Tag Archives: ecocriticism

Tự sự học sinh thái: Động hướng, triển vọng và thể nghiệm

1. Những động hướng

Tự sự học sinh thái là một nhánh mới phát triển của tự sự học hậu kinh điển. Thuật ngữ này chính thức được đề xuất trong chuyên luận của Erin James xuất bản năm 2015 – The Storyworld Accord: Econarratology and Postcolonial Narratives (tạm dịch: Thỏa ước của thế giới truyện kể: Tự sự học sinh thái và các tự sự hậu thuộc địa) [6] Đến năm 2020, James cùng học giả Eric Morel đồng chủ biên tuyên tập Environment and Narrative: New Directions in Econarratology (tạm dịch: Môi trường và tự sự: Những hướng đi mới của tự sự học sinh thái) [7], in trong tủ sách uy tín hàng đầu về tự sự học Theory and Interprettion of Narrative. Gần đây nhất, tạp chí chuyên về lý thuyết Substance đã tổ chức một chuyên đề về phê bình sinh thái và hình thức của tự sự. Các công cụ và thao tác phân tích của tự sự học sinh thái, các thảo luận về phạm vi và ý nghĩa cùa lĩnh vực này là nội dung chủ đạo của các bài nghiên cứu trên số tạp chí này. Chưa kể từ giữa thập niên 2010 đến nay, rải rác có thêm nhiều những bài nghiên cứu lẻ hay các luận án sử dụng cách tiếp cận tự sự học để phân tích hay chất vấn ý nghĩa của các tự sự về môi trường. Có thể kể đến hai luận án: Eco-Narratology and Contemporary American Fiction (tạm dịch: Tự sự học sinh thái và tiểu thuyết đương đại Hoa Kỳ, 2021) của Kyle T. Henrichs bảo vệ tại Đại học Wisconsin-Milwaukee [5] và trước đó là Spaces of Indeterminacy: Aerial Description and Environmental Imagination in 20th Century American Fiction (tạm dịch: Những không gian bất định: Miêu tả không trung và tưởng tượng về môi trường trong tiểu thuyết Hoa Kỳ thế kỷ 20) của David Rodriguez bảo vệ tại State University of New York at Stony Brook (2019) [13].

Tự sự học sinh thái là sự cộng sinh của hai lĩnh vực tưởng như có rất ít mối liên hệ với nhau: tự sự học và phê bình sinh thái. Tự sự học sinh thái “duy trì sự quan tâm đối với việc nghiên cứu mối liên hệ giữa văn học và môi trường vật lý, nhưng nó làm công việc ấy với sự nhạy cảm với các cấu trúc và thủ pháp văn chương mà chúng ta sử dụng để truyền đạt sự trình hiện môi trường vật lý cho nhau thông qua các chuyện kể.” [6;  tr.23]

Theo James, chính những động hướng phát triển của từng lĩnh vực – phê bình sinh thái và tự sự học – đã dẫn đến sự cộng sinh này. Trước hết là làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái. Trỗi dậy từ thập niên 1990, làn sóng thứ nhất của phê bình sinh thái được hình thành trên niềm tin về một thứ thiên nhiên nằm ngoài ngôn ngữ mà văn chương có thể phản ánh và kêu gọi nhận thức về nó. Vấn đề môi trường được các nhà phê bình sinh thái xem như một tình trạng mang tính phổ quát của nhân loại, phạm vi các tác phẩm mà họ tập trung thảo luận là các điển phạm trong văn chương Anh Mỹ viết về thiên nhiên – các sáng tác thường thuộc về truyền thống của lối viết hiện thực hay thể loại phi hư cấu, xu hướng của họ là tìm kiếm những mối liên hệ giữa văn chương viết về tự nhiên với các diễn ngôn khoa học, đề cao sự bảo tồn như là hình thức quan trọng nhất để can thiệp vào cuộc khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. Đến đầu thập niên 2000, làn sóng thứ hai của phê bình sinh thái nổi lên. Ở làn sóng này, đối tượng và phạm vi nghiên cứu được mở rộng sang không gian đô thị và những môi trường bị suy thoái, và thay vì tập trung vào khuynh hướng bảo tồn, các nhà phê bình, qua cách đọc văn chương, đã dấy lên những vấn đề về công lý môi trường, chỉ ra sự liên đới giữa vấn đề môi trường và các tình trạng bất bình đẳng xã hội khác. Làn sóng thứ hai này cũng cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa việc nghiên cứu văn học và môi trường với các lý thuyết đương đại khác. Đây cũng là những điểm làm làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái sẽ kế thừa và đẩy vấn đề đi xa hơn, phức tạp hơn. Ở làn sóng thứ ba, thiên nhiên không nằm ngoài ngôn ngữ, bản thân cái được gọi là thiên nhiên cũng nằm trong địa hạt của diễn ngôn. Cuốn sách xuất bản năm 2005 của Lawrence Buell, The Future of Environmental Criticsm: Environmental Crisis and Literary Imagination (Tương lai của phê bình môi trường: Khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn chương), đã khẳng định cách con người tác động vào môi trường phụ thuộc vào cách con người nghĩ và nói về nó, tức các diễn ngôn, các tự sự về môi trường. Các tưởng tượng của văn chương, do đó, một mặt, có thể góp phần hợp thức hóa những cách ứng xử có tính chất bạo lực, bóc lột đối với thế giới tự nhiên nhưng mặt khác, cũng có thể gợi ra những chất vấn đối với các diễn ngôn thống trị cũng như những khả thể khác cho sự thay đổi nhận thức và hành động. Nhiệm vụ của phê bình sinh thái chính là giải cấu trúc những tưởng tượng văn chương về môi trường này. Một điểm nhấn quan trọng khác của làn sóng thứ ba là sự chú ý nhiều hơn đến phương diện hình thức thẩm mỹ của văn chương, trong khi ở các làn sóng trước đó, các phương diện thuộc về nội dung được xem trọng hơn. Trên thực tế, các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba đã đúng khi cho rằng nếu chỉ cần đọc văn chương để tìm ra những sự trình hiện chính xác về môi trường thì đó là một việc làm rất ít ý nghĩa bởi các văn bản khác sẽ cung cấp các thông tin dữ kiện tốt hơn là thơ ca hay tiểu thuyết. Nhưng học giả Ursula K. Heise có lý khi cho rằng: “Nếu chúng ta tin – như tôi giả định các nhà phê bình sinh thái và hậu thực dân đều vậy – sự cải hóa thực tại theo phương thức thẩm mỹ có một tiềm năng đặc biệt đối với việc định hình lại cách cá nhân và tập thể tưởng tượng về sinh thái xã hội (ecosocial imaginary), vậy thì cách mà các hình thức thẩm mỹ liên hệ với các cấu trúc văn hóa cũng như sinh học xứng đáng để chúng ta dành sự chú ý đặc biệt cho nó.” [4; tr.258]

Trong khi đó, tự sự học ở giai đoạn hậu kinh điển cũng có những chuyển dịch quan trọng. Theo James, có hai động hướng để tự sự học hậu kinh điển có thể dung hợp với phê bình sinh thái. Thứ nhất, đó là tự sự học bối cảnh. Tự sự học trong truyền thống kinh điển trước đó vốn chỉ tập trung vào cấu trúc nội tại của văn bản nghệ thuật, xem các khái niệm công cụ để phân tích như là những phạm trù trung tính. Tự sự học bối cảnh, như James khái quát, “móc nối các cấu trúc tự sự với các bối cảnh ra đời của chúng để xem xét cách mà các thành tố văn bản có thể mã hóa hay thách thức những ý thức hệ nhất định.” [6; tr.14]  Chẳng hạn, với cách tiếp cận của tự sự học bối cảnh, việc một khung cảnh thiên nhiên được nhìn ngắm qua điểm nhìn của một người kể chuyện nữ hay nhân vật nữ không chỉ đơn giản là một thủ pháp mà là một mã ý thức hệ cần phải lưu ý và gợi ra những hình dung khác so với khi khung cảnh ấy được trình hiện từ điểm nhìn của người kể chuyện hay nhận vật nam. Sự “khác” này lại cần được xem xét như là cách mà các tự sự này chất vấn hay củng cố các khuôn mẫu trong cách nhìn khung cảnh đó, cách trao cho khung cảnh đó những ý nghĩa nhất định. Động hướng thứ hai kết gắn phê bình sinh thái và tự sự học là tự sự học tri nhận – một nhánh rất năng động của tự sự học hậu kinh điển. Tự sự học tri nhận nghiên cứu văn bản tự sự trong mối quan hệ với các cơ chế của tâm trí ở người đọc, hay nói giản dị hơn, nó quan tâm đến cách mà các câu chuyện có thể dẫn dắt hình dung, tưởng tượng cũng như tác động vào cảm xúc của người đọc. Nếu tác động của con người vào môi trường phụ thuộc khá nhiều bởi những tưởng tượng, hình dung về nó, bởi những câu chuyện được đan dệt xung quanh nó thì tự sự học tri nhận là một cách tiếp cận khả thủ để nhìn ra và chất vấn cách những tưởng tượng, câu chuyện này chi phối nhận thức và ứng xử của người đọc đối với môi trường.

Trong chuyên luận của mình, James đã sử dụng khái niệm chìa khóa “thế giới truyện kể” (storyworld) của nhà tự sự học tri nhận David Herman để khai triển nghiên cứu của mình. Theo Herman, thế giới truyện kể là “những mô hình tinh thần bao gồm các thành tố liên đới với nhau: ai làm chuyện gì đối với ai, khi nào, ở đâu, tại sao và theo cách nào đó trong thế giới này để người đọc có thể tái định vị được… khi họ muốn hiểu một câu chuyện.” [6; tr.20-1] Để hiểu một câu chuyện, Herman giải thích rằng “người diễn dịch câu chuyện phải cố gắng tái thiết không chỉ những gì đã xảy ra mà còn cả bối cảnh xung quanh, môi trường lồng vào thế giới truyện kể, những đặc điểm của chúng, những hành động và sự kiện mà chúng liên đới.” [6; tr.21]

 Khái niệm “thế giới truyện kể” có thể làm ta liên hệ đến một khái niệm có vẻ như gần gũi với nó được đề xuất bởi các nhà thi pháp học – “thế giới nghệ thuật”. Song sự khác biệt đáng kể nhất nằm ở chỗ trong khi thi pháp học chủ yếu coi thế giới nghệ thuật là sự mã hóa ý thức nghệ thuật của nhà văn, là một mô hình phóng chiếu sự cảm thụ, cắt nghĩa thế giới của tác giả thì khái niệm của Herman coi thế thế giới truyện kể còn là kết quả từ sự tri nhận của người đọc, là một môi trường phóng chiếu cảm xúc và tinh thần của người diễn giải. Người đọc dựa vào những thành tố có tính chất gợi ý (textual cues) trong văn bản để tạo dựng thế giới truyện kể – cái thế giới mà họ cư ngụ lâm thời khi đọc tác phẩm. Trạng thái cư ngụ lâm thời này được các nhà lí luận gọi bằng thuật ngữ “sự đắm mình trong thế giới tự sự” (narrative immersion).

Phạm vi khảo sát trong chuyên luận của James là các tự sự hậu thuộc địa và với phạm vi này, James nhận ra sự đụng độ, va chạm của các thế giới truyện kể, các tưởng tượng về môi trường tự nhiên là những khía cạnh phức tạp nhất liên quan đến tâm lý, tình cảm của con người. Các vấn đề của môi trường, do đó, không thể chỉ cần được nhận thức và giải quyết bởi khoa học hay chính trị. Môt tác phẩm được James nhắc đến như là minh họa cho sự xung đột giữa những cách con người tri nhận về tự nhiên là Hungry Tide của Amitav Ghosh.  Piya – một nhà nghiên cứu về hổ người Mỹ gốc Ấn, làm việc cho chương trình  Bảo tồn Hổ – không thể chấp nhận được người dân bản địa ở một ngôi làng nhỏ Ấn Độ dùng bẫy để bắt hổ, giết hổ vì đó là loài vật đe dọa tính mạng dân làng hàng ngày. Chương trình Piya đang làm việc trong khi ưu tiên đất đai và điều kiện sống cho loài hổ thì đồng thời lại đẩy người dân bản địa khỏi không gian sống của họ. Hình dung về hổ của Piya xung đột gay gắt với những hình dung của những người bạn bản địa của cô, những người coi hổ như một mối hiểm họa chứ không phải đối tượng phải bảo tồn, nghĩ rằng việc một con hổ vào một ngôi làng có người đang sinh sống là vì “nó muốn chết.” [6; tr. 2-3] Nhà sử học Yuval Noah Harari thường xuyên nhấn mạnh một luận điểm: loài người có xu hướng tin vào các câu chuyện hơn là các dữ kiện, thông số [3]. Vấn đề môi trường có thể xem là một trực quan tốt cho luận điểm này: cách nghĩ về loài hổ và cách ứng xử với nó của Piya và người dân bản địa Ấn Độ trông tiểu thuyết của Ghosh chịu sự chi phối của những câu chuyện về hổ gắn với những ý thức hệ khó hòa giải – triết lý bảo tồn thiên nhiên kiểu phương Tây và hệ thống niềm tin của dân bản địa. Trong cuốn sách của mình, James phát triển các công cụ và thao tác của tự sự học tri nhận để cho thấy các văn bản tự sự (hư cấu hoặc phi hư cấu) có thể định hình hay thách thức những tri nhận ở độc giả về môi trường như thế nào, gây ra những cảm thức sinh thái tinh vi ra sao. Chẳng hạn, ở chương 3 khi phân tích tiểu thuyết Sozaboy của nhà văn Nigeria Ken Saro-Wiwa (1941-1995), James chú ý đến văn phong đậm tính truyền khẩu mà Saro-Wiwa gọi là thứ “tiếng Anh thối rữa”. Thật ra đây là phương diện mà các nhà nghiên cứu về Saro-Wiwa đều bàn đến nhưng chủ yếu quan tâm đến tính chính trị của ngôn ngữ văn chương. James phân tích cách cấu tạo lời và phương thức trần thuật ở tiểu thuyết này, theo đó, cả tính truyền khẩu và thứ tiếng Anh thối rữa là những thành tố gợi dẫn của văn bản rất quyền năng. Chúng khiến người đọc như được nghe thấy những lời giãi bày trực tiếp của nhân vật trong truyện, đại diện cho người dân của vùng châu thổ Niger, một khu vực giàu trữ lượng về dầu nhưng cũng là nơi phải chịu đựng một lịch sử bị áp bức bởi các hệ thống kinh thế quốc gia và toàn cầu, trong đó, dầu là một mặt hàng quan trọng. Thông qua phương thức tạo ra hình tượng người nghe chuyện – được thể hiện qua đại từ nhân xưng ngôi thứ 2 “you” trong cuốn tiểu thuyết, Saro-Wiwa đã ấn định người đọc vào vị thế của nhân vật “you”, từ đó, buộc độc giả phải tự tra vấn về vai trò của mình trong các cấu trúc kinh tế-chính trị thống soát và ngoại biên hóa cuộc sống của những người dân bản địa. [6; tr. 90-121]

