nhất của tự sự học hậu kinh điển. Nó không chỉ biện minh về sự cần thiết, sự tương hợp của nghệ thuật tự sự với Kỷ Nhân Sinh mà còn đặt ra nhiều nhiệm vụ mà tự sự học cần phải thực hiện để lĩnh vực này thật sự có tiếng vọng trong đời sống, có khả năng can dự vào những vấn đề sống còn của thời đại. Tự sự học sinh thái vẫn đang ở những chặng đường đầu tiên và vẫn đang còn là một không gian rộng rãi cho những đối thoại lý thuyết. Bản thân thực tiễn văn học Việt Nam cũng rất có thể không chỉ minh họa cho tính hiệu quả của các công cụ và thao tác phân tích của tự sự học sinh thái mà còn thôi thúc sự trau dồi, phát triển các công cụ và thao tác ấy cũng như gợi mở những phát kiến thuật ngữ mới.

3. Thể nghiệm

Tự sự học sinh thái, như đã trình bày ở trên, đang phát triển nhiều chủ điểm nghiên cứu. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi giới hạn thể nghiệm đọc của mình vào hai chủ điểm: sự xung đột của những “thế giới truyện kể” về môi trường và sự trình hiện các thực thể phi nhân loại trong hai tác phẩm “Sầu trên đỉnh Puvan” (Nguyễn Ngọc Tư) và “Một lần đối chứng” (Nguyễn Minh Châu). Mục đích của phần thể nghiệm đọc này là trực quan hóa các cách tiếp cận, thao tác phân tích của tự sự học sinh thái. Mặc dù chưa thể làm mới hay chất vấn các khái niệm và chiến lược chiến giải nhưng qua việc trình bày lối đọc này, chúng tôi cũng muốn lưu ý đến việc cần linh hoạt như thế nào trong việc tiếp thu, vận dụng lý thuyết.

3.1. Xung đột của những thế giới truyện kể trong “Sầu trên đỉnh Puvan” (Nguyễn Ngọc Tư)

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư mở đầu bằng giai thoại về những bông hoa sầu trên đỉnh núi Puvan được ghi chép lai bởi tu sĩ người Pháp, Colègan, vào năm 1887, người đầu tiên nhìn thấy chúng và bỏ mạng ngày sau đó. Mặc dù núi Puvan không có trên bản đồ Việt Nam, các nhân vật và sự kiện ở đây không quy chiếu về bất cứ một tồn tại thực tế nào cả, nhưng toàn bộ giai thoại này bảo lưu những motif quan trọng của một cốt truyện mang màu sắc exotic rất đặc trưng của tự sự thực dân. Một nơi chốn hoang vu, kỳ bí mà người phương Tây luôn xem mình như kẻ đầu tiên phát hiện, chinh phục được nó. Bản thân tên gọi của loài hoa và vẻ đẹp của nó mà theo ghi chép của vị tu sĩ, “đáng đánh đổi cả cuộc đời người để được trông thấy chúng dù chỉ một lần” cũng là những phép tu từ làm nổi bật thế thượng tôn của người phương Tây – những chủ thể biết muộn sầu, những kẻ duy nhất biết theo đuổi và dám trả giá cho những điều phi thường.

Thế giới truyện kể gắn với ý thức hệ thực dân ấy chưa bao giờ mất hiệu lực, kể cả khi chủ nghĩa thực dân về cơ bản đã bị giải thể về chính trị. Giai thoại kỳ bí và đầy khao khát chinh phục ấy ám ảnh tâm trí của Vĩnh – một người đàn ông có đời sống phong lưu ở thành thị, người đều đặn hàng năm “đi gần khắp các châu lục, khám phá những ngọn núi, dòng sông, những vùng đất được xem là đẹp nhất.” Du lịch vốn dĩ đã gắn bó với chủ nghĩa thực dân ngay từ khởi điểm của nó và cho đến bây giờ, diễn ngôn du lịch vẫn thường bảo lưu một cách tinh vi ý thức hệ của chủ nghĩa thực dân, theo đó, “những ngọn núi, những dòng sông, những vùng đất đẹp nhất” thực tế chủ yếu là đối tượng thưởng ngoạn của những kẻ đặc quyền trong xã hội.

Với Vĩnh, việc một cây sầu phải đợi đúng 13 tháng hạn mới nở hoa là sự kỳ bí thôi thúc hành trình leo đỉnh Puvan của anh. Nhưng với Củi, cậu bé dân bản địa, trên đỉnh Puvan ấy chẳng có gì đặc biệt cả và cái cây sầu ấy là “đồ quỷ”, “vô duyên vô dùng”, “ác nhơn ác đức” bởi “cứ năm nào cây trổ bông là dân làng đói”. Cái cây ấy, với dân làng, “không phải là cây, mà là đá” bởi không ai đốn bỏ được” và vì thế, họ chọn cách quên đỉnh núi ấy, quên sự hiện diện của những cây sầu trên đó, Đến đây, ta có thể thấy truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh sự đối chọi giữa hai hình dung – hai “thế giới truyện kể” về đỉnh núi Puvan, gắn với hai ý thức hệ, một bên là thế giới quan du lịch của tầng lớp trưởng giả trong xã hội, một biến thể của ý thức hệ thực dân trong bối cảnh đương đại và một bên là “cảm quan môi trường của người nghèo” (environmentalism of the poor)- một khái niệm liên quan đến công lý môi trường do Rob Nixon đề xuất. Với những người như Vĩnh, cái đẹp nảy nở trong điều kiện của cái khắc nghiệt (cụ thể ở đây là khí hậu) mới phi thường, đáng ngưỡng vọng, cho dù họ chỉ có thể tận hưởng nó trong khoảnh khắc ngắn ngủi. Trong khi đó, với những người dân làng, thời tiết khắc nghiệt là thứ họ phải chịu đựng trong cả thời gian dài, họ hoàn toàn không hiểu vì sao những người như Vĩnh lại khao khát nhìn ngắm những cây sầu ấy. Cái gì được coi là đẹp, trong trường hợp này, là một kiến tạo của ý thức hệ. Hai “thế giới truyện kể” của Vĩnh và Củi được cấu tạo bằng hai hình thức lời trần thuật đối lập nhau về phong cách: một bên là kiến trúc tu từ đậm tính trí thức, là sự nối dài của cảm quan lãng mạn và ý thức hệ thực dân trong hình dung về một thiên nhiên vừa cao cả, vừa thách thức và một bên là một tự sự về thiên nhiên được kể bằng ngôn ngữ bỗ bã, chân chất, không giấu sự bất mãn, bực bội đối với đỉnh nùi ác nghiệt và cả chút mỉa mai đối với khát vọng chinh phục đỉnh núi của Vĩnh.

“Sầu trên đỉnh Puvan” có thể xem là một truyện ngắn có cốt truyện đa tuyến gắn với ba nhân vật Vĩnh, Dịu – cô gái giang hồ có số phận éo le, đồng hành với Vĩnh đến núi Puvan và Củi. Điểm nhìn trần thuật được điều phối theo ba nhân vật, từ đó, người đọc có thể “nhập” vào ý thức của mỗi nhân vật và phán đoán những diễn biến trong thế giới tinh thần của họ. Vĩnh không giấu giếm sự thương hại đối với những kẻ như Dịu và Củi, không phải vì cuộc sống khốn khó, éo le của họ mà vì trong mắt anh, họ là kẻ không có đời sống tinh thần. Đối với Vĩnh, việc họ cùng anh leo đỉnh Puvan chỉ đơn thuần vì mục đích có tiền. Dịu đọc được sự căm ghét trong ánh mắt của Củi về phía Vĩnh, kẻ mong đợi những cơn nắng kéo dài để được nhìn thấy những bông sầu còn bản thân cô thì ngủ thiếp đi vì mệt khi những bông hoa bắt đầu phát sáng. Chỉ có Vĩnh “như phát điên”, “như đang mộng du” khi chứng kiến khoảnh khắc cây sầu trổ hoa. Trạng thái bị mê hoặc đầy phấn khích của Vĩnh trước sự lạ của thiên nhiên ngay sau đó chuyển hóa thành một khoảnh khắc khủng hoảng hiện sinh khi nhân vật không những thấy tất cả những gì mình từng hưởng thụ trở nên tầm thường, nhạt nhẽo mà còn nhận ra “anh biết làm sao với ngày mai”, rơi vào nỗi sợ hãi “cái ngày mai trống rỗng”. Cảm giác bất lực ở hiện tại làm nhân vật sống lại những trải nghiệm chấn thương trong quá khứ: sự bất lực của Vĩnh trước vụ chết đuối của người yêu cũ cũng như cái chết của người thân bởi bom đạn năm xưa. Trạng thái khủng hoảng ấy dẫn đến hành động tự sát của Vĩnh.

Đặt trong mối liên hệ với cái chết vị tu sĩ người Pháp được kể trong giai thoại mở đầu, cái chết của Vĩnh ở đoạn kết khiến ta có thể xem truyện ngắn này của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh motif “lời nguyền của thiên nhiên”. Những cây sầu trong truyện có thể coi là những hình tượng khơi dậy cảm thức ecophobia (nỗi sợ thiên nhiên). Thiên nhiên ở đây khi được con người chiếm lĩnh lại trở thành thứ thiên nhiên không an ủi, không khỏa lấp nỗi trống rỗng của con người. Tuy nhiên, thiết tưởng sẽ là cường điệu nếu cho rằng truyện ngắn này chỉ tái diễn một motif khá phổ biến trong các tự sự hậu thực dân, trong đó, thiên nhiên được phú cho chức năng trừng phạt những tham vọng của những kẻ thượng đẳng. Tên gọi của đỉnh núi Puvan có thể gợi liên tưởng đến chữ “phù vân”, một biểu tượng khá phổ biến trong tư tưởng phương Đông, cái Không đầy minh triết. Cảm quan về cái Không ấy đối lập với tư tưởng chiếm hữu gắn với ý thức hệ thực dân, được nối tiếp trong các diễn ngôn du lịch đương thời nơi thiên nhiên được tuyệt đối hóa thành những thứ đẹp nhất, phi thường nhất, cần phải đến trước khi chết thì đời người mới đáng giá. Nhận thức về cái Không ấy cũng giải phóng con người ra khỏi sự hẹp hòi của bản ngã, những mặc cảm và định kiến về chính mình, từ đó mà thấu cảm cho nhau.

3.2. “Một lần đối chứng” (Nguyễn Minh Châu) những bất an trong sự trình hiện loài vật

“Một lần đối chứng” của Nguyễn Minh Châu có thể được xem như một tự sự chất vấn về khả năng của văn chương trong việc biểu đạt thế giới loài vật bên ngoài những kinh nghiệm con người. Trên thực tế, khái niệm “nhân vật” vẫn chủ yếu được hiểu là hình tượng con người cụ thể được khắc họa bằng các phương tiện nghệ thuật. Các “con vật” có thể được xem là nhân vật khi chúng được xây dựng như những ẩn dụ về các tính cách hay các mối quan hệ của con người trong đời sống. Nhân hóa là phương thức quan trọng nhất để biến các con vật thành nhân vật. Phép nhân hóa, do đó, là phép tu từ được hình thành trên giả định các thực thể phi nhân loại không có khả năng tự chủ (agency).

Truyện ngắn này của Nguyễn Minh Châu, ngay từ những dòng đầu tiên, đã thể hiện sự loay hoay của người viết để làm thế nào kể về một con vật như một “nhân vật” mà không mắc kẹt trong cơ chế nhân hóa. Điều này được thể hiện trực tiếp nhất qua đoạn trữ tình ngoại đề quan trọng trong truyện: “Nghề cầm bút đã tạo nên ở trong tôi thói quen nhập thân vào kẻ khác, sống cuộc sống bên trong của mọi người, nhưng lần này, trước đời sống nội tâm của một con mèo, tôi tự dặn mình không bao giờ được quên nó là loài vật. Tôi không muốn viết một câu chuyện mà loài vật được nhân cách hóa, gán ghép cho loài vật những biểu hiện của lòng nhân ái và trí khôn mà nó không có, xóa bỏ ranh giới giữa loài vật và người, bởi tôi muốn rằng, chúng ta – các bạn đọc và tôi – nhân danh loài người, thử làm một cuộc đối chứng với loài vật- một cuộc đối chứng giữa thiện và ác, giữa lý trí, trí tuệ và bản năng mù quáng.” Nếu chỉ căn cứ vào đoạn văn mang tính luận đề này, có thể nhận xét người kể chuyện trong khi cố gắng thoát ra cơ chế của phép nhân hóa thì vẫn rơi vào bẫy của tư duy nhân tâm luận với việc đặt con người trong quan hệ nhị phân mang tính tôn ti, nơi con người được xem sở hữu các phẩm chất cao hơn con vật. Nhưng mạch trần thuật trong truyện cho phép ta nghĩ đến những cách đặt vấn đề phức tạp hơn về quan hệ thú – người. Người kể chuyện, dù sao đi nữa, vẫn phải dùng cơ chế loại suy, dùng các kinh nghiệm của con người để miêu tả con vật. Con mèo – “nhân vật” chính” trong “Một lần đối chứng” – được khắc họa như một hình tượng tha hóa, kiểu hình tượng xưa nay vốn chỉ gắn với con người. Sự “tha hóa” ở đây, từ điểm nhìn của người kể chuyện, là một quá trình “hoang hóa” của con mèo: vốn là một con mèo nhà, sau khi mắc chứng xoắn trùng đường ruột không chữa nổi, lại thêm ghẻ lở hôi hám, nó không còn được người ta nuôi nữa, phải bỏ nhà ra đi, trở thành một con mèo hoang và có khả năng còn hóa cáo, nếu nó cứ thế dấn sâu hơn vào không gian hoang dã. Sự “tha hóa” của con mèo, theo đó, được hiểu là hậu quả của việc nó bị tước khỏi không gian xã hội của con người, nơi nó được bao bọc nhưng đồng thời cũng là nơi nó bị thuần hóa. Chính từ đây, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu làm gợn lên những băn khoăn về “tha hóa” và “thuần hóa”: nếu ta coi loài vật cũng có bản thể, bản thể ấy được quyết định bởi văn hóa của loài người (“thuần hóa”), được nhìn nhận bởi điểm nhìn của con người hay là trạng thái hoang dã của nó – trạng thái nhiều khi vượt quá ngôn ngữ của con người. Người kể chuyện đã không giấu giếm sự hoang mang này của mình: với tư cách một nhà văn, anh ta đã quan sát nhiều cặp mắt của người đời nhưng ngần đấy kinh nghiệm cũng không giúp anh diễn tả nổi ánh mắt của con mèo hoang, cũng không giúp anh lý giải được những gì ở bên trong con mèo nhà. Ánh mắt loài vật gợi cho người kể chuyện nghĩ về một lịch sử xa hơn tất cả các kinh nghiệm của con người: “…tôi dõi mắt nhìn khắp bốn phía và chưa bao giờ tôi thấy phong cảnh cánh đồng quen thuộc ấy trở nên hoang dã đến thế, hoang dã đến mức thành xa lạ, và cả mặt đất mà chúng ta đang sinh sống trong phút chốc như vừa đi ngược trở về một thời kỳ hồng hoang chưa có dấu vết con người – ngay cả loài vật cũng đều là dã thú”. Sự bất an này đã phá vỡ tính toàn tri của người kể chuyện – một đặc điểm phổ biến trong các tự sự ngụ ngôn về loài vật. Nhưng xa hơn thế, dần dần người kể chuyện, trong khi vẫn nghĩ về loài người như một tồn tại cao cả, đã nghĩ về sự tương đồng giữa thú và người, rằng lịch sử của loài người cũng có những trang tăm tối, nơi con người cũng hoang dã như thú, nơi người cũng ăn thịt người. Và quá khứ ấy được người kể chuyện hình dung như “một vết thương chung của mọi người”.

Có thể nói, nỗi bất an tự sự là một chủ đề quan trọng của “Một lần đối chứng”. Đó là nỗi bất an về ngôn ngữ, về sự bất cập của các thủ pháp miêu tả về một đối tượng mà con người tưởng chừng có thể làm chủ nó bằng cách kể chuyện về nó. Từ đó, nó còn là một tự sự về nỗi bất an của việc “ con người”. Để người, con người phải làm người. Quá trình làm người này đòi hỏi con người cần đến ý niệm về Kẻ Khác/Cái Khác, cần phải trấn áp Kẻ Khác/Cái Khác để duy trì địa vị Người của mình. Nhưng cũng chính vì thế, làm Người trở thành một quá trình bấp bênh, phấp phỏng. Trong trường hợp “Một lần đối chứng”, như đã nói, một mặt, người kể chuyện vẫn đặt “Người” vào bảng giá trị cao hơn “Con” nhưng phần “Con” ấy như ma ám, sẽ luôn có thể đột nhiên quay về ám ảnh. Đây chính là một cơ chế phổ biến của chấn thương. Nguyễn Minh Châu có lẽ đã hình dung về lịch sử của sự làm người như một lịch sử mang chấn thương như thế.

*

Trở lên trên là hai trường hợp nghiên cứu cụ thể mà chúng tôi cố gắng vận dụng các luận điểm và thao tác của tự sự học sinh thái vào phân tích hai văn bản văn học Việt Nam. Chúng tôi ý thức rõ với hai trường nghiên cứu thể này, chúng tôi đang thực hành phê bình sinh thái gắn liền với việc mài sắc các khái niệm công cụ của tự sự học, cụ thể ở đây là khái niệm “thế giới truyện kể” và “tổ chức trần thuật”. Ở những thể nghiệm bước đầu này, những phân tích của chúng tôi có thể còn có chỗ cần được trao đổi. Nhưng chúng tôi tin vào triển vọng của nhánh tự sự học này khi áp dụng vào thực tiễn của văn học Việt Nam và khả năng đối thoại lý thuyết với các nhà tự sự học sinh thái trên thế giới từ việc phân tích các chất liệu của văn học Việt Nam.

TRẦN NGỌC HIẾU

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, 7-2022, trang 38-52.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Minh Châu (1999), “Một lần đối chứng” in trong Nguyễn Minh Châu – Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội, 1999.

[2] Jacques Derrida, The Animal that Therefore I Am, Marie – Louis Mallet biên soạn, New York: Fordham University Press (2008).

[3] Yuval Noah Harari (2019),Why Fiction Trumps Truth”, https://www.nytimes.com/2019/05/24/opinion/why-fiction-trumps-truth.html     (truy cập ngày 14-6-2022)

[4] Ursula K. Heise (2010) , “Afterword: Postcolonial Ecocriticism and the Question of Literature” in trong Postcolonial Green: Environmental Politics and World Narratives, Bonnie Roos và Alex Hunt (chủ biên), Charlottesville: University of Virginia Press, 2010

[5] Kyle T. Henrichs (2021), Eco-Narratology and Contemporary American Fiction, Ph.D. Dissertation, University of Wisconsin-Milwaukee.

[6] Erin James (2015), The Storyworld Accord: Econarratology and Postcolonial Narratives, Lincoln & London: University of Nebraska Press.

[7] Erin James & Eric Morel (2020), Environment and Narrative: New Directions in Econarratology, Columbus: The Ohio State University Press.

[8] Erin James (2020), “Narrative in the Anthropocene” in trong Environment and Narrative: New Directions in Econarratology, Columbus: The Ohio State University Press.

[9] Erin James (2021), “Afterword: Econarratology Then, Now, and Later”, Substance, Volume 50, Number 3, 2021 (Issue 156), trang 150.

[10] Michael Marder (2013), “What is Plant Thinking”, Klesis: revue philosophique, Vol:25, 2013, trang 126-143.

[11] Rob Nixon (2011), Slow Violence and the Environmentalism of the Poor, Harvard University Press.

[12] James Phelan, “Narrative Ethics”, https://www.lhn.uni-hamburg.de/node/108.html  (truy cập ngày 14-6-2022)

[13] David Rodriguez (2019), Spaces of Indeterminacy: Aerial Description and Environmental Imagination in 20th Century American Fiction, Ph.D Dissertation, State University of New York at Stony Brook.

[14] Nguyễn Ngọc Tư (2017), “Sầu trên đỉnh Puvan”, in trong Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (bản in lần thứ 15), NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

bell hooks – Lời giới thiệu bản dịch “Nữ quyền cho tất cả mọi người” (NXB Phụ Nữ, 2022)

bell hooks (tác giả chủ ý không vết hoa) là bút danh của Gloria Jean Watkins (sinh năm 1952), giáo sư ngành Nhân văn và Nghệ thuật từng làm việc ở nhiều đại học danh tiếng của Hoa Kỳ, nhà tư tưởng nữ quyền, nhà giáo dục học, nhà hoạt động xã hội vì quyền của người da màu và tầng lớp lao động, một tác giả với 30 đầu sách đã được xuất bản, từ các công trình học thuật đến những tác phẩm dành cho thiếu nhi. Đấy là chưa nói đến một số vai trò khác của bà như làm diễn giả, viết kịch bản phim… Tạp chí The Atlantic Monthly đã khẳng định bà là “một trong những tri thức công chúng có sức ảnh hưởng lớn nhất nước Mỹ”.

Chính trị nữ quyền nằm ở trung tâm các hoạt động tri thức và xã hội của bell hooks. Từ thời sinh viên, bà đã viết cuốn sách đầu tay Ain’t I a Woman? Black Women and Feminism (Tôi có phải là một phụ nữ không? Phụ nữ da đen và nữ quyền luận) (1981). Nhan đề của cuốn sách láy lại tên bài diễn thuyết nổi tiếng “Ain’t I a Woman?” của Sojourner Truth (1797-1883), một phụ nữ da đen vốn xuất thân từ tầng lớp nô lệ ở nước Mỹ, người không biết chữ nhưng có thể dùng năng lực kể chuyện và hùng biện của mình để khẳng định giá trị và đấu tranh cho quyền của phụ nữ da màu. Trong sự nghiệp của mình, bell hooks luôn nhắc đến Truth như một nguồn ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và cách dấn thân cho nữ quyền của bà, theo đó, cuộc đấu tranh nữ quyền không tách rời với cuộc đấu tranh giai cấp và chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.

Cuốn Feminism is for Everybody (Nữ quyền luận cho mọi người) được bell hooks cho ra mắt vào năm 2000, sau một thời gian dài bà nghiên cứu nữ quyền luận trong khu vực học thuật hàn lâm với những công trình gây nhiều tiếng vang cũng như đã tham gia vào phong trào nữ quyền như một nhà hoạt động xã hội hăng hái. Cuốn sách còn có một tiêu đề phụ, theo đó, nữ quyền luận được hiểu như một đường lối chính trị nhiệt thành, say mê, “Passionate Politics”. Với một dung lượng không quá đồ sộ, cuốn sách của bell hooks nhìn lại những chặng đường thăng trầm mà phong trào nữ quyền luận ở Hoa Kỳ đã trải qua, từ làn sóng thứ nhất bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX với những cuộc đấu tranh mở đường để phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội, giáo dục, khẳng định năng lực và giá trị của bản thân đến những động hướng của nữ quyền luận đương đại bắt đầu từ cuối thập niên 1980. Không thể phủ nhận, phong trào nữ quyền đã thúc đẩy việc gia tăng địa vị và quyền năng của người phụ nữ trong xã hội Mỹ, đem đến cho họ nhiều sự bình đẳng nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề của phụ nữ chưa được nhận thức thấu đáo và giải quyết, dẫn đến những ngộ nhận và cả những chia rẽ nội bộ. Thực tiễn ấy thôi thúc bell hooks viết Nữ quyền luận cho mọi người, một cuốn sách có tính chất như một cẩm nang bỏ túi về phong trào này, được viết bằng một thứ văn phong bình dân, dễ tiếp cận, thay vì mang tính chất kinh viện. Mục đích của bà là lan tỏa rộng rãi những nhận thức đúng đắn về nữ quyền luận, khiến trào lưu này không chỉ là đối tượng quan tâm của giới học thuật hay của phụ nữ thuộc tầng lớp đặc quyền, từ đó, thách thức lại những hình ảnh bị bóp méo của phong trào được truyền thông đại chúng dòng chính của xã hội gia trưởng tư bản thượng tôn da trắng đưa ra cho công chúng.

Việc đầu tiên mà bell hooks làm rõ trong cuốn sách này là đưa ra một định nghĩa cô đọng nhất, bản chất nhất về phong trào nữ quyền. Theo đó, nữ quyền luận là một phong trào tư tưởng và xã hội nhằm chấm dứt tất cả những hình thức của định kiến giới, bóc lột và đàn áp giới. Phạm vi vấn đề mà cuốn sách thảo luận rất rộng, từ chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa cho đến những khía cạnh thuộc về đời sống riêng tư, cá nhân như tình dục, việc làm mẹ, quan niệm về vẻ đẹp thể chất của phụ nữ… Có thể thấy, mọi vấn đề của đời sống, dù ở cấp độ xã hội hay cá nhân, đều nên được tham chiếu từ lăng kính nữ quyền luận. Bởi những gì mà nữ quyền luận quan tâm cũng là những gì mà mọi người đều cần quan tâm, chúng thiết thân với cuộc sống của tất cả mọi người, dù thuộc giới nào đi nữa. Đó là những vấn đề mà con người cần phải đối mặt để tìm cách cùng tháo gỡ, giải quyết những khúc mắc, mâu thuẫn để hướng tới việc chung sống hài hòa trong cõi sống này. Nữ quyền luận, trong tầm nhìn của bell hooks, hoàn toàn không phải việc đảo ngược lại thế đối lập nhị nguyên giữa nam giới và nữ giới, biến nam giới thành mục tiêu công kích và giành lấy địa vị cho nữ giới như một hình thức soán ngôi. Theo bell hooks, đối tượng mà nữ quyền luận phải đấu tranh để xóa bỏ là chế độ gia trưởng, đặc biệt là hình thái tư bản thượng tôn da trắng của nó. Chính nó đã áp đặt lên những ràng buộc và khuôn mẫu cho cả nam giới và nữ giới, cấu trúc nên tình trạng bất bình đẳng và đặc biệt biến những sự bất bình đẳng này thành một tình trạng đương nhiên, miễn trừ sự chất vấn. Nữ quyền, vì thế, là nhân quyền; phong trào nữ quyền không chỉ nhằm giải phóng phụ nữ mà giải phóng con người nói chung, xây dựng nên những mối quan hệ của con người trong đời sống trên nền tảng nhân văn mới.

Có thể thấy lập trường nữ quyền luận của bell hooks mang tinh thần Marxist rõ nét. Ngay từ cuốn sách đầu tiên của mình, bell hooks đã nhận thức rõ: các vấn đề nằm trong nghị trình của nữ quyền luận đan cài một cách phức tạp với các vấn đề về giai cấp và chủng tộc. Những hạn chế của phong trào nữ quyền ở Mỹ, theo phân tích của bà, một phần quan trọng nằm ở việc các nhà tư tưởng và hoạt động chưa ý thức được sâu sắc sự đan cài này, từ đó dẫn đến những hệ lụy nhất thiết phải khắc phục sớm. Chẳng hạn, nữ quyền luận dường như được hình dung là một phong trào do phụ nữ da trắng, thuộc tầng lớp đặc quyền trong xã hội nắm lấy ngọn cờ và do vậy, chỉ tập trung vào những đòi hỏi của bộ phận đặc quyền này nhằm gia tăng địa vị của mình, trong khi đó, bộ phận phụ nữ da màu, phụ nữ nghèo, phụ nữ thuộc tầng lớp lao động – những đối tượng mà đáng ra phong trào nữ quyền phải bảo vệ, bênh vực trước hết lại bị vô hình hóa. Chủ nghĩa cơ hội trong phong trào nữ quyền ở Mỹ là một thực tế khi những nhà tư tưởng và hoạt động nữ quyền da trắng không đặt mình vào vị thế của những người phụ nữ thuộc nhóm thiểu số và yếu thế trong xã hội để cất liên tiếng nói đòi bình đẳng. bell hooks không hài lòng với cách tiếp cận theo khuynh hướng cải lương của các nhà nữ quyền thế hệ trước và cùng thời với bà bởi theo bà, cách tiếp cận này không thúc đẩy những chất vấn cần thiết, mang tính hệ thống đối với các cấu trúc duy trì nền văn hóa gia trưởng tư bản thượng tôn da trắng, không tạo ra những thay đổi mang tính bản chất về cơ sở hạ tầng và ý thức hệ để giải phóng phụ nữ thực sự. Phong trào nữ quyền, vì thế, vẫn để số đông phụ nữ phải đương đầu với nhiều áp lực và chịu đựng nhiều bất công, chẳng hạn, phải cân đối việc phát triển sự nghiệp và chăm sóc gia đình, phải chấp nhận mức lương thua thiệt so với nam giới khi đi làm trong khi hệ thống phúc lợi xã hội vẫn chưa quan tâm đúng mức đến điều kiện sức khỏe, điều kiện sống của họ… Điều này khiến cho nữ quyền luận ở Mỹ vẫn chưa trở thành một phong trào quy tụ rộng rãi quần chúng như nó được kỳ vọng: nó thiếu tiếng nói cần được lắng nghe nhất từ phía những phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi nhất trong chế độ gia trưởng tư bản thượng tôn da trắng, nó chưa có được sự liên minh với nam giới, những người ý thức được sự cầm tù của khuôn mẫu gia trưởng đối với sự phát triển tự do và toàn vẹn của chính mình, nó đang nói một thứ ngôn ngữ kinh viện, nhiều biệt ngữ và ít khả năng lay động.