Theo đánh giá của chúng tôi, các thao tác phân tích tự sự học được James khai triển trong chuyên luận này đã đưa cách tiếp cận tự sự học về gần với phân tích diễn ngôn theo quan điểm hậu cấu trúc. Có thể nói, về cơ bản, James không kiến tạo một công cụ phân tích mới nào mà dựa vào hệ thống khái niệm đã được thiết lập bởi truyền thống tự sự học cấu trúc luận song bà đã biện luận để đắp cho chúng một số nội hàm mới và trao cho chúng những chức năng mới. Hai chức năng cơ bản trong số đó là gợi dẫn những quy chiếu về môi trường bên ngoài văn bản (trong khi tự sự học cấu trúc luận chỉ tập trung vào nội tại văn bản) và kích thích những phản ứng cảm xúc, tâm lý ở người đọc khi họ hình dung về môi trường qua câu chuyện được kể (vốn hầu như chưa được chú ý ở thời kỳ tự sự học cấu trúc luận). Từ công trình của James, chúng tôi cho rằng sự linh hoạt và sáng tạo trong việc sử dụng các thao tác phân tích theo đường lối của tự sự học tri nhận còn có thể hứa hẹn làm  sáng tỏ thêm cơ chế của những tâm thức sinh thái như “ecophobia” (sự kỳ thị tự nhiên), “ecoambiguity” (mơ hồ sinh thái), “ecohorror” (nỗi sợ hãi tự nhiên)… Xét đến cùng, những tâm thức sinh thái này chính là niềm tin hoặc sự hồ nghi đối với những thế giới truyện kể về tự nhiên.

Tuyển tập Environment and Narrative do James và Morel chủ biên xuất bản vào năm 2020 quy tụ không chỉ những tên tuổi đang nổi của tự sự học hậu kinh điển những năm đầu thế kỷ XXI như Markku Lehtimaki, Marco Caracciolo mà còn cả một số cột trụ của làn sóng thứ ba phê bình sinh thái như  Ursula K. Heise, Greg Garrard. Bên cạnh khuynh hướng kết hợp phê bình sinh thái và tự sự học tri nhận mà James là học giả tiên phong, cuốn sách còn giới thiệu hai nhánh mà tự sự học sinh thái có thể phát triển xa hơn là mối quan hệ giữa tự sự học với các thực thể phi nhân loại (nonhuman) và đạo đức tự sự.

Nhánh thứ nhất có sự gặp gỡ với một khúc ngoặt trong triết học đương đại – khúc ngoặt “phi nhân loại” (nonhuman). Khúc ngoặt này liên quan đến nhu cầu đổi mới hệ hình tư duy của con người trong bối cảnh khủng hoảng của Kỷ Nhân Sinh, thời đại mà con người tạo ra những tác động nghiêm trọng đến thế giới tự nhiên và xem mình như là chủ nhân quyền lực nhất của Trái đất. Triết học và cả lý thuyết tự sự vốn được xem là những lĩnh vực tri thức lấy con người làm trung tâm và bản thân điều này cần phải bị tra vấn. Trong lĩnh vực triết học, việc tra vấn tính tự chủ (agency) của các thực thể phi nhân loại là mối bận tâm lớn, qua đó, con người cũng xác định lại chính mình trong thế giới này. Bài giảng nổi tiếng của Jacques Derrida, “The Animal That Therefore I Am” như nhại lại luận đề của Descartes  – “I think therefore I am”, qua đó thôi thúc những phản tư quan trọng. Đầu tiên, Derrida đề nghị xem xét lại định kiến trong trục đối lập nhị phân giữa thú và người, theo đó, con thú không có khả năng có được những thứ chỉ con người mới sở hữu như lý trí, ngôn ngữ, cảm xúc…, hay để dùng một thuật ngữ quan trọng của Derrida, thú không thể có logos – nó không có thể tư duy, không có diễn ngôn, không tự tạo nên các câu chuyện cho chính sự tồn tại của nó. Nhân tính, bởi vậy, là một kiến tạo diễn ngôn trên cơ sở loại trừ, trấn áp các khả năng mà thú cũng có thể có, chứ không phải chỉ là độc quyền của người.  Nói như Marie-Louise Mallet, phương pháp của Derrida không phải là sự đảo ngược từ thái cực này sang thái cực kia: “Hoàn toàn không phải là một sự đảo chiều quan điểm giản đơn, chẳng hạn như phục hồi cho ‘con thú’ tất cả những gì mà truyền thống đã tước đi khỏi nó, cũng hoàn toàn không phải là sự thay thế sự đối lập kinh điển bằng một sự hòa trộn, không thể phân biệt mà thực chất cũng là một sự thất bại giả dối không kém, phương pháp giải cấu trúc đã kiên nhẫn nhân bội lên những khác biệt, làm chúng ta phải chú ý vào sự mong mang và rỗng xốp của những ranh giới được giả định của cái ‘chính danh’ (proper) mà từ lâu chúng ta đã lợi dụng để dựng lên sự đối lập truyền thống giữa “người” và “thú”. Tuy nhiên, làm như vậy, chúng ta không chỉ gây bất ổn đối với tất cả những sự đảm bảo về “thú tính” của con thú nói chung mà còn gây bất ổn không kém đối với những khẳng quyết về nhân tính của con người…” [2; tr.x-xi] Gần đây hơn nữa, ngành nhân văn còn nổi lên nhánh nghiên cứu về tư duy cây (plant-thinking), trong đó hai học giả tiên phong là Luce Irigaray và Michael Marder. Với các học giả này, thế giới thực vật còn bị ngoại biên hơn cả thế giới động vật trong diễn ngôn triết học. Việc xác lập diễn ngôn về tư duy cây có khả năng phá vỡ sự độc tôn không chỉ chủ thể của sự nghĩ mà còn ở cả hình thức của sự nghĩ, vốn từ lâu được mặc định gắn liền với hoạt động của lý trí [10]. Có vẻ như các học giả vẽ ra một viễn cảnh không tưởng khi hình dung về một môi trường ý thức nơi nhân loại và thực thể phi nhân có thể hình thành những kiểu thức giao lưu, phá vỡ quan hệ mang tính thống trị. Nhưng xét đến cùng thì sự không tưởng ấy cũng có thể thôi thúc con người tìm ra những khả thể mới thay vì chỉ chấp nhận những giới hạn hiện tồn.

Tác động của khúc ngoặt phi nhân loại này trong triết học đến các nhà nghiên cứu tự sự được thể hiện ở việc xem xét, chất vấn cách trình hiện các thực thể phi nhân loại trong các tự sự văn học, điện ảnh trở thành một chủ đề cần thảo luận. Trên thực tế, có nhiều tự sự không chỉ mô tả thế giới phi nhân loại như là các thành tố tạo nên nền cảnh của câu chuyện mà còn biến các thực thể phi nhân loại này thành nhân vật hay người kể chuyện thông qua các hệ thống tu từ, đặc biệt là phép nhân hóa. Tuy nhiên, không hẳn lúc nào các tự sự này cũng trùng khít với thể loại ngụ ngôn, nơi các hình tượng phi nhân loại chỉ là ẩn dụ về con người và phóng chiếu các kinh nghiệm của con người. Có thể nêu một số truyện ngắn của Franz Kafka như “Báo cáo gửi viện hàn lâm”, “Josephine – nữ ca sĩ dân tộc chuột”, “Hang ổ”… như là ví dụ cho trường hợp này. Ở đây, các kỹ thuật tự sự như điểm nhìn, tiêu cự, các thủ pháp miêu tả ý thức được sử dụng không phải để mô phỏng các kinh nghiệm của con người mà để gợi mở kinh nghiệm của các tồn tại phi nhân tính. Chúng, vì thế, có thể đóng vai trò như “những công cụ tưởng tượng quan trọng để phê bình, tháo dỡ, tái thiết các ý niệm về tính người trong thế giới hiện đại, nơi người ta đã không thể hình dung nổi thế nào là người nếu xem xét tính người như một cái gì đó bị cô lập và tách biệt với những cộng đồng sự sống rộng rãi hơn.” [7; tr.7]

Sự kết hợp giữa phê bình sinh thái và đạo đức tự sự cũng là một sự kết hợp khá tự nhiên. Vấn đề đạo đức tự sự trở thành mối quan tâm của tự sự học hậu kinh điển khi tự sự được ý thức như một hành động giao tiếp có mục đích. Theo James Phelan, đạo đức tự sự xoay quanh bốn vấn đề: (1)- đạo đức của câu chuyện được kể; (2) – đạo đức của hành động kể chuyện; (3) – đạo đức của sự viết/ sự tạo lập câu chuyện; (4) – đạo đức của sự đọc/ tiếp nhận câu chuyện. Các vấn đề này đều liên quan đến các câu hỏi về thẩm quyền của người kể chuyện, đến lập trường của người viết, của nhân vật để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, con người xấu-tốt, đáng cảm thông-đáng lên án ra sao, đến việc các gợi dẫn của văn bản có thể ấn định một trường nhìn đạo đức và khơi dậy những cảm xúc đạo đức như thế nào… [2] Tất cả những khía cạnh này đều có những móc nối tinh vi và chặt chẽ đến việc câu chuyện ấy được kể theo cách nào. Nói tóm lại, văn học thực hiện chức năng đạo đức bằng chính hình thức thẩm mỹ của nó.

Phê bình sinh thái ở làn sóng thứ ba, như trên đã trình bày, coi các tự sự về tự nhiên là đối tượng của mình. Bản thân lý thuyết này, ngay ở giai đoạn hình thành, đã mang tham vọng kiến lập nền tảng đạo đức mới để con người chung sống với những tạo vật khác của hành tinh. Trải qua những làn sóng vận động, các lý thuyết gia đã càng ngày càng nhận thức rõ mối quan hệ ràng rịt giữa vấn đề môi trường và các vấn đề như giai cấp, chủng tộc, phái tính, các cộng đồng thiểu số, nhược tiểu… Tính chất vấn, vốn được xem là tinh thần cốt lõi của lý thuyết, trong trường hợp này, đã mang ý nghĩa đạo đức khi nó phá vỡ tính đơn nhất của các chuyện kể về thế giới tự nhiên, phức tạp hóa những mặc định về con người và các thực thể phi nhân loại, để từ đó có thể nhìn thấy những bất cập, bất công, bất bình đẳng đang được làm cho trở nên bình thường, khó nhận thấy và do vậy, loại trừ những khả năng kháng cự và thay đổi. Bản thân chuyên luận của James xuất bản trước đó đã ý thức rất rõ về sự gợi mở và can dự về mặt đạo đức đối với các vấn đề môi trường của tự sự học sinh thái. Qua những phân tích các trường hợp nghiên cứu cụ thể, bà đi đến kết luận: “Các tự sự, thông qua quyền năng giúp cho người đọc sống trải các môi trường và các kinh nghiệm môi trường khác với mình, có thể phát lộ những điểm khác biệt về tri nhận, làm rõ những mối quan tâm của những người tưởng tượng và sống trong một môi trường theo cách đặc thù của họ và đặt người đọc trực diện với những quan điểm khác hay đối lập với họ. Theo cách ấy, chúng có thể mở ra các kênh giao tiếp truyền đạt về cách mà con người mường tượng và cư ngụ trong môi trường của họ, khích lệ một nhận thức về môi trường giúp ích cho việc xây dựng những chính sách về môi trường công bằng hợp, hợp lý hơn và không thiên lệch.” [6; tr. 208] Việc văn chương thúc đẩy người đọc tri nhận sự đa dạng, phức tạp của những môi trường và cách ứng xử đối với môi trường thông qua thế giới truyện kể tiềm tàng sự mời gọi niềm cảm thông và quan trọng hơn thế, những đối thoại xuyên văn hóa.

2. Triển vọng

Năm 2021, khi viết bài tổng kết số chuyên đề của tạp chí Substance về tự sự và môi trường, James ghi nhận một thực tế: “Lý thuyết tự sự đã được kích hoạt bởi những mối quan tâm về môi trường, dù là thông qua những thảo luận về người kể chuyện phi nhân loại (nonhuman), những tiềm năng (và cạm bẫy) của sự thấu cảm tự sự xuyên giống loài (transspecies), những đường biên của các tự sự trong Kỷ Nhân Sinh, hay vai trò mà các tự sự và thế giới truyện kể có thể đảm nhận trong việc khơi dậy phản ứng đối với thực trạng biến đổi khí hậu.” [9; tr.150] Tự sự học sinh thái, trong khoảng thời gian chưa thật dài, đã chứng tỏ sự năng động của mình khi các nhà nghiên cứu đã mở rộng vùng đối tượng nghiên cứu, phát triển nhiều câu hỏi nghiên cứu từ đó đánh dấu những hướng đi mới. Những bước đi đương thời của tự sự học và phê bình sinh thái có xu hướng tương thích với nhau, điều này khiến tự sự học sinh thái không phải là một nhánh nghiên cứu đóng.

Triển vọng của tự sự học sinh thái được ghi nhận trước hết ở khả năng tác động của nó. Trong lời nói đầu tuyển tập Environment and Narrative, James và Morel đã xác định rằng: bởi cách chúng ta ứng xử với tự nhiên chịu nhiều ảnh hưởng từ các câu chuyện và ngược lại nên nhận thức của chúng ta về tự sự cũng thay đổi khi môi trường thay đổi. Cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay, một phần đáng kể, cũng liên đới đến cuộc khủng hoảng của các tự sự về môi trường mà tự sự học sinh thái, với các phương pháp và thao tác phân tích của mình, có thể cho thấy rõ. James không phóng đại cách văn chương và nghiên cứu văn chương có thể khắc phục cuộc khủng hoảng này. Trong chuyên luận The Storyworld Accord, bà viết: “Tôi không cho rằng việc đọc các câu chuyện là một giải pháp tự nó. Theo nhiều cách, cách các thế giới truyện kể và kinh nghiệm chủ quan mà chúng mã hóa còn làm cho việc tìm giải pháp trở nên khó khăn hơn khi nó mở rộng hiểu biết của chúng ta về những cách khác nhau mà con người hình dung và can dự vào thế giới. Tuy nhiên, các thế giới truyện kể có thể thúc đẩy sự tôn trọng đối với sự so sánh, sự khác biệt, tính chủ quan và sự tôn trọng này, đến lượt mình, có thể thúc đẩy những thảo luận tinh tế hơn, sâu sắc hơn về môi trường cũng như các chính sách liên quan đến môi trường.” [6; tr.208] Mài sắc sự nhạy cảm, tinh tế, sâu sắc trong cách nghĩ, mở rộng những khả năng suy tư – đó luôn là điều mà văn chương có thể làm tốt hơn cả cho con người.

Bối cảnh khủng hoảng môi trường của Kỷ Nhân Sinh đã tạo ra một thể loại đặc trưng được các nhà tự sự học ưu tiên xem xét như là những trường hợp nghiên cứu điển hình – tiểu thuyết cli-fi (tạm dịch tiểu thuyết khí hậu), một thể loại dự phóng những viển cảnh phản không tưởng của thế giới trong điều kiện biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, bối cảnh này còn có thể ảnh hưởng đến bản thân lý thuyết tự sự. Điều này được James trình bày trong tiểu luận “Narrative in the Anthropocene” (Tự sự trong Kỷ Nhân Sinh) mà dưới đây, chúng tôi sẽ lược thuật lại những luận điểm chính.

James bắt đầu tiểu luận của mình bằng việc mô tả bối cảnh đối thoại lý thuyết, trong đó, các nhà tự sự học phải lĩnh nhận sự hồ nghi từ phía các lý thuyết gia văn hóa như Claire Colebrook hay Timothy Morton, những người cho rằng “tự sự, như là một phương thức tu từ đã thật sự không thể thích hợp với thời đại hôm nay của chúng ta.” [8; tr.184] Lý do, theo Colebrook, nằm ở chỗ: tự sự vốn dĩ gắn bó mật thiệt với điểm nhìn và kinh nghiệm của con người, theo đó, nó “không thể trình hiện một cách đầy đủ quy mô thời gian và những hình dung rộng rãi hơn về đời sống của các thực thể phi nhân loại, mà đấy lại chính là những gì mà bối cảnh khủng hoảng môi trường hiện thời đang đòi hỏi.” [8; tr.184] Thực trạng biến đổi khí hậu – một đặc điểm nhận diện của Kỷ Nhân Sinh – là “một thảm họa đối với tưởng tượng của con người” và để đối phó với nó, “quay về với việc đọc, cảm thụ và giao tiếp tự sự là không đủ, chúng ta cần được lay tỉnh khỏi những câu chuyện chỉ toàn thấy con người ở trung tâm đang ru ngủ mình.” [8; tr.184] James phản biện lại những sự hồ nghi nói trên, đề xuất hướng suy nghĩ mới về bản chất của tự sự và nghiên cứu tự sự. Theo bà, giờ là lúc nên suy tư về mối kết gắn giữa tự sự và Kỷ Nhân Sinh bằng những câu hỏi như: “Các câu chuyện có thể giúp chúng ta nghĩ khác về Kỷ Nhân Sinh như thế nào? Làm thế nào mà các tự sự có thể cung cấp cho chúng ta một bối cảnh an toàn để thăm dò, khám phá cách con người kiến tạo hình ảnh thế giới và sống trong đó? Làm thế nào mà việc đọc các địa tầng, vòng sinh trưởng của cây, lõi băng, vốn tự chúng đã là trình hiện vật chất của chuỗi sự kiện, có thể thách thức những định nghĩa cơ bản nhất mà chúng ta có về tự sự và trần thuật? Làm sao những khái niệm mới về thời gian, không gian gắn với Kỷ Nhân Sinh có thể đa dạng hóa những mô hình tổ chức thời gian và không gian tự sự? Làm thế nào để nhận thức về tính tự chủ tập thể (collective agency) vốn được gắn với Kỷ Nhân Sinh có thể rọi ánh sáng mới vào các dạng thức tổ chức lời trần thuật? Và thật ra, Kỷ Nhân Sinh đã giúp chúng ta nghĩ khác đi về bản chất của tự sự như thế nào? Nó đã thôi thúc việc xây dựng những cấu trúc mới đi ngược lại với những hình thức tự sự truyền thống như thế nào?” Những câu hỏi trên, đương nhiên, không dễ trả lời nhưng sự phức tạp của chúng luôn tiềm tàng những khả thể mới để xây dựng nên cái mà James gọi “lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh” (Anthropocene narrative theory) [8; tr.185].

Giữa nghệ thuật tự sự và Kỷ Nhân Sinh có nhiều mối liên hệ mật thiết hơn là những gì các lý thuyết gia văn hóa hồ nghi. Theo James, bản thân thực tiễn sáng tạo và lý thuyết văn chương đã cho thấy chính hình thức tự sự mới có thể nắm bắt, thậm chí gợi mở những hình thức biểu đạt, sự bất khả đoán của dòng chảy thời gian, quy mô rộng rãi về không gian và những điểm nhìn từ các thực thể phi nhân loại. Đáng chú ý, sự tương đồng giữa nghệ thuật tự sự và Kỷ Nhân Sinh, theo mạch biện luận của James, nằm ở chỗ cả hai đều là “sản phẩm của thế giới văn hóa viết của nhân loại” [8; tr.186]. Một mặt, hình thức của các câu chuyện là một hình thức để con người kiến tạo thế giới; mặt khác, để tác động vào thế giới thì con người ở Kỷ Nhân Sinh cũng phải “viết lại” cái thế giới ấy sao cho các tác động của mình vào nó được hợp thức hóa. Những phá hoại của con người đối với môi trường trong Kỷ Nhân Sinh có mối liên hệ nhân quả với quyền năng kiến tạo thế giới của các câu chuyện mà con người đã dựng lên. Hơn nữa, thời điểm mà Kỷ Nhân Sinh thật sự bắt đầu định dạng rõ nét cũng là thời điểm mà tiểu thuyết – thể loại nòng cốt của tự sự văn học viết – trỗi dậy, cùng lúc với sự trỗi dậy của cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa tư bản, khoa học của thời kỳ khai sáng, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa thế tục, sự hình thành của tư tưởng quốc gia dân tộc và tầng lớp trung lưu trong xã hội… James đi đến khái quát: “Thực vậy, một lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh biện luận rằng mọi tiểu thuyết đều tích hợp vào trong những nền tảng của nó những thái độ và ý hệ đã tạo nên Kỷ Nhân Sinh, dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu, do đó, theo nghĩa này, bằng hình thức của mình, tiểu thuyết là đại diện của thời đại này. Lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh cho rằng tiểu thuyết không những phản chiếu những thay đổi về xã hội và môi trường vật chất đã khởi sinh thời đại mà còn đề xuất một trường thí nghiệm cho sự khám phá theo cách tưởng tượng những hàm ý của những hành vi này trong ngôn từ.” [8; tr.189]

Lý thuyết tự sự của Kỷ Nhân Sinh theo quan sát và dự phóng của James buộc chúng ta phải nhìn nhận lại giới hạn và khai phá những tiềm năng của những phạm trù, khái niệm quan trọng của tự sự học trong việc trình hiện thời đại này. Đầu tiên, nó nhìn ra tính tự sự tồn tại ngay trong tự nhiên, trong các thực thể phi nhân loại như địa tầng, lõi băng, vòng sinh trưởng của cây… Tuy nhiên, tính tự sự ở đây chỉ tồn tại ở mức tối thiểu: đá, băng, cây cối tự chúng không tạo ra được một tự sựu trọn vẹn, chúng thiểu người kể chuyện, người nghe chuyện, sự trình hiện một thế giới truyện kể… Nhưng chúng có thể gợi ý “khả năng cộng tác giữa người kể chuyện con người và các chất liệu phi nhân loại” [8; tr.191]. Đây không hề là một giả tưởng bởi như lời nhà địa chất học Jan Zalasiewicz mà James có dẫn lại, các địa tầng “chứa đựng trong chúng vô vàn các khả thể chuyện kể về các lịch sử của đại dương và sông ngòi, ao hồ và bờ bãi cũng như sa mạc khô cằn trước đây.” [8; tr.192] Việc nhìn ra nhiều hơn một lịch sử luôn là điều mang tính khai phóng cho con người và cho thế giới. Tự sự học cũng cần phải xét lại hoặc xây dựng những khái niệm mới về thời gian tự sự sao cho tương thích với tiến trình “bạo lực chậm” ở Kỷ Nhân Sinh, nhất là khi đã có những sáng tạo nghệ thuật đã ý thức được tình trạng này. Khái niệm “bạo lực chậm” được đề xuất bởi Rob Nixon để chỉ một thứ bạo lực “xuất hiện từ từ và không nhìn thấy được, gắn với những sự hủy hoại bị đình hoãn phát tán xuyên thời gian và không gian.” [11; tr.2] – một thứ bạo lực nằm ở trung tâm những bất công môi trường ở Kỷ Nhân Sinh. Bạo lực chậm có thể xem như một kiểu “cốt truyện” thiên về tính mô tả và hình thái cốt truyện này cũng là điều đỏi hỏi các nhà lý thuyết phải tư duy thêm, thay vì chỉ tập trung vào cốt truyện hành động như trước đây. Tương tự, tự sự học ở Kỷ Nhân Sinh được giao cho nhiệm vụ phải tư duy lại khái niệm không gian. Thay cho truyền thống vốn chỉ tập trung nghiên cứu các khái niệm tĩnh (thí dụ, các ký hiệu thường được dùng để mô tả không gian tự sự như vùng, cột mốc, ngưỡng, toàn cảnh nhìn từ trên xuống [bird’s eye-view…) , giờ đây các nhà tự sự học cần trau dồi hoặc kiến tạo các công cụ mới để xử lý các không gian lưu chuyển, phi tĩnh tại. Có thể nói về một khúc ngoặt trong nghiên cứu các tự sự về môi trường hiện nay như là một nỗ lực để khắc phục giới hạn này – nghiên cứu sông nước. Về phương diện trần thuật, lý thuyết tự sự ở Kỷ Nhân Sinh cũng cần phát triển những nhận thức mới về cấu trúc tự sự, chẳng hạn dạng thức người kể chuyện “chúng ta” (We-narrator) như một đối trọng với người kể chuyện biết hết, toàn tri, mang dáng dấp của Thượng đế, có lẽ đã không còn thích hợp cho những tự sự ở thời đại này. “Người kể chuyện chúng ta” khác với người kể chuyện toàn tri ở chỗ ý thức được tính chất không toàn vẹn, không bao quát hết thảy của cái tập thể mà mình thuộc về, đồng thời cũng ý thức được phía đối trọng với mình – “họ” (“them”) là ai. Chẳng hạn, trong các tự sự hậu thuộc địa, “người kể chuyện chúng ta” thường đại diện cho một bản sắc tập thể tương phản sâu sắc với quyền uy của đế chế (tức “họ”). Bối cảnh khủng hoảng của Kỷ Nhân Sinh còn đòi ta phải nhìn thẳng vào một thực tế luôn có những nhóm đặc quyền tự cho rằng chỉ có mình mới kể được câu chuyện về thời đại. “Người kể chuyện chúng ta” chính là một phương thức để đối thoại, chất vấn quyền uy này và điều này đã được thể nghiệm trong một số tiểu thuyết đương đại, chẳng hạn cuốn On Such a Full Sea (2014) của Lee Chang-Rae.

Tiểu luận của James, theo chúng tôi, là một trong những tiểu luận đột phá nhất của tự sự học hậu kinh điển. Nó không chỉ biện minh về sự cần thiết, sự tương hợp của nghệ thuật tự sự với Kỷ Nhân Sinh mà còn đặt ra nhiều nhiệm vụ mà tự sự học cần phải thực hiện để lĩnh vực này thật sự có tiếng vọng trong đời sống, có khả năng can dự vào những vấn đề sống còn của thời đại. Tự sự học sinh thái vẫn đang ở những chặng đường đầu tiên và vẫn đang còn là một không gian rộng rãi cho những đối thoại lý thuyết. Bản thân thực tiễn văn học Việt Nam cũng rất có thể không chỉ minh họa cho tính hiệu quả của các công cụ và thao tác phân tích của tự sự học sinh thái mà còn thôi thúc sự trau dồi, phát triển các công cụ và thao tác ấy cũng như gợi mở những phát kiến thuật ngữ mới.

3. Thể nghiệm

Tự sự học sinh thái, như đã trình bày ở trên, đang phát triển nhiều chủ điểm nghiên cứu. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi giới hạn thể nghiệm đọc của mình vào hai chủ điểm: sự xung đột của những “thế giới truyện kể” về môi trường và sự trình hiện các thực thể phi nhân loại trong hai tác phẩm “Sầu trên đỉnh Puvan” (Nguyễn Ngọc Tư) và “Một lần đối chứng” (Nguyễn Minh Châu). Mục đích của phần thể nghiệm đọc này là trực quan hóa các cách tiếp cận, thao tác phân tích của tự sự học sinh thái. Mặc dù chưa thể làm mới hay chất vấn các khái niệm và chiến lược chiến giải nhưng qua việc trình bày lối đọc này, chúng tôi cũng muốn lưu ý đến việc cần linh hoạt như thế nào trong việc tiếp thu, vận dụng lý thuyết.