Mặt khác, cũng có lý khi Jennifer Hockenbery Dragseth[1] xếp bell hooks vào những nhà nữ quyền hiện sinh, những người coi giới là một phạm trù văn hóa và giải phóng khuôn mẫu giới đòi hỏi phải giải phóng các cơ chế của văn hóa đóng khuôn những hình dung về phụ nữ, nữ tính. Vốn xuất thân là người theo học văn chương, bell hooks nhận ra một trong những định kiến sâu sắc nhất mà văn hóa gia trưởng duy trì dai dẳng là việc xem thường các giá trị văn hóa do phụ nữ sáng tạo. Bà nhìn vào hệ thống điển phạm văn chương phương Tây nơi các đại diện của phụ nữ luôn chỉ được nhìn nhận như những nét chấm phá. Và càng hiếm hoi hơn nữa là những sáng tạo văn hóa của phụ nữ da màu được thừa nhận về giá trị. bell hooks cũng phân tích thuyết phục cơ chế quỷ quyệt của văn hóa gia trưởng khi nó biến phụ nữ từ chỗ là nạn nhân của những định kiến mà nó hun đúc đến chỗ biến họ trở thành đồng lõa với những định kiến ấy, trở thành những người áp đặt logic thống trị của nam giới lên những phụ nữ khác, lên chính con em của họ. Những phân tích của bà về bạo lực gia trưởng ngay ở phụ nữ thể hiện một cái nhìn nghiêm khắc nhưng xác đáng đối với những vấn đề còn tồn tại mà bản thân phụ nữ phải nhận ra và thay đổi. Tất nhiên, ngoài sự thay đổi tự giác ở mỗi cá nhân, cần thiết phải xóa bỏ các thiết chế văn hóa gia trưởng vốn luôn tìm cách đồng hóa phụ nữ vào trong logic của chúng.

Nữ quyền luận cho mọi người không chỉ là một tập tản văn chính luận mà còn mang tính tự sự rất đậm. bell hooks viết cuốn sách này không chỉ như một nỗ lực nhận diện và phê bình phong trào nữ quyền ở Mỹ; cuốn sách còn là sự nhìn lại chính mình như một phụ nữ da màu dấn thân vào phong trào. Và ở đây, có thể thấy rõ ở bà hình ảnh của một trí thức trung thực khi bà không ngần ngại nói về những thời điểm nhận thức của mình còn chưa chín, chưa cặn kẽ. Khi phê bình giới hạn của phong trào, bell hooks đồng thời thực hiện việc phê bình chính những giới hạn của bản thân. Phải nói thêm, đọc Nữ quyền luận cho mọi người, ta có thể hiểu hơn tầm quan trọng của ý thức phê phán. Theo đó, mục đích chính của phê phán không phải là tấn công, đả kích mà hơn hết, phê phán gợi mở những hình thức can thiệp. Nói khác đi, phê phán mở ra khả thể. Tính khai phóng của nữ quyền luận trong tư cách một trào lưu tư tưởng cần được hiểu như thế.

Việc dịch và giới thiệu cuốn sách này trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam, theo tôi, có nhiều ý nghĩa. Lịch sử hiện đại của Việt Nam gắn liền với nhiều phong trào xã hội, trong đó có làn sóng nữ quyền nổi lên từ đầu thế kỷ XX, nơi phụ nữ dấn thân, cất tiếng nói đòi hỏi sự tôn trọng về nhân cách, tài năng, thân thể và các quyền làm người cơ bản.Tuy nhiên, phong trào nữ quyền trong lịch sử Việt Nam hiện đại phần nào cũng vẫn là một lịch sử bị ngoại biên hóa, có những gián đoạn, thăng trầm trong sự phát triển của nó. Những thảo luận về bình đẳng giới nổi lên trên truyền thông đại chúng gây cảm giác về một sự trở lại (hoặc cũng có thể nghĩ như một làn sóng mới) của nữ quyền trong xã hội Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, liệu nữ quyền luận ở Việt Nam đã thoát khỏi những nghi kỵ, định kiến về nó như là một trào lưu Tây học, một cuộc nổi loạn của những phụ nữ thuộc tầng lớp đặc quyền trong môi trường thị dân phá vỡ truyền thống hay một xu hướng gây hấn với nam giới hay chưa? Những hình thức đóng khung phụ nữ, “vật hóa” phụ nữ vẫn đang diễn ra công khai trong đời sống, từ trong những lời bông đùa cho đến những hình ảnh phổ biến trong quảng cáo, truyền thông, phim ảnh, văn chương ở Việt Nam. Những vấn đề về bạo lực gia đình, quấy rối tình dục mà phụ nữ là nạn nhân, những điều kiện cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội vẫn còn quá nhiều bất cập đối với phụ nữ… không phải chưa từng được phản ánh, được nêu lên trước công luận nhưng có lẽ “nữ quyền luận” vẫn đang được hình dung như một khuynh hướng tư tưởng trưởng giả hay một thứ lý thuyết kinh viện, không có nhiều giá trị thực tiễn. Cuốn sách của bell hooks là một tham khảo cần thiết đối với những nhà hoạt động xã hội ở Việt Nam để cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới thật sự có những bước đột phá.

Nhưng sẽ là phiến diện nếu nghĩ Nữ quyền luận cho mọi người chỉ là sách dành cho những nhà hoạt động xã hội. Trong chương cuối của cuốn sách, khi nói về tầm nhìn của nữ quyền luận, bell hooks cho rằng cốt lõi của nữ quyền luận chính là tình yêu, là sự cảm thông và tôn trọng giữa người với người, vượt qua những khác biệt về giai cấp, chủng tộc, khuynh hướng tính dục. Tinh thần của nữ quyền luận còn là nền tảng của một đạo đức nhân văn mới, một đạo đức của tinh thần biết chăm sóc, nuôi nấng sự sống, hướng tới thấu hiểu và tôn vinh các giá trị đa dạng, thay thế cho nền tảng đạo lý lấy sự thống trị và phục tùng mà văn hóa gia trưởng xem là hạt nhân trung tâm. Hơn cả một trào lưu, một làn sóng, tinh thần của nữ quyền cần phải là chất men thiết yếu để gắn kết con người với con người, con người với thế giới, xây dựng nên một trạng thái chung sống hài hòa trên cõi sống này, vươn đến sự tự do đích thực – “tự do cùng nhau”. Tất nhiên, để trở thành chất men như thế, nữ quyền luận luôn phải chống lại việc trở nên xơ cứng và giáo điều, không gắn với những điều kiện lịch sử, chính trị, văn hóa đặc thù của từng bối cảnh. bell hooks không trình bày về nữ quyền luận như một dự án không tưởng; bà tin vào tính khả thi của nó cũng như tin vào việc con người có khả năng thay đổi để làm cho cõi sống này thực sự đáng sống, dẫu rằng hành trình để hiện thực hóa dự án này nhọc nhằn và dài lâu. Nhưng những gì đẹp đẽ nhất xưa nay vẫn luôn đòi hỏi sự nhẫn nại, bền bỉ, nỗ lực của con người. Nữ quyền luận, vì thế, là một tư tưởng lạc quan hiểu theo nghĩa ấy.

Trần Ngọc Hiếu


[1] Jennifer Hockenbery Dragseth,

Thinking Woman: A Philosophical Approach to the Quandary of Gender, The Lutterworth Press, 2016.

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI: DIỆN MẠO VÀ TÁC ĐỘNG

Triển lãm sắp đặt ảnh “8m²” của Nguyễn Thế Sơn - Hội Kiến Trúc Sư Việt Nam
Ảnh từ Triển lãm sắp đặt “8m2” của Nguyễn Thế Sơn

Một trong những phương diện làm nên vẻ sống động của bức tranh văn học Việt Nam[1] hai thập niên đầu thế kỷ XXI là hoạt động lý luận-phê bình. Giai đoạn này chứng kiến sự sôi nổi trong việc giới thiệu, dịch thuật và vận dụng các lý thuyết đương đại vào thực tiễn văn học Việt Nam. Nhiều từ khóa mới, cách đặt vấn đề, cách tiệp cận mới đã xuất hiện trong những nghiên cứu văn học ở Việt Nam giai đoạn này với nhiều quy mô, mức độ. Sự thay đổi này, một mặt, vừa thích ứng với những vận động của văn học Việt Nam trong bối cảnh văn hóa mới; mặt khác, ít nhiều cũng có những tác động mang tính chất định hướng, gợi mở cho sáng tạo văn chương.

Bài viết này lựa chọn một hiện tượng có lẽ đã đủ độ lùi để nhìn lại: sự hiện diện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam. Bài báo muốn dựng lại diện mạo của chủ nghĩa hậu hiện đại khi nó du hành đến Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI như một tự sự, nhìn nhận việc giới thiệu, dịch thuật và diễn giải chủ nghĩa hậu hiện đại như một lý thuyết đã đóng vai trò như một tác nhân dẫn đến những thay đổi trong tư duy và thực hành văn chương ở Việt Nam như thế nào.

Bối cảnh của chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam

Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện trong diễn ngôn học thuật ở Việt Nam từ cuối những năm 1980, có lẽ sớm nhất bắt đầu từ tiểu luận của Greg Lockhart về Nguyễn Huy Thiệp được dịch sang tiếng Việt và công bố trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1989, trong đó ông không ngần ngại nhận diện sáng tác của nhà văn này thuộc khuynh hướng hậu hiện đại [13]. Trong suốt thập niên 1990, trên Tạp chí Văn học, một đôi lần khái niệm này được dẫn nhập như một trào lưu văn học phương Tây qua những bài dịch lấy nguồn từ các tác giả nước ngoài. Nhưng phải đợi đến năm 2000, nó mới thật sự trở thành sự kiện văn học. Bắt đầu trên các tạp chí văn học Việt ngữ ở hải ngoại như Tạp chí Thơ, Việt, chủ nghĩa hậu hiện đại được trở thành chủ đề được thảo luận với sự đóng góp của nhiều nhà phê bình, dịch giả. Sự xuất hiện của internet tạo điều kiện thuận lợi để những thảo luận về hậu hiện đại có sự cộng hưởng từ phía các nhà nghiên cứu trong nước. Tính từ 2001 đến 2005, những nỗ lực giới thiệu và thảo luận về chủ nghĩa hậu hiện đại diễn ra khá sôi nổi trên cả các báo, tạp chí văn nghệ in ấn chính thống lẫn trên trên các diễn đàn mạng – một không gian thay thế (alternative space) có sức hút không thể phủ nhận đối với các hoạt động văn hóa, văn học ở thời điểm này. Khi không gian mạng với khả năng giải lãnh thổ của nó đã xóa đi tính chất phân giới giữa văn học trong nước và hải ngoại thì những thảo luận về chủ nghĩa hậu hiện đại chính là sự kiện đánh dấu việc từ đây nên hình dung về văn học Việt Nam như một thực thể xuyên quốc gia (transnation).

Những tranh luận về chủ nghĩa hậu hiện đại trong bối cảnh học thuật Việt Nam, về cơ bản, có thể hệ thống lại thành những vấn đề: 1- chủ nghĩa hậu hiện đại có phải là một hiện tượng “chính danh” hay chỉ là một hiện tượng thời thượng, không có triển vọng? 2 – chủ nghĩa hậu hiện đại phải chăng là định hướng mà văn học Việt Nam nên theo đuổi? 3 – thật sự, nếu chủ nghĩa hậu hiện đại đã xâm nhập vào đời sống văn học Việt Nam thì nó đã và đang tạo nên những tác động gì?

Với vấn đề thứ nhất, những người cổ súy cho chủ nghĩa hậu hiện đại coi đây là bước ngoặt hệ hình trong tư duy nhân loại kể từ sau Thế chiến II, gắn liền với bước chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp, nơi quá trình tin học hóa diễn ra mạnh mẽ trên mọi bình diện đời sống. Bước ngoặt hệ hình này đánh dấu sự khủng hoảng của các “siêu tự sự”, trong đó, “tự sự” – các chuyện kể – được hiểu như một hình thức của tri thức và các “siêu tự sự” hay “đại tự sự” được hiểu là các hệ thống tri thức mang tính bá quyền trong các nền văn hóa, các xã hội. Chúng chính là cấu trúc chìm bên dưới ý thức hệ của tính hiện đại, một mặt hợp thức hóa một số cách nghĩ, cách hiểu, cách kiến giải, xem đó là những chuẩn mực, chân lý có tính phổ quát, mặt khác loại bỏ những khả thể khác của tư duy, những dị biệt trong quan niệm về giá trị. Động thái chất vấn các đại tự sự này được nêu bật như là đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trên bình diện tư tưởng, chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với những động hướng của chủ nghĩa hậu cấu trúc nhằm thoát khỏi logic nhị nguyên mang tính nhân tạo và tôn ti của cấu trúc luận để tư duy đa nguyên, đa thanh hơn. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên khi trên bình diện chính trị, xã hội, chủ nghĩa hậu hiện đại lại song hành cùng với những phong trào như giải thực dân, nữ quyền, công cuộc đòi bình đẳng cho những người da màu, hay gần đây hơn là phong trào của cộng đồng LGBT, của người khuyết tật. Ở mức độ nào đó, chủ nghĩa hậu hiện đại là nền tảng về mặt tư tưởng của những phong trào xã hội này. Trên bình diện văn học nghệ thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là đã định hình một số đặc điểm về thi pháp, phân biệt với nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa vốn được coi là một trào lưu đã kết thúc khi thế giới ra khỏi Thế chiến II và nếm trải những khủng hoảng của tính hiện đại. Những đặc điểm thường được khái quát là: sự nhòa mờ lằn ranh thể loại, tính phân mảnh như là đặc trưng thế giới quan và nguyên tắc tổ chức văn bản nghệ thuật, tính giễu nhại như một ý niệm, lối viết siêu truyện/siêu tiểu thuyết (metafiction), sự lai ghép giữa nghệ thuật đặc tuyển và nghệ thuật đại chúng [11], [13], [26]… Văn học nghệ thuật hậu hiện đại đã kết tinh được những điển phạm và nhiều gương mặt quan trọng của văn học thế giới đương đại đồng thời cũng được xem là đại diện tiêu biểu của trào lưu hậu hiện đại đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu.

Những người ngờ vực tính chính danh của chủ nghĩa hậu hiện đại không phải không có lý khi nhận thấy với tư cách là một thuật ngữ, tên gọi này bao chứa trong nó nhiều khuynh hướng, nhiều hiện tượng đa dạng và nhiều khi mâu thuẫn với nhau. Việc quy tất cả các khuynh hướng tư tưởng và thực hành nghệ thuật đa dạng này vào ô “hậu hiện đại” có nguy cơ làm nhòa mờ đi sự độc đáo, riêng biệt trong khía cạnh chính trị và thi pháp của từng hiện tượng ấy. Đó là một lý do quan trọng khiến nhiều nhà văn, nhà tư tưởng mặc dù có thể được các nhà phê bình gán nhãn “hậu hiện đại” nhưng lại không thoải mái, thậm chí từ chối nhận mình thuộc về khung phân loại này. Nhà nghiên cứu Thụy Khuê thì đặt ra một hoài nghi: nếu chủ nghĩa hậu hiện đại cổ xúy cho việc phá vỡ các đại tự sự, vậy thì phải chăng chính nó cũng đang trở thành một đại tự sự? [12]. Trong khi đó, Nguyễn Văn Dân lại cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là một hiện tượng “chồng chéo về mặt khái niệm” bởi nhiều đặc điểm được xem là nổi bật của nghệ thuật hậu hiện đại hoàn toàn đã được định hình trong nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa. Bởi vậy, ông cho rằng thuật ngữ “hậu hiện đại” trong diễn ngôn lý luận phê bình ở Việt Nam đang bị lạm dụng và có tính chất thời thượng nhiều hơn. [2].

Sự hoài nghi của Thụy Khuê và Nguyễn Văn Dân là có cơ sở nhưng cũng chưa đủ để phủ nhận việc chủ nghĩa hậu hiện đại đã trở thành một từ khóa quan trọng trong những thảo luận về tư tưởng và nghệ thuật trên phạm vi thế giới. Có một thực tế là nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam ít quan tâm đến việc các nhà tư tưởng hậu hiện đại phê phán tính hiện đại từ góc độ tri thức luận trong khi đó lại chấp nhận khá cởi mở những khả thể mà hậu hiện đại mở ra, đặc biệt trong địa hạt nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn trong lời giới thiệu bản dịch Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean – François Lyotard đã đưa ra một lưu ý rất quan trọng về mối quan hệ giữa triết học hậu hiện đại và nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa, theo đó, “chính triết học hậu – hiện đại thoát thai từ tinh thần của nghệ thuật hiện đại”: “Triết học học hậu hiện đại diễn đạt một cách suy lý những gì nghệ thuật hiện đại đã thể nghiệm bằng phương tiện nghệ thuật” [21, tr.17]. Sự khác biệt lớn nhất giữa nghệ thuật hiện đại và nghệ thuật hậu hiện đại, theo Lyotard, nằm ở khía cạnh tâm thức: nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa than khóc cho sự mất mát, tan rã của một hiện thực duy nhất, thống nhất mọi sự đối lập và dị biệt thì nghệ thuật hậu hiện đại, hay rộng hơn, tâm thức hậu hiện đại lại reo vui trước tình trạng này bởi sự giải thể thứ hiện thực duy nhất này gắn liền với “sự trỗi dậy của vô vàn khả thể cho việc tìm tòi những luật chơi mới, những phương thức nghệ thuật mới mang tính thể nghiệm” [dẫn theo 21, tr.21]. Tuy nhiên, phải thấy rằng sự “reo vui” của tâm thức hậu hiện đại có tiền đề từ sự tự ý thức sâu sắc vì sao sự mất mát trạng thái toàn nguyên, thống nhất của thế giới lại khiến người ta muốn “than khóc”. Nói một cách khác, khó có thể có một tâm thức hậu hiện hiện đại thật sự nếu không trải nghiệm sự khủng hoảng của tính hiện đại.

Ở vấn đề thứ hai, đối với những người chủ trương đón nhận chủ nghĩa hậu hiện đại vào trong văn học nghệ thuật Việt Nam, ý niệm hậu hiện đại có lẽ được quan niệm rộng hơn một trào lưu, một xu thế văn học. Nó được hiểu như là thứ năng lượng sáng tạo triệt để nhất, phá cách nhất cần thiết để văn học Việt Nam (bao gồm cả văn học trong nước và hải ngoại) có những đột phá, thoát khỏi những sức ì mang tính truyền thống đã biến thành quy phạm ngấm sâu vào trong vô thức của nghệ sĩ. Nhận định của Lyotard thường được trích dẫn nhiều nhất trong các tiểu luận của các học giả Việt Nam khi bàn về hậu hiện đại có thể xem như một tuyên ngôn về quyền năng sáng tạo của nghệ sĩ: “Nghệ sĩ hay nhà văn hậu hiện đại ở trong vị thế một triết gia: văn bản y viết hay tác phẩm y sáng tạo, về nguyên tắc, không bị chi phối bởi những luật lệ tiền lập và có thể bị phán xét theo những chuẩn mực đã xác định, bằng việc áp những phạm trù sẵn có vào văn bản hay tác phẩm ấy”. [15, tr.15]. Sáng tạo, theo tinh thần của hậu hiện đại, là thể nghiệm không giới hạn, là phiêu lưu vô định, là việc khai phóng các khả thể của nghệ thuật chứ không chỉ dừng lại ở việc tạo ra tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, những người cổ xúy cho chủ nghĩa hậu hiện đại xâm nhập vào cảnh quan văn học nghệ thuật ở Việt Nam cũng vấp phải bài toán khó. Nghệ thuật hậu hiện đại trong văn học Âu-Mỹ hình thành sau khi nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa phát triển đến trình độ điển phạm, do đó, nó vừa là sự nối tiếp, vừa là sự thách thức lại những kinh nghiệm thẩm mỹ hiện đại chủ nghĩa. Trong khi đó, chủ nghĩa hiện đại trong nghệ thuật Việt Nam lại chưa trở thành một dòng mạch định hình, lịch sử của nó là một lịch sử bị gián đoạn bởi nhiều tác nhân. Chủ nghĩa hậu hiện đại khi dẫn nhập vào nghệ thuật Việt Nam đương đại liệu có thể phát triển khi nó thiếu một nền tảng của chủ nghĩa hiện đại để kế thừa và đối lập? Liệu trong nghệ thuật, việc “đi tắt đón đầu” cũng có thể chấp nhận được?

Đối diện với câu hỏi này, những học giả Việt Nam đã thực hiện những nước đi có hiệu quả trong “trò chơi ngôn ngữ” – để dùng lại khái niệm của Ludwig Wittgenstein mà bản thân Lyotard đã khai thác như là phương thức tiếp cận các hình thức “hợp thức hóa” hậu hiện đại[2]. Thứ nhất, họ thông diễn lại định nghĩa của Lyotard mà ở trên đã dẫn để từ đó cho thấy “hậu hiện đại” không phải là một phạm trù thuần túy về mặt lịch sử. Xét về phương diện tinh thần, “hậu hiện đại” được diễn dịch thành ý thức cách tân, ý thức thể nghiệm vốn luôn cần được khuyến khích trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, do vậy, tinh thần “hậu hiện đại” có thể còn xuất hiện trước cả nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa, như chính cách Lyotard coi tiểu luận của Montaigne là tác phẩm hậu hiện đại vậy [15, tr.15]. Thứ hai, nếu tâm thức hậu hiện đại có thể hiểu là tinh thần giải phóng con người khỏi các đại tự sự để hướng tới sự đa nguyên trong thế giới quan và các thực hành vi chính trị của cá nhân và các nhóm thiểu số thì chủ nghĩa hậu hiện đại hoàn toàn có thể rơi trúng tầm đón nhận của nghệ sĩ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ XXI, khi nghệ thuật Việt Nam kể từ giai đoạn Đổi mới đã có dấu hiệu phát triển đa dạng, mang tính cá nhân, tiệm cận những hiện tượng, trào lưu văn hóa nghệ thuật toàn cầu. Về phương diện này, trong quan sát của Inrasara, chủ nghĩa hậu hiện đại đã được hưởng ứng và tiếp biến một cách sống động qua nhiều hiện tượng thơ ca Việt ngữ đương đại, trong đó có những hiện tượng không hiện diện trong đời sống văn hóa chính mạch [10]. Lã Nguyên chứng minh sáng tác Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài có nhiều đặc điểm gặp gỡ với tư duy nghệ thuật hậu hiện đại [17]. Trong khi đó, trong quan sát của Lê Huy Bắc, dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại có thể được nhận thấy ở hầu hết các hiện tượng văn học nổi bật từ Đổi mới đến nay, kể cả từ Lưu Quang Vũ hay Nguyễn Minh Châu [1]. Thứ ba, cũng bởi chủ nghĩa hậu hiện đại là một chủ trương giải phóng khỏi sự bao trùm của các đại tự sự, do đó, chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam có thể là một mô hình đặc thù, không nhất thiết phải lấy khuôn mẫu của văn học phương Tây làm quy chiếu. Nguyễn Hưng Quốc đã đề xuất một dự phóng cho chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam, mà ông gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại mang tính nguyên hợp: Nói cách khác, chủ nghĩa hậu hiện đại Việt Nam, nếu có, chỉ là một kết hợp cùng lúc giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, trong đó, các yếu tố mang tính hậu hiện đại được đẩy lên thành những yếu tố chủ đạo. Nó là hiện đại khi cố gắng cắt bỏ tính chất nghiệp dư, tính chất quy phạm và tính chất giáo điều của chủ nghĩa cổ điển. Nó cũng là hiện đại khi cổ xuý cho tính chất duy lý, tính chất đặc tuyển và tính chất cá nhân chủ nghĩa trong văn học. Nó là hậu hiện đại khi cố gắng vượt qua tất cả những giá trị hiện đại chủ nghĩa vừa nêu và khi tổng hợp mọi thành tựu nghệ thuật trên nền tảng một hệ mỹ học mới. Đó là lý do chính khiến tôi thích dùng chữ chủ nghĩa h(ậu h)iện đại: trong cách viết ấy, chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại hoà quyện vào nhau, trùng lấp lên nhau. Tôi cho đó là lý tưởng cao nhất và thực tế nhất mà trong tình hình hiện nay giới cầm bút Việt Nam có thể vươn tới” [19, tr.327]. Thứ tư, để kiến tạo truyền thống cho dự phóng này, một số học giả người Việt đã tìm cách khôi phục một dòng mạch văn chương mang tính thể nghiệm trong lịch sử văn học bằng cách đưa ra những diễn giải mới, những biện luận có tính thách thức. Nguyễn Hưng Quốc biện hộ cho những tìm tòi của Nguyễn Vỹ, Hoàng Tích Chu, Xuân Thu Nhã Tập [19, tr.301-304], thậm chí qua việc chứng minh bài thơ con cóc được truyền tụng trong dân gian là một bài thơ hay… nhằm cổ vũ cho tinh thần dám khiêu khích, dám thí nghiệm, sẵn sàng phá vỡ tầm đón nhận của công chúng trong sáng tạo nghệ thuật [18, tr.39-53]. Như Huy thì chứng minh ngay trong Mùa sạch của Trần Dần (1963), nhà thơ đã xây dựng một tác phẩm thơ ca mà mỹ học của nó tương ứng với nghệ thuật ý niệm – một trào lưu thường được xếp vào dòng mạch nghệ thuật hậu hiện đại trên thế giới vốn cũng bắt đầu hình thành từ giữa thập niên 1960 [9]. Cùng với việc diễn dịch lại các hiện tượng văn học trong quá khứ để tạo thành bệ đỡ cho dự phóng hậu hiện đại ở thế kỷ XXI, hoạt động dịch thuật cũng cần phải được nhắc đến như một nỗ lực nhằm kiến tạo truyền thống và kênh tham chiếu cần thiết cho các thể nghiệm văn chương Việt ngữ. Tất cả những nước đi nói trên trong “trò chơi ngôn ngữ” của các nhà phê bình đã xác nhận: hậu hiện đại là trào lưu tư tưởng và nghệ thuật đáng theo đuổi.

Tuy nhiên, liệu quy những hiện tượng văn chương đáng kể nhất của văn học Việt Nam đương đại là hậu hiện đại liệu đã thuyết phục về mặt biện luận? Theo chúng tôi, xu hướng coi hậu hiện đại như một từ đồng nghĩa với “cách tân”, “đổi mới”, “cấp tiến” có thể có mặt chấp nhận được nhưng điều này cũng đơn giản hóa khái niệm này và phần nào phản ánh nhiệt tình của các nhà phê bình nghiên cứu nhiều hơn. Điều này đã dẫn đến những phản ứng trước những tìm tòi được xem là quá khích, thiên về gây hấn trong sáng tác nhưng nhận được sự cổ xúy từ một số nhà phê bình. Phan Nhiên Hạo trong bài viết “Mới – Cũ trong thơ và Hậu hiện đại” đã thẳng thắn cho rằng việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong sáng tác và phê bình trong văn học Việt ngữ đang còn ở trong tình trạng “thô sơ và đơn tuyến” và điều này trên thực tế còn đi ngược lại với tinh thần cởi mở của hậu hiện đại [5]. Trong tiểu luận công phu “Trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại”, Trần Vũ đã nhìn lại một chặng đường của văn chương Việt ngữ qua một tiêu điểm – tạp chí Hợp Lưu, tạp chí văn chương hải ngoại có sự cộng tác của nhiều cây viết trong nước, qua đó, cũng không ngần ngại chỉ ra Hậu hiện đại chính là tầng trệt của tòa tháp Babylone đang quy tụ đông đảo nhưng lại đang loay hoay không biết phải đi tiếp đến đâu bởi “không biết mình muốn gì, tìm gì và cần gì ở nhân loại nên thất lạc, đưa đến chốn vắng tư duy trong sáng tác” [27]. Theo Trần Vũ, chính “chốn vắng tư duy” này khiến cho những cách tân về mặt kỹ thuật trong văn học Việt ngữ không thật sự tạo nên những thành tựu, nếu không muốn nói là bế tắc. Phan Nhiên Hạo thông qua bản dịch tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm Stuckism – một trường phái nghệ thuật được lập nên bởi hai nghệ sĩ Billy Childish và Charles Thomson để cho thấy bản thân chủ nghĩa hậu hiện đại và nghệ thuật ý niệm bị thách thức như thế nào trong môi trường văn hóa phương Tây [6]. Còn theo Hoàng Ngọc Hiến, chủ nghĩa hậu hiện đại có thể chỉ như một giai đoạn quá độ cho một bước phát triển mới của nghệ thuật và tư tưởng mà ông gọi là “chủ nghĩa cổ điển mới”, khái niệm được ông tiếp thu từ Frederick Turner, do đó, không nên tiêu phí năng lượng dành cho nó [8].

Có thể nói trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại rõ ràng trở thành một chủ đề học thuật thời sự nhất. Các thảo luận về hậu hiện đại nhanh chóng trở nên căng thẳng nhưng không phải là cái căng thẳng của một tinh thần đối thoại được phát triển cao độ. Những phản biện từ những người hồ nghi trước việc dẫn nhập và thực hành hậu hiện đại ở Việt Nam thường trở nên lép vế hơn trước khao khát muốn vin vào hậu hiện đại như một điểm tựa để khuấy động trạng thái trì đọng của văn hóa nghệ thuật. Bởi vậy, sang đến thập niên thứ hai, các thảo luận này lắng dần. Chủ nghĩa hậu hiện đại, theo đó, đã được diễn giải, xoay xở, trải qua một quá trình dịch và cải biên văn hóa để có thể thích nghi với bối cảnh Việt Nam. Nó không còn là một thuật ngữ lạ lẫm nữa, thậm chí dễ dàng được gán cho rất nhiều sáng tác, bất kể những sáng tác ấy có kế thừa và thách thức lại mỹ học hiện đại chủ nghĩa hay không, miễn là trong con mắt nhà nghiên cứu, chúng có một vài dấu hiệu khác biệt với những khuynh hướng văn học đã định hình như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực hay hiện thực xã hội chủ nghĩa [3], [22]. Vấn đề diện mạo của văn học hậu hiện đại Việt Nam là vấn đề có thể bàn đến và nó xứng đáng được tách thành một đề mục riêng.

Một phác thảo về văn học hậu hiện đại Việt Nam

Trên thực tế, đã có những tiểu luận, chuyên luận làm công việc này, đặc biệt là từ thực tiễn văn xuôi Việt Nam đương đại. Ở những nghiên cứu thận trọng nhất, hệ quả từ tác động của chủ nghĩa hậu hiện đại vào sáng tác được phân tích như là “yếu tố”, “dấu ấn”, “dấu hiệu”… tương đồng với những đặc điểm phổ biến của văn học được gắn nhãn “hậu hiện đại” ở phương Tây mà ở trên chúng tôi đã nhắc đến. Tuy nhiên, chưa có những công trình tiếp cận văn học Việt ngữ mang dấu ấn hậu hiện đại theo hướng văn học so sánh hay văn học thế giới (world literature) để xem dưới bề mặt của những tương đồng về thế giới quan hay kỹ thuật hình thức kia có những đặc thù gì về văn hóa, lịch sử hay chính trị.

Bài viết này lựa chọn một cách tiếp cận khác: xem xét chủ nghĩa hậu hiện đại như một hiện tượng dịch và cải biên (thậm chí chiếm dụng) văn hóa trong bối cảnh Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó, phân tích tác động của nó vào thực tiễn sáng tác ở giai đoạn này.[3] Phạm vi khảo sát, do vậy, sẽ thiên về sáng tác ở hai thập niên đầu thế kỷ mới này, tương ứng với khoảng thời gian mà chủ nghĩa hậu hiện đại thực sự trở thành sự kiện của đời sống phê bình, học thuật. Chúng tôi sẽ chủ yếu tập trung vào khía cạnh tác động nào thật sự làm sáng tác văn học ở giai đoạn này có những điểm nhấn trong sự so sánh với giai đoạn trước đó, khi khái niệm “hậu hiện đại” mới chỉ được hiểu như một thực tiễn bên ngoài không gian văn học Việt ngữ.

Như đã nói đến ở trên, trong ngữ cảnh Việt Nam, nét nghĩa được tô đậm nhất trong nội hàm khái niệm “hậu hiện đại” khi nó du hành đến Việt Nam và được dẫn nhập vào trong đời sống nghệ thuật là một tinh thần dám thể nghiệm tất cả những gì chưa có tiền lệ. Hậu hiện đại không ngần ngại trước mọi tìm tòi, đổi mới, phá cách dù có khiêu khích đến đâu đi nữa. Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc-Tuấn, hai nhà nghiên cứu hải ngoại nhiệt thành nhất trong việc thúc đẩy chủ nghĩa hậu hiện đại, đã tích cực biện hộ cho chủ nghĩa Dada – một hiện tượng nghệ thuật, theo họ, vốn bị hiểu nhầm nhiều nhất [19, tr.304-307], [23]. Là một trào lưu hiện đại chủ nghĩa xét về mặt lịch sử hình thành nhưng Dada được xem như đã gợi ý những đường hướng quan trọng nhất cả về tinh thần và thi pháp cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhiệt hứng và những gợi ý của Dada về cách tồn tại và tác động vào đời sống của nghệ thuật, trên thực tế, đã in dấu vào trong thái độ và thực hành sáng tạo của nhiều nghệ sĩ Việt Nam ở giai đoạn này.

Như vậy, chúng tôi cho rằng tính thể nghiệm là đặc điểm cần phải được nhấn mạnh trong việc mô tả bức tranh văn học Việt Nam ở giai đoạn này. Có một sự tương ứng, cộng hưởng khá rõ giữa tinh thần thể nghiệm được dấy lên trong sáng tác văn học với sự khởi sắc của nhiều thực hành nghệ thuật đương đại như sắp đặt, trình diễn, video-art, nhiếp ảnh ý niệm… được đẩy mạnh nhờ sự tiếp xúc gia tăng với nghệ thuật thế giới. Có thể nhận thấy một sự khác biệt về tinh thần của khởi điểm văn học Đổi mới và khởi điểm của văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI: nếu như cú hích để văn học Đổi mới khởi sự là nhu cầu khẩn thiết về quyền được nói sự thật của văn chương và do đó, các hiện tượng được xem như cột mốc của văn học đổi mới đều hướng tới việc phản ánh thực tại nhức nhối của xã hội hậu chiến Việt Nam, ngay cả Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, thì cú hích của văn học Việt Nam ở thời điểm hiện tại, dưới tác động của hậu hiện đại, là nhu cầu được làm khác đi của văn chương, nhu cầu thay đổi triệt để cách người ta vốn hình dung và quan niệm về văn chương. Cú hích tạo động lực để văn học Đổi mới trỗi dậy khiến những sáng tác trở thành tâm điểm dư luận của phong trào này ở thời kỳ đầu có sự kết nối trở lại với truyền thống của chủ nghĩa hiện thực phê phán trước 1945 (không phải vô cớ phóng sự có một khoảng thời gian lấy lại địa vị của một thể loại xung kích ở giai đoạn đầu Đổi mới với các tác phẩm của Phùng Gia Lộc, Hoàng Minh Tường, Minh Chuyên…). Cú hích tạo động lực để văn học Việt Nam ở những thập niên đầu thế kỷ XXI chuyển mình lại muốn kết nối lại với những tìm tòi, thể nghiệm theo khuynh hướng tiền phong và hiện đại chủ nghĩa vốn tồn tại trong trạng thái bị phân mảnh và thường xuyên bị ngoại biên hóa trong tiến trình văn học. Không phải ngẫu nhiên khi sự trỗi dậy của văn học Đổi mới lại diễn ra gần như cùng nhịp với sự quay trở lại đời sống văn hóa chính thống của văn học lãng mạn và một số hiện tượng văn học hiện thực từng bị xem là gai góc, nhạy cảm như Vũ Trọng Phụng, đánh dấu sự phục hưng của ý thức cá nhân trong xã hội và nhu cầu được nói lên sự thật ở đời của văn chương. Trong khi đó, sự trỗi dậy của sáng tác mang hơi hướng hậu hiện đại ở giai đoạn này có lẽ lại có những móc nối tương ứng với sự trở về của Trần Dần và Bùi Giáng. Trên thực tế, cả hai tác giả này đã được xuất bản trở lại từ thập niên 1990 nhưng chỉ đến thời điểm này, sáng tác của họ mới được thảo luận công khai trên diễn đàn mạng và trên báo chí, xuất bản chính thống, nhất là họ được nhìn nhận như những tác giả hậu hiện đại sớm nhất.

Tinh thần thể nghiệm trong sáng tác văn học Việt ngữ giai đoạn này có thể khai quát ở ba biểu hiện nổi bật nhất. Trước hết, ở những sáng tác táo bạo, thậm chí mang tính khiêu khích nhất, nhà văn Việt Nam ý thức rằng sáng tạo không chỉ là làm ra một tác phẩm mới mà còn phải mở ra những khả thể nghệ thuật mới, làm thay đổi cách ta đã từng nghĩ, từng hình dung về tác phẩm nghệ thuật và thậm chí về cả cách mà nó được tạo nên. Đấy là cách Marcel Duchamp – một biểu tượng của chủ nghĩa Dada – lật nhào mọi định nghĩa đã sẵn có đồng thời gợi mở rất nhiều ý niệm mới về nghệ thuật và hành vi sáng tạo qua những tác phẩm nằm ngoài tất cả những loại hình và cách thức thực hành- nghệ thuật đã được thừa nhận như “Fountain” (1917) – chiếc bồn tiểu được xem như một nghệ phẩm trong một triển lãm mỹ thuật hay “L.H.O.O.Q” (1919) – bức tranh ngỗ ngược nơi ông trét ria lên bức chân dung nàng La Joconde nổi tiếng của Leonard da Vinci và coi đó là sáng tạo của mình. Nhìn vào những sáng tác mang hơi hướng hậu hiện đại, có thể thấy việc không ràng buộc sáng tác của mình vào một nhãn thể loại nào là điều một số tác giả tự ý thức rất rõ. Họ chủ động không xác định thể loại cho những gì mình viết ra: Thời hôm nay, điên rồ và khoái cảm hợp lý (Nguyễn Thúy Hằng, 2006), Từ thở, những người lạ (Nhã Thuyên, 2015), Mát mát lạnh lạnh (Ngọc Bảo An, 2016) là những tác phẩm không chỉ mơ hồ về nhan đề mà còn mơ hồ về thể loại khi tác giả đều không gắn nhãn cho chúng, cho dù độc giả hay các nhà phê bình có quyền gọi đó là “thơ”, “truyện” hay thậm chí “mảnh vụn”, tùy theo kinh nghiệm đọc của mỗi người. Nhưng ngay cả ở những tác giả ý thức rất rõ về thể loại mình sáng tác thì “bài thơ” hay “truyện” mà họ viết ra nhiều khi cũng thách thức những gì vốn đã được hình dung về một bài thơ hay một tác phẩm truyện. Thí dụ, với tập Lời tiên tri của giọt sương (2011), Nhật Chiêu sáng tạo ra hình thức truyện kể mà ông gọi là “truyện tuyệt ngắn” và “truyện một câu”, trong đó, các truyện kể được rút gọn tới mức cực hạn. Chúng như là biến thể của các công án Thiền, mật ngữ, câu đố – những thể loại lời nói gần với thơ hơn là truyện, thậm chí so với ngay cả hình thức truyện rất ngắn vốn đã được phát triển trong thập niên 1990. Lĩnh vực thơ có lẽ là nơi có thể nhìn thấy rõ hơn những thể nghiệm theo chủ trương rằng viết tức là tạo ra một ý niệm mới về thơ và về cả hành động viết thơ. Viết thơ, như cách của Trần Nguyễn Anh trong tập Mặc xanh áo em (2010), nói như Đinh Bá Anh, hoàn toàn có thể bị coi là một hành động “xúc phạm thơ” khi nhà thơ không chỉ làm công việc tách nối từ ngữ, sắp đặt chúng theo những liên kết về nhịp điệu, âm điệu hay bố cục thị giác mà anh còn đưa cả những con số, ngôn ngữ chat bị mất dấu, những biển báo trên đường phố vào trong bài thơ. Viết thơ trở thành một hành vi tổng lực để khai thác những hiệu quả trực tiếp nhất của ngôn ngữ từ âm thanh đến hình ảnh: bài thơ vừa như một tác phẩm sắp đặt (installation art) lại cũng vừa như một kịch bản trình diễn (performance art). Sự gắn kết thơ với nhiều loại hình nghệ thuật đương đại, đến lượt mình, thách thức kinh nghiệm đọc một bài thơ, trong đó, thứ nói đòi khước từ nhiều nhất là việc đồng nhất thơ với trữ tình, coi bài thơ là sự gói ghém một nội dung cảm xúc nào đó. Thay vào đó, nó đòi hỏi một sự chú ý trước hết vào bề mặt của văn bản ngôn từ, tri nhận bố cục, sự cộng hưởng âm điệu, nhịp điệu, ấn tượng thị giác trong việc ám thị một kinh nghiệm hiện sinh mà ta có thể suy tưởng được về nó nhưng nó lại là thứ không thể cho ta nhìn thấy được, diễn tả được bằng khái niệm.

Tinh thần thể nghiệm, như một lẽ tự nhiên, dẫn đến đặc điểm thứ hai khá nổi bật trong các sáng tác mang hơi hướng hậu hiện đại: viết được coi như một hành vi tự chất vấn về chính nó. Ở giai đoạn Đổi mới, văn chương có thể đặt lại vấn đề về mối quan hệ của nó với hiện thực, về chức năng và ý nghĩa của nó trong xã hội và thường các nhà văn sẽ dùng thể loại tiểu luận để bày tỏ một cách rõ ràng hơn quan điểm của mình như cách Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài đã làm. Ở những năm đầu thế kỷ XXI, bản thân suy tư về sự viết trở thành một đề tài của các sáng tác hư cấu. Hình thức metafiction (siêu truyện/siêu tiểu thuyết) được khai thác trong sáng tác của nhiều nhà văn. Trong nhiều tiểu thuyết của Thuận, suy tư về thể loại này, đặc biệt là những khuôn mẫu dễ bị thương mại hóa và công cụ hóa của nó, trở thành một chủ đề ám ảnh. Không phải ngẫu nhiên, tiểu thuyết của Thuận thường có một bè ngầm mỉa mai những lối viết chiều chuộng, vuốt ve công chúng, đem đến những trấn an về đạo đức, trong khi tinh thần của tiểu thuyết, theo chị, là phải gây bất an. Nguyễn Ngọc Tư trong truyện ngắn Chớp mắt mịt mù in trong tập Cố định một đám mây (2018) tạo ra một cú twist giữa truyện: câu chuyện về cuộc phiêu lưu bất định của nhân vật xưng “em” hóa ra là sản phẩm hư cấu của một nhà văn; mạch truyện chuyển từ câu chuyện của “em” sang mạch tự chất vấn của “nhà văn”, cũng là một phụ nữ, về những gì mà phụ nữ có thể làm được cho nhau bằng chính sự viết của mình. Kiểu nhân vật người đọc hay người viết bị ảm ảnh bởi sự đọc hay sự viết chính là phương tiện nghệ thuật để nhà văn thực hiện hành động tự chất vấn này. Trong Biên sử nước (2020), Nguyễn Ngọc Tư xây dựng hai nhân vật mắc một chứng bệnh giả tưởng – nghiện ăn chữ trong sách. Chương tiểu thuyết gắn với hai nhân vật này lồng trong đó những bình luận ngầm về nghệ thuật ngôn từ và đặc biệt là về khả năng hư cấu của văn chương. Kiểu nhân vật người đọc hay người viết này cũng hiện diện trong sáng tác của những nhà văn trẻ như Đinh Phương, Hiền Trang, Huỳnh Trọng Khang cho thấy văn học đang hình thành một lớp các tác giả có trải nghiệm đọc phong phú, sâu rộng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn thế, điều này phản ánh trạng thái tự ý thức của nhiều nhà văn Việt Nam về công việc của mình khi với họ, câu chuyện quan trọng nhất của văn chương cuối cùng vẫn là câu chuyện về chính nó.

Tương tự, có thể nói tới một hình thức được gọi là “metapoem” – mượn khái niệm mà nhà thơ Phan Quỳnh Trâm sáng tạo để gọi những sáng tác của mình, những sáng tác trong khi vừa là “bài thơ”, lại vừa hồ nghi những gì được làm thành một “bài thơ”; chúng vừa phê bình những khả thể đã được chấp nhận của thơ đồng thời lại vừa gợi ý rằng thơ có thể được hình dung khác hơn những gì đã được chấp nhận. Tập Thơ hỏi thở (2009) của Lê Vĩnh Tài cũng có thể xem thuộc về dòng mạch metapoem này khi ngay nhan đề của nó đã hàm chứa trong đó sự chất vấn. Thậm chí, chỉ khi biết tự chất vấn, “thơ” mới có thể “thở”, tức có sức sống thực sự, bởi bằng hành động ấy, thơ mới có khả năng thoát khỏi những khuôn sáo dễ lôi kéo nó. Mối quan hệ giữa nhà thơ và ngôn ngữ trở thành nỗi băn khoăn của nhiều nhà thơ. Khác với những hiện tượng thơ từng gây tranh cãi ở thập niên 1990 như Lê Đạt, Dương Tường, những người nối tiếp truyền thống tượng trưng chủ nghĩa khi đầu tư cho việc khơi gợi sự mê hoặc của ngôn ngữ, một số nhà thơ gây chú ý ở giai đoạn này lại đẩy ngôn ngữ về trạng thái trượt nghĩa và rỗng nghĩa. Họ ngờ vực trước các quy tắc, thiết chế tạo nghĩa cho lời, họ nhìn thấy đằng sau cái có nghĩa và cái vô nghĩa, cái được coi là nên thơ và cái bị xem là phi thơ của ngôn ngữ là một mối quan hệ quyền lực và làm thơ là cách để họ tra vấn quan hệ quyền lực ấy. Nói như Đinh Linh trong một bài thơ: Hơn nữa, một từ nhỏ nhất,/ Một quán từ chẳng hạn,/ Con hay cái, cũng đã tích cóp/ Cả ngàn quan hệ từ ngàn năm (“Một bài thơ hoàn toàn vô nghĩa”). Có thể ghi nhận một cách ứng xử đối với ngôn ngữ theo tinh thần Dada trong một số thực hành thơ đương đại, dù chúng có thể cực đoan, khiêu khích. Nhưng cái vô nghĩa mà thơ Dada từng trình hiện, trên thực tế, lại gợi ý cho nhiều thể nghiệm thơ ca thế giới sau đó và điều này đã chứng minh qua nhiều nghiên cứu có uy tín ([4], [7]).

Để các thể nghiệm văn chương được đẩy đến cùng, cần có một thái độ thích hợp: biết bông đùa. Biết bông đùa tức là biết chơi với những quy phạm tiền lập chứ không phải chỉ dập khuôn theo chúng, thậm chí có thể giải thiêng những chuẩn mực quyền uy, để nghệ thuật có thể tự do hơn, cá nhân hơn. Đặc điểm thứ ba này được thể hiện rõ nét nhất ở sự phổ biến của hình thức giễu nhại trong những sáng tác mang dấu ấn hậu hiện đại. Không đơn thuần là một thủ pháp tu từ, giễu nhại ở các sáng tác này mang tính ý niệm nhiều hơn khi đối tượng mà chúng nhắm đến là các phong cách thời thượng và nhất là các điển phạm nghệ thuật. Nhại thể loại, nhại phong cách… là hiện tượng có thể quan sát rõ ở cả trong thơ và văn xuôi. Không chỉ đùa giỡn với các phép tắc, chuẩn mực, khuôn mẫu đã có, đã được cấp cho giá trị trung tâm, các sáng tác này nhiều khi còn sẵn sàng đi về phía đối cực, trở thành những hiện tượng phản tiểu thuyết, phản thơ. Những nhãn dán như thế này không chỉ là thứ mà các nhà phê bình và bộ phận công chúng áp đặt lên những sáng tác khiêu khích những hình dung và quan niệm về giá trị của họ; nó còn là cái nhãn mà nhiều tác giả chủ động nhận về cho sáng tác của mình. Theo đó, phản thơ hay phản tiểu thuyết là dấu hiệu của một thái độ cương quyết không thỏa hiệp với các định nghĩa tiền lập về nghệ thuật. Ta có thể thấy điều này qua một số hiện tượng như Lý Đợi, Bùi Chát, Đinh Linh, Phan Bá Thọ, ChuKim… trong thơ, Đặng Thân, Lê Minh Phong, Lê Anh Hoài… trong tiểu thuyết. Có thể khó chịu trước những sáng tác cực đoan như thế này nhưng cũng cần nghĩ lại rằng ít nhất trong tiến trình văn học hiện đại, những bài Thơ mới đầu tiên, trong con mắt của nhiều độc giả vốn quen với những hình dung truyền thống về thơ, cũng là những bài phản thơ và phi thơ. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam thậm chí còn nêu lên trường hợp tập Thơ buông của Lê Khánh Đồng vốn bị đánh giá rất thấp như “một trò cười” lại chứa đựng trong đó những nhân tố chuẩn bị cho Thơ mới [21, tr.19].

Ba đặc điểm trên có lẽ chưa bao quát được hết thực tiễn đa dạng và sống động của những sáng tác theo tinh thần hậu hiện đại nhưng theo chúng tôi, đó là những đặc điểm phân biệt văn học giai đoạn này với giai đoạn Đổi mới. Điều này cho thấy đã đến lúc cần phải nghiên cứu tiến trình văn học Việt Nam từ 1986 theo từng chặng và hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI chính là một mốc mới của văn học đương đại.

Chủ nghĩa hậu hiện đại và tư duy phê bình văn học

Sẽ là thiếu thỏa đáng khi phân tích tác động của việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại vào đời sống văn học đương đại mà không bàn đến những ảnh hưởng của nó đối với tư duy phê bình văn học. Ở đây lại cần thiết phải đối sánh giữa những chuyển động trong tư duy phê bình văn học ở thời điểm này với giai đoạn đầu Đổi mới.

Sự sôi động của cảnh quan văn học Đổi mới không chỉ được tạo nên bởi những sáng tác đột phá của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài mà còn bởi những thảo luận về những vấn đề lý luận và sự ra đời của những công trình học thuật đánh dấu bước ngoặt trong tư duy nghiên cứu. Theo quan sát của chúng tôi, có ba cột mốc cần phải đặc biệt chú ý khi nghiên cứu về sự chuyển mình trong tư duy phê bình lý luận văn học thời Đổi mới: 1- cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực; 2 – việc giới thiệu và được đón nhận rộng rãi của thi pháp học, gắn liền với người khởi xướng – Trần Đình Sử; 3 – việc dịch và giới thiệu các công trình nghiên cứu của Mikhail Bakhtin. Ba cột mốc này đều tạo ra những đổi mới quan trọng trong cách đọc văn và cách đọc mới có khả năng thúc đẩy cách viết mới. Các nhà lý luận phê bình thông qua các thảo luận và nghiên cứu của mình đã đòi hỏi một sự nhận thức lại về lý thuyết phản ánh, gợi mở cách nghĩ khác về quan hệ giữa văn học và hiện thực, theo đó, tính tích cực chủ quan của nhà văn được nhấn mạnh, chiều kích của hiện thực được mở mang cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các nghiên cứu thi pháp học xóa bỏ định kiến về hình thức nghệ thuật vốn từng bị quan niệm như là vỏ bọc của nội dung và chứng minh tính tích cực sáng tạo của nghệ sĩ nằm ở phương diện hình thức. Lý thuyết của Bakhtin giúp công chúng hiểu thêm về tư duy tiểu thuyết, về cấu trúc đa thanh và xu hướng carnival trong văn học, từ đó, khiến người viết và người đọc tương tác với nhau theo mối quan hệ dân chủ hơn. Nhiều hiện tượng văn học đã được hiểu đúng về giá trị hơn nhờ những đột phá này trong tư duy lý luận phê bình.

Như đã nói ở trên, sang đến đầu thế kỷ XXI, việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành sự kiện học thuật mới. Do việc dịch, diễn giải về chủ nghĩa hậu hiện đại tập trung vào sự khai thông rộng rãi chưa từng có của nó đối với hoạt động thể nghiệm, nên phê bình văn học thường tập trung vào các phương diện hình thức, kỹ thuật của sáng tác. Cách đọc, như đã nói, có thể kiến tạo cách viết. Việc diễn giải chủ nghĩa hậu hiện đại đã dẫn đến việc nhiều nghệ sĩ Việt Nam đón nhận nó với tinh thần: với hậu hiện đại, mọi thứ đều được phép, trước hết là các phát kiến về hình thức và thể loại. Tuy nhiên, sự dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại đã tạo ra điều kiện khả thể để một số thuật ngữ, ý niệm mới xuất hiện, được vận dụng và đang chứng minh phần nào hiệu năng của chúng trong thực tiễn lí luận, phê bình. Thí dụ, cặp khái niệm “trung tâm”/ “ngoại biên” vốn hầu như không xuất hiện trong diễn ngôn lý luận, phê bình những năm 1990 nay lại được vận dụng nhiều trong việc mô tả trường văn học, theo đó, trung tâm là các hiện tượng, các giá trị văn hóa được cấp cho vị trí đặc quyền trong hệ thống văn hóa còn ngoại biên là các hiện tượng, giá trị bị dồn nén, loại trừ bởi trung tâm. Hướng tới cái ngoại biên trở thành mối quan tâm của nhiều nhà phê bình khi họ nhận thấy đây chính là khu vực văn học năng động nhất, có khả năng làm rạn nứt nhiều quy phạm kiên cố nhất. Một khái niệm khác chỉ khi chủ nghĩa hậu hiện đại được dẫn nhập mới thực sự vận hành trong diễn ngôn lí luận, phê bình ở Việt Nam là “diễn ngôn”. Cách tiếp cận văn học từ góc độ diễn ngôn trên thực tế thuộc về một hệ hình tư duy mới thoát khỏi khung của các lý thuyết phản ánh, hình thức luận, cấu trúc luận, theo đó, văn học được hiểu như một quá trình tạo nghĩa và thương thỏa để nghĩa này được hiểu, được chấp nhận trong đời sống xã hội, từ đó đi đến chất vấn các cơ chế quyền lực ẩn chìm cho phép những khả thể tạo nghĩa nào được hợp thức hóa trong khi lại trấn áp, loại trừ những khả thể khác. Cùng với khái niệm “diễn ngôn”, giai đoạn này chứng kiến mối quan tâm đến khu vực văn học mà ở thập niên 1990, chúng hầu như nằm ngoài vùng phủ sóng của hoạt động lí luận, phê bình văn học: văn hóa/văn học đại chúng. Chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương xóa bỏ lằn ranh giữa văn hóa đặc tuyển và văn hóa đại chúng, bởi ngay cả thực hành của văn hóa đại chúng cũng tham gia vào kiến tạo mạng lưới ý nghĩa của đời sống. Không chỉ các hình thức văn hóa mới xuất hiện của thời đại số như văn học mạng mà cả một số thể loại ở giai đoạn trước đó còn bị xem là thể loại bình dân, ít giá trị văn học như tiểu thuyết trinh thám, truyện tranh, văn chương ngôn tình cũng trở thành đối tượng của nhiều thảo luận học thuật. Có thể nói đến một xu hướng giải trừ tính đặc tuyển về đối tượng trong nghiên cứu văn học hiện nay. Mặt khác, cũng phải từ nền tảng của việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại, một số trào lưu lý thuyết đương đại mới thật sự bắt đầu được quan tâm và thể nghiệm trên thực tiễn văn học và văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn, công trình Orientalism của Edward Said đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam từ 1994 với tên gọi Đông phương học. Thế nhưng phải đến những năm đầu thế kỷ XXI, lý thuyết hậu thuộc địa mới thật sự thành cú chạm tư duy đối với giới nghiên cứu, bởi một trong những đại tự sự mà hậu hiện đại muốn thách thức nhất chính là tính chất bá quyền của văn hóa phương Tây được xác lập và củng cố thông qua quá trình thuộc địa hóa các nền văn hóa ngoài phương Tây. Rộng hơn, lý thuyết hậu thuộc địa cho phép ta nhìn lại mối quan hệ bất cân xứng giữa các nền văn hóa trung tâm và ngoại vi, từ đó, thúc đẩy một cái nhìn phức tạp hơn, sâu sắc hơn về những mối tiếp xúc, tương tác văn học, văn hóa trong lịch sử Việt Nam. Tương tự, sự trỗi dậy của những mối quan tâm về lý thuyết giới như nữ quyền luận, đồng tính luận được tạo đà bởi sự thức nhận về tính cần thiết của việc chất vấn các đại tự sự vốn thường đặt các giá trị văn hóa gắn với nam giới vào trung tâm.

Nhưng cũng chính ở đây, phải nhìn ra được giới hạn lớn nhất trong cách tiếp thu chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam giai đoạn này. Trong khi nó được diễn dịch chủ yếu như một nhiệt tình, một nguồn cảm hứng cần thiết để kích thích sáng tạo, cách tân văn học thì nó lại ít được nhấn mạnh như một phương pháp tư duy phê phán. Chính phương pháp tư duy phê phán này mới là mặt quan niệm của những cách tân của nghệ thuật hậu hiện đại và có lẽ sự thiếu vắng chiều kích này trong văn học Việt ngữ đương đại là điều mà Trần Vũ gọi ra một cách hình ảnh – “chốn vắng tư duy”.