3.1. Xung đột của những thế giới truyện kể trong “Sầu trên đỉnh Puvan” (Nguyễn Ngọc Tư)

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư mở đầu bằng giai thoại về những bông hoa sầu trên đỉnh núi Puvan được ghi chép lai bởi tu sĩ người Pháp, Colègan, vào năm 1887, người đầu tiên nhìn thấy chúng và bỏ mạng ngày sau đó. Mặc dù núi Puvan không có trên bản đồ Việt Nam, các nhân vật và sự kiện ở đây không quy chiếu về bất cứ một tồn tại thực tế nào cả, nhưng toàn bộ giai thoại này bảo lưu những motif quan trọng của một cốt truyện mang màu sắc exotic rất đặc trưng của tự sự thực dân. Một nơi chốn hoang vu, kỳ bí mà người phương Tây luôn xem mình như kẻ đầu tiên phát hiện, chinh phục được nó. Bản thân tên gọi của loài hoa và vẻ đẹp của nó mà theo ghi chép của vị tu sĩ, “đáng đánh đổi cả cuộc đời người để được trông thấy chúng dù chỉ một lần” cũng là những phép tu từ làm nổi bật thế thượng tôn của người phương Tây – những chủ thể biết muộn sầu, những kẻ duy nhất biết theo đuổi và dám trả giá cho những điều phi thường.

Thế giới truyện kể gắn với ý thức hệ thực dân ấy chưa bao giờ mất hiệu lực, kể cả khi chủ nghĩa thực dân về cơ bản đã bị giải thể về chính trị. Giai thoại kỳ bí và đầy khao khát chinh phục ấy ám ảnh tâm trí của Vĩnh – một người đàn ông có đời sống phong lưu ở thành thị, người đều đặn hàng năm “đi gần khắp các châu lục, khám phá những ngọn núi, dòng sông, những vùng đất được xem là đẹp nhất.” Du lịch vốn dĩ đã gắn bó với chủ nghĩa thực dân ngay từ khởi điểm của nó và cho đến bây giờ, diễn ngôn du lịch vẫn thường bảo lưu một cách tinh vi ý thức hệ của chủ nghĩa thực dân, theo đó, “những ngọn núi, những dòng sông, những vùng đất đẹp nhất” thực tế chủ yếu là đối tượng thưởng ngoạn của những kẻ đặc quyền trong xã hội.

Với Vĩnh, việc một cây sầu phải đợi đúng 13 tháng hạn mới nở hoa là sự kỳ bí thôi thúc hành trình leo đỉnh Puvan của anh. Nhưng với Củi, cậu bé dân bản địa, trên đỉnh Puvan ấy chẳng có gì đặc biệt cả và cái cây sầu ấy là “đồ quỷ”, “vô duyên vô dùng”, “ác nhơn ác đức” bởi “cứ năm nào cây trổ bông là dân làng đói”. Cái cây ấy, với dân làng, “không phải là cây, mà là đá” bởi không ai đốn bỏ được” và vì thế, họ chọn cách quên đỉnh núi ấy, quên sự hiện diện của những cây sầu trên đó, Đến đây, ta có thể thấy truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh sự đối chọi giữa hai hình dung – hai “thế giới truyện kể” về đỉnh núi Puvan, gắn với hai ý thức hệ, một bên là thế giới quan du lịch của tầng lớp trưởng giả trong xã hội, một biến thể của ý thức hệ thực dân trong bối cảnh đương đại và một bên là “cảm quan môi trường của người nghèo” (environmentalism of the poor)- một khái niệm liên quan đến công lý môi trường do Rob Nixon đề xuất. Với những người như Vĩnh, cái đẹp nảy nở trong điều kiện của cái khắc nghiệt (cụ thể ở đây là khí hậu) mới phi thường, đáng ngưỡng vọng, cho dù họ chỉ có thể tận hưởng nó trong khoảnh khắc ngắn ngủi. Trong khi đó, với những người dân làng, thời tiết khắc nghiệt là thứ họ phải chịu đựng trong cả thời gian dài, họ hoàn toàn không hiểu vì sao những người như Vĩnh lại khao khát nhìn ngắm những cây sầu ấy. Cái gì được coi là đẹp, trong trường hợp này, là một kiến tạo của ý thức hệ. Hai “thế giới truyện kể” của Vĩnh và Củi được cấu tạo bằng hai hình thức lời trần thuật đối lập nhau về phong cách: một bên là kiến trúc tu từ đậm tính trí thức, là sự nối dài của cảm quan lãng mạn và ý thức hệ thực dân trong hình dung về một thiên nhiên vừa cao cả, vừa thách thức và một bên là một tự sự về thiên nhiên được kể bằng ngôn ngữ bỗ bã, chân chất, không giấu sự bất mãn, bực bội đối với đỉnh nùi ác nghiệt và cả chút mỉa mai đối với khát vọng chinh phục đỉnh núi của Vĩnh.

“Sầu trên đỉnh Puvan” có thể xem là một truyện ngắn có cốt truyện đa tuyến gắn với ba nhân vật Vĩnh, Dịu – cô gái giang hồ có số phận éo le, đồng hành với Vĩnh đến núi Puvan và Củi. Điểm nhìn trần thuật được điều phối theo ba nhân vật, từ đó, người đọc có thể “nhập” vào ý thức của mỗi nhân vật và phán đoán những diễn biến trong thế giới tinh thần của họ. Vĩnh không giấu giếm sự thương hại đối với những kẻ như Dịu và Củi, không phải vì cuộc sống khốn khó, éo le của họ mà vì trong mắt anh, họ là kẻ không có đời sống tinh thần. Đối với Vĩnh, việc họ cùng anh leo đỉnh Puvan chỉ đơn thuần vì mục đích có tiền. Dịu đọc được sự căm ghét trong ánh mắt của Củi về phía Vĩnh, kẻ mong đợi những cơn nắng kéo dài để được nhìn thấy những bông sầu còn bản thân cô thì ngủ thiếp đi vì mệt khi những bông hoa bắt đầu phát sáng. Chỉ có Vĩnh “như phát điên”, “như đang mộng du” khi chứng kiến khoảnh khắc cây sầu trổ hoa. Trạng thái bị mê hoặc đầy phấn khích của Vĩnh trước sự lạ của thiên nhiên ngay sau đó chuyển hóa thành một khoảnh khắc khủng hoảng hiện sinh khi nhân vật không những thấy tất cả những gì mình từng hưởng thụ trở nên tầm thường, nhạt nhẽo mà còn nhận ra “anh biết làm sao với ngày mai”, rơi vào nỗi sợ hãi “cái ngày mai trống rỗng”. Cảm giác bất lực ở hiện tại làm nhân vật sống lại những trải nghiệm chấn thương trong quá khứ: sự bất lực của Vĩnh trước vụ chết đuối của người yêu cũ cũng như cái chết của người thân bởi bom đạn năm xưa. Trạng thái khủng hoảng ấy dẫn đến hành động tự sát của Vĩnh.

Đặt trong mối liên hệ với cái chết vị tu sĩ người Pháp được kể trong giai thoại mở đầu, cái chết của Vĩnh ở đoạn kết khiến ta có thể xem truyện ngắn này của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh motif “lời nguyền của thiên nhiên”. Những cây sầu trong truyện có thể coi là những hình tượng khơi dậy cảm thức ecophobia (nỗi sợ thiên nhiên). Thiên nhiên ở đây khi được con người chiếm lĩnh lại trở thành thứ thiên nhiên không an ủi, không khỏa lấp nỗi trống rỗng của con người. Tuy nhiên, thiết tưởng sẽ là cường điệu nếu cho rằng truyện ngắn này chỉ tái diễn một motif khá phổ biến trong các tự sự hậu thực dân, trong đó, thiên nhiên được phú cho chức năng trừng phạt những tham vọng của những kẻ thượng đẳng. Tên gọi của đỉnh núi Puvan có thể gợi liên tưởng đến chữ “phù vân”, một biểu tượng khá phổ biến trong tư tưởng phương Đông, cái Không đầy minh triết. Cảm quan về cái Không ấy đối lập với tư tưởng chiếm hữu gắn với ý thức hệ thực dân, được nối tiếp trong các diễn ngôn du lịch đương thời nơi thiên nhiên được tuyệt đối hóa thành những thứ đẹp nhất, phi thường nhất, cần phải đến trước khi chết thì đời người mới đáng giá. Nhận thức về cái Không ấy cũng giải phóng con người ra khỏi sự hẹp hòi của bản ngã, những mặc cảm và định kiến về chính mình, từ đó mà thấu cảm cho nhau.

3.2. “Một lần đối chứng” (Nguyễn Minh Châu) những bất an trong sự trình hiện loài vật

“Một lần đối chứng” của Nguyễn Minh Châu có thể được xem như một tự sự chất vấn về khả năng của văn chương trong việc biểu đạt thế giới loài vật bên ngoài những kinh nghiệm con người. Trên thực tế, khái niệm “nhân vật” vẫn chủ yếu được hiểu là hình tượng con người cụ thể được khắc họa bằng các phương tiện nghệ thuật. Các “con vật” có thể được xem là nhân vật khi chúng được xây dựng như những ẩn dụ về các tính cách hay các mối quan hệ của con người trong đời sống. Nhân hóa là phương thức quan trọng nhất để biến các con vật thành nhân vật. Phép nhân hóa, do đó, là phép tu từ được hình thành trên giả định các thực thể phi nhân loại không có khả năng tự chủ (agency).

Truyện ngắn này của Nguyễn Minh Châu, ngay từ những dòng đầu tiên, đã thể hiện sự loay hoay của người viết để làm thế nào kể về một con vật như một “nhân vật” mà không mắc kẹt trong cơ chế nhân hóa. Điều này được thể hiện trực tiếp nhất qua đoạn trữ tình ngoại đề quan trọng trong truyện: “Nghề cầm bút đã tạo nên ở trong tôi thói quen nhập thân vào kẻ khác, sống cuộc sống bên trong của mọi người, nhưng lần này, trước đời sống nội tâm của một con mèo, tôi tự dặn mình không bao giờ được quên nó là loài vật. Tôi không muốn viết một câu chuyện mà loài vật được nhân cách hóa, gán ghép cho loài vật những biểu hiện của lòng nhân ái và trí khôn mà nó không có, xóa bỏ ranh giới giữa loài vật và người, bởi tôi muốn rằng, chúng ta – các bạn đọc và tôi – nhân danh loài người, thử làm một cuộc đối chứng với loài vật- một cuộc đối chứng giữa thiện và ác, giữa lý trí, trí tuệ và bản năng mù quáng.” Nếu chỉ căn cứ vào đoạn văn mang tính luận đề này, có thể nhận xét người kể chuyện trong khi cố gắng thoát ra cơ chế của phép nhân hóa thì vẫn rơi vào bẫy của tư duy nhân tâm luận với việc đặt con người trong quan hệ nhị phân mang tính tôn ti, nơi con người được xem sở hữu các phẩm chất cao hơn con vật. Nhưng mạch trần thuật trong truyện cho phép ta nghĩ đến những cách đặt vấn đề phức tạp hơn về quan hệ thú – người. Người kể chuyện, dù sao đi nữa, vẫn phải dùng cơ chế loại suy, dùng các kinh nghiệm của con người để miêu tả con vật. Con mèo – “nhân vật” chính” trong “Một lần đối chứng” – được khắc họa như một hình tượng tha hóa, kiểu hình tượng xưa nay vốn chỉ gắn với con người. Sự “tha hóa” ở đây, từ điểm nhìn của người kể chuyện, là một quá trình “hoang hóa” của con mèo: vốn là một con mèo nhà, sau khi mắc chứng xoắn trùng đường ruột không chữa nổi, lại thêm ghẻ lở hôi hám, nó không còn được người ta nuôi nữa, phải bỏ nhà ra đi, trở thành một con mèo hoang và có khả năng còn hóa cáo, nếu nó cứ thế dấn sâu hơn vào không gian hoang dã. Sự “tha hóa” của con mèo, theo đó, được hiểu là hậu quả của việc nó bị tước khỏi không gian xã hội của con người, nơi nó được bao bọc nhưng đồng thời cũng là nơi nó bị thuần hóa. Chính từ đây, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu làm gợn lên những băn khoăn về “tha hóa” và “thuần hóa”: nếu ta coi loài vật cũng có bản thể, bản thể ấy được quyết định bởi văn hóa của loài người (“thuần hóa”), được nhìn nhận bởi điểm nhìn của con người hay là trạng thái hoang dã của nó – trạng thái nhiều khi vượt quá ngôn ngữ của con người. Người kể chuyện đã không giấu giếm sự hoang mang này của mình: với tư cách một nhà văn, anh ta đã quan sát nhiều cặp mắt của người đời nhưng ngần đấy kinh nghiệm cũng không giúp anh diễn tả nổi ánh mắt của con mèo hoang, cũng không giúp anh lý giải được những gì ở bên trong con mèo nhà. Ánh mắt loài vật gợi cho người kể chuyện nghĩ về một lịch sử xa hơn tất cả các kinh nghiệm của con người: “…tôi dõi mắt nhìn khắp bốn phía và chưa bao giờ tôi thấy phong cảnh cánh đồng quen thuộc ấy trở nên hoang dã đến thế, hoang dã đến mức thành xa lạ, và cả mặt đất mà chúng ta đang sinh sống trong phút chốc như vừa đi ngược trở về một thời kỳ hồng hoang chưa có dấu vết con người – ngay cả loài vật cũng đều là dã thú”. Sự bất an này đã phá vỡ tính toàn tri của người kể chuyện – một đặc điểm phổ biến trong các tự sự ngụ ngôn về loài vật. Nhưng xa hơn thế, dần dần người kể chuyện, trong khi vẫn nghĩ về loài người như một tồn tại cao cả, đã nghĩ về sự tương đồng giữa thú và người, rằng lịch sử của loài người cũng có những trang tăm tối, nơi con người cũng hoang dã như thú, nơi người cũng ăn thịt người. Và quá khứ ấy được người kể chuyện hình dung như “một vết thương chung của mọi người”.