Công trình kinh điển về lý luận hiếm hoi được dịch sang tiếng Việt là Hoàn cảnh hậu hiện đại của Lyotard và ông cũng là học giả hậu hiện đại được trích dẫn trong hầu hết các chuyên luận, chuyên khảo về văn học hậu hiện đại bằng tiếng Việt. Nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam trong khi thường dẫn định nghĩa của Lyotard về tâm thức hậu hiện đại như là sự hoài nghi các đại tự sự thì lại ít quan tâm đến phương pháp mà ông khai triển để phê phán các đại tự sự này. Đối tượng của tư duy phê phán trong cuốn sách ra đời vào năm 1979 là hoàn cảnh của tri thức trong mối quan hệ với các tự sự/ các chuyện kể vốn được xem như hệ quy chiếu lớn nhất để hợp thức hóa một nhận thức. Sự hợp thức hóa một tri thức, xét đến cùng, là hợp thức hóa một luật chơi và việc phát ngôn được coi như là một nước đi trong trò chơi, do đó, các phát ngôn luôn sống trong tình trạng ganh đùa, đấu tranh, đối chọi. Một phát ngôn thắng thế luôn bị điều kiện hóa bởi các bối cảnh, do đó, phê bình tri thức chính phơi bày được các cơ chế điều kiện hóa nhiều khi rất bất công này. Đó là lý do tại sao phương pháp của giải cấu trúc lại thường đi liền với tư duy hậu hiện đại. Nó bóc trần những nghịch lý ngay trong tính mạch lạc của hệ thống, những dị biệt bị làm cho vô hình, vắng mặt trong cấu trúc của văn hóa, nó phát lộ những bất công, thiên lệch trong các thiết chế đang tồn tại, đang được duy trì để cấp đặc quyền cho một bộ phận nào đó. Giải cấu trúc, vì thế, không phải là giải thích cấu trúc như đã thể hiện trong một số thực hành phê bình ở Việt Nam thời gian qua, mà là phê bình cấu trúc và các hoạt động cấu trúc hóa. Điều này cũng không có nghĩa phủ nhận cấu trúc, không cần cấu trúc mà là để ý thức rằng ngay cả cấu trúc cũng có những lỗ hổng, những mâu thuẫn. Có thể là khắt khe nhưng cũng không hẳn quá lời khi nói rằng các thực hành phê bình văn học Việt Nam, ngay kể cả khi chúng ủng hộ các thể nghiệm mang tinh thần hậu hiện đại, cũng rơi vào  “chốn vắng tư duy”.

Những giới hạn trong việc tiếp thu chủ nghĩa hậu hiện đại trên cả bình diện sáng tác và lí luận phê bình mà bài viết đã chỉ ra không đồng nghĩa với việc quy kết rằng đây là một thực trạng ngộ nhận về lý thuyết, đáng báo động. Ngược lại, việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam thời gian qua đã đóng vai trò xúc tác hiệu quả trong việc tạo ra những thay đổi quan trọng trong cảnh quan văn học nghệ thuật. Để có những điều chỉnh hợp lý hơn, cần phải thúc đẩy các công việc dịch thuật cũng như mở ra những không gian rộng rãi hơn cho các thảo luận lí luận, phê bình. Nói một cách khác, cần phải gia tăng ý thức chất vấn hơn nữa trong việc tiếp thu và thực hành hậu hiện đại ở Việt Nam. Và đây chính là khía cạnh quan trọng nhất của tâm thức hậu hiện đại.

Trần Ngọc Hiếu

(Bài được in trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10 (596), tháng 10-2021, trang 77-91)

Tài liệu tham khảo

[1] Lê Huy Bắc (2015), Văn học hậu hiện đại – Lý thuyết và tiếp nhận, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[2] Nguyễn Văn Dân (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm”, in trong Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Trung tâm Ngôn ngữ – Văn hóa Đông Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

[3] Nguyễn Hồng Dũng (2016), Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Huế.

[4] Stephen Forcer (2015), “The Importance of Talking Nonsense: Tzara, Ideology, and Dada in the 21st Century”, in trong Dada and Beyond, Elza Adamowicz & Eric Robertson (chủ biên), Brill Publishing.

[5] Phan Nhiên Hạo (2004), “Mới- Cũ trong thơ và Hậu hiện đại”, nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1634&rb=0101.

[6] Phan Nhiên Hạo (2008), “Stuckism chống Nghệ thuật Ý niệm và Hậu hiện đại”, nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=14610&rb=0106.

[7] O.B.Jr. Hardison (1984), “Dada, The Poetry of Nothing, and the Modern World”, The Sewanee Review, Vol.92, No. 3.

[8] Hoàng Ngọc Hiến (2004), “Thế kỷ XX: Từ chủ nghĩa hiện đại đến chủ nghĩa cổ điển mới”, nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3384&rb=0106.

[9] Như Huy (2008), “Tác phẩm Mùa sạch qua góc nhìn của nghệ thuật khái niệm”, in trongTrần Dần – Thơ, Vũ Văn Kha biên soạn, Nhã Nam & Nxb. Đà Nẵng.

[10] Inrasara (2019), Thơ Việt – từ Hiện đại đến Hậu hiện đại, Lotus Media.

[11] I.P. Ilin (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện đại – một số khái niệm và thuật ngữ” (Đào Tuấn Ảnh dịch), in trong Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Trung tâm Ngôn ngữ – Văn hóa Đông Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

[12] Thụy Khuê (2018), “Hậu hiện đại: Thực chất và ảo tượng”, in trong: Thụy Khuê,Phê bình văn học thế kỷ XX, Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

[13] Barry Lewis (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương” (Hoàng Ngọc -Tuấn dịch), in trong Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Trung tâm Ngôn ngữ – Văn hóa Đông Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

[14]. Greg Lockhart (1989), “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra riếng Anh?”, Tạp chí Văn học, số 4.

[15]  Jean – François Lyotard (1993), “An Answer to the Question, What is Postmodern?”, in trong The Postmodern Explained, Correspondence 1982-1985, Mineapolis & London: University of Minnesota Press.

[16]  Jean – François Lyotard (2007). Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nxb. Tri thức, Hà Nội.

[17] Lã Nguyên (2018), “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài”, in trong Phê bình văn học – Đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội

[18] Nguyễn Hưng Quốc (1996), Thơ, v.v & v.v…, Văn nghệ: Hoa Kỳ.

[19] Nguyễn Hưng Quốc (2007), “Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam”, in trong Tuyển tập Tiền Vệ 1, Nguyễn Hưng Quốc & Hoàng Ngọc -Tuấn chủ biên, Australia: Tiền Vệ,.

[20] Nguyễn Hưng Quốc (2010), Văn học Việt Nam thời toàn cầu hóa, Văn Mới, Hoa Kỳ.

[21] Bùi Văn Nam Sơn (2007). “Lyotard với tâm thức và hoàn cảnh hậu – hiện đại”, in trong: Jean – François Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

[22] Hoài Thanh (1995), Thi nhân Việt Nam, Tái bản. Nxb. Văn học, Hà Nội.

[24] Phùng Gia Thế (2016), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Giai đoạn 1986-2012), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

[25] Hoàng Ngọc- Tuấn (2003), “Stefan Wolpe và bài giảng ứng khẩu về Dada”, nguồn: http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1072.

[26] Hoàng Ngọc- Tuấn (2005), “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại”, in trong Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Trung tâm Ngôn ngữ – Văn hóa Đông Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,.

[27] Trần Vũ (2002), “Hợp Lưu 12 năm – Trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại”, nguồn: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1295&rb=0102.


[1] Khái niệm “văn học Việt Nam” ở giai đoạn này không còn hoàn toàn đồng nhất với văn học trong nước. Thời đại internet, trên thực tế, đã khiến văn học trong nước và văn học hải ngoại không còn có thể bị phân tách rạch ròi. Nhiều sự kiện văn học ở giai đoạn này diễn ra đồng thời trên cả hai khu vực. Trong một số trường hợp, để mô tả thật chặt chẽ diện mạo của văn chương hai thập niên đầu thế kỷ XXI, có thể dùng khái niệm “Văn học Việt ngữ”.

[2]  Theo phương pháp của Lyotard, có thể hình dung văn hóa bao gồm nhiều trò chơi ngôn ngữ khác nhau, với các luật chơi, các quy tắc của mình. Một phát ngôn, một tri thức sẽ không được hợp thức hóa nếu nó không được xem là tuân thủ các luật chơi. Chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam có thể xem như một sự kiện hợp thời bởi mạng internet đã giúp những người cổ xúy cho nó, trong đó trước hết là các nhà phê bình hải ngoại, có một “sân chơi” mới, thu hút nhiều “người chơi” (bao gồm nhà văn, nhà phê bình, người đọc), thoát ra khỏi những giới hạn mà thời đại in ấn và những rào cản văn hóa chính mạch không cho phép. Trên “sân chơi” này, họ thực hiện các “nước đi” như bài báo này phân tích để từ đó thuyết phục người sáng tác và công chúng nói chung về sự cần thiết của hậu hiện đại cho văn hóa nghệ thuật của Việt Nam. Nói theo tinh thần của Lyotard, các “nước đi” này là chiến lược để hậu hiện đại giành được “phần thắng” cho mình mà theo chúng tôi, trước tiên, phần thắng ấy là việc nó trở thành sự kiện học thuật và sáng tác kết nối cả giới phê bình và nghệ sĩ trong nước và hải ngoại.

[3]  Việc coi hậu hiện đại ở Việt Nam như một hiện tượng dịch và cải biên văn hóa tạm thời không tập trung vào vấn đề thuật ngữ này được hiểu đúng hay sai. Thay vào đó, cách tiếp cận này đòi hỏi ta quan tâm hơn đến cách nó đã được hiểu, được diễn giải như thế nào. Những cách hiểu, cách diễn giải này là nước đi chiến lược để hậu hiện đại có thể thích nghi được với ngữ cảnh văn hóa, văn học Việt Nam hồi đầu thế kỷ XXI vốn có nhiều khác biệt so với ngữ cảnh của phương Tây, nơi hậu hiện đại khởi nguồn. Những giới hạn (kể cả những ngụy biện) trong việc diễn giải thuật ngữ “hậu hiện đại”cũng đều tác động vào thực tiễn sáng tác và phê bình ở Việt Nam. Chẳng hạn, việc nó trở thành cái nhãn dễ gắn cho nhiều hiện tượng nghệ thuật có lẽ cũng là nguyên nhân để những thảo luận về hậu hiện đại ở Việt Nam bị lạc lối

THẾ GIỚI TUỔI GIÀ TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật… Bài viết này quan sát cách miêu tả và kiến giải về con người trong truyện ngắn của ông giai đoạn này ở một phương diện vi mô, chưa nhận được nhiều chú ý nhưng có thể lại kết tinh nhiều ám ảnh, băn khoăn nhất của nhà văn: sự trình hiện (representation) và tạo nghĩa về tuổi già. Từ đó, bài viết đặt vấn đề nhìn lại sự vận động của văn học Việt Nam thời hậu chiến qua sự thay đổi trong diễn ngôn về tuổi già.

Xem xét văn bản nghệ thuật từ ký hiệu học, tuổi là một “mã” đáng quan tâm. Đối với một số thể loại, “tuổi” là một đơn vị để định danh, thí dụ, người ta có thể nói dòng tiểu thuyết dành cho tuổi young-adult (tuổi mới lớn/ tuổi hoa niên) mà nhân vật trung tâm thường ở ngưỡng của tuổi trưởng thành và kiểu cốt truyện chủ đạo của nó thường xoay quanh những bối cảnh như trường học, gia đình với những mối quan hệ hay trạng thái tâm lý đặc trưng của lứa tuổi như tình bạn, tình yêu, khát vọng nhận diện và khẳng định bản thân… Trong văn hóa, tuổi cũng là một đơn vị để người ta hình dung về lịch sử và xác định nhân tố trung tâm trong từng thời kỳ. Trong công trình Các phạm trù văn hóa trung cổ, A.Ia. Gurevich có lược thuật lại quan điểm của thánh Augustin về thời gian, theo đó, lịch sử nhân loại kể từ khởi thủy đến viễn cảnh tận thế được chia thành sáu thời đại tương ứng với sáu thời kỳ đời người: tuổi ấu thơ, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên, tuổi chín chắn và tuổi già[1]. Mỗi độ tuổi được xác định bằng hàng chục thế hệ, mỗi thế hệ lại kéo dài hàng trăm năm. Theo tư biện của Augustin thì thế giới Ky tô đang ở thời kỳ tuổi già, tính từ mốc Chúa giáng sinh đến ngày tận thế. Tuổi tác gắn liền với nhiều hệ thống tôn ti và giá trị trong văn hóa, từ đó liên đới mật thiết với những vấn đề như khoảng cách thế hệ, xung đột cũ/mới, truyền thống/hiện đại, bảo thủ/cách tân… Cũng trong công trình nói trên của Gurevich, nhà nghiên cứu đã nêu lên một nghịch lý của xã hội phương Tây thời trung cổ: “đây là một xã hội bị ám ảnh bởi tư tưởng của sự già nua, sự rệu rạo của thế giới, một xã hội tôn kính những gia trưởng trong kinh thánh và những thánh tiên tri tóc bạc thế nhưng cai quản xã hội này là những người không già”[2]. Nhận định này cho thấy trong thế giới trung cổ, những giá trị của thời xưa gắn liền với các bậc tiền nhân được xem là khuôn mẫu cho thời hiện tại, bởi vậy mới dẫn đến những truyền thống như tâm lý sùng cổ, đề cao người già, hoài nghi cái mới. Cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cung cấp thêm nhiều ví dụ ở nhiều nền văn hóa thời cổ đại khi người già được xem như là hiện thân “hiền minh và đức độ”: Lão Tử ngay khi ra đời tóc đã bạc, mang dáng vẻ của một cụ già; trong sách Khải huyền của đạo Ky tô, Đức Chúa Con được thể hiện với mái tóc bạc trắng; ở đền Angkor, thần Shiva được tôn thờ dưới danh xưng là Vridheshvara (có thể dịch là Lão Chúa)[3]. Từ thời kỳ cận/ hiện đại, bức tranh thế giới bắt đầu có sự dịch chuyển khi người trẻ bắt đầu trở thành hình tượng trung tâm. Không phải ngẫu nhiên khi cuốn sách được xem như phát pháo hiệu mở đầu thời kỳ lãng mạn lại là Nỗi đau của chàng Werther – một chàng thanh niên sống trong triền miên sầu muộn. Pho tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo dành những trang cảm động bậc nhất để ngợi ca những người trẻ tuổi tham gia khởi nghĩa hay những cô bé, cậu bé như Codet, Gaveroche…

Thực ra không dễ để xác định ý niệm “tuổi già”. Thứ nhất, việc một người đến ngưỡng tuổi nào thì được coi là già còn phụ thuộc vào những ngữ cảnh văn hóa nhất định. Ở thời trung cổ, tuổi thọ con người chưa cao, bởi vậy thi sĩ Dante đã khẳng định “tuổi thanh niên kéo dài cho tới hai mươi lăm, tuổi chín chắn hoàn tất vào năm bốn mươi nhăm, sau đó tuổi già bắt đầu”[4]. Rõ ràng cái mốc này không còn thích đáng ở thời hiện tại khi tuổi thọ con người không ngừng được nâng lên. Thứ hai, tuổi già không chỉ được xác định theo những dấu hiệu bên ngoài như da nhăn, mắt kém, tóc bạc, răng long… mà còn gắn liền với những trạng thái con người tự cảm thấy: ốm yếu, minh mẫn, nhiều nếm trải, nhiều kinh nghiệm, có quyền uy (“sống lâu lên lão làng”), bị thất thế, lạc loài… Những trạng thái bên trong ấy rất phong phú, phức tạp, không thể giản lược và phán đoán theo những dấu hiệu định lượng. Thậm chí, đã đến lúc phải thừa nhận như là điểm đến của cuộc đời, tuổi già chính là giai đoạn con người đúc kết được nhiều trải nghiệm về lẽ đời, là lúc con người chấp nhận sự xuống dốc của sức khỏe, sự rơi rụng của ký ức và là lúc cận kề nhất với cái chết – ngưỡng giới hạn cuối cùng của đời người, nơi toàn bộ quá trình sống con người bị đặt vào cuộc kiểm tra nghiêm khắc nhất về ý nghĩa. Đó thực sự là giai đoạn con người thường rơi vào những khủng hoảng hiện sinh sâu sắc. Thứ ba, tuổi già hoàn toàn cũng có thể được xem như một kiến tạo văn hóa: việc ai đó được coi là người già, việc gán cho tuổi già những đặc điểm, phẩm chất, quyền năng hay giới hạn nào đó thực chất là kết quả của những hoạt động diễn ngôn trong văn hóa. Bên dưới những lớp nghĩa được tạo nên ấy là những nỗ lực củng cố hay làm lung lay những quyền lực, tôn ti, thứ bậc trong đời sống xã hội ở một ngữ cảnh đặc thù. Chẳng hạn, việc lý tưởng hóa đức hạnh và trí tuệ của người già thường hàm ẩn một thái độ bất mãn với hiện tại, coi những gì gắn với thế hệ cha ông luôn tốt đẹp hơn, mẫu mực hơn, từ đó mà duy trì địa vị của những bậc trưởng lão trong xã hội. Ngược lại, một motif khá phổ biến trong các truyền thống văn hóa – con nổi loạn chống lại cha, con giết cha – không chỉ là sự kịch tính hóa xung đột thế hệ mà còn cho thấy các giá trị được bảo chứng bởi uy tín của các bậc cha chú thường xuyên ở trong nguy cơ bị lật đổ như thế nào. Từ điểm nhìn sử thi, nơi tiếng nói của cha chú là trung tâm, cốt truyện này thường được kể bằng một tâm thế cảnh báo sự tha hóa về đạo đức. Nhưng với một nhãn quan phi sử thi, nơi tiếng nói của những đứa con nổi lên, cốt truyện này lại có thể đưa ra thông điệp về tính bức thiết của tinh thần bất phục tùng.

Như vậy, tuổi già là một ý niệm mang tính giao cắt: vừa là một hiện tượng thuộc về quá trình sinh lý của con người, vừa là một kiến tạo văn hóa; vừa biểu hiện ở những đặc điểm và triệu chứng thể chất, lại vừa gắn với những trải nghiệm tinh thần đặc thù. Chính bởi tính “có vấn đề” trong việc định hình ý niệm nên việc nhận diện thế giới tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hóa ra không đơn giản. Có nhiều nhân vật trong tác phẩm của ông rõ ràng thuộc về lớp người già với những chi tiết nhắc đến tuổi đời hay những dấu hiệu về thể trạng như nhân vật cựu thủ môn lão thành trong “Dấu vết nghề nghiệp”, bác Thông trong “Sống mãi với cây xanh”, sư bà Thiện Linh trong “Mùa trái cóc miền Nam”, người cha của Lực trong “Cỏ lau”… Nhưng cũng có những nhân vật mà sự già nua là trạng thái họ tự cảm thấy hoặc dưới cái nhìn của người kể chuyện: người phụ nữ hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” mới chỉ trạc ngoài bốn mươi nhưng “dáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già”;  trong “Cỏ lau”, Lực khi nhìn tấm ảnh cũ chụp mình thời trẻ và nhìn bé Thơm đang đi bên cạnh mình không tránh khỏi cảm giác thấy mình thật “già nua”; ở “Phiên chợ Giát”, lão Khúng nhìn thấy mình như một “lão già ghê tởm” với “thân hình cao vổng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề…”[5]. Đặc biệt, trong suốt tác phẩm cuối cùng này của Nguyễn Minh Châu, lão Khúng được xây dựng như một hình tượng cặp đôi với con bò khoang – con vật mà ông lão gọi bằng biệt danh “mụ già khụt khịt hay cảm cúm”. Một vài nhân vật khác như Nhĩ trong “Bến quê” hay Quỳ trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” khó có thể coi là người già nếu chỉ căn cứ trên tuổi sinh học song Nguyễn Minh Châu lại mô tả họ như con người đã nếm trải tận cùng số phận – một trải nghiệm thường chỉ có ở những người đã đến ga cuối đời mình. Bệnh tật buộc Nhĩ phải nằm liệt trên giường, trong trạng thái ý thức còn đủ tỉnh táo để hồi cố và chiêm nghiệm cả quãng đời mình đã sống và đã lãng phí. Khi tâm sự với nhân vật người kể chuyện trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Quỳ tự nhận xét về bản thân: “Tuy mới hăm bảy tuổi nhưng tôi đã sống trọn cuộc đời của tôi cách đây từ nhiều năm… Lắm lúc tôi giống như một bà lão ngồi ôn lại quãng đời đầu xanh tuổi trẻ…” Nếu coi sự già còn gắn liền với những trải nghiệm tinh thần của những người đã đủ thời gian để nhìn lại tổng kết về chính mình và thế sự thì hoàn toàn có thể xếp Nhĩ hay Quỳ vào nhóm nhân vật già. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hầu hết đều sống trong tình trạng già đi.

Đây chính là một bình diện tuy vi mô nhưng lại cho phép nhìn ra sự tương phản sắc nét trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu thời hậu chiến với thế giới sử thi trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa giai đoạn trước 1975. Không phải văn chương giai đoạn ấy vắng bóng người già nhưng nó thiếu vắng sự miêu tả quá trình già đi của con người. Thật vậy, thử nhìn vào một bài thơ nổi tiếng giai đoạn chiến tranh chống Mỹ – “Đất quê ta mênh mông” (Bùi Minh Quốc), ta có thể nhận thấy rõ điều này. Bài thơ mở đầu gợi ra cả một khoảng thời gian từ khi mẹ còn trẻ cho đến khi mẹ đã già: “Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh/Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc”. Có điều ngay cả khi ấy, quá trình già đi thực chất vẫn không được khắc họa trong bài thơ bởi lẽ mái tóc của mẹ có thể thay mầu, tín hiệu của tuổi già trở nên nổi bật nhưng sức mạnh của người mẹ vẫn cứ là cái gì không thể suy suyển. Người già trong thế giới sử thi là những hình tượng mà thân thể đã bị hóa thạch, hiểu theo nghĩa, nó không còn chiều kích vật chất của tồn tại người nữa, nó được phóng đại lên thành những biểu tượng phi thường: thân thể của họ là thân thể của quê hương đất nước, tiếng nói của họ là tiếng nói của toàn dân, trí nhớ của họ của là ký ức của cả cộng đồng, tư thế của họ là điểm tựa vững chãi cho thế hệ đi sau. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu nếm trải sự già đi của bản thân trước hết là ở sự tự ý thức về tình trạng xuống sức về thể chất. Vị cựu thủ môn lão thành trong “Dấu vết nghề nghiệp” nhận ra mình đã già vào năm 50 tuổi, trong một tình thế mà chỉ chính ông hiểu rõ hơn hết mình mình đã sang chặng cuối của cuộc đời: “Đó là một buổi sáng ông lão đi đánh răng, từ trong nhà ra cái phuy nước cũng phải quãng vài chục bước chân. Mới đi được vài bước, người cựu thủ môn bóng đá lừng danh một thời kịp nhận thấy tay mình cầm một chiếc ca và chiếc bàn chải cứ chĩa thẳng về phía trước, y như đang tự sửa soạn vục chiếc ca sắt vào trong phuy. Tự nhiên ông thấy buồn vô hạn, một nỗi buồn thấm thía và da diết, biết là tuổi già đã đến với mình, nó đến với gương mặt thành thật nhất, chỉ có tính nết người già mới đón đợi cái công việc sẽ tới một cách sớm như thế, làm việc gì mới sửa soạn, chuẩn bị trước kỹ như thế, và ông lão thầm tiếc cay tiếc đắng cái bản năng phản ứng nhanh lẹ của mình khi còn trẻ.” (Đáng chú ý, nguyên đoạn văn này vốn được cải biên từ những dòng nhật ký của Nguyễn Minh Châu viết về trải nghiệm của chính mình khi sang tuổi 50). Chuyện nhỏ nhặt này với ông lão là một biến cố (“ông lão buồn mất ba ngày”) bởi nó là chỉ dấu cho thấy ông không còn là chính mình, không còn sở hữu phẩm chất làm nên niềm kiêu hãnh của một thủ môn xuất sắc một thời, điều ông từng tin đã giúp ông thời trẻ chinh phục người vợ của mình, bởi vậy ông “cũng không đem cái chuyện đi đánh răng kể với bà vợ”. Trở nên chậm chạp, mệt mỏi, đau yếu, người già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không còn là những hình tượng siêu vượt hoàn cảnh như trong thế giới sử thi, không còn là những cây đại thụ làm cột trụ cho cả cộng đồng. Trong “Sống mãi với cây xanh”, Nguyễn Minh Châu xây dựng mối quan hệ song trùng giữa bác Thông và cây sấu cổ thụ trên phố. Cả hai đều là những thực thể bị tổn thương trong đời sống hiện đại: khi người ta đốn hạ cây sấu để mở đường, bác Thông cũng cảm thấy như thể rơi vào trạng thái chấn thương: “Kiệt sức vì đau đớn và cô độc, ông lão như một cây cổ thụ trăm tuổi đang sắp ngã xuống mặt đất.”

Sự già đi của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không chỉ đơn thuần là một chặng trong tiến trình tự nhiên của đời người mà còn do những tác động của hoàn cảnh. Có thể nhận thấy hai nguồn tác động chính lên con người: mưu sinh và chiến tranh. Chính ở đây, qua cách trình hiện về sự già đi, những diễn ngôn của thời đại sử thi đã bị phá vỡ. Trong thế giới sử thi, chỉ có ý niệm về “lao động” chứ không có ý niệm về “mưu sinh”. Diễn ngôn về lao động là diễn ngôn mang tính duy ý chí cao độ, ở đó, hoàn cảnh là thứ luôn có thể bị khuất phục: “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (“Bài ca vỡ đất” – Hoàng Trung Thông). Trong diễn ngôn về lao động của thời đại sử thi, lao động là vinh quang bởi nó là cống hiến, dựng xây, bởi thế có thể nói về sự vất vả trong lao động nhưng tuyệt nhiên không thể nói về sự cơ cực, có thể nói đến cái nghèo như một tính chất của thực tại cần cải tạo nhưng không được phép nói đến cái khổ. Diễn ngôn về mưu sinh lại là diễn ngôn liên quan đến sinh tồn của mỗi cá nhân, nó là cuộc vật lộn khốc liệt của con người với hoàn cảnh nơi không phải lúc nào ý chí cũng có thể vượt thắng. Thế giới sử thi loại trừ diễn ngôn về sự mưu sinh bởi lẽ nó không muốn kết nạp sự nhỏ bé, thậm chí bất lực, của con người trước hoàn cảnh vào bức tranh về công cuộc lao động lạc quan của nó. Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975, mưu sinh chính là thứ vắt kiệt sức lực của con người, làm cho con người già đi so với chính tuổi sinh học của họ mà người phụ nữ hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là ví dụ. Nhưng có lẽ lão Khúng trong “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát” mới thực sự là nhân vật nếm trải những tác động khốc liệt nhất của cuộc mưu sinh lên hình hài. Là một người nông dân lì lợm, quyết liệt trong cuộc mưu sinh trên mảnh đất quê nghèo “có sức nhai người ghê gớm”, “nghiền nát những con người ra rồi vắt lại theo hình thù đã có từ nghìn đời của nó”, Khúng đã từng dồn tất cả sức lực thời trai tráng của mình vào công cuộc vỡ đất, khai hoang lập nghiệp, “tranh chấp với rừng từng bước chân”. Thành quả của cuộc làm lụng nhọc nhằn phải trả giá bằng cả mồ hôi lẫn máu trao cho ông niềm hãnh diện và cả sự hào sảng của kẻ tiên phong đi mở đất. Nhưng từ điểm nhìn của Định – người chú của Khúng, không hơn ông bao tuổi, cuộc sinh tồn ấy vắt sức con người một cách tàn khốc. Trong “Khách ở quê ra”, ấn tượng của Định về người cháu sau một quãng thời gian không gặp là sự già đi trông thấy: “Khúng, y như một con bọ hung vừa từ dưới lỗ chui lên, vừa đen vừa gầy vừa già vừa xấu”, “sáu năm ở chiến trường không làm Định già nhanh đến thế”. Đến “Phiên chợ Giát”, sự già đi ấy đã trở thành trạng thái mà lão Khúng tự cảm thấy bùi ngùi, cay đắng. Nếu trong “Khách ở quê ra”, cuộc sinh tồn khốc liệt trên vùng đất hoang ít nhiều còn khiến lão có một “phép thắng lợi tinh thần” khi nhìn đời sống thành thị như một thế giới của “quân man di mọi rợ”, phải sống trong không gian đóng kín, tù túng thì đến “Phiên chợ Giát”, trong dòng suy nghĩ của nhân vật, cuộc sinh tồn ấy là một vòng luẩn quẩn, thậm chí thất bại khi không phải cái hoang dã đã bị thuần hóa bởi sức mạnh và ý chí của con người mà ngược lại, con người bị đồng hóa vào nó: “Lão sống như người rừng, đánh mất luôn tính cách một người ở đồng bằng, một anh nông dân bon chen ở làng. Vợ lão vốn một người thành phố lại càng thay đổi nhiều. Cả hai vợ chồng trở nên lầm lì, tính nết cũng âm âm u u như tính nết của rừng. Ngày đó, lắm lúc lão Khúng nhìn những đứa con chơi với nhau bên hang đá, đầu ngọn suối, lão ứa nước mắt, nói dại, lão cứ nghĩ không biết chúng nó là con lão hay là con của loài cầy cáo, beo trăn, mỗi lần nghĩ dại thế, lão lại lăn ra cười một mình, cười lăn cười lộn như một kẻ điên, trước cái sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát ra nổi của hoang vu.” Sự già đi là hệ quả của mưu sinh, đã thế, dù dốc toàn bộ công sức của mình trong cuộc mưu sinh ấy, con người vẫn cứ bị đẩy ra ngoài xa hay nằm ở ngoại biên đời sống văn minh. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, bức ảnh phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà Phùng chụp đã đóng khung thực tại mà người xem có thể nhìn thấy, từ đó vô hình hóa người đàn bà hàng chài khốn khổ. Trong “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát”, lão Khúng “cả đời chúi mũi vào hòn đất”, “đã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác”, vậy mà khi ra Hà Nội, “mới loanh quanh trong chợ, cặp giò như hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi”, mới ngỡ ngàng nhận ra cái gì ở Hà Nội “cũng rẻ hơn ở nhà mình một giá”. Một đời hùng hục xông pha khai hoang, giờ lại xót xa khi con trai cả của mình cũng phải bỏ cái mảnh đất mà người cha “đã tưới đến tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi” cho nó để lập nghiệp tại một miền rừng xa xôi, mịt mùng khác. Trạng thái già đi ở đây có thể ví như sự ngấm đòn của con người trong cuộc mưu sinh – đây cũng chính là điểm quan trọng làm nên sự tương phản giữa lão Khúng trong “Khách ở quê ra” với lão Khúng trong “Phiên chợ Giát”.

Thế giới tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu cũng là thế giới kinh qua một giai đoạn lịch sử dường như được nối tiếp bởi những cuộc chiến khốc liệt. Sự già đi của họ, một phần quan trọng, liên quan đến những tổn thương mà chiến tranh gây ra. Bà mẹ của anh lính phục viên làm nghề cắt tóc trong truyện ngắn “Bức tranh” lòa mắt bởi khóc thương người con trai tưởng đã hy sinh trong chiến tranh. Ông bố của Lực trong “Cỏ lau” suốt bao nhiêu năm cũng sống với ý nghĩ rằng Lực đã hy sinh và điều đầu tiên làm Lực xót xa nhất khi trở về quê là thấy cha mình “đã già đi đến mức thế”: “Cái đầu bây giờ không còn mọc một sợi tóc, lại đầy gầu, nom cứ như mốc trắng, quá nhỏ bé như đầu một con chim lớn đã bị vặt trụi hết lông. Một bộ quần áo may bằng vải chúc bâu trắng nhưng đã ngả màu cháo lòng rộng thùng thình trong cái thân thể gầy và dài cứ nguềnh ngoàng.” Bác Thông, ông già cô độc và lặng lẽ trong “Sống mãi với cây xanh”, cũng có con trai nằm lại nơi núi rừng Trường Sơn. Và khoảnh khắc đau đớn tột cùng của lão Khúng là lúc lão nhận tin báo tử của thằng Dũng – đứa con trai mà ông đã khích lệ nhập ngũ làm lính tình nguyện để rồi chết trong cánh rừng hoang tận Campuchia. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu tụ họp nhiều ông bố, bà mẹ có con cái hy sinh hay thương vong bởi chiến tranh. Trong “Cỏ lau”, lời của một ông già khi nói về thời cuộc có thể thâu tóm được âm hưởng bi thương của thời hậu chiến: “Chao ôi, thời buổi khủng khiếp, mấy đời người mới có một lần. Người trẻ thì chết, toàn hai mươi, mười tám, còn người già thì sống.” Già mà vẫn sống – tuổi thọ không còn là ý niệm phúc lộc của đời người nữa, ngược lại, đó là sự chịu đựng nghiệt ngã, bi kịch.

Tính bi kịch của nhân vật tuổi già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, sâu xa hơn, nằm ở chỗ chính vào khoảnh khắc chạm vào ngưỡng cuối cùng của đời người, họ đối mặt với cuộc khủng hoảng hiện sinh không thể né tránh. Trong “Dấu vết nghề nghiệp” và “Bến quê”, nhân vật của Nguyễn Minh Châu đều bị đặt vào những tình huống hạn chế: khi cái đón đợi mình phía trước chỉ còn một khả năng duy nhất – cái chết, điều duy nhất con người có thể làm là nhìn lại quãng đời đã sống. Ở thời khắc ấy, những gì ký ức còn neo giữ lại là thứ làm nhân vật day dứt, thậm chí ân hận hơn cả. Vị cựu thủ môn lão luyện không thể nào quên được cú bắt bóng vụng dại và ngớ ngẩn nhất trong sự nghiệp của mình cũng như cách xử lý tình huống gian lận nhưng độ lượng của vị trọng tài từng là đối thủ của mình trên sân cỏ cũng như trong tình yêu. Có những điều mà chỉ đến khoảnh khắc cuối cùng của đời mình, người ta mới thật sự thấm thía hoặc dám thừa nhận. Điều mà vị cựu thủ môn muốn nói nhất trước khi chết là sự nghiệt ngã và tình người trong bóng đá, có những điều phức tạp hơn, sâu xa hơn bàn thắng – bàn thua mà người ta nhìn thấy trong trận đấu. Trong “Bến quê”, điều làm Nhĩ đau đớn hơn cả sự hành hạ của thân xác vào ngày cuối cùng trong đời mình là khi nhận ra mình sắp chết nhưng mình thực sự chưa từng sống – nếu hiểu sống phải là quá trình con người ta nhận ra ý nghĩa của bản thân đời sống.

“Cỏ lau” và “Phiên chợ Giát” – hai tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng là hai tác phẩm đào sâu vào những khủng hoảng hiện sinh xuất hiện đúng vào thời điểm con người chạm ngưỡng của sự già. Trong “Cỏ lau”, Lực trở về quê hương để làm công việc quy tập thi hài của những người đồng đội nhưng ở đó suốt bao nhiêu năm, những người thân của anh đều nghĩ anh đã chết. Motif trở về  ở truyện ngắn này cho phép ta liên hệ ở mức độ nào đó với cuộc hồi hương của Ulysses trong sử thi Odyssey. Sau cuộc chiến thành Troy, trải mười năm lưu lạc, Ulysses vượt qua vô vàn thử thách bằng sức mạnh và trí tuệ của mình, để tìm về quê nhà, đoàn tụ với vợ con, khẳng định tư cách anh hùng của mình. Ngược lại, cuộc hồi hương của Lực – kẻ mất khoảng thời gian gần gấp đôi Ulysses để trở về sau chiến tranh – là thời điểm đánh dấu những khủng hoảng hiện sinh của nhân vật, không phải chỉ ở chỗ người nhà đều tin anh đã chết, vợ anh đã đi lấy người khác mà ở những biểu hiện sâu xa hơn trong tâm thức của nhân vật. Trong một tiểu luận về “Cỏ lau”, Đoàn Cầm Thi đã chỉ ra một khía cạnh của sự khủng hoảng này ở nhân vật: sự xa lạ với chính mình khi Lực đối diện với tấm ảnh thời trẻ: “Không thể nào không nhận thấy ở Lực sự bất ổn, thậm chí sợ hãi, trước hình ảnh của chính mình: Lực đang biến thành ‘người xa lạ’.”[6] Tôi muốn nói thêm: chính ý thức về sự già đi của bản thân sau bao năm chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến trạng thái bất ổn đó ở Lực. Song khủng hoảng hiện sinh ấy còn thể hiện ở một khía cạnh khác: Lực đối diện với tình trạng mất ý nghĩa của những gì trong thực tại anh đang thấy, đang chứng kiến khi trở về. Núi Đợi đã được người dân tự động đổi tên thành núi Tử Sĩ – cái tên nhắc đến sự mất mát khốc liệt của cuộc chiến vừa qua; vùng đất xưa kia là bãi chiến trường nơi con người hy sinh xương máu để chiếm lấy từng tấc đất nay chỉ cỏ lau mọc lên um tùm, rậm rạp, gây khó cho việc tìm hài cốt đồng đội; nơi yên nghỉ của người chết giờ là bãi chiến trường của đám trẻ chăn bò chơi trận giả. Và cuối cùng, cuộc chiến mà Lực “không hề mảy may hối tiếc đã dốc hết tuổi trẻ vào đấy mà cống hiến cho nó” nhưng rốt cục, “nó như một nhát dao phạt ngang hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ.” Chấn thương ấy là trạng thái không thể nhìn thấy được từ bên ngoài, nó khiến Lực bơ vơ như khách lạ chính trên mảnh đất cố hương của mình, sự sống sót của mình hóa ra lại chỉ đem đến cho nhân vật mặc cảm tội lỗi khi có thể xáo trộn tất cả những cuộc đời của người khác. Sự trở về không phải là phần thưởng dành cho nhân vật như ta thấy trong sử thi Homer; trái lại ở đây, Lực ý thức việc mình chỉ như “một khách lạ” giống một hình phạt của định mệnh nhiều hơn (điều đáng nói là cảm quan về định mệnh không xuất hiện trong ý thức của Lực thời trẻ, khi cái nhìn cuộc sống của anh đậm tính duy ý chí).

Không phải đi đến cuối đời, người ta có thể nhận ra ý nghĩa của đời mình mà là sự mất ý nghĩa, thậm chí sự vô nghĩa, của tất cả những gì con người đã nhọc lòng vì chúng. Đó có lẽ là trải nghiệm của lão Khúng trên đường dắt con bò khoang ra chợ. Trong dòng ý thức của lão Khúng, cả cuộc đời của nhân vật được tái hiện và tự đánh giá một cách nghiêm khắc nhất, theo đó, cứ như thể toàn bộ lao lực của ông rốt cục giống như hành động đẩy đá của Sisyphus: người hùng khai hoang một vùng đất cuối cùng vẫn chỉ “sống trong sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát nổi của hoang vu”. Cuộc đời vắt sức cho đất hoang rốt cục cũng đi đến kiệt cùng như con bò khoang già nua, vòng đời của nó thực ra đồng dạng với vòng đời của chính lão Khúng. Bởi thế, hành động nhân vật thả con bò về rừng hoang, thay vì đem bán nó ở chợ để cuối cùng bị làm thịt thành thức ăn cho người, nhất là dân thành thị, có thể xem là cuộc nổi loạn hiện sinh. Việc này khiến toàn bộ hành trình đi từ nhà lúc khuya khoắt đến chợ của lão Khúng trở thành một hành trình vô mục đích và không thể hiểu nổi theo lẽ thông thường. Theo Hoàng Ngọc Hiến, hành động này thể hiện “ảo tưởng tự do hoang dã” của lão Khúng, cho dù việc con bò cuối cùng lại quay trở về gặp chủ nó là “sự thất bại não nùng” của ảo tưởng ấy.[7] Một thất bại theo kiểu Sisyphus nếu chỉ nhìn vào kết cục luẩn quẩn này. Nhưng khoảnh khắc đột nhiên nhân vật cảm thấy cần phải giải thoát cho con bò chính là lúc ông lão lấy lại sức mạnh nội tại, dù chỉ trước đó thôi, ông còn có cảm giác mình “sắp chết”. Sức mạnh ấy giúp ông đủ can đảm để chấm dứt việc tái diễn chu trình vô nhân đạo nhưng đã trở nên bình thường, thậm chí bị coi như tất yếu, của đời sống, để còn có thể là người – điều mà ông phải giữ lại dẫu có thể tất cả những thứ khác, dù vô cùng quý giá trong đời ông, như đất đai, con cái, đều mất hết: “Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công việc vô cùng vô nhân đạo. Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt? Lão thấy lão không còn là giống người nữa chứ còn đâu nửa người nửa thú vật? Một lát sau lão không lên án, tự xỉ vả mình nữa mà chỉ thấy trong người mình một cái nhu cầu đầy bức bách tự giải thoát…”  Ý thức giữ lại tư cách người ở lão Khúng có thể gợi nhớ đến lão già Santiago trong Ông già và biển cả của Ernest Hemingway – người chấp nhận đương đầu không cân sức với đàn cá dữ giữa đại dương để không chỉ bảo vệ thành quả lao động của mình mà để khẳng định sự kiên định của việc làm người: “Con người có thể bị hủy diệt, nhưng không thể bị đánh bại.” Cố gắng ấy hoàn toàn vô nghĩa nếu chỉ nhìn vào bộ xương của cá kiếm mà Santiago mang về, sự kiên cường của nhân vật có thể cũng vô nghĩa khi toàn bộ cuộc giao tranh trên biển của ông lão là đơn độc, không có ai chứng kiến song việc làm người đòi hỏi thứ tự do nội tại trong quyết định và hành động hơn bất kể điều gì. Mọi tự do của con người có thể đều là ảo tưởng nếu ta nhìn vào kết cục, song cái tự do tại thời khắc quyết định và hành động là cái chân thực dù chỉ tồn tại trong chốc lát. Lão Khúng, vì thế, có thể xem là hình tượng người già cứng cỏi còn trụ lại trong thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu, dù thực chất, khác hẳn với ông lão Santiago của Hemingway, lão không được nhà văn tạo hình như một mẫu nhân vật chiến bại anh hùng trong cuộc hiện sinh.

Khủng hoảng hiện sinh ở nhân vật tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu còn được khắc họa ở những trải nghiệm ăn năn, sám hối và ý thức chuộc tội. Ở trên, tôi đã nói đến mặc cảm tội lỗi ở Lực bởi chính sự sống sót của anh sau chiến tranh có thể phá vỡ cuộc sống mà anh nghĩ đã yên ổn. Nhưng sâu xa hơn, chính cuộc chiến tranh mà Lực trải qua cũng là nguồn gốc của mặc cảm trong anh: nó không hề là kỳ tích, chiến công dù anh trở về đây trong tư cách của người thắng trận. Anh nghe Quảng nói về cuộc chiến mà súng đạn từ phía anh cũng là tác nhân khiến thị xã Quảng Trị này “một nửa hòn gạch nguyên lành cũng chẳng còn thấy”. Cuộc sống thời bình sau chiến tranh vẫn cứ là cuộc sống ly tán “như dân Do Thái” (lời của Quảng nói với Lực) khi người ta phải bỏ quê hương đã tan hoang và bị xáo trộn khủng khiếp đi tứ xứ sinh sống, làm ăn. Và lời nói thật nhất về cuộc chiến ấy là lời của Huệ – người yêu của Phi, một chiến sĩ cấp dưới của Lực đã hy sinh trong trận chiến Quảng Trị: “Chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt hơn!”. Những gì Lực thấy và nghe về hệ lụy mà cuộc chiến để lại khiến anh không thể phủ nhận phán xét đó từ cô gái trẻ ấy. Câu “Tôi cũng là một con người của chiến tranh” không phải là thú nhận từ Lực để mong đợi nhận được sự thông cảm hay tha thứ của Huệ – người đã mất đi người yêu bởi một quyết định độc đoán và sai lầm của Lực trong một trận đánh. Kết thúc “Cỏ lau” là một tưởng tượng của Lực về tương lai của mình, nơi anh chấp nhận sẽ sống về già trong cô độc và trong trách nhiệm chịu tội: đó là thế giới nơi chỉ có anh và người cha già sống những ngày cuối đời cùng nấm mộ của Phi. “Phiên chợ Giát” cũng mở đầu bằng cảm giác tội đồ của lão Khúng khi giật mình khỏi cơn ác mộng mà ở đó, lão nhìn thấy mình như một hung thần đang giương cây búa to nặng để đập chết bò khoang. Nỗi sợ hãi bởi cảm giác như thấy phần tăm tối nhất trong con người mình, khả năng trở nên ác độc, tàn nhẫn của chính bản thân khiến lão bàng hoàng: “Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn sám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Đằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn tên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.” Nỗi sợ hãi trước chính mình này có thể xem là cơ chế tâm lý bề sâu chi phối quyết định tưởng như đột nhiên và có vẻ “điên rồ” của lão Khúng khi giải thoát cho bò khoang ở cuối truyện. Nội tâm của nhân vật không chỉ dày đặc nỗi day dứt khi nghĩ về mối quan hệ giữa mình với con bò đã gắn bó cả đời mà còn trĩu nặng những niềm áy náy khi nghĩ đến những đứa con, đặc biệt sự ân hận khi nghĩ về Dũng – đứa con hy sinh nơi xứ người. Những lý do cao cả không đủ khỏa lấp được nỗi đau trần trụi của một người cha mất con và cũng có thể mất luôn ảo ảnh về con khi lão không có dù chỉ một tấm hình của con chụp khi còn sống.

Không chỉ sống trong những dằn vặt, mặc cảm tội lỗi, người già trong truyện ngắn còn được đặt vào tình thế của kẻ nếm trải nhiều nhất, chịu đựng nhiều nhất một thời đại đầy biến động. Lời của họ không còn là lời tiên tri về tương lai mà là dự cảm về sự tàn cuộc nhiều hơn. Bằng một linh cảm đặc biệt, sư bà Thiện Linh nghe thấy những âm thanh sám hối vang vọng ngay trong những ngày hòa bình đầu tiên: “Chẳng lẽ đã đến giờ khắp mặt đất cùng cất lời cầu nguyện? Khắp thinh không đang rung lên những hồi chuông ngân nga trong ánh chiều tắt dần, trong lúc khắp cõi mặt đất đang đắm chìm trong bóng tối, tất cả mọi con người của không biết bao nhiêu tôn giáo và không tôn giáo, đang kính cẩn chắp tay lên ngực hoặc giơ thẳng cả hai cánh tay, ngửa mặt lên trời để cầu xin lòng xót thương và lời tha thứ, đang gào lên trước cái ác cùng sự dửng dưng trước cái ác của con người.” (“Mùa trái cóc miền Nam”) Trong “Cỏ lau”, cảm quan mạt thời cũng thể hiện rõ trong lời của một ông lão đã chứng kiến cả sự khốc liệt của chiến tranh và những đảo điên của thời hậu chiến trên mảnh đất quê mình, nơi người ta “đang đánh nhau vỡ đầu vì tranh giành đất”, nơi máu xương của những người ngã xuống chỉ tưới bón cho cỏ hoang tươi tốt, nơi “cái ác mọc ra từ trong máu, trong thịt mình”. Không chỉ mất con bởi chiến tranh, người già trong truyện ngắn còn bị bỏ rơi bởi chính những đứa con của mình sau chiến tranh: sư bà Thiện Linh bị đứa con chối từ, ông lão trong “Cỏ lau” cay đắng khi thấy con trai của mình trở thành kẻ vô cảm, tàn nhẫn với ngay cả vợ con và những người mình mang ơn: “Con mắt nó không còn biết nhìn nữa mà chỉ còn biết quắc lên. Cái miệng nó không còn biết cười nói, mà chỉ còn gầm gừ. Nó không còn biết thương người…”  Chi tiết nhỏ này về thế giới người già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thực ra có thể nói lên một số thay đổi quan trọng trong khung tư duy của nhà văn khi ta thử làm phép so sánh với những hình tượng cùng loại trong sáng tác của một số nhà văn ở thập niên 1980. Trong kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ – tín hiệu báo trước của thời Đổi mới trong văn hóa và chính trị, Trương Ba có thể lạc lõng trong nhà nhưng không lạc loài, sự lựa chọn của ông – chấp nhận tan vào hư vô hơn là duy trì sự tồn tại trong hình hài vay mượn của kẻ khác – ít nhiều còn có thể lay tỉnh con cái và đặc biệt khiến ông kết nối lại được với thế hệ cháu mình. Những đứa con trong kịch của Lưu Quang Vũ có thể cãi cha nhưng tiếng nói của người già vẫn còn vọng được tới thế hệ sau. Đến Nguyễn Minh Châu, người già mất con trong và sau chiến tranh, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nó là tự sự của những người già côi cút, bất lực với chính những đứa con mình. Tướng Thuấn trong “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp thì đã thấy mình “lạc loài” trong thời bình, không thể thích nghi với tất cả những phức tạp, nhốn nháo của thời bình. Những đứa con của ông không cãi lại ông, không từ bỏ ông nhưng vị tướng ấy bất lực trong việc kết nối với con cháu. “Tướng về hưu” đã không là tự sự của người cha nói về những đứa con của mình; nó là tự sự của những đứa con mất cha, đúng như phát hiện của Đoàn Cầm Thi.[8] Khác với Nguyễn Minh Châu, thế giới văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp lại là thế giới của những đứa con thiếu cha, ghét cha, thậm chí giết cha. Trong thế giới của Nguyễn Minh Châu, người già có thể cay đắng vì “thèm chui vào đất nhưng ông trời chưa cho” (“Cỏ lau”); ở thế giới của Nguyễn Huy Thiệp, những đứa con có thể thản nhiên: “Các bác già chết đi thì có gì là lạ?” hay đề nghị biểu quyết: “Ai đồng ý bố chết giơ tay?” (“Không có vua”). Sự suy giảm trọng lực của tiếng nói và vị thế của người già từ Lưu Quang Vũ qua Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Huy Thiệp phản ánh sự biến động về cảm quan đạo đức ở mỗi nhà văn tương ứng với nhận thức của họ về những rạn nứt, xáo trộn về giá trị của xã hội hậu chiến. Điều này, đến lượt mình, dẫn đến sự khác nhau cơ bản về tính chất bức tranh thế giới trong sáng tác của ba nhà văn. Thế giới trong kịch Lưu Quang Vũ ở trạng thái có thể bắt bệnh và chữa lành lại, đó là nơi sự hòa giải thế hệ có thể diễn ra. Thế giới của Nguyễn Minh Châu là thế giới nơi con người phạm lỗi, mê lầm, nó đòi hỏi sự ăn năn, sám hối và điều này được tự giác thực hiện trước hết bởi những người đã đi gần hết chặng đời của mình. Thế giới của Nguyễn Huy Thiệp đối lập với thế giới của Lưu Quang Vũ ở chỗ nó mất đi ảo tưởng lãng mạn về khả năng chữa lành những căn bệnh của xã hội. Thế giới ấy gần Nguyễn Minh Châu hơn khi nó kết nạp đầy những nhân vật phạm lỗi, mê lầm chứ không chỉ mắc những thói tật xấu như ta thấy ở kịch Lưu Quang Vũ. Ở thế giới ấy, sự già đi không phải là đảm bảo về giá trị, hay ít nhất khơi gợi sự cảm thương như ta thường cảm nhận được ở tác phẩm của Nguyễn Minh Châu: bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc của một anh hùng chẳng thể giúp vị tướng ấy thích ứng được với đời thường; tự tin vào rừng đi săn như lão Diểu trong “Muối của rừng” thì cuối cùng cũng phải trở về trần truồng và nhỏ bé, đê tiện, nham nhở như lão Kiền trong “Không có vua” thì trước khi chết cũng nếm trải đau đớn cực hình của thân xác… Nguyễn Minh Châu hầu như không mô tả cái chết của nhân vật già nào, dù ông hay mô tả trải nghiệm khi cận kề cái chết hay linh cảm về cái chết họ, theo đó, cái chết được nhìn như là điểm cuối kết của mọi sự. Nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp có chết đi thì cuộc sống vẫn xoay vần theo cách riêng của nó, cứ như thể anh hết vai nhưng tấn kịch của cuộc đời thì tiếp diễn đến không cùng. Thế giới của Nguyễn Huy Thiệp là thế giới của sự phân rã nơi người già cũng loay hoay, cũng mê muội, chẳng dạy bảo được gì con cái và thậm chí cũng chẳng bi phẫn gì. Điều này cũng rất khác so với loại hình tượng này trong sáng tác về sau của Nguyễn Huy Thiệp khi ông xây dựng một vài nhân vật người già thông suốt lẽ đời, có nhãn quan riêng và có thể độ lượng với tuổi trẻ như trong “Sống dễ lắm” chẳng hạn.

Thế giới tuổi già trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là thế giới mang nhiều nếm trải bi kịch. Có nhiều lý do để Nguyễn Minh Châu quan tâm đến lát cắt đặc biệt này của đời người, trong đó, hẳn phải nhắc đến việc ở ngưỡng cuối cùng này, con người cần thiết phải sống thành thật, không được phép chạy trốn việc đối diện với chính mình. Sự trung thực là phẩm giá mà ông đòi hỏi ở nhân vật của ông trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa của đời mình. Song đó cũng chính là yêu cầu mà ông tự đặt ra cho bản thân, thậm chí ở mức độ cao nhất. Đó cũng là điều quan trọng làm nên sức sống của trang văn Nguyễn Minh Châu qua thời gian.

TRẦN NGỌC HIẾU

(Bài viết được đăng trên tạp chí Sông Hương, tháng 4-2020)


[1] A. JA. Gurevich, Các phạm trù văn hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996, trang 127.

[2] Tlđd, trang 129.

[3] Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (chủ biên), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng & Trường Viết văn Nguyễn Du, 2002, trang 967-8.

[4] A.JA. Gurevich, Tlđd, trang 129

[5] Các trích dẫn tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong bài viết này được lấy từ Nguyễn Minh Châu – Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội, 1999.

[6] Đoàn Cầm Thi, “Tôi là kẻ khác: Ảnh và cuộc đi tìm bản thể trong Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu” in trong Đọc tôi bên “Bến lạ”, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn, 2006, trang 47.

[7]  Hoàng Ngọc Hiến, “Đọc Nguyễn Minh Châu từ “Bức tranh” đến “Phiên chợ Giát”, in trong Nguyễn Minh Châu – Về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 192-3.        

[8] Đoàn Cầm Thi, “Nguyễn Huy Thiệp: Những đứa con giết cha” in trong Đọc tôi bên “Bến lạ”, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2006, trang 26.

Trần Ngọc Hiếu – Internet và cộng đồng tưởng tượng của thơ ca: Một khảo sát về thơ mạng Việt ngữ những năm đầu thế kỷ XXI

Tôi đã từng nghĩ bài viết này là phác thảo ban đầu cho một dự án độc lập của mình: nghiên cứu về tác động của internet lên sự vận động của thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Đó là một bối cảnh mà tôi không chỉ là kẻ quan sát mà ít nhiều cũng dự phần, dù không nhiều. Niềm tin của tôi về khả năng nghiên cứu văn học của mình bắt đầu từ những bài viết về thơ đương đại được đăng trên talawas. Trong những cuộc chuyện trò với những bạn văn thời ấy, nhiều người không giấu sự tiếc nuối về những năm còn mang nhiều ảo tưởng, rằng mạng có thể tạo điều kiện cho một cuộc cách mạng văn học thật sự. Không gì ồn ào, gay gắt và quyết liệt bằng những sáng tác và tranh cãi về thơ trên mạng ở khoảng thời gian ấy. Và nếu như môi trường học thuật cởi mở, lẽ ra người ta sẽ còn phải nghĩ tiếp về những vấn đề còn bỏ ngỏ và đầy khiêu khích ấy.

Thơ ca mạng và những địa điểm trú ngụ của nó những năm đầu thế kỷ XXI – các tạp chí văn chương điện tử như talawas, Tiền Vệ, Da Màu, eVăn… thực sự là một cảnh quan sống động. Dù ở thời điểm này, không ít người cho rằng những hiện tượng cực đoan nhất của thơ ca giai đoạn ấy chỉ là những hiện tượng nhất thời nhưng tôi vẫn bảo lưu ý kiến rằng dư chấn mà chúng gây ra là một thực tế không thể phủ nhận và cần nhiều mô tả và phân tích hơn nữa.

Tôi đã viết nghiên cứu này để tham gia một dự án về Online Creative Writing in Asia nhưng dự án này không thành. Một phiên bản ngắn hơn và có thể có một trọng tâm khác với bài viết này đã được đăng trên tạp chí Southeast Asian Media Studies, Vol. 1 No.2 (2019). Tôi tìm cách công bố bài viết này bằng tiếng Anh chỉ vì chưa thể công bố chính thống bằng tiếng Việt lúc này. Đây cũng là cơ hội để tôi học hỏi từ những người bình duyệt rất tận tâm của tạp chí. Tôi cũng xin cảm ơn bạn Nguyễn Hoàng Quyên đã giúp đỡ rất nhiều trong việc dịch bài này sang tiếng Anh.

https://ejournals.ph/article.php?id=14708

lvt-neighbourgarden2.jpg

Hình: Lê Văn Tài, “The neighbour’s garden is evergreen”, Nguồn: https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=678703BC25E536B567507AD8E5C59F56?action=viewArtwork&artworkId=6085

*

       1. Một phác thảo về thơ Việt hiện đại trước thời internet

Trào lưu được xem như cột mốc đầu tiên của thơ Việt hiện đại là Thơ mới xuất hiện vào năm 1932. Chịu những ảnh hưởng trực tiếp của thơ ca Pháp thế kỷ XIX, Thơ mới, về cơ bản, là một trào lưu lãng mạn, nó đánh dấu sự đoạn tuyệt với truyền thống của thơ ca trung đại, trước hết là ở việc nó dùng chữ Quốc ngữ để sáng tác thay cho văn tự Hán Nôm, xa hơn là ở sự khước từ hệ thống luật lệ vốn kế thừa từ những nguyên tắc thi pháp của thơ ca cổ điển Trung Hoa. Song quan trọng hơn, thứ thôi thúc sự hình thành và phát triển của trào lưu này chính là những tâm thức mới nảy sinh của con người Việt Nam trong bối cảnh thuộc địa. Tác giả chủ lực của nó là những trí thức Tây học: thơ là phương thức để họ thể hiện tình cảm, thị hiếu, khát vọng, phong cách sống mang màu sắc cá nhân và tác động đến bộ phận công chúng chính của mình – lớp độc giả thị dân mới. Môi trường để thi sĩ Thơ mới lan tỏa tiếng nói của mình và xây dựng một cộng đồng cho mình là báo chí và xuất bản đương thời.