Có thể nói, nỗi bất an tự sự là một chủ đề quan trọng của “Một lần đối chứng”. Đó là nỗi bất an về ngôn ngữ, về sự bất cập của các thủ pháp miêu tả về một đối tượng mà con người tưởng chừng có thể làm chủ nó bằng cách kể chuyện về nó. Từ đó, nó còn là một tự sự về nỗi bất an của việc “ con người”. Để người, con người phải làm người. Quá trình làm người này đòi hỏi con người cần đến ý niệm về Kẻ Khác/Cái Khác, cần phải trấn áp Kẻ Khác/Cái Khác để duy trì địa vị Người của mình. Nhưng cũng chính vì thế, làm Người trở thành một quá trình bấp bênh, phấp phỏng. Trong trường hợp “Một lần đối chứng”, như đã nói, một mặt, người kể chuyện vẫn đặt “Người” vào bảng giá trị cao hơn “Con” nhưng phần “Con” ấy như ma ám, sẽ luôn có thể đột nhiên quay về ám ảnh. Đây chính là một cơ chế phổ biến của chấn thương. Nguyễn Minh Châu có lẽ đã hình dung về lịch sử của sự làm người như một lịch sử mang chấn thương như thế.

*

Trở lên trên là hai trường hợp nghiên cứu cụ thể mà chúng tôi cố gắng vận dụng các luận điểm và thao tác của tự sự học sinh thái vào phân tích hai văn bản văn học Việt Nam. Chúng tôi ý thức rõ với hai trường nghiên cứu thể này, chúng tôi đang thực hành phê bình sinh thái gắn liền với việc mài sắc các khái niệm công cụ của tự sự học, cụ thể ở đây là khái niệm “thế giới truyện kể” và “tổ chức trần thuật”. Ở những thể nghiệm bước đầu này, những phân tích của chúng tôi có thể còn có chỗ cần được trao đổi. Nhưng chúng tôi tin vào triển vọng của nhánh tự sự học này khi áp dụng vào thực tiễn của văn học Việt Nam và khả năng đối thoại lý thuyết với các nhà tự sự học sinh thái trên thế giới từ việc phân tích các chất liệu của văn học Việt Nam.

TRẦN NGỌC HIẾU

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, 7-2022, trang 38-52.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Minh Châu (1999), “Một lần đối chứng” in trong Nguyễn Minh Châu – Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội, 1999.

[2] Jacques Derrida, The Animal that Therefore I Am, Marie – Louis Mallet biên soạn, New York: Fordham University Press (2008).

[3] Yuval Noah Harari (2019),Why Fiction Trumps Truth”, https://www.nytimes.com/2019/05/24/opinion/why-fiction-trumps-truth.html     (truy cập ngày 14-6-2022)

[4] Ursula K. Heise (2010) , “Afterword: Postcolonial Ecocriticism and the Question of Literature” in trong Postcolonial Green: Environmental Politics and World Narratives, Bonnie Roos và Alex Hunt (chủ biên), Charlottesville: University of Virginia Press, 2010

[5] Kyle T. Henrichs (2021), Eco-Narratology and Contemporary American Fiction, Ph.D. Dissertation, University of Wisconsin-Milwaukee.

[6] Erin James (2015), The Storyworld Accord: Econarratology and Postcolonial Narratives, Lincoln & London: University of Nebraska Press.

[7] Erin James & Eric Morel (2020), Environment and Narrative: New Directions in Econarratology, Columbus: The Ohio State University Press.

[8] Erin James (2020), “Narrative in the Anthropocene” in trong Environment and Narrative: New Directions in Econarratology, Columbus: The Ohio State University Press.

[9] Erin James (2021), “Afterword: Econarratology Then, Now, and Later”, Substance, Volume 50, Number 3, 2021 (Issue 156), trang 150.

[10] Michael Marder (2013), “What is Plant Thinking”, Klesis: revue philosophique, Vol:25, 2013, trang 126-143.

[11] Rob Nixon (2011), Slow Violence and the Environmentalism of the Poor, Harvard University Press.

[12] James Phelan, “Narrative Ethics”, https://www.lhn.uni-hamburg.de/node/108.html  (truy cập ngày 14-6-2022)

[13] David Rodriguez (2019), Spaces of Indeterminacy: Aerial Description and Environmental Imagination in 20th Century American Fiction, Ph.D Dissertation, State University of New York at Stony Brook.

[14] Nguyễn Ngọc Tư (2017), “Sầu trên đỉnh Puvan”, in trong Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (bản in lần thứ 15), NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

Christy Wampole – Bám chặt “rễ” của mình

Christy Wampole là phó giáo sư Văn học Pháp và Italia tại Đại học Princeton (Mỹ). Chuyên luận của bà  – “Rootedness: The Ramifications of a Metaphor” (University of Chicago Press, 2016) đã được trao giải thưởng của Hiệp hội nghiên cứu Ngữ văn hiên đại (MLA) cho công trình nghiên cứu đầu tay được xuất bản xuất sắc nhất. Bài dịch này của bà như  một khởi động cho cá nhân tôi để đọc cuốn sách ấy.

2006AG3569_jpg_l

 

*

Cách đây không lâu, tôi tình cờ xem một mẩu quảng cáo cho website nghiên cứu phả hệ Ancestry.com, trong đó, một người đàn ông kể lại anh ta đã luôn đinh ninh rằng cội rễ của mình là người Đức. Anh ta luôn tự hào về di sản này – thí dụ, qua việc mặc quần ống túm bằng da Lederhosen, gia nhập một vũ đoàn Đức – cho đến khi một lần kiểm tra DNA đã phát lộ thực tế bị che giấu về cội nguồn của anh ta: 52% tổ tiên của anh đến từ Scotland và Ireland – anh ta biết vậy; trong cây phả hệ gia đình nhà anh, không có người Đức nào cả. “Thế là tôi bán cái quần ống túm Lederhosen của mình để đổi lấy cái váy của người Scotland,” người đàn ông ấy kể. Và tương tự như thế, anh ta thay thế một bộ rễ của mình bằng một bộ khác, chẳng khác Tarzan đu mình từ dây leo này sang dây leo kia.

 

Nội dung quảng cáo ấy thật ngớ ngẩn khi nó giản lược vấn đề bản sắc thành một sự lựa chọn trong tủ đồ, nhưng nó cho ta thấy một điều gì đó trong cảm nhận về bản ngã mà chúng ta rút ra từ ý niệm về cội rễ của mình, điều vừa trở nên rắc rối, vừa trở nên phong phú bởi thực tại do công nghệ kiến tạo mang tính toàn cầu của thời đại này. Chúng ta có thể biết nhiều hơn bao giờ hết về những tổ tiên xa xôi. Song mục đích mà thứ tri thức này phục vụ là gì? Tại sao cội rễ lại là một ẩn dụ có sức mạnh thôi thúc ta nghĩ về mối kết nối của mình với tổ tiên, quê hương và bản thân trái đất này?

 

Con người là tạo vật tìm kiếm bối cảnh và nhu cầu cảm nhận này được đan dệt vào thế giới trong nhiều hình thức: ý thức tìm hiểu lịch sử gia đình; niềm kiêu hãnh về quê nhà, thành phố hay đất nước của mình, cũng như những đặc thù của những nơi chốn này đánh dấu tính cách, hành vi và ngôn ngữ của một người; sự hoài niệm về một quá khứ khi con người dường như có những vận mệnh chắc chắn, vai trò của giới, địa vị xã hội và “trật tự của vật” dường như rõ ràng hơn, những phạm trù được kế thừa không bị thách thức; nỗi khắc khoải mang tinh thần của truyền thống mục đồng muốn khôi phục một mối giao cảm đã mất với chính trái đất. Cội rễ là ẩn dụ linh hoạt nhất để nói về con người như một tồn tại được đặt vào bối cảnh. Nó thường trực thôi thúc ta đến mức ta quên mất nó là một ẩn dụ.

 

Gần đây, phiên bản làm lại của mini-series truyền hình “Cội rễ” (vốn dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Alex Haley (1976) và kịch bản chuyển thể được phát sóng trên ti vi nhiều lần kể từ lần đầu tiên vào năm 1977) chiếu trên kênh History, ở chừng mực nào đó, đã đem ý niệm này trở lại với ý thức của người Mỹ đương thời. Lần này, di sản văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong bối cảnh của thời buôn bán nô lệ trên nước Mỹ đã trao tiếng nói cho di sản của những người phải chịu cảnh ly tán gia đình và bị ném vào một tương lai bi kịch, không thể thay đổi được. Đây là một tự sự đặc trưng của nước Mỹ nhưng ngôn ngữ của cội rễ có thể tìm thấy trong một phạm vi rộng rãi các ngữ cảnh, xuyên qua các nền văn hóa và trong tất cả các thể loại văn chương – bao gồm thơ ca, các sáng tác về thiên nhiên và triết học phê bình sinh thái – để mô tả tình trạng tự trừu xuất mình khỏi mặt đất của con người. Làm thế nào mà một hình ảnh như thế lại có thể được sử dụng trong những bối cảnh hết sức đa dạng?

 

 

Tiểu thuyết gia người Pháp, đồng thời là cây bút tiểu luận, theo khuynh hướng siêu hình, Michel Tournier (1924-2016), tin rằng nguồn gốc của hầu hết các xung đột của con người nằm trong mối quan hệ căng thẳng giữa những người bật rễ và những người bám rễ. Ông đưa ra nhiều ví dụ trong tiểu luận “Kẻ du mục và người tĩnh tại” (“Nomad and Sedentary”) trong cuốn sách The Mirrors of Ideas (Những tấm gương của ý niệm): vụ sát hại anh em trong Sáng thế ký, bao gồm cả vụ người nông dân Cain, vốn quen môi trường tĩnh tại, giết Abel, người em chăn cừu – dân du mục của mình; sáng kiến dùng hãng rào kẽm gai ở nước Mỹ vào những năm 1800 đánh dấu sự chiếm đóng của những người khai hoang và cuộc đổ máu giữa họ với những chủ nhân thực sực của vùng đất; mối xung đột giữa người du mục Tuareg và dân định cự Saharan; và việc phát xít Đức đã  biến hình ảnh người Do Thái, vốn được tưởng tượng như là kẻ bật rễ, do đó bị xem là dân tạm lưu bất chính, thành quỷ.

 

Người ta thường cho rằng việc truy nòi giống của mình xa đến một mức nào đó sẽ cho thấy sẽ cho thấy chúng ta đều đến từ cùng một nơi. Song cội rễ nguyên thủy lại thường bị coi thường. Vì lý do nào đó, mỗi một tập thể, dù đó là một quốc gia, một nhóm sắc tộc hay một bộ lạc, có xu hướng xây dựng một hình dung đặc thù về cội nguồn của mình, phớt lờ đến ý niệm cơ bản nhất này về bản chất kết nối của con người.

 

Chúng ta đã đi đến một điểm khớp nối lạ lùng của lịch sử, nó đặt hai hệ thống thế giới vào tình thế xung đột với nhau: thứ nhất – một hệ thống xưa cũ hơn, trao đặc quyền cho những tôn ti theo trục dọc, những gì thuộc về truyền thống và bá quyền dân tộc; thứ hai, một hàng rào mắt cáo theo chiều ngang của sự chuyển giao thông tin trong môi trường điều khiển học và mạng lưới kết nối về kinh tế.

 

Có lẽ đây là điều hai triết gia người Pháp, Gilles Deleuze và Félix Guattari đã dự cảm trong lời giới thiệu cuốn sách xuất bản vào năm 1980 của họ, A Thousand Plateaus (tạm dịch Một ngàn mặt phẳng) khi họ mô tả thân rễ (rhizome), một hình tượng của những hệ thống hình thành ở chính giữa, không có khởi đầu hay kết thúc có thể thấy rõ rệt và hoạt động theo một cơ chế sinh sôi theo bề ngang, không dự đoán được. Việc tính thân rễ ở thời điểm hiện tại của chúng ta, với sự phát triển mạnh mẽ của những mạng lưới công nghệ hiện tại, trở nên rõ rệt hơn không có nghĩa là ý niệm cội rễ đã không còn sức hấp dẫn đối với con người. Trái lại, có lẽ giờ đây, hơn bất cứ lúc nào, con người có những lý do hoàn toàn hiểu được khi thấy mình xa lạ với thế giới và với người khác  – mức độ xa lạ này càng lớn thì cội rễ lại càng trở nên quý giá.

 

Ngày nay, con người trên khắp thế giới đối mặt với một loạt thế lực làm bật rễ và dẫn đến tình trạng xa lạ: khủng hoảng tị nạn của người Syria, chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo, làn sóng di dân, khuynh hướng phân rã bản sắc của Liên minh châu Âu, cuộc cạnh tranh toàn cầu, sự đồng phục hóa của chủ nghĩa tư bản và nỗi cô đơn mênh mông của thời đại số. Không phải ngẫu nhiên khi mỗi một sự kiện này đều được nhận về lời đáp, theo những cách khác nhau, của khuynh hướng bám rễ, hay, đúng hơi, một thứ tinh thần bắt rễ lại. Người ta nghe thấy trong những diễn văn của Donald Trump và Marine Le Pen một khát vọng định vị lại gốc rễ của những nền văn hóa dân tộc. Một sự tôn vinh rễ chính là động thái quan trọng của những người muốn giữ những biểu tượng, biểu hiệu của liên minh các bang miền Nam nước Mỹ, thể hiện nét đặc thù của di sản người da trắng trong không gian công cộng. Nghịch lý thay, cũng có thể nghe thấy khát vọng này trong những lời kêu gọi khôi phục những lịch sử thiểu số, những tiếng nói bị trấn áp hay danh dự của những nạn nhân lịch sử.