 

Là một trào lưu có sự phát triển năng động, Thơ mới đã đem đến những sự cải tạo quan trọng đối với diện mạo thơ Việt: câu thơ tự do hơn, kết cấu bài thơ linh động hơn, giọng điệu trong thơ cá nhân hơn. Điều đáng nói là trong vòng hơn 10 năm, bản thân Thơ mới cũng có những dấu hiệu thoát khỏi từ trường của chủ nghĩa lãng mạn, ngả sang hướng tượng trưng với các sáng tác của Bích Khê, Đinh Hùng, nhóm Xuân Thu Nhã Tập, thậm chí còn manh nha những yếu tố siêu thực, như trong thơ Hàn Mặc Tử[1]. Song những biến động của lịch sử chính trị xã hội đã hãm lại đà phát triển của Thơ mới. Kể từ Cách mạng tháng Tám và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, những người cộng sản không chỉ muốn khẳng định vai trò là lực lưỡng lãnh đạo chính trị và quân sự mà còn muốn thiết lập quyền lực của mình trên bình diện văn hóa. Thơ mới, vì thế, được xem là gắn liền với ý thức hệ tiểu tư sản bạc nhược và yếu đuối, cần phải bị thay thế bằng một nền thi ca mới, hướng tới quần chúng công- nông- binh. Định hướng văn hóa ấy khiến thơ mới bị ngoại biên hóa, nhất là những hướng tìm tòi theo hướng hiện đại chủ nghĩa vốn được so sánh như là những cây nấm độc trên thân gỗ mục của chủ nghĩa tư bản. Có một nghịch lý trong mối quan hệ giữa thơ kháng chiến và thơ mới: trong khi một mặt nó muốn dùng ý thức hệ của giai cấp vô sản và mỹ học của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa để phủ định Thơ mới thì mặt khác nó vẫn phải kế thừa những đột phá về thi pháp được mở ra từ thơ mới như cách tổ chức câu thơ và bài thơ. Nghịch lý này sẽ còn nối tiếp trong thơ miền Bắc thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.

 

Sự kiện Điện Biên Phủ năm 1954 đánh dấu sự chấm dứt của chế độ thuộc địa ở Việt Nam đồng thời lại viết Việt Nam vào bản đồ của chiến tranh lạnh. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước bằng đường biên ý thức hệ và điều này tác động sâu sắc đến diện mạo thơ ca Việt Nam. Ở miền Bắc, sự áp đặt văn hóa của những nhà lãnh đạo cộng sản khiến thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa tiếp tục trở thành dòng chính, những nguyên tắc chỉ đạo văn nghệ từ chính quyền xung đột với mong muốn tự do biểu đạt của một số nghệ sĩ. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến phong trào Nhân văn giai phẩm mà một số thành viên chủ chốt và có liên quan là những nhà thơ như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Văn Cao… Nhân văn Giai phẩm bị dập tắt bởi giới cầm quyền; những nghệ sĩ và trí thức quan trọng tham gia và hưởng ứng phong trào bị  takỷ luật, họ không được công bố các sáng tác của mình kể từ sau sự kiện này trong suốt một thời gian dài. Tuy nhiên, tại thời điểm hình thành và bị trấn áp, Nhân văn Giai phẩm mang tính chất của một hiện tượng bất đồng chính kiến hơn là một cuộc cách mạng; nó đòi hỏi tự do sáng tạo cho người nghệ sĩ hơn là đưa ra một định hướng mới về mỹ học của thơ ca. Chỉ ở giai đoạn hậu Nhân văn Giai phẩm, khi Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng… bị gạt ra ngoại biên, sáng tác trong âm thầm, họ mới thực sự tạo ra những đột phá về thi pháp mà phải đến 30 năm sau, chúng mới được biết đến một cách chính thức.[2] Dù có những khác biệt trong những tìm tòi thi pháp của mỗi nhà thơ, song trên những nét lớn, giữa họ vẫn có sự cộng hưởng về mỹ học. Họ phát triển xa hơn những nguyên tắc của chủ nghĩa tượng trưng theo tinh thần Stephan Mallarmé mà ở thời kỳ Thơ mới, chúng mới chỉ manh nha được thể nghiệm: họ lao động công phu với những chiến lược tu từ, hướng thơ đến một vẻ đẹp ngôn từ thuần khiết, giải trừ nhiệm vụ minh họa cho những chủ đề định sẵn mà thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa coi là một mệnh lệnh, kết nối ngôn ngữ với những trạng thái tâm lý miền sâu – những ẩn ức, vô thức, mộng mị, thay thế sự sáng rõ của thông điệp bằng nét mơ hồ, u uẩn của nhạc tính và hình tượng. Ở một mức độ nào đó, chủ nghĩa tượng trưng, qua thực hành của các nhà thơ Nhân văn Giai phẩm, vừa thể hiện ý thức muốn vượt thoát khỏi những nguyên tắc thi pháp lãng mạn vốn kiến tạo nên Thơ mới, mặt khác, lại vừa muốn đối lập với mỹ học và ý thức hệ của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đó có lẽ là một lý do quan trọng để giải thích vì sao khi được giới thiệu trở lại một cách chính thức trên báo chí, xuất bản thời kỷ Đổi mới, những sáng tác này vẫn được coi là những hiện tượng nhạy cảm về chính trị, cho dù trên thực tế, chúng hầu như không biểu đạt trực tiếp một thông điệp chính trị nào.

 

Ở miền Nam giai đoạn này, trong bầu không khí chính trị cởi mở và tự do hơn, một diện mạo văn học mới đã được xây dựng trong 20 năm chiến tranh mang tinh thần của chủ nghĩa hiện đại một cách đậm nét. Gần với thời điểm phong trào Nhân văn Giai phẩm hình thành, một nhóm nghệ sĩ tại Sài Gòn đã lập nên tạp chí Sáng tạo[3] với tham vọng cách tân triệt để, không chỉ miễn nhiễm với nghệ thuật tuyên truyền hiện thực xã hội chủ nghĩa mà còn muốn đoạn tuyệt với di sản của chủ nghĩa lãng mạn, thay thế nó bằng một thứ “nghệ thuật đen”[4] – chữ dùng của Thanh Tâm Tuyền, một tên tuổi quan trọng của thơ ca miền Nam trước 1975 – bất tuân, nổi loạn, phá bỏ những gì trói buộc tự do của thơ ca, cả trong tư tưởng, cảm xúc và hình thức. Thơ ca miền Nam có sự tương đồng nhất định với thơ ca hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây hồi đầu thế kỷ XX ở chỗ nó thể hiện khủng hoảng hiện sinh của con người với những âu lo, bất an trong một thế giới đi đến vô nghĩa. Chỉ có điều bối cảnh của nó là cuộc chiến Việt Nam, nơi người dân Việt Nam bị hiến sinh cho cuộc giao đấu của các ý thức hệ mượn những vũ khí tối tân nhất của thời đại để phô diễn sức mạnh của mình. Trong sự đối chiếu với các sáng tác đầu thập niên 1960 của các nhà thơ Nhân văn giai phẩm, thơ ca miền Nam trước 1975 muốn phủ định mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn không phải bằng tinh thần Mallarmé mà bằng một thứ mỹ học dionysian kiểu Nietzsche[5]: các nhà thơ truyền vào thơ sự chói gắt về giọng điệu, sự đứt đoạn của cấu trúc, sự nghịch dị trong tạo hình.

 

Biến cố 30-4-1975, một lần nữa, làm cho cảnh quan của thơ ca Việt Nam bị vẽ lại. Nền thơ ca miền Nam trước 75 với dòng mạch hiện đại chủ nghĩa của nó bị trục xuất khỏi những mô tả văn học sử chính thống: sách vở miền Nam bị nhà nước cộng sản cấm đoán, thiêu hủy, nhiều nhà thơ quan trọng của miền Nam bị đi cải tạo, bị cấm xuất bản, bị gạt ra bên lề hoặc nếu được nhắc đến, họ chủ yếu chỉ được mô tả như là những đại diện cho khuynh hướng suy đồi văn hóa, chịu những ảnh hưởng độc hại của văn hóa đế quốc Mỹ. Đến tận thời điểm này, mặc dù phê bình chính thống đã phần nào không dùng những định ngữ tiêu cực như thế để mô tả văn chương miền Nam trước 1975 nhưng nhiều tác giả quan trọng vẫn chưa được xuất bản chính thức, bị hạn chế nghiên cứu. Song những gì đã bị trấn áp thì luôn có thể quay trở lại, len lỏi vào cảnh quan văn hóa hiện tại bất chấp những hàng rào kiểm duyệt của thiết chế.

 

Mốc 1986 được xem là mốc khởi điểm của Đổi mới – một thời kỳ đánh dấu nhiều thay đổi quan trọng nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa Việt Nam kể từ sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Một môi trường ít nhiều dân chủ hơn, cho phép mở rộng tự do sáng tác hơn đã dẫn đến những đột phá trong văn học. Những hiện tượng văn học đầu tiên của thời kỳ này gây tranh luận chủ yếu là các tác giả văn xuôi: Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài. Những dấu hiệu lệch chuẩn trong thơ cũng đã xuất hiện trong khoảng thời gian từ cuối những năm 1980 – đầu 1990 như Ngựa biển” (Hoàng Hưng – 1988), Ba sáu bài tình (Lê Đạt, Dương Tường – 1989), Đêm mặt trời mọc (Nguyễn Quốc Chánh – 1990), Bến lạ (Đặng Đình Hưng-1991)… Thơ thật sự trở thành tâm điểm phê bình bắt đầu vào năm 1993-1994 khi có thêm những tập thơ thoát khỏi thi pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những tác giả làm diện mạo thơ ca đương đại chấn động này thuộc nhiều thế hệ khác nhau: có người bắt đầu cầm bút từ sau 1975 (Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quốc Chánh); có người là các tác giả Nhân văn giai phẩm, sau một thời kỳ dài bị treo bút, giờ đây mới có điều kiện công bố những sáng tác trong ngăn kéo của mình (Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hương), có những tác giả từ trước 1975 đã âm thầm tách khỏi dòng chính của thơ ca và chỉ đến lúc này mới có thể công bố những sáng tác ngoài luồng của mình (Dương Tường, Hoàng Hưng)… Một số nhà nghiên cứu đã nhận diện chúng như là những thể nghiệm thi ca mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại. Tranh luận xung quanh chúng phân hóa thành hai cực rõ nét và gay gắt: một bên cho rằng đó là những thứ phản thơ, vô nghĩa, dung tục; trong khi đó, một bên nhận diện chúng như là những cách tân đáng ghi nhận, nối kết chúng với những tìm tòi theo khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa trước đó trong phong trào Thơ mới và thơ ca miền Nam trước 1975. Cuộc tranh luận diễn ra trên nhiều tờ báo văn nghệ từ trung ương đến địa phương, mà tâm điểm là tờ Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam, xoay quanh hàng loạt những chủ đề: thế nào là thơ hiện đại, vai trò của tính dân tộc trong thơ, lịch sử thơ ca Việt Nam… Tuy nhiên, cuộc tranh luận đã tạm thời phải dừng lại sau bài tổng kết của ban Lý luận phê bình văn học của báo Văn nghệ số 13 năm 1995. Trên thực tế, khuynh hướng phủ nhận giá trị của những tìm tòi thơ ca được coi là mang hơi hướng hiện đại chủ nghĩa này là khuynh hướng chính thống khi cuốn sách tấn công chúng dữ dội nhất  – cuốn Thơ phản thơ của Trần Mạnh Hảo được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam.[6]

 

Nảy sinh trong bối cảnh thuộc địa, trong hơn 60 năm, thơ hiện đại Việt Nam đã khởi đầu bằng trào lưu lãng mạn để phủ định thi pháp thơ ca cổ điển từng thống trị mười thế kỷ trước đó, rồi sau đó, nó bắt đầu phát triển những yếu tố hiện đại chủ nghĩa. Tuy nhiên, khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa trong văn học Việt Nam là một hiện tượng đứt đoạn, thường xuyên bị ngoại biên hóa bởi những lý do chính trị. Về cơ bản, nó là một thứ văn học thiểu số, một dòng chảy ngầm. Ngay cả khi được hiện diện công khai, nó cũng thường bị nhìn nhận như là thứ thơ ca khó hiểu và tiềm tàng phẩm chất nổi loạn. Báo chí và xuất bản của Việt Nam sau 1975 dành chỗ cho chúng xuất hiện nhưng đồng thời cũng luôn cảnh giác trước khả năng lan tỏa, cộng hưởng mà chúng có thể tạo ra.

  1. Không gian mạng –không gian xuyên quốc gia của thơ Việt

Năm 1997, internet chính thức xuất hiện tại nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[7] Nhưng thực ra tác động của internet vào văn chương Việt ngữ có lẽ đã bắt đầu sớm hơn khi vào năm 1995, Diễn đàn văn học nghệ thuật liên mạng – tạp chí văn chương điện tử của các nhà văn Việt Nam tại hải ngoại ra mắt ở Mỹ.[8] Văn học Việt Nam hải ngoại vừa là bộ phận kế tục văn học miền Nam trước 1975 vừa là tiếng nói của cộng đồng lưu vong của người Việt sau sự thất thủ của Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên văn học Việt ngữ khai thác những lợi thế của internet để đổi mới hình thức xuất bản của mình, phá vỡ tính độc quyền của hình thức in ấn. Bộ phận văn học Việt ngữ bị hai lần ngoại biên này – vừa bị gạt ra khỏi những mô tả văn học sử chính thống trong nước vốn đóng khung trong biên giới quốc gia, vừa là khu vực văn học thiểu số trong quan hệ với quốc gia nơi người Việt lưu vong cư trú – đã tìm thấy ở hình thức xuất bản mạng nhiều khả năng để kết nối người viết, người đọc trong cộng đồng người Việt.

 

Ở thời kỳ đầu, internet chủ yếu đóng vai trò như là một kênh để giới thiệu các tạp chí văn chương Việt ngữ từng có giai đoạn phát triển khá sôi nổi như Hợp Lưu, Văn học, Việt… Đến năm 2001, đã bắt đầu hình thành các webzine văn chương của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Trong đó, talawas ra mắt lần đầu vào ngày 3.11.2001 có thể xem là diễn đàn đầu tiên cập nhật hàng ngày các trao đổi, bình luận văn nghệ và cả các sáng tác văn học. Được thành lập tại Berlin và do nhà văn Phạm Thị Hoài – một trong những tên tuổi nổi bật của văn học Đổi mới và hiện sống tại Đức – chủ trương, talawas, trên thực tế, không hẳn chuyên sâu vào văn học, thậm chí càng về sau, các vấn đề chính trị lại trở thành trọng tâm của nó. Song không thể phủ nhận, từ thời điểm hình thành cho đến lúc ngừng hoạt động, văn học đã luôn là một chủ đề được quan tâm từ phía người chủ trương lẫn phía công chúng, đến mức nó thường được gọi là một trang mạng văn học. Cũng chính trên diễn đàn này, Nguyễn Quốc Chánh, một gương mặt thơ ca của Sài Gòn gây nhiều tranh cãi từ đầu thập niên 1990, đã giới thiệu tập thơ Của căn cước ẩn dụ[9]. Tập thơ, như Nguyễn Quốc Chánh nói, là sự từ chối thỏa hiệp với xuất bản chính thống và thời đại internet trở thành thời đại tạo điều kiện cho nhà thơ đi đến cùng sáng tạo của mình, bất chấp những kiểm duyệt văn hóa. “Của căn cước ấn dụ” xứng đáng được coi là tập thơ samizdat đầu tiên của văn chương Việt ngữ trong thời đại internet. Gần thời điểm với sự ra mắt của talawas là trang Gió-O do nhà văn Lê Thị Huệ tại Hoa Kỳ làm chủ biên, xuất hiện lần đầu vào ngày 15-11-2001. Đến năm 2002, website Tiền Vệ (mà tiền thân của nó là tạp chí Việt, 1998-2001) do hai nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc -Tuấn được thành lập tại Australia. Chủ trương hướng đến một sự cách tân triệt để văn học Việt ngữ và uy tín của hai nhà phê bình khiến Tiền Vệ từng trở thành website văn chương sôi nổi bậc nhất, quy tụ nhiều gương mặt khiêu khích nhất những năm đầu thế kỷ XXI, trong đó có những tác giả từ chối hoặc không được xuất bản chính thống trong nước. Xuất hiện muộn hơn vào tháng 10-2006 tại Hoa Kỳ – nơi tập trung lớn nhất cộng đồng lưu vong của người Việt là Da Màu mà sáng lập viên bao gồm các nhà văn Đỗ Lê Anh Đào, Đặng Thơ Thơ, Phùng Nguyễn. Vốn được hình thành ban đầu như một tạp chí văn chương điện tử, bản thân tên gọi “Da Màu” đã cho thấy những người khởi xướng rất ý thức về tính chính trị của căn tính. Da Màu vừa muốn thúc đẩy bộ phận văn chương Việt ngữ trong của đa văn hóa, đa ngữ của Hoa Kỳ, vừa muốn phá vỡ các biên giới văn chương theo nghĩa địa lý, chính trị, lịch sử, chủng tộc để tạo nên “một sân chơi văn chương đúng nghĩa để mọi tiếng nói đều được lắng nghe, mọi giọng nói đều được cất cao, và mọi khuynh hướng văn chương đều đồng đẳng”.[10]

 

Có thể nói trong khoảng 10 năm ấy, từ 1995-2006, sự xuất hiện của các trang web và tạp chí văn chương điện tử là một tín hiệu đặc biệt đáng chú ý: nhiều sự kiện và biến động của văn chương Việt ngữ đã được bắt đầu và lan tỏa đi từ đây. Không khó để thấy sự đi trước về công nghệ khiến cho các trang văn chương mạng ở hải ngoại được hình thành và phát triển sớm hơn trong nước. Thậm chí sức ảnh hưởng của chúng cũng khiến cho trong nước có những nỗ lực để xây dựng các tờ báo văn chương điện tử, trong đó đáng chú ý nhất là trang eVăn (hình thành năm 2003). Là một nhánh của trang báo điện tử VnExpress vốn được xem là có lượng người đọc lớn nhất trong nước, eVăn đã chủ trương trở thành một diễn đàn văn chương cởi mở hơn hẳn so với báo chí văn nghệ chính thống, sẵn sàng giới thiệu trang trọng những hiện tượng văn học giàu tính thể nghiệm hoặc đầy thách thức về mỹ học và thi pháp như Tam Lệ, các cây bút nữ trong nhóm Ngựa trời và đặc biệt là nhóm Mở Miệng.[11] Những người chủ trương các website văn chương ở thời điểm ấy không chỉ nhìn thấy internet như một giải pháp kỹ thuật nhiều lợi thế cho hoạt động công bố, truyền bá sáng tác và kết nối độc giả; quan trọng hơn, họ còn hào hứng bởi tính dân chủ tiềm tàng của môi trường internet, một điều kiện cần thiết cho sự phát triển của văn học. Phạm Thị Hoài, vào năm thứ ba của talawas, đã phát biểu:

Vậy mà với một niềm tin không thể tuyệt đối hơn, các công dân internet của hành tinh này tiếp tục hăng say chuyển những sở hữu thật ở dưới đất của mình lên mạng. Tất cả những gì có thể dịch ra kí hiệu digital. Với nền dân chủ kĩ thuật số, mọi nhà văn đều có thể tự xuất bản toàn tập tác phẩm của mình theo ý mình cho muôn đời; và nếu lợi tức từ văn chương không đáng trọng bằng việc được bạn đọc chia sẻ thì chỉ e viết chẳng kịp sức ngốn của một site cỡ mini nhất. Nếu muốn, ngay sáng mai mọi nhà văn tại Việt Nam đều có thể lên mạng, nghĩa là chấm dứt gõ cửa những nhà xuất bản còn ảo hơn cái không gian ảo kia, chờ mua tấm giấy phép sặc sụa mùi giao phối của chính trị hạng bét và thương mại hạng ba; chấm dứt ảo tưởng và tự vỗ về, thụ động và phó mặc; chấm dứt làm một con giun ngưỡng mộ kiếp quằn, một con lừa nghiện roi, một con thoi thoăn thoắt trong một và chỉ một quỹ đạo. Lên mạng là cuộc lên đường của hôm nay. Chế độ toàn trị có thể chặn thành công hầu hết mọi ngả đường, nhưng nó đã không lường đến sự ra đời của internet. Với chúng ta, người Việt, nhà văn Việt, internet là ân sủng không thể lớn hơn của số phận. Luật cấm xuất bản tư nhân nào còn hiệu lực trước hàng trăm ngàn cơ sở tự xuất bản của mỗi tác giả trên mạng? Hạn chế tự do ngôn luận nào còn tác dụng trước hàng triệu diễn đàn tự lập và tự quản trên mạng?[12]

                                                           

Như lời của Phạm Thị Hoài, internet trở thành công cụ để nhà văn Việt Nam vượt khỏi sự kiểm duyệt của nhà nước toàn trị, thực thi quyền tự do biểu đạt. Còn trong hình dung của những người chủ trương Tiền Vệ, internet giúp các nhà văn Việt Nam hiện thực hóa lý tưởng “xây dựng một khối Thịnh Vượng Chung của văn học nghệ thuật Việt Nam, nơi, bất chấp những dị biệt về địa lý và chính trị, mọi người có thể gặp gỡ nhau trong nỗ lực tìm tòi và thử nghiệm để trả công việc sáng tác trở về đúng nguyên nghĩa của nó: làm ra cái mới.” “Khối Thịnh vượng chung” gợi liên hệ đến ý niệm về “cộng đồng tưởng tượng” mà Benedict Anderson dùng để định nghĩa về dân tộc. Trong trường hợp này, nó được dùng để chỉ một cộng đồng giải lãnh thổ: internet tạo điều kiện để các nhà văn viết tiếng Việt, dù ở bất cứ đâu, miền là cùng chia sẻ ý hướng sáng tạo, ở đây là tham vọng cách tân văn chương, có thể quy tụ. Khối Thịnh vượng chung ấy là một không gian văn hóa xuyên quốc gia, nó nằm trên các biên giới địa lý và nằm trong ngôn ngữ văn chương, nó được xây bằng tinh thần tiên phong về mỹ học và không thỏa hiệp về chính trị.

 

“Cộng đồng tưởng tượng” mà các trang web văn chương Việt ngữ dự phóng là một môi trường dân chủ, tự do, hứa hẹn khả năng cộng hưởng giữa các cây bút và với độc giả. Ở nửa thập niên đầu của thế kỷ XXI, văn chương mạng Việt ngữ có lẽ mang một diện mạo rất khác so với văn chương mạng ở Trung Hoa đại lục – nơi có nhiều điểm tương đồng về hoàn cảnh chính trị ở Việt Nam. Văn học mạng ở Trung Hoa đại lục ngay từ đầu đã có một nhánh đi theo hướng văn hóa đại chúng, thậm chí mạng còn tạo điều kiện để sáng tác văn chương trở thành một business. Trong khi đó, những trang mạng văn chương Việt ngữ hoạt động mạnh nhất ở thời điểm này thì đều mang tham vọng tạo ra cách tân mỹ học, nói cụ thể hơn, kích thích những khuynh hướng sáng tác khác biệt với thứ văn chương Việt ngữ dòng chính vốn chiếm lĩnh không gian công trong nước. Internet trao cơ hội để website văn chương Việt ngữ ở hải ngoại tạo được lực hấp dẫn từ phía ngoại biên. Nó không chỉ là không gian cho các tác giả hải ngoại nữa mà còn thu hút các cây bút ở trong nước, những người muốn đi ngược lại dòng chính của văn nghệ, bị lôi cuốn bởi tinh thần tự do và tiên phong mà thế giới văn chương mạng gợi mở. Nói một cách hình ảnh, internet đã kích thích một cuộc “vượt biên” đối với nhiều nhà văn Việt Nam: hầu hết những tác giả quan trọng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là trong thơ ca, đều đã từng công bố sáng tác của mình trên những website này, từ những cây bút luôn kiên định vị thế dissident của mình như Nguyễn Quốc Chánh cho đến những cây bút vẫn được thừa nhận bởi dòng chính như Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư…[13] “Vượt biên” để công bố sáng tác, đối với nhiều tác giả trong nước, có thể xem là hành động tự ngoại biên hóa. Tính chất tự ngoại biên hóa cũng có thể xem là động thái của eVăn – trang web văn chương trong nước hiếm hoi theo đuổi một chủ trương khác biệt với đường lối văn nghệ do nhà nước chỉ đạo. Những tiếng gọi từ ngoại biên này, lẽ dĩ nhiên, dần dần làm cho cái trung tâm cảm thấy bất an. Các cơ quan quản lý văn hóa đương nhiên thấy e ngại như họ đã từng e ngại trước làn sóng văn chương thời kỳ Đổi mới nổi lên đúng thời điểm hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rã. Các hình thức kiểm duyệt được đưa ra: Evăn buộc phải dừng hoạt động theo định hướng ban đầu của những người chủ trương; talawas bị chặn tường lửa ở Việt Nam vào năm 2005, Tiền Vệ và Da Màu cũng không dễ dàng truy cập được từ trong nước.

 

Các webzine văn chương Việt ngữ có thể xem là sự xuất hiện đúng lúc đối với thơ ca Việt ngữ khi ở thời điểm những năm đầu tiên của thế kỷ này, lại có những tác giả trẻ trong nước gây tranh cãi bởi sự phóng khoáng trong giọng điệu và thi pháp mà những cái tên nổi bật có thể kể đến gồm Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh. Các webzine này trước hết mở rộng không gian cho những tranh luận này, đi tiên phong là talawas.  Mục “Thơ và thơ trẻ” trên website này được lập ra từ những ngày đầu tiên, không chỉ tập hợp các bài phê bình trên các báo in, tạo điều kiện để độc giả tiện truy cập mà còn đăng tải những bài phê bình được các tác giả chủ động gửi cho mình thay vì các kênh truyền thông chính thống. Talawas đã cố gắng xây dựng một môi trường dân chủ khi giới thiệu nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí xung đột với nhau, về các hiện tượng thơ ca này. Xa hơn thế, trong vòng 5 năm này, nhiều chủ đề quan trọng liên quan đến thơ tiếp tục được đưa ra thảo luận trên mạng trong khi báo chí chính thống hầu như không đề cập đến, hoặc nếu có thì với thái độ cảnh giác: cách tân thơ, tính dục trong thơ, cái tục trong thơ, thủ pháp giễu nhại, khuynh hướng nữ quyền, chủ nghĩa hậu hiện đại… Có thể nói, một không gian phê bình trên mạng đã được mở ra và hoạt động sôi nổi hơn cả báo in chính thống, nơi vẫn chịu sự chi phối của kiểm duyệt và luôn dè chừng trước những biện hộ cho các hiện tượng bị coi là lệch chuẩn.

 

Thơ là thể loại chủ lực của các tạp chí văn chương mạng. Điều này, trước hết, do tính chất ngắn gọn, thơ có thể thích ứng với hình thức trình bày trên màn hình tốt hơn so với các loại hình tự sự dài hơi. Nhưng quan trọng hơn, khi muốn thể nghiệm một khuynh hướng lệch chuẩn so với dòng chính của thơ ca đương thời, các tác giả sẽ rất khó được chấp nhận bởi báo chí và xuất bản chính thống. Bởi lẽ đó các tạp chí văn chương mạng ở thời điểm này, dù có thể có những khác biệt nhất định về chủ trương, đều ý thức xây dựng một cộng đồng tưởng tượng cho thơ ca. Cộng đồng tưởng tượng này mang hình ảnh của một sân chơi mang tính chất carnival. Bằng các hoạt động phê bình, dịch thuật, công bố tư liệu, các tạp chí này kiến tạo một quá khứ cho dòng thơ ca ngoại biên này đồng thời vẽ ra một tương lai mà nó có thể đi đến.

 

  1. Một sân chơi carnival của thơ

Carnival là mô hình thế giới nghệ thuật của Francois Rabelais theo diễn giải của Mikhail Bakhtin. Tuy nhiên, thuật ngữ do Bakhtin đề xuất này còn có sức gợi mở rất lớn đối với nghiên cứu văn hóa. Thế giới carnival có thể được coi như một đối không gian (counter-space) với văn hóa dòng chính vốn chịu sự thống trị của tầng lớp đặc quyền. Nó đối lập với với thực tại thường nhật trong đời sống xã hội với những luật lệ, quy phạm, tôn ti, cấm đoán đoán của văn hóa chính thống. Thay vào đó, nó  phản ánh tính khả biến, đa diện và tương đối của thế giới, tương phản với hình ảnh một thế giới bất biến, bất khả xâm phạm và quyền lực chính thống muốn duy trì. Carnival, do đó, là một không gian ngoại vi văn hóa mà nói như Robert R. Wilson, đó là nơi “tiếng nói phi chính thống của người dân ‘chơi’ lại những tiếng nói chính thống của quyền lực”[14]. Sự chơi ở đây có thể được hiểu là giễu nhại, giải thiêng, giải quy phạm, hay nói khác đi, nó thách thức, làm lung lay các diễn ngôn chính thống.

 

Với định hướng như đã mô tả ở trên, có thể nói các tạp chí văn chương mạng Việt ngữ ở nửa thập niên đầu thế kỷ XXI đã cố gắng thiết lập mình như một không gian carnival. Dù có những khác biệt nhất định về bút pháp nhưng nói chung những thực hành thơ ca trên mạng đều có thể được gọi là diễn ngôn carnival. Như một diễn ngôn carnival, những thực hành này không chỉ thách thức một cách không khoan nhượng với những ý niệm về thơ được chuẩn mực hóa bởi văn hóa chính thống hiện tại mà còn chất vấn những hình dung về về thơ đã được định hình trong truyền thống. Đây là những gì mà Đinh Linh nói về thơ ca đăng tải trên website Tiền Vệ: “So với cái văn hoá chữ nghĩa chính thống ở Việt Nam, nơi những cây bút già bị bắt nạt phải viết loại thơ nhếch nhác như con nít, và những cây bút liều lĩnh hơn chỉ dám nhét một hai bóng ma vào bài thơ để khoe cái phẩm chất “siêu thực” của họ, thì Tiền Vệ nện cho một đá bể đít!”[15]

 

Nếu như những nỗ lực cách tân thơ Việt từng xuất hiện trước đây, từ thời kỳ Thơ mới, có thể cải tạo một cách đáng kể câu thơ hay kết cấu bài thơ thì giờ đây, những thực hành thơ ca trên mạng thậm chí muốn chất vấn ngay khả thể của thơ. Ở hình thức cực đoan nhất, các tạp chí văn chương mạng sẵn sàng giới thiệu những sáng tác đi rất xa khỏi những hình dung phổ biến về thơ. Một thí dụ tiêu biểu: những bài thơ cụ thể của Lê Văn Tài đăng trên Tiền Vệ. Không chỉ chơi với hình ảnh thị giác của chữ, đặc biệt là tận dụng những lợi thế của digital để gia tăng hiệu ứng thị giác của tác phẩm, gây tác động lên độc giả, Lê Văn Tài thậm chí còn xóa mờ ranh giới giữa thơ và tranh hay nhiếp ảnh ý niệm. Cũng trên Tiền Vệ, Tam Lệ (Trần Nguyên Anh) giới thiệu những bài thơ làm với các con số hay những bài thơ hình ảnh chỉ làm trên một chữ cái hay một từ. Không chỉ bản thân các bài thơ có thể gây sốc cho độc giả mà cách bài thơ được làm ra cũng chưa từng thấy tiền lệ. Với trường hợp của Tam Lệ, thơ hình ảnh của anh là một thứ thơ kỹ thuật, hiểu theo nghĩa trực tiếp nhất của từ này. Bản thân tác giả cũng không giấu những công đoạn, thao tác để thực hiện tác phẩm của mình, theo đó, “làm thơ” cũng không loại trừ cả những việc “tay chân”. Nhưng bên cạnh đó lại cũng có tác giả như Bùi Chát coi làm thơ như là một cách “nghịch thơ”: “Tôi ngịch thơ – jã chàng ngịch cát –con lít ngịch những thứ khác”[16], hay như Đinh Linh coi làm thơ tức là “lộn ngược thơ ra.”[17] Lý Đợi – thành viên của nhóm Mở Miệng, hiện tượng thơ ca mang tính khiêu khích bậc nhất của thơ Việt đương đại – thì đưa ra tuyên bố: “Chúng tôi không làm thơ”[18]. Nói khác đi, làm thơ, với các nhà thơ thuộc nhóm Mở Miệng, là đi ngược lại, là phủ định tất cả những định nghĩa đã sẵn có, những điển phạm mà văn hóa chính thống thiết lập, những tiêu chí đánh giá thơ ca được biến thành chuẩn mực. Nói “chúng tôi không làm thơ”, do đó, tương đương với việc nói rằng “chúng tôi đang thực hành phản thơ”. Tính chất carnival của môi trường mạng khiến nơi đây trở thành nơi dung chứa những thực hành phản thơ quyết liệt ấy.

 

Phản thơ, trước hết, là khước từ sự gắn liền thơ với cái nên thơ – một truyền thống được duy trì bền bỉ trong thơ Việt. Cái nên thơ đem đến cho người ta cảm giác dễ chịu hoặc ảo giác về sự giải thoát thực tại thông qua những hình ảnh đời sống được gọt giũa hay chắt lọc theo hướng mỹ hóa hoặc lý tưởng hóa. Thay cho cái nên thơ, các thực hành thơ ca trên mạng đưa vào trong thơ không chỉ những góc cạnh trần trụi của đời sống Việt Nam đương đại mà cả những gì vốn bị coi là gây cảm giác bẩn thỉu, nhơ nhớp. Nguyễn Quốc Chánh, trong hai tác phẩm samizdat mạng “Của căn cước ẩn dụ” và “Ê, tao đây”, thẳng thừng mô tả một không gian đô thị mắc kẹt trong những “cơn mê đầm lầy”, trong ngập ngụa của rác rưởi. Trạng thái ấy được trình hiện trong một lối hành văn chóng mặt, ngồn ngộn các hình ảnh đồng hiện:

“Giữa trung tâm Sài Gòn, loa phóng thanh chỏ vào nhà hàng, khách sạn lải nhải, Xin hát về người…!…Xin hát về mẹ…! Và đường Ðồng Khởi, ăn mày đủ loại, đồng ca bài Muôn Thuở, rồi xòe tay rượt theo du khách. Trên những bãi bồi, còng gió chơi trò du kích, mùa đông nhớ làng. Ðất ngậm nước, những thế kỷ đái dầm, một sinh vật dài ngoẵng, khai và mắc cạn. Những cái dĩa nhôm, chồng lên mặt bẹt, quần thun sắm áo vét. Cần một cú toạc, xóa những lằn ranh. Tôi bực mình vì tính sợ đau, hơi ghê màu trắng, và sống, bằng cách đục một cái gì đem bán. Căn tính nhiệt đới: xài chung khăn, và kinh nghiệm không để sống. Ông cố tôi vì hãnh diện, bỏ mạng trong tù; bà tôi mù, bởi độc quyền nghề dệt. Ðôi khi, tôi uống sự sống đóng chai, lai rai đái cái chết rất buốt. Trong đội hình xếp ngang, tôi thứ W trong những kẻ đồng nát, và tin, sau khi chết, tôi sẽ được ướp. Những người mê tín khói, cúi mọp trước đồng trinh. Thỉnh thoảng, tôi cũng xuất tinh vào cái gì đó, không quan trọng là hũ hay lọ. Ðằng trước có con ngựa đá đuổi theo kim gió. Tới chỗ mùa thu, tôi sẽ triển lãm cái dễ chịu của con thú. (Trích “Triển lãm bản địa”)[19]

 

Hệ từ vựng liên quan đến những thứ gây cảm giác xú uế, tanh tưởi cũng xuất hiện dày đặc trong thơ của Đinh Linh, Phan Bá Thọ, Lynh Bacardi. Các tác giả trong nhóm Mở Miệng công khai gọi những thực hành thơ của mình là “thơ rác”, “thơ dơ”, “thơ nghĩa địa”. Để cái phi thơ tràn vào thơ cho cái nên thơ không chỉ là một phản ứng về mỹ học thơ ca mà còn cần phải được hiểu như một thái độ chính trị của các nhà thơ này. Nếu thơ bị đồng nhất với cái nên thơ, thơ chỉ làm được một việc là che đậy thực tại và do đó, nó trở nên tha hóa. Nó đồng lõa với những diễn ngôn của cái chính thống vốn thao túng ngôn ngữ để che đậy sự bất ổn, bất an của mình. Bằng thực hành của mình, các nhà thơ mạng kéo thơ xa khỏi những lối tu từ uyển ngữ vốn đang bị lạm dụng vào trò chơi ngụy trang của ý thức hệ thống trị. Có thể dùng chữ của Nguyễn Quốc Chánh, nhà thơ cần phải giải cứu tình trạng “ngôn ngữ bị bắt làm con tin”[20]. Để như thế, tiếng nói của nhà thơ cần phải là tiếng nói thẳng thừng nhất, bỗ bã nhất trong ngữ cảnh này. Inra Sara đã bình luận về hiện tượng này: “Nó mang trong mình làn gió thối thổi vào không khí thơ chúng ta. Nó buộc chúng ta quay lại nhìn nó. Và nhìn lại cả mình nữa! – Lâu nay, mình có quá thơm, quá diêm dúa lắm không!?”[21]

 

Sự tràn lan của lớp ngôn ngữ tính dục cũng là một đặc điểm nổi bật của những hiện tượng phản thơ trên mạng này. Trước đó, ở một số hiện tượng cách tân độc đáo nhất trong lịch sử thơ Việt, ngôn ngữ tính dục cũng hiện diện như là những yếu tố khiêu khích cảm quan đạo lý và mỹ học: trong thơ Hồ Xuân Hương[22], nó được sử dụng để gợi nhớ văn hóa phồn thực dân gian vốn bị kìm nén khi Nho giáo được độc tôn và đồng thời để thách thức những giá trị đạo đức gia trưởng áp đặt lên người phụ nữ trong thời phong kiến; trong thơ Trần Dần, nó khắc họa cái bản năng và cái riêng tư – những bình diện mà hệ tư tưởng marxist muốn trấn áp để đề cao bản chất xã hội của con người. Tuy nhiên, ngôn ngữ tính dục trong thơ Hồ Xuân Hương là những hình ảnh lấp lửng, lưỡng nghĩa, gần với lối “đố tục giảng thanh” trong câu đố dân gian, trong khi đó, Trần Dần lại tạo ra những phép chính tả của riêng mình để ám thị những ẩn ức và bức bối thân thể. Những thực hành thơ trên mạng sử dụng ngôn ngữ tính dục một cách trực tiếp, khước từ ngụy trang các hình ảnh về bộ phận sinh dục và hành vi tính giao trong một lớp ngôn ngữ nhã nhặn hơn. Thay vào đó, các nhà thơ sẵn sàng biến ngôn ngữ tính dục trở thành một thứ ngôn ngữ phản kháng báng bổ và gay gắt đối với những trấn áp tư tưởng và những mặt nạ của diễn ngôn chính thống. Nguyễn Quốc Chánh tấn phong cho những từ ngữ bị coi là tục tĩu, dơ dáy trong tiếng Việt như “đụ”, “lồn”, “cặc”… thành những “từ đẹp nhất”, thậm chí là những tiếng mang thân phận đang thương nhất khi “Sau 10 thế kỷ bị Tàu hầm nhừ, Lồn, Cặc & Đụ có màu sắc khác: Âm hộ, Dương vật & Giao hợp. Lồn, Cặc & Đụ bị tống khỏi hàng ngũ của Mông, Má… & chúng vất vưởng ở vỉa hè cùng với bà bán vịt lộn, thằng đạp xe & ả Magdalena đĩ thoã.”[23] Hành động tấn phong carnival này, ở mức độ nào đó, cũng là sự chất vấn những huyền thoại được kiến tạo nên từ những từ ngữ trang trọng, lịch lãm, trở thành những đại tự sự về truyền thống, về bản sắc dân tộc – những thứ mà giới cầm quyền ở Việt Nam đang muốn trưng dụng để chống đỡ cho những tự sự của ý thức hệ cộng sản vốn giờ đây không thể đứng tự nó. Theo những cách khác song cũng vẫn mang tinh thần ấy, Lê Văn Tài chơi đùa trên những bài thơ cụ thể của mình khi ông thiết lập mối quan hệ giữa các biểu tượng văn hóa truyền thống, lịch sử với những chữ suồng sã nhất chỉ bộ phận sinh dục. Nguyễn Hưng Quốc đã có phân tích thú vị khi chỉ ra ý thức chất vấn của Lê Văn Tài về lịch sử như một diễn ngôn phallogocentrism – một thuật ngữ của Derrida sáng tạo để nói đến tính đặc quyền trung tâm của nam giới trong lịch sử.[24] Khi bóp méo Kinh Thánh để định nghĩa lại lịch sử: “khởi thủy là lồn”, Bùi Chát không chỉ báng bổ diễn ngôn phallogocentrism mà còn thể hiện sự cười cợt với mọi đại tự sự của lịch sử.[25] Những sự thách thức những chuẩn mực của thơ ca và ngôn ngữ như thế này minh họa rõ nét cho nhận định của Julia Kristeva về diễn ngôn carnival: “Diễn ngôn carnival phá vỡ những luật lệ của ngôn ngữ vốn bị kiểm duyệt bởi ngữ pháp và ngữ nghĩa, đồng thời nó còn là sự phản kháng xã hội chính trị. Giữa việc thách thức những mã ngôn ngữ chính thống và thách thức luật lệ chính thống không phải là quan hệ tương đương, mà là quan hệ đồng nhất.”[26]

 

Giọng điệu chủ đạo trên sân chơi carnival này là sự bông đùa, mỉa mai, giễu nhại, vô kị úy. Giọng điệu ấy đã được xác lập trong văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thời kỳ đầu Đổi mới song hãy còn vắng bóng trong thơ. Ở thời điểm cuối những năm 80 đầu những năm 90, ngôn ngữ tính dục và những hình thức biểu đạt thực tại cực thực đã xuất hiện trong thơ của Dương Tường và Hoàng Hưng [27]nhưng về cơ bản, thơ vẫn nằm trong địa hạt của cái nghiêm túc. Thơ mạng những năm đầu thế kỷ XXI có thể chơi đùa với mọi thứ nghiêm túc. Bùi Chát có hẳn một tập thơ nhại xuất bản năm 2007 mà đối tượng của hành động nhại chính là những thứ thơ được yêu thích, những điển phạm đã được thừa nhận. [28]Nhan đề của tập thơ Xin lỗi chịu hổng nổi thể hiện công khai sự ngao ngán với những chuẩn mực về thơ ca và bằng sự giễu nhại, Bùi Chát muốn gợi mở về khả năng thơ ca thoát khỏi những chuẩn mực đã có. Ở một bài thơ khác, tác giả sử dụng lại tất cả các yếu tố ngôn ngữ của văn bản mà Bộ Văn hóa thông tin gửi cho viện Goethe để yêu cầu tổ chức này hủy sự kiện giao lưu với nhóm thơ Mở Miệng vào ngày 17/6/20005 với lý do sáng tác của Mở Miệng là thô tục, không phù hợp với thuần phong mỹ tục dân tộc. Bùi Chát đập vụn chữ nghĩa của văn bản này, rồi sắp xếp lại chúng thành một bài thơ mới trong đó bên cạnh những chuỗi ngôn từ vô nghĩa lại có những câu không giấu giếm sự mai mỉa:

Chúng tôi xin kính trọng

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Thơ

Dừng ngay các hoạt động

Ủng hộ và tổ chức

17/6/2005

(Trích “Xạo chẻ bờ kè”)

Sự đùa nghịch là một biểu hiện của tâm thế tự do. Bài thơ collage theo phong cách Dada của Bùi Chát không chỉ là sự bỡn nghịch với một văn bản quyền uy của nhà nước mà còn thẳng thừng cho thấy thơ bị giết chính là bởi những hình thức trấn áp tự do biểu đạt như thế này chứ không phải bởi những sáng tác bị kết án vi phạm thuần phong mỹ tục.

Trong vòng 5-6 năm đầu của thế kỷ XXI, sân chơi carnival ở vùng ngoại biên văn hóa này có một hấp lực lớn không thể phủ nhận. Sự ra đời của các tuyển tập thơ như Khoan cắt bê tông (2005) hay Thơ 47 (2007)[29] cho thấy việc chủ động lề hóa này có dấu hiệu trở thành một khuynh hướng, vượt qua những rào cản về địa lý và kiểm duyệt của chính trị, tập hợp các cây bút có thể có những khác biệt về thi pháp song đều muốn chối từ việc thỏa hiệp với dòng chính văn hóa. Các tạp chí văn chương mạng giống như một sân chơi nơi mọi quy tắc và chuẩn mực của văn hóa chính thống đều mất đi khả năng ràng buộc kẻ sáng tạo, nơi mọi điển phạm đã có đều bị chất vấn, nơi cho phép tiếng cười, sự giễu nhại, sự mai mỉa được cất tiếng. Trong tương quan với dòng chính văn hóa, sân chơi carnival này là sân chơi của những kẻ muốn phá đám. Sự tồn tại của những kẻ phá đám này là điều nguy hiểm đối với văn hóa chính thống bởi như phân tích của Johan Huizinga, họ có thể “đập tan thế giới chơi”, “phát lộ tính chất tương đối và dễ vỡ”, “lấy đi ảo ảnh”, “đe dọa sự tồn tại của cộng đồng chơi” của văn hóa chính thống.[30] Những kẻ phá đám phải đối mặt với những hình thức trừng phạt mà sự kiện nhóm Mở Miệng buộc phải dừng buổi giao lưu thơ ca tại viện Goethe là một thí dụ. Báo chí chính thông có những bài viết công kích họ như là hiện tượng văn hóa độc hại. Tường lửa được dựng lên để ngăn bạn đọc trong nước có thể dễ dàng truy cập một số trang web văn chương. Năm 2013, Đỗ Thị Thoan, tác giả luận văn cao học về nhóm Mở Miệng, bị giới học thuật và phê bình chính thống lên án vì dám nghiên cứu một hiện tượng cấm kỵ: tác giả bị tước bỏ học vị thạc sĩ, buộc phải thôi việc ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sự kiện này đã bóc trần về sự tồn tại của tự do học thuật trong môi trường đại học ở Việt Nam.[31]

 

  1. Biện hộ cho kẻ những phá đám: Kiến tạo truyền thống và định hướng tương lai cho thơ ca bên lề

Bên cạnh việc mở ra những không gian carnival để quy tụ các nhà văn ngoại biên công bố và truyền bá tác phẩm của mình, các tạp chí văn chương ý thức được việc củng cố cộng đồng của mình thông qua các hoạt động công bố tư liệu, dịch thuật và đặc biệt là phê bình văn học. Nhờ đó, một truyền thống khác ngoài truyền thống của dòng chính, đồng thời một định hướng khác thay cho slogan “Vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” (slogan của báo Văn nghệ, tờ báo chính thức của Hội nhà văn Việt Nam) đã được kiến tạo cho những thực hành thơ ca trên mạng này.

Một đóng góp rất lớn của các tạp chí văn chương mạng giai đoạn này là việc giới thiệu các sáng tác văn học từng nằm trong vùng cấm xuất bản hoặc khó tiếp cận với công chúng do điều kiện in ấn và phạm vi truyền bá. Trong thời gian hoạt động của mình, talawas đã kiên trì giới thiệu những ấn phẩm thơ ca từng bị gạt ra bên lề văn học sử bởi tính chất dị biệt về thi pháp, tính cá nhân trong giọng điệu, tính khiêu khích về thẩm mỹ từ sáng tác của Xuân Thu Nhã Tập – một trong những hiện tượng thơ ca sớm nhất mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại đến Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm – một nhà thơ trong phong trào Nhân văn giai phẩm, Ác mộng của Hoàng Hưng – tập thơ được sáng tác trong tù của Hoàng Hưng, một gương mặt gây tranh cãi nhất của thơ Việt cuối những năm 1980 đầu 1990… Nhưng nỗ lực đáng kể hơn là việc trang web này đã tìm cách phục dựng lại những tư liệu liên quan đến phong trào Nhân văn giai phẩm và các tác phẩm quan trọng của văn học miền Nam trước 1975. Internet đã góp phần làm nổi lên những sự hiện diện mà văn học sử chính thống muốn xóa bỏ. Tiền Vệ cũng tích cực trong công tác tư liệu này khi những người chủ trương giới thiệu những bài thơ văn xuôi của Bùi Giáng, thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên – những gương mặt quan trọng nhất của thơ ca miền Nam trước 1975. Năm 2003, cũng chính trên website này, lần đầu tiên công chúng được tiếp cận với những bản thảo chưa từng được công bố của Trần Dần giai đoạn hậu Nhân văn giai phẩm. Những thể nghiệm của Trần Dần về thơ âm thanh, thơ hình họa cho thấy một ý thức cách tân quyết liệt của nhà thơ được coi là “thủ lĩnh trong bóng tối” này. Ở những thể nghiệm táo bạo nhất, thơ Trần Dần không chỉ là sự cắt đứt với dòng mạch của truyền thống lãng mạn hay hiện thực xã hội chủ nghĩa mà còn tiệm cận với mỹ học của nghệ thuật ý niệm như bình luận của Như Huy về tác phẩm Mùa sạch.[32] Tất cả những nỗ lực phục dựng tư liệu này có thể cho phép ta nhìn ra mối liên hệ ngầm giữa những thực hành thơ ca đương đại với quá khứ. Theo đó, thơ ca trên mạng, dù nổi loạn, khiêu khích thế nào đi nữa, vẫn có một truyền thống của nó. Đó là truyền thống của một thứ mỹ học dyonisian, phóng túng và phản kháng lại mọi sự áp đặt đối với tự do biểu đạt dù ở trong những hoàn cảnh chính trị xã hội ngặt nghèo thế nào đi nữa. Một thứ mỹ học thơ ca như vậy là một thứ mỹ học bên lề, nhưng lại luôn năng động vì nó không chỉ thách thức những giá trị và tiêu chuẩn về thơ ca đã yên vị mà còn luôn muốn tự phủ định mình. Nói như Trần Dần: “Viết như xóa ngay cái mình vừa đưa ra… Viết? giết một cái gì? Đầu tiên là quan niệm viết? rồi luôn đó, một vài cái khác – trong ngoài mình?”[33]

Dịch thuật cũng là một hoạt động được thúc đẩy trên các tạp chí văn chương mạng. Có một quan sát khá thú vị về mối liên hệ giữa dịch thuật và cách tân thơ ca trong văn học Việt Nam hiện đại: nếu như các gương mặt quan trọng của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Thu Hương đều không hoạt động trong vai trò dịch giả (trừ trường hợp Phạm Thị Hoài) thì ngược lại, những đại diện cho xu hướng đổi mới trong thơ hiện đại đều tạo dấu ấn trong hoạt động dịch thuật. Trần Dần, Dương Tường, Hoàng Hưng đều là những dịch giả uy tín. Ở thời đại văn học mạng, nhiều cây bút năng động nhất cũng đồng thời là những người tích cực giới thiệu những sáng tạo thơ ca nhân loại thông qua kênh dịch: Hoàng Ngọc –Tuấn, Đinh Linh, Lê Đình Nhất Lang, Phan Quỳnh Trâm… Thực tế này gợi cho ta suy nghĩ gì? Có thể bởi thơ vốn cắm rễ sâu vào ngôn ngữ – yếu tố kết tinh truyền thống văn hóa bền chắc nhất, do đó, những quán tính của ngôn ngữ trong thơ thường mạnh. Dịch thuật tạo ra sự cọ xát với ngôn ngữ của kẻ khác và chỉ qua sự cọ xát này, những quán tính trong từ vựng, cú pháp và sâu xa hơn nữa, trong mỹ cảm ngôn ngữ mới có sự rung chấn mạnh, nhờ đó, ngôn ngữ thơ đổi mới chính mình được. Một nỗ lực về dịch thuật mà phải đến sự ra đời của trang Tiền Vệ, công chúng mới có thể tiệm cận được rộng rãi là di sản dịch thuật thơ ca của Diễm Châu (1937-2006). Từng có thời gian hoạt động văn học tại Sài Gòn từ trước 1975 trong vai trò tổng thư ký tạp chí văn chương Trình Bày, đến năm 1983 ông định cư tại Pháp và miệt mài sáng tác cũng như dịch thuật thơ ca. Trước khi di sản dịch thuật của ông được đưa lên website Tiền Vệ, những người yêu thơ chỉ biết đến các bản dịch thơ của ông được in với số lượng rất ít ỏi. Nhìn vào di sản này, có thể thấy sự phi thường của Diễm Châu khi đưa vào tiếng Việt những hiện tượng thơ ca quan trọng bậc nhất của thế giới: từ các thi sĩ siêu thực Pháp đến các nhà thơ Mỹ Latin như Jorge Luis Borges, Roberto Juarroz, José Carlos Becerra, Luis Cernuda… từ các thi sĩ Đông Âu như Vladmir Holan, Vasko Popa, Lucian Blaga… đến những tiếng nói dị biệt của các nhà thơ châu Phi… Tiếp xúc với bức tranh phong phú đó của thơ ca nhân loại, ta có thể nhận ra thơ luôn tiềm tàng những khả thể khác. Dịch thuật mở ra một ý niệm mới về truyền thống của thơ ca: thơ không chỉ thuộc về truyền thống của ngôn ngữ dân tộc, nó còn thuộc về truyền thống tiên phong, truyền thống đấu tranh cho tiếng nói cá nhân, cho tự do tư tưởng mà thơ ca thế giới vẫn luôn bền bỉ nuôi dưỡng.

Phê bình văn học chính là hoạt động quan trọng nhất để biện hộ cho cuộc nổi loạn ngôn từ của thơ ca mà các tạp chí văn chương mạng dung dưỡng. Như đã nói ở trên, các tạp chí văn chương mạng đã xuất hiện đúng lúc như một sự tiếp sức cho những thảo luận về thơ trẻ những năm 2000 khi sự đa dạng của các quan điểm, sự phức tạp về những chủ đề tranh cãi trở nên khó quản lý đối với truyền thông chính thống. Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn là những thực hành thơ ca trên mạng ở thời điểm này đã có những nhà phê bình riêng của mình: Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn, Inra Sara… Tinh thần chung của phê bình trên mạng cũng mang tính gây hấn như bản thân các sáng tác. Biểu hiện đầu tiên của tinh thần ấy là giải điển phạm mà bài phê bình gây tranh cãi của Nguyễn Hưng Quốc – “Thơ con cóc: Một bài thơ hay” là thí dụ điển hình.[34] Bài thơ dân gian được xem là vô nghĩa và là trực quan về thơ dở này, theo diễn dịch của Nguyễn Hưng Quốc, bỗng trở nên có vấn đề. Cái dở hay cái hay của thơ, theo đó, là những quan niệm được thiết chế hóa trong những ngữ cảnh văn hóa nhất định. Việc coi chúng là những gì phổ quát, phi thời gian trên thực tế để nhằm duy trì một dạng mỹ cảm, một khuôn mẫu về thơ, một đặc quyền về văn hóa. Giải ngữ cảnh quan niệm về cái hay, cái dở này có thể giải phóng thơ ra khỏi những trói buộc ấy và trao cho nó những khả năng và phẩm chất khác. Trong trường hợp này, bài thơ con cóc cho thấy đối tượng của thơ không chỉ là cái đẹp mà nó có thể là cái dở, cái tầm thường, cái xấu xí, thơ có thể trở nên tiết chế cảm xúc, giảm thiểu chất duy tình, thoát khỏi sự níu kéo dẳng dai của chủ nghĩa lãng mạn. Bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc thực ra được xuất bản lần đầu vào năm 1996. Sau gần 10 năm, nó được đưa lại lên mạng đúng lúc những thực hành thơ trên mạng gây ra những tranh luận sôi nổi. Chúng vấp phải những phê bình tiêu cực mà theo đó, chúng không thể được gọi là thơ bởi sự tầm phào, vô nghĩa và tục tĩu. Bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, cùng với loạt tiểu luận khác của ông về cái tục, về sự giễu nhại, về sự khiêu khích tầm đón nhận của người đọc công bố trên website Tiền Vệ có ý nghĩa như sự biện hộ đúng lúc cho cuộc nổi loạn này của thơ Việt. Nếu như các thực hành thơ mạng hiện giờ là những thực hành phản thơ, phi thơ thì bản thân chúng cũng có sự kết nối với một truyền thống khác, luôn luôn bị ngoại biên hóa – truyền thống của những thứ bị coi là phản thơ, phi thơ. Nhưng như Anna Akhmatova từng viết: “Nếu anh biết rằng câu thơ mọc lên từ loại rác nào, thì anh không khỏi xấu hổ”[35],  chính những thứ vốn bị xem là tầm thường, dung tục ấy lại có khả năng khơi nguồn cho thơ ca và nghệ thuật mới. Phê bình của Nguyễn Hưng Quốc có sự cộng hưởng mạnh mẽ với tinh thần không ngần ngại khi làm việc với những chất liệu và ngôn ngữ phản thơ của các nhà thơ. Nói như lời của Đinh Linh, anh luôn bị cuốn hút về phía “ngôn ngữ chợ búa, du đãng, những bài thơ tiền vệ, chữ lóng, ngôn ngữ dùng sai bởi con nít, những kẻ nói tiếng Việt không rành…”[36]

Nguyễn Hưng Quốc đã đứng từ lập trường hậu hiện đại để giải điển phạm, từ đó khai quật một truyền thống ngầm cho các thực hành phản thơ trên mạng. Nhưng không chỉ vậy, ông và Hoàng Ngọc – Tuấn ngay từ những ngày đầu lập nên trang Tiền Vệ đã có tham vọng cổ súy để chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một định hướng khác, nhiều tiềm năng, thúc đẩy văn học Việt ngữ cả ở trong nước lẫn hải ngoại đang rơi vào tình trạng trì trệ. Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một chuyên đề trên trang Tiền Vệ, nơi không chỉ đăng tải các sáng tác Việt ngữ mà ban biên tập xếp vào khuynh hướng hậu hiện đại mà còn dịch nhiều hiện tượng văn chương hậu hiện đại quan trọng, thí dụ các nhà thơ Mỹ John Yau, Elaine Equi, Maxine Chernoff,  Paul Violi, Diane di Prima… Bên cạnh đó, các tiểu luận về nghệ thuật hậu hiện đại cũng thường xuyên được chuyển ngữ và có lẽ gây ảnh hưởng hơn cả chính là những bài phê bình văn học của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc- Tuấn, Inra Sara… Có thể nói, cho dù họ không phải là những người đầu tiên giới thiệu chủ nghĩa hậu hiện đại vào trong đời sống học thuật và sáng tác nghệ thuật Việt Nam nhưng phải đến họ và hoạt động phê bình trên không gian mạng của họ, nó mới thật sự trở thành hiện tượng nghệ thuật có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn. Có thể nói trong cảnh quan văn hóa Việt Nam ở thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, chủ nghĩa hậu hiện đại là chủ đề sôi nổi, gây tranh cãi nhiều nhất trên cả phạm vi học thuật lẫn sáng tác.