 

Mặc dù chủ nghĩa dân tộc ái quốc thường được hình dung như là cực đối lập của chủ nghĩa đa văn hóa vốn chú trọng đến tính đa dạng nhưng những nhân vật khởi xướng của cả hai khuynh hướng này thực tìn lại có những động cơ và mong muốn rất giống nhau. Mỗi nhóm đều hy vọng có thể bảo tồn hay khôi phục một cảm thức về gốc rễ ở một cái gì đó. Nhìn vào những mối băn khoăn lớn về việc làm thế nào khi tôn vinh cội rễ của một bộ phận nào đó, ta không làm tổn thương cội rễ của những người khác, ta sẽ thấy cuộc đấu tranh này chắc chắn còn tiếp diễn trong những thập niên tới.

 

Quốc gia dân tộc, cố nhiên, vẫn sẽ là một đơn vị quan trọng. Suốt nhiều thế kỷ, người ta đã chết, và còn tiếp tục chết, cho dân tộc của mình. Ngược lại, không ai sẽ sẵn sàng chết cho cái gọi là “toàn cầu”, như nhận định rất sâu sắc từ một người bạn của tôi. Trên thực tế, chủ nghĩa toàn cầu dường như đang thách thức chính khả thể của tính bám rễ, ít nhất là cách mà người ta từng dựa vào nhà nước- quốc gia để lấy quyền lực tượng trưng của nó. Con người sẽ bám rễ như thế nào trong tương lai nếu các mạng lưới toàn cầu thay thế các quốc gia dân tộc? Qua dòng máu? Qua ý thức hệ? Những thực hành văn hóa cùng chia sẻ? Những sự tương đồng tập thể? Liệu chúng ta có trở nên thoải mái hơn khi bám rễ vào trạng thái không cội rễ?

 

Những câu hỏi này liên quan chặt chẽ đến những sự không chắc chắn về tình trạng sức khỏe của hành tinh chúng ta. Mối quan hệ giữa ta và trái đất đang trĩu nặng âu lo, nếu không có cách gì để thay đổi nhận thức về những mối lợi ích được duy trì liên tục trong suốt Thế nhân tân cũng như những tuyên ngôn khác về nhấn mạnh vào sự đứt lìa của nhân loại với thế giới tự nhiên.

 

Trong những nỗ lực nhằm sửa chữa tình trạng đứt mạch với hành tinh, phải kể đến việc thúc đẩy những hoạt động ngoài trời cho trẻ trước tuổi đi học để khôi phục sự kết nối mang ý nghĩa trung tâm giữa trẻ em và Đất mẹ bằng việc đưa các em trở về với môi trường sống tự nhiên. Rudolf Steiner, người sáng lập quỹ giáo dục Waldorf, đã gây ấn tượng mạnh khi thường xuyên đưa ra sự tương đồng giữa trẻ em và cây cỏ trong những trang viết của mình. Trong nhãn quan của ông, cây cỏ là hình mẫu cho sự được gắn kết vào vũ trụ, một điều cần thiết đối với hạnh phúc con người, do đó, đem tới trẻ em một ví dụ sinh động về sự kháng cự lại những sức mạnh gây bật rễ vốn cấu thành tính hiện đại.

 

Xuyên suốt lịch sử, nhiều triết gia – trong đó có thể nhắc tới những tên tuổi như Montesquieu, Rousseau và Heidegger – đã tin rằng đất đai và khí hậu của một vùng đất cụ thể có thể truyền cho cư dân nơi ấy những đặc điểm nào đó ở tính khí, ngôn ngữ và các sản phẩm văn hóa – những thứ in dấu ấn sâu sắc những tác động của địa hình, khí tượng và thực vật. Chủ nghĩa vùng miền sinh học (bioregionalism) này gợi nhớ đến khái niệm terroir trong tiếng Pháp vốn được dùng trong nông nghiệp và văn hóa ẩm thực để chỉ mối quan hệ giữa hương vị và nơi chốn. Nhưng điều này liệu cũng có đúng đối với con người?

 

Một nỗi khao khát về cội rễ và sự bám rễ có thể có một tầm quan trọng mới trong hoàn cảnh mới, đầy phức tạp của toàn cầu hóa, nơi sự chắc chắn là thứ khó có được. Nhưng tôi đôi khi cứ băn khoăn liệu có phải chính lối suy nghĩ bám rễ này thực sự đã gây ra nhiều vấn đề mà chúng ta dường như không thể tìm được giải pháp hay không. Hãy nghĩ về những cội rễ của chính bạn và thử xem có bao nhiêu phần bản sắc của bạn phụ thuộc vào chúng. Có bao nhiêu thứ làm phiền bạn hay làm bạn giận dữ, theo cách nào đó có liên hệ, dù chỉ là ngoại biên theo cách nào đó, với sự bám rễ này? Nếu bỗng nhiên bạn phát hiện ra mình nhầm lẫn về gốc rễ, bạn có bán chiếc quần Lederhosen lấy một cái váy Scotland? Cảm quan về bản ngã của bạn mang tính thương thỏa đến mức nào? Cội rễ của bạn chi phối hành động của bạn đến mức nào? Sẽ ra sao nếu bạn sinh ra với cội rễ của kẻ khác, chẳng hạn, kẻ thù của bạn?

 

Mỗi cá nhân sẽ có những câu trả lời khác nhau cho những câu hỏi trên. Song le, vẫn còn gì đó mang tính phổ quát ở sự bám rễ. Tất cả mọi người đều kiếm tìm một bối cảnh mà họ có thể tự bọc mình trong đó. Nếu ta thực sự bị mắc vào mạng lưới của vô vàn kết nối, thì theo nghĩa nào đó ta đã được toại nguyện ước muốn của mình; hệ thống mạng lưới chưa từng có tiền lệ giờ đây đã làm tính toàn cầu co lại và ít nhất, nó đã đem đến khả năng cho những hình thức mới của tính liên tục và sự phát triển. Song vẫn còn phải xem liệu tính kết nối này sẽ hòa giải làm sao với những bản sắc cá nhân, với những cách thức cũ tạo ra sự gắn bó, và với niềm hoài nhớ của con người về khu vườn đầu tiên mình từng thuộc về.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Christy Wampole, “Clinging to  Our Roots”, https://www.nytimes.com/2016/05/30/opinion/clinging-to-our-roots.html

Margaret Atwood – Khóc thương cho những con mèo

 

cat

Chúng ta mủi lòng quá đỗi

trước những động vật lìa đời

Ta thường sụt sùi ủy mị

Nhưng chỉ trước những động vật có lông

chỉ những loài trông giống chúng ta

ít nhất, một chút xíu.

 

Những loài có đôi mắt lớn

nhìn về phía trước trừng trừng

Những loài có mũi nhỏ xinh

hay trông khoằm khoằm khiêm tốn.

 

Cần gì phải than cho nhện

Tiếc thương cho một con cua

Làm gì phải khóc cho giun

Cả cá, ai cần nhỏ lệ?

Chỉ hải cẩu con mới tính

Và chó. Và cú, đôi khi

Riêng mèo, luôn luôn đáng xót.

 

Có phải rằng ta nghĩ chúng

như những đứa trẻ qua đời

Hay bởi vì ta nghĩ chúng

là một phần của chúng ta,

của phần thú vật trong mình

ẩn náu ở nơi nào đó

chắc gần phía trái tim người

cái phần đáng tin và mờ nhạt

sống động mà cũng vẩn vơ

Sẵn sàng tàn nhẫn với những hình thức khác của sự sống

mà hầu như hạnh phúc suốt ngày

Và lại cũng ngu ngốc nữa?

 

(Mà tại sao dường như lúc nào cũng là mèo? Sao những con mèo chết

lại dễ mua nước mắt lố bịch thế kia?

Sao lại phải não nề sâu sắc vậy?

Phải chăng vì ta sẽ không thể nữa

nhìn được trong bóng tối nếu không mèo

Ta sẽ lạnh, nếu không có bộ lông của nó? Phải chăng vì ta đã mất

lớp da thứ hai giấu kín của mình,

thứ mà ta muốn biến thành,

khi muốn vui vầy bung xõa

khi muốn giết chết cái gì

không phải nghĩ thêm một phút,

khi ta thực tình muốn vứt

sức nặng của việc làm người,

mệt nhoài và bao buồn tẻ?)

 

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Margaret Atwood, “Mourning for Cats”, The Poetry Ireland Review, No.82 (2005), trang 14-5.

Karen Thornber – Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Phần cuối)

Phần 1

spring-wild-field-nature

Mặt khác, tuy văn hóa và những vấn đề môi trường là hai phạm trù riêng biệt nhưng chúng không phải là những hiện tượng đơn nhất và toàn cầu hóa phê bình sinh thái cũng là một nhiệm vụ cấp thiết. Chính là vì việc hệ sinh thái bị tàn phá là một hiện tượng toàn cầu nên những cách ứng xử của văn chương đối với tình trạng bị hủy hoại của môi trường thường vượt qua những nền văn hóa sản xuất và có thể xem những cách ứng xử này cùng hình thành nên các mạng lưới các chủ đề và khái niệm liên văn hóa. Xem xét những mạng lưới này sẽ là một phần của thực hành phê bình sinh thái, nếu không muốn nó đó còn là tương lai văn học. Trên thực tế, tôi cho rằng lý tưởng nhất là khi những hệ thống văn chương được nghiên cứu không chỉ trên đường ranh giới văn hóa/dân tộc mà phải còn trong những mạng lưới chủ đề và khái niệm mang tính liên văn hóa. Những mạng lưới quan trọng nhất đều hướng đến những vấn đề có ý nghĩa toàn cầu như đói nghèo, bệnh tật, tình trạng nô lê, chiến tranh và sự tàn phá môi trường. Chú ý đến những mạng lưới này, ta sẽ thấy văn học đã sẵn sàng vượt quá tất cả mọi dạng biên giới: môi trường, chính trị và quản lý, kinh tế, nhân khẩu, văn hóa và xã hội.

Những mạng lưới liên văn hóa là những mạng lưới các văn bản sáng tạo từ nhiều nền văn hóa tập trung vào những chủ đề gần gũi, cho dù tác giả của những văn bản này có chủ động tác động, gây ảnh hưởng đến văn bản của tác giả khác hay không. Werner Sollos đã chú ý đến tầm quan trọng của việc xem xét sự kiên định khi theo đuổi một đề tài:

“Bằng việc biến một đề tài cụ thể thành hằng số, sự kiên định và phạm vi của văn học có thể bắt đầu được phác họa; cùng lúc, nhiều biến số khác được mở ngỏ, mời gọi sự so sánh xuyên các thể loại và thời kỳ văn học… Điều có vẻ như mơ hồ, bí ẩn ở một tác phẩm đơn lẻ có thể được làm rõ khi tham chiếu với những văn bản văn chương và phi văn chương khác; dấu hiệu dường như mang tính cách tân cực đoan ở một văn bản hóa ra lại có thể được chia sẻ rộng rãi bởi những văn bản văn chương ra đời trước đó và những tài liệu khác; cái được ngợi ca như là sự hoàn thiện (hay như các nhà phê bình mới gọi là “sự thống nhất về đề tài”) của một văn bản đơn lẻ lại có thể nhìn nhận công bằng chúng chỉ là sự cấu hình lại những đề tài quen thuộc từ nhiều văn bản khác, có sắc thái hóa thêm ở mức độ nhất định.; những gì được xem là motif xác định trong văn chương của một nhóm sắc tộc có thể lại là đặc điểm được chia sẻ trong văn chương của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều quốc gia khác; cái được nhìn nhận như một “sự lật đổ” một thành tố truyền thống gây sửng sốt và chú ý, tự thân nó, rất có thể lại thuộc về một truyền thống nào đó.” (25-6)

Tương tự, Rob Nixon đã  rất có lý khi đề nghị thay vì tự động phong cho những văn bản văn chương xoay quanh những vấn đề môi trường như quyền sử dụng đất đai, thử vũ khí hạt nhân, ô nhiễm, tràn dầu thành những điển phạm của văn chương viết về môi trường của một dân tộc, chúng ta nên đặt những tác phẩm này trong một ngữ cảnh quốc tế và xem xét chúng từ góc nhìn so sánh. Làm như vậy, chúng ta không chỉ có thể  đa dạng hóa các điển phạm văn chương về môi trường mà còn có thể xác lập lại các hệ hình phổ biến của các điển phạm này. Khảo sát văn chương viết về dầu mỏ, chẳng hạn, có thể cho phép ta khám phá những mối quan hệ giữa các văn bản của nhiều nhà văn khác nhau như các tác giả Mỹ Edna Ferber (1885-1968), Linda Hogan (1947-), Joe Kane (1899-2002) và Upton Sinclair (1878-1968); các nhà văn Nigeria như Ken Saro-Wiwa (1941-1995), John Pepper Clark (1935-) và Tayo Olafioye; và tiểu thuyết gia viết tiếng Arab người Jordan, Abdelrah-man Munif (1933-2004).

Đi xa hơn một bước trong việc tái cấu hình những hệ hình phê bình sinh thái là việc tập trung không phải vào những mạng lưới quốc gia hay thậm chí những mạng lưới được hình thành xung quanh một vấn đề môi trường cụ thể (mạng lưới đề tài) mà thay vào đó, là những mạng lưới được hình thành xung quanh những khái niệm (mạng lưới khái niệm). Thực sự nếu chỉ mở rộng phạm vi ngôn ngữ và địa lý của các văn bản đưa vào phân tích thôi thì chưa đủ. Lĩnh vực này còn cần đến những khái niệm mới, những cách tiếp cận lý thuyết mới, đặc biệt không bị giới hạn trong phạm vi những cư dân, những thời đại cụ thể. Chẳng hạn, trong cuốn Ecocritical Explorations in Literature and Cultural Studies, Patrick Murphy đã kêu gọi phát triển một thứ “lý thuyết phê bình sinh thái xuyên quốc gia”, nghĩa là ông muốn nói đến “một lý thuyết có thể cắt ngang, tức, băng qua những giới hạn của quan điểm và biên giới quốc gia… Tránh rơi vào chủ nghĩa địa phương không có nghĩa là thực hành một thứ chủ nghĩa phổ quát; nó cũng không có nghĩa là bỏ rơi ý niệm rằng phê bình sinh thái, cho dù ở bất cứ hình thức đa dạng nào, là môt thực hành văn chương, văn hóa quan trọng, thích đáng và cần thiết, cần phải được đẩy mạnh trên phạm vi toàn thế giới” (63).