 

Ở thời điểm này, nhìn lại sự du nhập của chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam, có thể thấy những hoạt động của các tạp chí văn chương mạng, trong đó đáng kể là hoạt động phê bình, mang tính chiến lược. Thứ nhất, chủ nghĩa hậu hiện đại xác nhận giá trị và quyền năng của cái ngoại biên, do đó, sẽ hợp lý khi dựa vào nó để củng cố địa vị và sức tác động của các tạp chí văn chương mạng vốn dĩ đã bị ngoại biên hóa đến hai lần trong tương quan với văn hóa chính mạch của quốc gia nơi họ cư trú và với văn hóa chính thống trong nước chịu sự kiểm soát của nhà nước. Sự lan tỏa của chủ nghĩa hậu hiện đại trong cả đời sống học thuật lẫn thực tiễn sáng tác là một bằng chứng cho thấy cái ngoại biên có thể làm lung lay cái trung tâm như thế nào. Thứ hai, các nhà phê bình hoàn toàn ý thức được sự chất vấn về tính thích ứng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong ngữ cảnh Việt Nam khi trên thực tế, bản thân chủ nghĩa hiện đại trong văn học Việt Nam còn chưa có cơ hội phát triển thành một trào lưu đúng nghĩa. Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, bởi thế, cần mang một diện mạo được dự phóng theo kiểu khác. Đây là đề nghị của Nguyễn Hưng Quốc:

Nói cách khác, chủ nghĩa hậu hiện đại Việt Nam, nếu có, chỉ là một kết hợp cùng lúc giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, trong đó, các yếu tố mang tính hậu hiện đại được đẩy lên thành những yếu tố chủ đạo. Nó là hiện đại khi cố gắng cắt bỏ tính chất nghiệp dư, tính chất quy phạm và tính chất giáo điều của chủ nghĩa cổ điển. Nó cũng là hiện đại khi cổ xuý cho tính chất duy lý, tính chất đặc tuyển và tính chất cá nhân chủ nghĩa trong văn học. Nó là hậu hiện đại khi cố gắng vượt qua tất cả những giá trị hiện đại chủ nghĩa vừa nêu và khi tổng hợp mọi thành tựu nghệ thuật trên nền tảng một hệ mỹ học mới. Đó là lý do chính khiến tôi thích dùng chữ chủ nghĩa h(ậu h)iện đại: trong cách viết ấy, chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại hoà quyện vào nhau, trùng lấp lên nhau. Tôi cho đó là lý tưởng cao nhất và thực tế nhất mà trong tình hình hiện nay giới cầm bút Việt Nam có thể vươn tới.[37]

Đó là một thứ chủ nghĩa hậu hiện đại mang tính nguyên hợp – một thuật ngữ mà Nguyễn Hưng Quốc đề xuất. Tính nguyên hợp này, theo ông, khác với đặc trưng của folklore dân gian ở “tính tự giác trong ý thức sáng tạo”; ở “khả năng dung chứa, tích hợp nhiều thể loại, nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều hệ mỹ học, khuynh hướng và giọng điệu khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau”; ở “thái độ châm biếm khi thực hiện những kết hợp này như thể đang chơi một thứ trò chơi ngôn ngữ không gắn với một niềm tin tất định nào”.[38] Nguyễn Hưng Quốc nhấn mạnh: “trong môi trường văn hoá Việt Nam, để có được một thái độ như vậy, người ta nhất thiết phải là những kẻ avant-garde.”[39] Đó có lẽ là lý do tại sao ông và Hoàng Ngọc – Tuấn đã chọn từ này để đặt tên cho tạp chí văn chương điện tử của mình.

Tinh thần avant-garde có thể nói đã thẩm thấu sâu trong những thực hành thơ ca trên mạng mà ở trên đã phác thảo. Việc các nhà thơ gây sốc khi đưa ra những bài thơ lệch khỏi những hình dung có thể chấp được chính là một biểu hiện của tinh thần tiên phong. Ở đây, có thể dùng định nghĩa của Jean-Francois Lyotard như một biện hộ cho hành vi sáng tạo khiêu khích này: “Nghệ sĩ hay nhà văn hậu hiện đại ở trong vị thế một triết gia: văn bản y viết hay tác phẩm y sáng tạo, về nguyên tắc, không bị chi phối bởi những luật lệ tiền lập và có thể bị phán xét theo những chuẩn mực đã xác định, bằng việc áp những phạm trù sẵn có vào văn bản hay tác phẩm ấy”.[40] Một khi bài thơ được làm ra không nằm trong bất cứ hình mẫu hay khung phân loại nào, nó không chỉ là một bài thơ khác, nó còn có thể là một ý niệm thơ khác: một định nghĩa khác về thơ, một khả thể tồn tại khác về thơ, một đề nghị khác cho cách người đọc tiếp nhận thơ… Có thể gọi những sáng tác của Lê Văn Tài, Tam Lệ, Mở Miệng, Đinh Linh… là dạng thơ ý niệm – một thể loại đặc trưng của thơ trên các tạp chí mạng thời điểm này. Chúng tôi đề xuất thuật ngữ ngữ này trong mối liên hệ với trào lưu nghệ thuật ý niệm bởi những điểm tương đồng quan trọng giữa hai hiện tượng. Thơ ý niệm, qua thực hành của các tác giả nói trên, đều khước từ việc đồng nhất thơ với cái đẹp, các tác giả cũng không gắn mình với truyền thống từ chương mà những nhà cách tân thơ Việt từ khởi nguồn tượng trưng đi theo, họ không chủ trương đem đến cho người đó những khoái thú dễ chịu mà trái lại sẵn sàng khiêu khích những phản ứng mạnh mẽ nơi người đọc. Nhà thơ vừa sử dụng ngôn ngữ đồng thời vừa phê phán ngôn ngữ, qua đó, chất vấn những thiết chế quyền lực náu trong những kết cấu ngữ pháp, trong những lối tu từ và cả trong những nét nghĩa ổn định. Đó là lý do tại sao Đinh Linh lại nghĩ “Viết một bài thơ hoàn toàn vô nghĩa/Không phải là chuyện đùa” bởi “một từ nhỏ nhất/Một quan hệ từ, chẳng hạn,/Con hay cái, cũng đã tích cóp/cả ngàn quan hệ từ ngàn năm.”[41] Đó cũng là lý do Phan Bá Thọ, Bùi Chát tạo ra trò chơi thơ bằng cách làm rỗng nghĩa, trượt nghĩa những từ ngữ, biểu tượng vốn được đặt vào vùng cấm trong văn hóa.

Đương nhiên, chủ trương hậu hiện đại này cũng vấp phải những phản ứng bất đồng bởi một số tác giả cũng muốn đổi mới thơ Việt. Phan Nhiên Hạo thẳng thắn bày tỏ sự ái ngại trước những thể nghiệm mang tính cực đoan của nhóm Mở Miệng không phải chỉ bởi chất liệu bị coi là dung tục được đưa vào thơ thiểu kiểm soát mà còn bởi cách thực hành thủ pháp parody của họ, theo ông, là dễ dãi[42]. Một thảo luận cũng khá căng thẳng diễn ra trên trang talawas được bắt đầu từ bài viết của Nguyễn Trần Khuyên (đăng ngày 7.4.2005) phê bình các sáng tác thơ trên Tiền Vệ, Hợp Lưu, Tạp chí Thơ… Trong bài viết này, Nguyễn Trần Khuyên cho rằng việc lạm dụng hình ảnh làm tình và các bộ phận của phụ nữ trong các sáng tác trên Tiền Vệ (mà theo thống kê của bà là lên đến 70%) là biểu hiện cho một nền văn học xây dựng từ đực và phục vụ cho đực.[43] Tất cả những sáng tác được coi là cách tân này, dưới góc nhìn của bà, chỉ là sự lặp lại một truyền thống bền bỉ hơn hết thảy trong văn hóa Việt Nam – truyền thống duy dương vật – điều này không mới mẻ mà “còn là một bước lùi”, “thiếu kiến thức về nam nữ bình quyền”, dẫn đến “hàng loạt các sáng tác hủ lậu.” Xét cho cùng, chính những bất đồng này lại là một bằng chứng cho thấy tinh thần hậu hiện đại được lan tỏa trên không gian mạng bởi lẽ thứ xa lạ nhất với nó chính là tính đồng phục, đồng nhất. Bản thân mạng luôn mở ngỏ không gian cho những lựa chọn khác: Gió-O sẽ đi sâu hơn vào dòng mạch nữ quyền; Phan Nhiên Hạo sau này lập trang litviet (cập nhật lần đầu vào ngày 29.5.2009), ban đầu như một blog cá nhân và sau đó phát triển trong hình thức gần giống một tạp chí. Trong khoảng 5 năm đầu thế kỷ XXI, các tạp chí văn chương mạng thực sự là khu vực sôi nổi nhất của văn học Việt ngữ.

  1. Sự thoái trào của các tạp chí văn chương mạng và thơ ca tiền vệ

Sự sống động của các tạp chí văn chương mạng rõ ràng là dấu hiệu gây bất an với nhà nước. Những hình thức kiểm soát và trấn áp mà ở trên đã nhắc đến cho thấy những cuộc nổi loạn thơ ca trên mạng đã được diễn dịch như là những biểu hiện bất đồng chính kiến. Bản thân talawas, Tiền Vệ và Da Màu cũng ngày càng quan tâm đến những chủ đề chính trị thời sự trong nước và đấy là lý do các website này trở thành đối tượng cần phải bị cấm đoán bởi các nhà kiểm duyệt trong nước. Năm 2008, talawas đã tạm ngừng hoạt động để rồi chuyển sang phiên bản mới – talawas  blog vào ngày 15-3-2009 nhưng cũng chỉ hoạt động đến tròn một năm. Khi chúng tôi hoàn thành bài viết này, website tiền vệ đã tạm thời không update bài vở hàng ngày. Da Màu và Gió-O vẫn còn duy trì nhưng đã khá lâu không có hiện tượng sáng tác hay phê bình nào gây được sự chú ý dư luận trên các tạp chí này.

Sẽ là cường điệu nếu cho rằng kiểm duyệt trong nước là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự thoái trào của các tạp chí văn chương mạng và cuộc cách mạng thơ ca Việt ngữ. Bên cạnh nguyên nhân chính trị, một nguyên nhân quan trọng khác thực ra chưa bao giờ được phân tích thấu đáo dẫn đến xu thế này này là sự biến động của hệ sinh thái truyền thông ở Việt Nam. Các tạp chí văn chương mạng những năm đầu thế kỷ XXI xây dựng trên nền tảng của các forum, song đến giữa thập niên đầu tiên này, các forum đã trở nên mất sức hấp dẫn khi blog lên ngôi. Ở Việt Nam, bắt đầu từ sự xuất hiện Yahoo 3600, xu hướng cá nhân hóa kênh truyền thông ngày càng diễn ra mạnh, và có lẽ lên đến cao điểm khi Facebook thống trị. Thay vì xuất hiện trên các tạp chí điện tử, một số tác giả giờ lựa chọn trang cá nhân của mình làm nơi tiếp cận công chúng. Một số nền tảng mới khác cũng đang thu hút những người viết ở Việt Nam dù chưa có thống kê nào để đo khả năng cạnh tranh giữa chúng với facebook như Medium, Spiderum, Reddit… Nếu như các tạp chí văn chương điện tử còn cố kết được các tác giả làm thành nhóm, từ đó khả năng gây ảnh hưởng trở nên tập trung hơn thì xu hướng phân tán các kênh truyền thông hiện nay đang làm mất đi tính tập trung ấy. Bên cạnh đó, các kênh truyền thông cá nhân ở thời điểm này cũng dễ bị lôi cuốn vào lợi ích thương mại. Giới xuất bản hiện nay không nhìn thấy văn chương mạng như là sự cạnh tranh với kênh in ấn truyền thống mà có thể hỗ trợ lẫn nhau. Nhiều tác giả lựa chọn xuất bản để nối dài ảnh hưởng mà họ gây dựng được trên mạng và các nhà xuất bản cũng săn tìm những tác giả được quan tâm nhiều trên mạng để in tác phẩm của họ.

Thơ trên mạng cũng không nằm ngoài sức tác động này thị trường và đây là điều rất khác so với những năm đầu thế kỷ XXI khi xu hướng tiền vệ đồng thời là xu hướng không chiều độc giả và không thỏa hiệp với thị trường. Khoảng 2- 3 năm gần đây đã xuất hiện một số hiện tượng các nhà thơ mạng ăn khách như Nguyễn Phong Việt, Nồng Nàn Phố, Lu… [44]Sự nổi lên của những tác giả này phần nào đó tương ứng với sự nổi lên của các hiện tượng thơ instagram Anh ngữ như trường hợp Rupi Kaur hay Lang Leav. Thơ của những tác giả này vẫn đắm trong mỹ cảm lãng mạn và chúng thỏa mãn một nhu cầu của giới trẻ – thích trích dẫn để phục trang cho bản ngã.

Nhưng có phải như thế những cơn chấn động mà thơ mạng tạo ra trong 5 năm đầu thế kỷ XXI là vô nghĩa? Quả thực, người ta đã hoàn toàn có thể nghĩ đến nó lại là một cuộc nổi loạn bất thành, một cuộc cách mạng không đi đến thành tựu nào định hình nếu so với Thơ mới, với nhóm Sáng Tạo. Người ta hoàn toàn có thể thấy nó chỉ tạo ra những hiện trường ngổn ngang, những tranh luận còn bỏ ngỏ. Có thể văn hóa chính thống vẫn bảo vệ thứ thơ ca của mình sau hàng loạt những nỗ lực lung lay dữ dội mà thơ mạng đã tạo ra. Nhưng dù gì đi nữa, thứ thơ ca chính thống ấy đã phải chịu những tổn thương và các hình thức kiểm duyệt hà khắc nhất vẫn sẵn sàng dành cho những ai muốn bàn luận về những kẻ gây tổn thương ấy hay nối tiếp tinh thần phản kháng của họ mà sự kiện luận văn Nhã Thuyên là minh chứng. Bản thân điều này, trên thực tế, chính là một sự hiện diện vắng mặt, một thứ vẫn còn có thể gây ám ảnh, bất an với cái chính thống và do đó, nó xứng đáng cần được mô tả như một sự kiện văn học sử, dù giới nghiên cứu phê bình chính thống luôn tìm cách để không nhắc đến nó khi bàn về thơ Việt Nam đương đại.

_______________________________________________________________________________

[1] Hàn Mặc Tử (1912-1940), tác giả của những tập thơ tiêu biểu Gái quê (1936), Thơ điên (1938), trong đó ở tập thơ sau có nhiều bài mang dấu ấn của thi pháp thơ siêu thực. Về sự gặp gỡ giữa Hàn Mặc Tử và thơ siêu thực, có thể tham khảo bài viết của Phạm Xuân Nguyên,  Đỗ Lai Thúy, Đào Trọng Thức in trong Hàn Mặc Tử – Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.

[2] Trần Dần (1926-1997): Sau 1986, một số tập thơ của ông sáng tác thời tham gia phong trào Nhân văn giai phẩm và hậu nhân văn giải phẩm đã được xuất bản như  Bài thơ Việt Bắc (viết năm 1957, xuất bản năm 1990), Cổng tỉnh (viết năm1959-1960, xuất bản năm 1994), Mùa sạch, (viết năm 1964, xuất bản năm 1998). Tháng 2 năm 2008, công ti truyền thông Nhã Nam và NXB Đà Nẵng đã cho xuất bản tuyển tập Trần Dần – Thơ. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Bộ Thông tin – Truyền thông Việt Nam đã có quyết định đình chỉ lưu hành tập thơ này nhưng không đưa ra lý do minh bạch nào dù trước đó nó đã được cấp phép xuất bản. Ngày 5/3/2008, 134 người là các nhà văn, trí thức, học giả đã lên tiếng đề nghị thu hồi quyết định ngừng phát hành tập thơ này, viết thư ngỏ gửi Quốc hội Việt Nam. Lệnh cấm phát hành sau đó bị dừng lại, tuy nhiên tập thơ này cho đến nay vẫn không có cơ hội được tái bản.

Lê Đạt (1929-2008): Sau 1986, ông được xuất bản chính thức trở lại. Tuy nhiên, tập thơ Bóng chữ xuất bản năm 1994 gồm chủ yếu những bài thơ mà ông âm thầm sáng tác những 1960-1970 là một trong những hiện tượng gây tranh cãi nhiều nhất trong cuộc tranh luận về thơ kéo dài từ năm 1993-1995 trên báo chí văn nghệ chính thống. Trần Mạnh Hảo trong Thơ phản thơ đã gọi thơ Lê Đạt là “thơ ú ớ”.

Hoàng Cầm (1922-2010): Trong thời gian chịu kỷ luật vì vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ông đã sáng tác tập Về Kinh Bắc, một tập thơ đậm màu sắc của chủ nghĩa tượng trưng và thấp thoáng dấu ấn siêu thực. Năm 1982, ông chép tay tập thơ này và gửi cho nhà thơ Hoàng Hưng (1942). Tuy nhiên, cả ông và nhà thơ Hoàng Hưng đều bị bắt vì tập thơ được coi là “tài liệu phản động”. Nhà thơ Hoàng Hưng sau đó bị từ 3 năm vì vụ việc này. Ông đã thuật lại vụ án văn chương này trong bài “Vụ án ‘Về Kinh Bắc’, một sự kiện hậu Nhân văn” đăng trên talawas 18/9/2010: http://www.talawas.org/?p=24264 Chỉ đến 1994, tập thơ này mới được xuất bản chính thức.

Đặng Đình Hưng (1924-1990), nhạc sĩ và nhà thơ. Các tập thơ của ông đều được xuất bản sau khi ông qua đời gồm có Bến lạ (NXB Văn nghệ, TP. HCM, 1991), Ô mai (NXB Văn nghệ, TP.HCM, 1993)

[3] Tạp chí Sáng tạo được thành lập tại Sài Gòn vào tháng 10 năm 1956 dưới sự chủ trương biên tập của Mai Thảo (1927-1998) và chấm dứt hoạt động vào tháng 9 năm 1961. Các cây bút chủ lực của tạp chí này là những gương mặt quan trọng của văn học miền Nam trước 1975 như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế,  Quách Thoại, Trần Thanh Hiệp…

[4] “Nghệ thuật đen” là tên một tiểu luận của Thanh Tâm Tuyền, đăng lần đầu trên tạp chí Sáng tạo, số 3, tháng 9-1960. Đây là một trong những tiểu luận thể hiện rõ nét quan điểm nghệ thuật của ông, theo đó, “nghệ thuật đen” được định nghĩa là  “thứ nghệ thuật bi đát phẫn nộ, thứ nghệ thuật dục tình suồng sã, thứ nghệ thuật vô luân trắng trợn”, “nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi” trong xã hội…” (p.35)

[5] Trong tiểu luận “Nỗi buồn trong thơ hôm nay” trên tạp chí Sáng tạo, số 31, tháng 9 năm 1959, Thanh Tâm Tuyền đã diễn giải về mỹ học dionysian của Nietzsche, theo đó, nghệ thuật dionysian là “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có, hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận.” (p.3) Thanh Tâm Tuyền đã dựa trên tư tưởng của Nietzsche để xác lập tinh thần của thơ hôm nay: “Chúng tôi trả lại nàng thơ, trả lại nghệ thuật cho các người, cho những thi sĩ thuộc giòng đầu bù tóc rối có nghệ thuật rạng ngời vững vàng như thần Apollon. Chúng tôi cuốn theo cơn cuồng nộ bi thảm của Dionysos của cuộc đời hôm nay.” (p.5)

[6] Trần Mạnh Hảo là một hiện tượng phê bình nổi lên từ giữa thập niên 1990 với hàng loạt các bài phê bình gay gắt nhắm vào các hiện tượng thơ như Lê Đạt, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều cùng các khuynh hướng phê bình ghi nhận thành tựu của thơ ca miền Nam trước 1975. Cuốn Thơ phản thơ (1995, Hà Nội: NXB Văn học) là tập hợp các bài phê bình này được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng cùng năm cho thể loại sách phê bình.

[7] Vietnamet, “Internet Việt Nam: 20 năm phát triển và những bước tiến vượt bậc”, https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/tin-cong-nghe/internet-viet-nam-20-nam-phat-trien-va-nhung-buoc-tien-vuot-bac-412438.html

[8] Về sự ra đời của Diễn đàn văn học nghệ thuật liên mạng, xin tham khảo bài trả lời phỏng vấn của nhà văn Phạm Chi Lan (1961-2009), người khởi xướng, do Thụy Khuê thực hiện “RFI phỏng vấn Phạm Chi Lan, chủ biên tạp chí Văn học nghệ thuật liên mạng” (1996) (đăng lại trên Da Màu 25.09.2009, https://damau.org/9009/rfi-phong-van-pham-chi-lan-chu-bien-tap-chi-van-hoc-nghe-thuat-lien-mang). Tạp chí này dừng hoạt động vào tháng 4-2001.

[9] Nguyễn Quốc Chánh, sinh năm 1958, đã từng xuất bản hai tập thơ tại các NXB chính thống là Đêm mặt trời mọc (NXB Trẻ, 1990) & Khí hậu đồ vật (NXB Trẻ, 1997).

[10] Da Màu, “Chủ trương”, https://damau.org/chu-truong

[11] Về tinh thần của eVăn, xin tham khảo bài trả lời phỏng vấn của Đinh Bá Anh – một trong hai chủ biên đầu tiên của trang web văn cương này, “Cái còn lại là tinh thần thế giới”, (Phạm Thị Hoài phỏng vấn, 1.05.2005), www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4511&rb=07

[12] Phạm Thị Hoài, “Và lý trí khắc nghiệt được thiền trước niềm hoan lạc”,

www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3153&rb=0506

 

 

[13] Những tác giả này đều là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam, được xuất bản chính thức, được trao những giải thưởng chính thống. Ví dụ: Inrasara, nhà thơ Chăm, từng được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1997, 2003, giải thưởng văn học Đông Nam Á năm 2005; Nguyễn Quang Thiều từng được giải thưởng Thơ của Hội nhà văn năm 1993 và hiện còn là Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam; Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư đều là những tác giả văn học được chào đón… Tuy nhiên vào thời điểm từ 2001-2006, có thể thấy sự tham gia tích cực của họ trên các trang web văn chương. Thí dụ, trang Tiền Vệ là nơi có thể tìm thấy nhiều sáng tác của họ mà vào thời điểm ấy, họ đã không lựa chọn các kênh chính thống để công bố đầu tiên.

[14] Robert R. Wilson (1986), “ Play, Transgression and Carnival: Bakhtin and  Derrida on Scriptor Ludens”, Mosaic, Vol.19, No.1, p78-9.

[15] Linh Dinh, “Let Them Eat Pixels”, http://poeticinvention.blogspot.com/2006/11/let-them-eat-pixels.html, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc-Tuấn tại: https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=5306

[16] Bùi Chát (2003), Lời đề từ tập thơ Xáo chộn chong ngày, Sài Gòn: NXB Giấy Vụn, bản điện tử đăng tại:

www.talachu.org/tho.php?bai=19

 

[17] Đinh Linh, “Về thơ”, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=F243269EE2F05CCA1487BABD1E305FC8?action=viewArtwork&artworkId=1322

[18] Lý Đợi, “Thơ và chúng tôi không làm thơ”, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1589&rb=0306www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1590&rb=0101

[19] Nguyễn Quốc Chánh, trích Của căn cước ẩn dụ, 11.2001, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=922&rb=0101

[20] Nguyễn Quốc Chánh, “Những ý rời” trong Ê! Tao đây, www.talachu.org/tho.php?bai=29

[21] Inra Sara, “Sáo trộn với Bùi Trát (giới thiệu tập thơ Xáo chộn chong ngày của Bùi Chát), https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1493

[22] Hồ Xuân Hương, nhà thơ Việt Nam sống ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Được xem là một tiếng nói nữ độc đáo trong văn học trung đại, thơ Hồ Xuân Hương táo bạo khi đưa vào trong thơ ngôn ngữ của thân thể và dục cảm, tôn vinh vẻ đẹp và những ham muốn trần thế của con người, đối lập với truyền thống đạo lý nghiêm ngặt của Nho giáo.

[23] Nguyễn Quốc Chánh, “Đụ vỡ sọ”, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3468

[24] Nguyễn Hưng Quốc (2013), Văn học Việt Nam tại Úc: Chính trị và thi pháp của lưu vong, California: NXB Văn Mới, p.252-3,  259-262.

[25] Bùi Chát, “Sáng thế truyển khẩu cương mục toát yếu”, in trong Thơ 47 – Tuyển tập nhiều tác giả (2007, Sài Gòn: NXB Giấy Vụn).

[26] Julia Kristeva (1980), Desire in Language: A Semiotic Approach to Literature and Art, Oxford: Blackwell, p.65

[27] Dương Tường, 36 bài tình (in chung với Lê Đạt, NXB Trẻ, 1989), Hoàng Hưng, Ngựa biển (NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1988) & Người đi tìm mặt (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994).

[28] Bùi Chát (2007), Xin lỗi, chịu hổng nổi. Sài Gòn: NXB Giấy Vụn.

[29] Đây là hai tập thơ do các tác giả trong nhóm Mở Miệng chủ biên và tự xuất bản. Bùi Chát – thành viên trụ cột của nhóm Mở Miệng – đã lập nên nhà xuất bản Giấy Vụn  từ năm 2001. Đây là một nhà xuất bản ngầm, không xin phép của nhà nước và ban đầu xuất bản các cuốn sách samizdat của mình dưới hình thức photocopy. Khi internet lên ngôi, bên cạnh việc tiếp tục in ấn và xuất bản các ấn phẩm của mình dưới dạng giấy, họ cũng đời thời sử dụng kênh internet để công bố tác phẩm của mình và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp cận của công chúng. Năm 2011, tại Argentina, Bùi Chát đã được hiệp hội Các Nhà xuất bản Quốc tế (The International Publishers Association) trao giải Tự do Xuất bản. Đương nhiên, nhóm Mở Miệng và Nhà xuất bản Giấy Vụn luôn nằm trong tầm theo dõi của an ninh Việt Nam. Một bằng chứng cho điều này là việc Bùi Chát bị an ninh câu lưu ngay khi anh vừa từ Argentina về nước sau khi nhận giải thưởng nói trên. Về vụ việc này, có thể tham khảo: https://www.ifex.org/vietnam/2011/05/04/bui_chat_freed/

[30] Johan Huzinga (1955), Homo Ludens: A Study of the Play Element in Culture, Boston:Beacon Press, p.11.

[31] Đỗ Thị Thoan được biết đến với bút danh Nhã Thuyên (sinh năm 1986) là một nhà thơ và một cây bút phê bình. Năm 2010, cô bảo vệ luận văn thạc sĩ Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa tại khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận văn của cô được đánh giá xuất sắc và sau đó cô công tác tại đây với tư cách giảng viên tập sự. Tuy nhiên, từ tháng 5 năm 2013, luận văn của cô bị xét lại và bị quy kết là luận văn nguy hiểm, “phản văn hóa”, “phản khoa học”, “mượn danh khoa học để làm chính trị”, “gây tác hại không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn, chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường Cô bị buộc thôi việc và bị tước bằng thạc sĩ vào năm 2014. Người hướng dẫn của cô, PGS. Nguyễn Thị Bình, cũng bị nhà trường dừng kéo dài hợp đồng lao động. Vụ việc này cũng đã dấy lên nhiều ý kiến bảo vệ Nhã Thuyên và giáo sư hướng dẫn nói riêng và quyền tự do học thuật trong môi trường đại học ở Việt Nam nói chung. Nhưng cuối cùng, những tiếng nói này đều không nhận được sự hồi đáp từ Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam. Thông tin khái quát về vụ này đã được ghi lại trên Wikipedia tiếng Việt: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_Nh%C3%A3_Thuy%C3%AAn.

[32] Như Huy, “Tác phẩm Mùa sạch qua góc nhìn của nghệ thuật khái niệm”, được đăng lần đầu trên website Tiền Vệ, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=770, sau được đưa vào cuốn Trần Dần – Thơ (2008), Vũ Văn Kha biên soạn, Nhã Nam & NXB Đà Nẵng, trang 161-167.

[33] Trần Dần, “Sổ bụi, 1982”, https://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=726  và “Sổ bụi 1988 – Thơ mini”, https://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=748

 

[34] Nguyễn Hưng Quốc (1996), Thơ, v.v & v.v, California: Văn nghệ.

[35] Anna Akhmatova (1992), trích từ “Creation” in trong Selected Poems, bản dịch tiếng Anh của Richard McKane, Bloodaxe Books, trang 139.

[36] Đinh Linh & Lý Đợi: “Đinh Linh trò chuyện với Lý Đợi: ‘Tôi chỉ là đĩ đực của ngôn ngữ và sự thật…!’”, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1906

 

[37] Nguyễn Hưng Quốc, “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam”, https://tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=327

[38] Tlđd

[39] Tlđd

[40] Jean –Francois Lyotard (1993), “An Answer to the Question, What is Postmodern?” in trong The Postmodern Explained, Correspondence 1982-1985, Mineapolis & London: University of Minnesota Press, p.15

[41] Đinh Linh, “Một bài thơ hoàn toàn vô nghĩa”, https://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=DBD2651853819F612329DAA26AE7AA35?action=viewArtwork&artworkId=3855

 

[42] Phan Nhiên Hạo, “Thơ trẻ không nhất thiết là một làn gió thối”, 29.12.2003 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=922&rb=0101 và “Mới- Cũ trong thơ và hậu hiện đại”, 21.5.2004,

www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1634&rb=0101

 

[43] Nguyễn Trần Khuyên, “Một nền văn học xây dựng từ Đực và phục vụ cho Đực”, 07.04.2005, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4231&rb=0102

[44] Trần Ngọc Hiếu (2017), “Phục trang bản ngã trong văn học mạng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9.