Như tôi có thảo luận trong cuốn sách của mình Ecoambiguity: Environmental Crises and  East Asian Literatures (2012), khái niệm mơ hồ sinh thái (ecoambiguity) – những tương tác phức tạp, đầy mâu thuẫn giữa con người và thế giới tự nhiên – đã cung cấp những khả năng mới, thú vị từ góc nhìn này. Các nhà phê bình sinh thái vẫn chưa có sự chú ý nhiều đến những sự mơ hồ phức tạp mà chúng ta phải gặp phải trong quá trình đối mặt với những vấn đề gây tranh cãi được phát sinh từ sự biến đổi và xuống cấp của hệ sinh thái và những mà thơ văn đã làm nổi bật sự thiếu vắng của những câu trả lời giản đơn, sự khan hiếm của những giải pháp dễ dàng đối với những vấn đề môi trường.

Mọi hành vi của con người đều làm biến đổi môi trường. Một vài biến đổi rất hữu hình và dễ giải thích, một vài biến đổi khác tuy nhìn thấy ngay được nhưng lại bị phớt lờ, bị khước từ, một số chỉ hiển hiện sau những khai quật khảo cổ hay những nghiên cứu khoa học, một số khác thì được coi là những giả thuyết trong khi vô số thứ khác vẫn còn không được biết đến. Mô tả những biến đổi xảy ra đối với môi trường từ lâu đã là một thách thức: thường phải cần đến những khái niệm mới, những thuật ngữ mới. Xác định đúng các tác nhân gây ra biến đổi cũng không dễ dàng hơn. Ngay cả những thủ phạm hiển hiện nhất cũng có thể được bao bọc trong những mạng lưới của của những kẻ chối tội (disclaimers). Tương tự, dự đoán chính xác sự thay đổi lúc nào cũng là việc khó khăn. Điều này thường là vì cái vô nhân (nonhuman) hiện ra hay được tưởng tượng như là một thứ vô tận, những dấu hiệu của tình trạng sắp rỗng kiệt dễ dàng bị thờ ơ hoặc không dễ thấy. Phức tạp hơn nữa là đánh giá thế nào là biến đổi, dù là trong quá khứ, ở hiện tại hay tương lai: biến đổi nào có thể được hiểu như là sự phá hại, sự phá hại nào có thể được bỏ qua, thậm chí nên khuyến khích? Simon Estok đã miêu tả những biến đổi của các hệ sinh thái chịu tác động từ con người như là những hiện tượng phần lớn bắt nguồn từ chứng “sợ sinh thái” (ecophobia), được hiểu như “một nỗi sợ hãi hay căm ghét thế giới tự nhiên vô cớ, phi lý, giống như những chứng sợ hãi/thù ghét vẫn đang hiện hữu rất tinh vi trong đời sống thường nhật cũng như trong văn chương chúng ta như thù ghét người đồng tính (homophobia), phân biệt chủng tộc và giới tính” (Ecocriticism and Shakespeare 4). Chứng sợ môi trường này, Estok viết, thường xuyên “thắng” những thứ được mặc định như là đối lập với nó: “biophilia”, được hiểu như là “sự gắn bó bẩm sinh về mặt cảm xúc giữa con người và các hệ thống hữu cơ”, và hơn thế, “ecophilia”, tình yêu thiên nhiên (“Lý thuyết hóa trong một không gian” 219). Chắc chắn, chính chứng “sợ sinh thái” này có thể giải thích khá nhiều cho ham muốn của con người xuyên suốt lịch sử là kiểm soát, chế ngự được (nhiều phần của) môi trường thiên nhiên và sự can dự của con người vào những vụ tàn phá thiên nhiên ở quy mô rất lớn như chặt phá rừng trên diện rộng và tiêu diệt các loài thú. Tương tự, “ecophilia” dường như lại thúc đẩy sự nâng niu, bảo vệ thiên nhiên cũng như sự điều hòa lại môi trường, bảo tồn nó và trên thực tế, chính nó đã khơi gợi cảm hứng cho bản thân lĩnh vực phê bình sinh thái.

Song như cụm từ mòn sáo “yêu thiên nhiên đến chết” cho thấy, những biến đổi môi trường không nhất thiết là những dấu hiệu dẫn đến nỗi sợ sinh thái hay sự sủng ái sinh thái tuyệt đối. Một định kiến chống lại yếu tố vô nhân giữ con người bên trong một căn hộ thành phố, tương đối tách lìa với tự nhiên chắc chắn sẽ điều chỉnh, biến đổi yếu tố vô nhân trong môi trường ít trực tiếp hơn và ít đáng kể hơn so với một thứ tình yêu thiên nhiên hối thúc người ta lái xe hàng giờ hay đi bộ đường dài hay đi ca – nô. Và ngay cả khi những biến đổi này được thúc đẩy chủ yếu bởi chứng sợ sinh thái hay say mê sinh thái thì tự thân chúng cũng thường dễ được đánh giá hơn. Những sự mơ hồ, không xác định này tràn vào những mối quan hệ và những cách diễn giải về mối quan hệ giữa con người và môi trường cho thấy sự mơ hồ sinh thái có thể còn nổi bật hơn là chỉ riêng nỗi sợ hãi sinh thái hay niềm say mê sinh thái không thôi.

Diễn ngôn văn chương thường xuyên lợi dụng sự mơ hồ sinh thái. Việc văn chương rất thường khi công nhiên bất tuân logic, sự chính xác, nhất quán cho phép nó luôn có khả năng phát hiện một cách sắc sảo những sự mơ hồ nói chung, và những sự mơ hồ bắt nguồn từ những tương tác giữa con người với các hệ sinh thái nói riêng. Đặc biệt hơn, tính đa trị (mutivalence) thuộc về bản chất của văn học cho phép nó làm nổi bật và thương thỏa (negotiate) được với sự mơ hồ vốn từ lâu đã bao trùm những mối tương tác giữa con người và môi trường, bao gồm cả những tương tác liên quan đến những tàn phá mà con người gây ra cho các hệ sinh thái. Sự mơ hồ ở đây xuất hiện chủ yếu không phải như một giá trị đạo đức hay thẩm mỹ mà như là triệu chứng của sự bất định thuộc bình diện nhận thức luận, được giải thích vừa cảm tính, vừa chính xác như một sự khuyết hụt ý thức và/hoặc như một thú nhận ngầm về sự bất lực của nhà văn và các nhân vật văn học.

Sự mơ hồ về môi trường tự biểu hiện ra theo nhiều cách đan bện với nhau, bao gồm cả những thái độ nước đôi đối với thiên nhiên; sự nhập nhằng trong nhận thức về điều kiện thực sự của yếu tố vô nhân trong môi trường, thường là hệ quả từ thông tin mơ hồ; những hành vi mâu thuẫn của con người đối với các hệ sinh thái; những chia rẽ, bất đồng trong thái độ, điều kiện và hành vi dẫn đến việc giảm nhẹ hoặc phó mặc vấn đề về sự xuống cấp của môi trường vô nhân một cách chủ động, cũng như việc làm hại, dù không chủ ý, chính những môi trường mà con người đang bảo vệ. Nghiên cứu của tôi trên hàng trăm tác phẩm văn chương thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau cho thấy những hình thức bị chồng chéo lên nhau của sự mơ hồ sinh thái có thể được xem là đặc điểm cơ bản của những văn bản nghệ thuật bàn về mối quan hệ giữa con người và thế giới vô nhân. Thú vị hơn cả là cách mà những văn bản này diễn đạt những sự hoán vị và ngụ ý về những sự bất đồng, chia rẽ theo trục dọc thời gian và trục ngang không gian vật lý và xã hội – nói khác đi, là cách chúng thương thỏa với những sự mơ hồ trong cái gọi là chủ nghĩa quốc tế sinh thái (ecocosmopolitanism).

Phần lớn văn chương chú ý đến những mối nguy hại đối với các hệ sinh thái, trong đó có nhiều văn bản được khảo sát trong tuyển tập này, đều mang tinh thần thế giới về môi trường, hoặc trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến sự thoái hóa của môi trường sinh thái vượt khỏi một thời gian hay nơi chốn đơn nhất. Việc phân tích cách các văn bản này tự đặt mình trực diện với những mối bận tâm về môi trường thuộc nhiều kiểu và nhiều phạm vi khác nhau, cách chúng cùng lúc vừa mở ra vừa đóng lại trước thế giới rộng lớn hơn có thể có những đóng góp quan trọng cho nhận thức của chúng ta về mối quan hệ giữa cái địa phương, cái vùng miền và cái toàn cầu.

Patrick Hayden đã nói về “công dân môi trường toàn cầu”:

“Công dân môi trường toàn cầu có thể được xem như một thành tố của một quan niệm bao trùm hơn mang tinh thần thế giới về công dân toàn cầu… Ý niệm công dân môi trường toàn cầu nảy sinh từ mối quan tâm đạo đức về những vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế gắn với môi trường và sự phụ thuộc của nhân tính vào nó; ý niệm này cũng hình thành từ một nhận thức về những trách nhiệm toàn cầu của chúng ta về điều kiện sống của con người vì mối liên kết của nhân tính với môi trường. Do đó, công dân môi trường toàn cầu quan tâm đến những điều tốt chung cho cộng đồng nhân loại và có những sự nhấn mạnh cụ thể vào thực tế tất cả chúng ta đều là các công dân vừa thuộc về những môi trường địa phương đồng thời vừa thuộc về một môi trường toàn cầu duy nhất.” (147)

Tương tự, Ursula Heise đã đặt ra thuật ngữ “chủ nghĩa thế giới sinh thái” (ecocosmopolitan) như là:

“Một nỗ lực nhằm hình dung các cá nhân và nhóm như là bộ phận của những “cộng đồng tưởng tượng” trên hành tinh của cả con người và các thành phần vô nhân… Phê bình sinh thái mới chỉ bắt đầu khám phá những phương tiện văn hóa mà nhờ đó những mối ràng buộc đối với thế giới tự nhiên được tạo ra và duy trì và cách mà sự hình dung về những mối ràng buộc này thúc đẩy hay cản trở những hình thức can dự mang tính vùng miền, quốc gia, xuyên quốc gia như thế nào… Mục đích của một dự phóng phê bình mang tinh thần “chủ nghĩa thế giới sinh thái”… là điều tra những phương tiện nào mà các cá nhân, các nhóm trong những ngữ cảnh văn hóa cụ thể nhờ đó có thể hình dung được chính bản thân họ trong hình thức cụ thể tương ứng như là bộ phận của khối sinh quyển toàn cầu, hay nhờ phương tiện nào mà họ có thể làm được như vậy” (Sense of Place, 61-2).

Cách sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa thế giới sinh thái” của tôi có phần giống với  thuật ngữ của Heise, có sự kế thừa cả quan niệm của Hayden về công dân môi trường sinh thái nhưng tôi lại chú ý đến những hình dung của con người về những mối ràng buộc và sự can dự vào thế giới tự nhiên ít hơn là tình trạng của bản thân thế giới tự nhiên, đặc biệt là những phạm vi của sự tàn phá môi trường mà một văn bản có thể nắm bắt, thể hiện được một cách vừa trực tiếp vừa hàm ẩn.

Những nguyên nhân và hình thái của sự xuống cấp sinh thái được thể hiện trong các tác phẩm văn chương hết sức đa dạng: phạm vi các giống loài chịu ảnh hưởng, gồm cả sự hiện hữu hoặc vắng mặt những nỗi đau khổ cao quý của con người; dung lượng văn bản dành để thảo luận trực tiếp về thể trạng hay những tai họa môi trường. Tương tự, văn chương cũng bàn về những sự phá hủy môi trường sinh thái ở những phạm vi không gian và thời gian khác nhau, gồm cả cái được coi là sự phá hại trong hoàn cảnh xác định – những tổn thương ngắn hạn đối với các hệ sinh thái tương đối nhỏ, khu biệt; sự phá hại trên diện rộng không gian – mức độ phá hại bị giới hạn trong phạm vi thời gian song lại ảnh hưởng đến hệ sinh thái lớn hơn hoặc nhiều hệ sinh thái; sự phá hại trên diện rộng thời gian – sự xuống cấp của môi trường diễn ra trong phạm vi thời gian lớn hơn phạm vi không gian; sự phá hại bao trùm – sự xuống cấp của môi trường vừa kéo dài về thời gian, vừa trải rộng trong không gian.

Các văn bản mang tinh thần chủ nghĩa thế giới sinh thái là những văn bản nói đến một cách bao quát về tình trạng môi trường xuống cấp trên một phạm vi mang tính toàn cầu tiềm tàng. Đó là những bài thơ hay những văn bản ngắn thường xuyên nói đến việc loài người hủy hoại mọi thứ từ những vùng rừng nhỏ đến toàn bộ hành tinh. Những biểu hiện phức tạp hơn về chủ nghĩa thế giới sinh thái có thể thấy được trong các tác phẩm văn chương trực diện miêu tả những kiểu và trường hợp đặc thù của tình trạng môi trường bị hủy hoại, bất kể quy mô, nghĩa là nó có thể bao trùm những vấn đề môi trường ở cấp vĩ mô hơn mà cũng có thể ở cấp độ nhỏ hơn. Thí dụ, ngay một bài thơ ngắn chú ý đến một con thú đơn độc ốm yếu cũng có thể nói thẳng ra được sự đau đớn của con thú này là hệ quả của sự phá rừng trên quy mô lớn. Tương tự, một tiểu thuyết dài về biến đổi khí hậu hay sự xóa sổ nhiều giống loài trên trái đất lại cũng có thể mô tả chi tiết về điều kiện của những nơi chốn cụ thể. Những văn bản mang tinh thần thế giới sinh thái khác lại miêu tả những vấn đề ở một không gian mà đó cũng là vấn đề tương tự ở những không gian khác: một tác phẩm nói về một cánh đồng bị ô nhiễm cũng có thể nói lên sự giống nhau giữa sự tàn phá trên mảnh đất này và những mối nguy hại đối với môi trường diễn ra ở một mảnh đất khác cách xa đó. Nhiều văn bản tập trung vào những biến cố xảy ra tại một nơi chốn và thời gian cụ thể vừa song song với những điều kiện ở những nơi chốn và thời gian khác, vừa nói về những trường hợp này như thể đấy là bộ phận của những mô hình lớn hơn của tình trạng suy thoái môi trường hoặc như thể chúng bao hàm trong mình những vấn đề nhỏ hơn.

Mặc dù cách xử lý của văn chương về đề tài mối quan hệ của con người với những môi trường bị phá hại thường phô diễn những mối ràng buộc chặt chẽ mang tính địa phương nhưng nhìn chung diễn ngôn văn chương về đề tài này phần nào đó lại ít mang tính văn hóa, tính dân tộc, hay thậm chí tính vùng miền hơn là về các đề tài khác, trong đó gồm cả sự tôn vinh thiên nhiên. Điều này thực sự không ngạc nhiên vì toàn cầu hóa môi trường là hình thức lâu đời nhất của toàn cầu hóa, còn có trước toàn cầu hóa kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Bên cạnh đó, nhiều nhà văn viết về sự tàn phá môi trường lại có thời gian đáng kể ở nước ngoài và đã chứng kiến sự xuống cấp của môi trường ở nhiều địa điểm, nơi chốn. Nếu như toàn cầu hóa sinh thái được cho rằng có thể làm cho văn chương mở rộng đề tài môi trường một cách thuận lợi thì toàn cầu hóa văn chương cũng có thể làm gia tăng sự chú ý đối với những vấn đề môi trường.

Tinh thần chủ nghĩa thế giới sinh thái phần lớn được thể hiện hàm ẩn, nó khơi dậy những câu hỏi về thực trạng và khả năng của môi trường. Thực trạng của môi trường quy chiếu đến những dấu hiệu khủng hoảng sinh thái mà một văn bản thể hiện trực tiếp hoặc gợi dẫn rõ ràng. Khả năng của môi trường lại biểu thị những tác hại do con người gây nên đối với moi trường dưới dạng những ẩn ý trừu tượng hơn. Đó có thể là một sự hủy hoại môi trường mà nhà văn muốn biểu đạt nhưng theo một cách không hoàn toàn tường minh; sự phán đoán của nhà văn về khả năng của môi trường theo hình thức này có thể dựa trên tri thức của nhà văn, hoặc ít nhất dựa trên những gì mà người ta có thể biết được về trí thức của nhà văn về những vấn đề môi trường. Phổ biến hơn, khả năng của môi trường quy chiếu đến cái có thể diễn dịch hoặc ngoại suy từ một tác phẩm sáng tạo, bất kể điều này có nằm trong chủ ý của tác giả hoặc có liên quan gì những hoàn cảnh xã hội và môi trường đặc thù xung quanh việc hình thành văn bản ấy. Nhiều tác phẩm văn chương tập trung vào những sự tàn phá môi trường trong phạm vi xác định có thể được đọc như sự thu nhỏ của những sự tàn phá trên diện rộng không gian, thời gian hay thậm chí cả sự tàn phá bao trùm. Do đó, trong một vài trường hợp, một bài thơ ngắn về một sinh vật đau ốm, không hàm chứa bất cứ quy chiếu nào đến những con thú khác cũng vẫn có thể được đọc như là cách nói về tình trạng tuyệt vọng của một giống loài hay nhiều giống loài ở nhiều không gian. Tương tự như thế, trong một số trường hợp, một truyện ngắn về những gì mà các sinh vật phải chịu đựng trên một cánh đồng được phun thuốc trừ sâu, với những thay đổi chẳng mấy đáng kể ở tên gọi nơi chốn, nhân vật, tên chủng loại sinh vật, cũng có thể gia tăng nhận thức về tính trạng lâm nguy của các loài động vật ở những không gian khác. Nói tóm lại, các văn bản có thể mang tinh thần thế giới sinh thái mà không cần phải miêu tả trực diện sự xuống cấp của môi trường vượt quá phạm vi thời gian-không gian đơn nhất.

Thường khó xác định liệu phán đoán về những khả năng của môi trường ở  một văn bản có thể đi trước thực trạng của môi trường hay không, nhất là khi-đúng hơn, gần như bao giờ cũng thế -những khả năng là mơ hồ. Thực ra, ngay cả thứ văn học được viết từ tiêu điểm “vùng sinh thái” (bioregionalist) cũng hiếm khi xác định chính xác phạm vi không gian-thời gian của sự xuống cấp môi trường mà nó miêu tả. Song phạm vi của sự khủng hoảng môi trường mà hành tinh của chúng ta đang phải đối mặt đòi hỏi chúng ta cần phải quan sát thật kỹ những khả năng này. Điều này không có nghĩa là phủ nhận những đặc thù của tình trạng môi trường lâm nguy ở những địa điểm cá biệt hay việc cần phải hiểu những hoàn cảnh cụ thể của quá trình sản xuất văn hóa. Trường hợp sau đặc biệt quan trọng trong trường hợp nhà văn tích cực tham gia vào các phong trào môi trường hay chính trị khác, hoặc ở nơi văn bản tập trung vào những mối bận tâm về sinh thái như là hiện tượng cá biệt một nơi chốn. Hơn nữa, nền tảng và hoàn cảnh của chính độc giả cũng có thể ảnh hưởng đến cách mà những khả năng của văn bản được nắm bắt. Tuy nhiên, những nhà phân tích văn chương về đề tài khủng hoảng môi trường phải xem xét nghiêm túc các thực trạng, khả năng, và vô số vị trí ở giữa. Các văn bản văn chương, với tư cách là những sản phẩm văn hóa hữu hình, đứng bên trong, chứ không phải bên ngoài các hệ sinh thái từ quy mô địa phương đến toàn cầu, điều này cho phép chúng có đưa ra những bình luận giàu hàm lượng thông tin về nhiều môi trường khác nhau.

Những quan điểm từ lĩnh vực nghiên cứu văn học thế giới có thể đặc biệt hữu ích đối với nghiên cứu văn học và môi trường. David Damrosch đã định nghĩa văn học thế giới như:

“tất cả các tác phẩm văn chương được lưu hành vượt khỏi phạm vi nền văn hóa nguồn hoặc dưới hình thức bản dịch hoặc bằng ngôn ngữ gốc… một tác phẩm chỉ có đời sống hiệu ứng (effective) như là văn học thế giới khi nào, và ở bất cứ chỗ nào, nó là hiện diện chủ động của một hệ thống văn chương vượt khỏi phạm vi của nền văn hóa nguồn… Văn học thế giới… không phải một tập hợp điển phạm các văn bản mà là một cách đọc: một hình thức tương tác vô tư với thế giới, vượt xa khỏi giới hạn của thời gian và nơi chống của chính mình… điều này giúp chúng ta có thể hiểu được những cách mà theo đó, một tác phẩm văn chương muốn vươn đến xa hơn, hoặc muốn lệch khỏi xuất phát điểm khởi nguồn của nó.” (4,281,300)

Nhiều văn bản đề cập đến tình trạng báo động của môi trường đã được dịch sang ít nhất một thứ tiếng nhưng hầu như chưa có mấy tác phẩn có một sự hiện diện tích cực trong hệ thống văn chương rộng hơn nền văn hóa nguồn. Do vậy, nhìn chung chúng không được diễn giải như là những tác phẩm văn học thế giới. Mặt khác, hầu như tất cả những văn bản này đều nhấn mạnh đến những mối quan tâm không chỉ giới hạn trong những nền văn hóa nguồn và mang tinh thần chủ nghĩ thế giới sinh thái, hoặc trực tiếp hoặc ngầm ẩn. Có thể xem xét lại nhiều giá trị ở những văn bản này bằng cách đọc chúng như là bộ phận của văn học thế giới, nghĩa là xem xét cách chúng có thể vượt khỏi điểm khởi nguồn của mình như thế nào.

Những khủng hoảng sinh sôi trên khắp thế giới đã đặt ra một mệnh lệnh đối với nghiên cứu văn học, đòi hỏi không chỉ mở rộng phạm vi đề tài mà còn cần thiết phải hình thành một ý thức nhạy cảm hơn, sắc bén hơn về trạng thái sinh tồn của hành tinh chúng ta. Một trong những phương tiện hiệu quả nhất để tăng cường ý thức này trong nghiên cứu văn chương là hãy đọc, tiếp cận các văn bản như là những thành tố của văn học thế giới, ngay cả khi đó có thể không phải là văn học thế giới, hiểu theo quy phạm chặt chẽ, nhưng chúng lại tương tác với những vấn đề quan trọng rộng hơn phạm vi của nền văn hóa đơn nhất. (Những) Thế giới mà các văn bản này miêu tả, về mặt địa lý, vật chất, có thể nằm ngoài nơi chốn và thời gian của chúng ta, nhưng mối quan tâm mà chúng hướng đến thì lại rất gần với chính quê hương, xứ sở của ta.

Khái niệm “ý thức hành tinh” (planetary consciousness) một thời gian rất dài được kết nối với chủ nghĩa đế quốc. Bàn về lịch sử tự nhiên ở châu Âu thế kỷ XVIII, Mary Louise Pratt đã gắn “ý thức hành tinh” của thời đại này với sự đổ vỡ (disruption), sự sắp đặt lại trật tự (reordering), chủ nghĩa đế quốc và châu Âu trung tâm luận: “Cách mà người châu Âu thế kỷ XVIII hệ thống hóa thế giới tự nhiên như một dự phóng xây dựng tri thức châu Âu…đã tạo nên một thứ ý thức hành tinh mang tinh thần lấy châu Âu làm trung tâm. Thứ ý thức ấy bao quát bề mặt của trái đất, xác định các loài thực vật, động vật bằng những thuật ngữ gợi liên tưởng thị giác, quy gộp và tập hợp lại các loài này trong một trật tự hữu hạn, có tình chất tổng thể của quá trình hình thành châu Âu.” (30-1, 37). Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, văn hóa, giống loài, vốn ấn định tính chất thượng đẳng của một cộng đồng người hay một nhóm người đặc biệt, chính là cơ sở cho sự kiếm tìm hình thức cho cái “ý thức hành tinh” này. Song nếu như việc nhấn mạnh “ý thức hành tinh”có thể cũng cố những thứ chủ nghĩa địa phương, dân tộc, chủng tộc hay những thứ chủ nghĩa trung tâm luận khác thì nó cũng có thể được sử dụng để đối lập với các định kiến. Như Nelson Maldono Torres đã nhận định: “Chống lại một thứ ‘ý thức hành tinh’ được nhìn theo con mắt của châu Âu đế quốc vốn đã trở thành công cụ cho các cuộc phiêu lưu bành trướng thuộc địa của giai cấp tư sản, Dussel đã khai triển một một quan điểm khác về ‘hành tinh’… Thay vì phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc, quan điểm ‘hành tinh’ này hướng đến việc vượt qua chủ nghĩa châu Âu trung tâm luận” (210). Đây chính xác là là mục đích của một số hình dung đương đại về ý thức hành tinh.

Trong thập niên vừa qua, những nhà phê bình như Gayatri Chakravtorty Spivak và Wai Chee Dimock đã thôi thúc các học giả thuộc cả chuyên ngành văn học so sánh lẫn văn học dân tộc hướng đến một cách tiếp cận mang ý thức hành tinh. Nói một cách đơn giản nhất, với điều này, họ muốn gia tăng phạm vi cũng như nền tảng văn hóa của nghiên cứu văn học. Dimock đề nghị đọc văn học Mỹ như một tập hợp con, chứ dứt khoát không phải như một thực thể có sức ôm chứa, bao trùm lớn nhất, của “một tổng số vô hạn những của những tập hợp (aggregates) lớn hơn được xác định theo độ dài thời gian (durations) và sự mở rộng (extensions) của bản thân con người với tư cách một giống loài, tạo thành một nếp gấp, giữa nhiều nếp gấp khác, trong văn chương Mỹ”. (5, 10-1). Quan điểm mà bà biện hộ có thể dễ dàng áp dụng, có sự điều chỉnh nhất định, với bất kỳ nền văn học nào khác, ở cấp dân tộc hay khu vực, v.v…Spivak đã đưa ra một lập luận có phần gây tranh cãi rằng:

“như là những tính tập thể  được giả định được băng qua các biên giới được bảo vệ của một thứ văn học so sánh, được bổ túc thêm bởi Nghiên cứu vùng, những nền văn học này cố gắng hình dung, tưởng tượng về chính mình như thể chúng là một hành tinh văn học hơn là nền văn học của châu lục (continental), toàn cầu (global) hay thế giới (worldly)… Để thay cho một cách đọc văn học thế giới qua dịch thuật theo kiểu bản đồ hàm ẩn trong đó một sự ngạo mạn… tôi muốn đề nghị một lựa chọn khác, hãy tiếp cận văn học thế giới từ ý thức hành tinh”. (72-3)

Những liên tưởng về hành tinh đã làm phong phú nghiên cứu văn học cũng như chúng làm giàu có hơn hiểu biết của con người nói chung. Những quan niệm gần đây về chủ nghĩa nhân văn hành tinh và ý thức hành tinh nhấn mạnh đến việc cần phải phân tích các diễn ngôn văn chương, cũng như những diễn ngôn sáng tạo khác, về những vấn đề cấp thiết liên quan đến thực trạng hay mới chỉ là nguy cơ tiềm tàng của liên vùng và hành tinh. Paul Gilroy đã nói đến tầm quan trọng của việc “hình thành một thứ chủ nghĩa có khả năng hiểu được tính phổ quát của sự tổn thương ở cấp độ yếu  tố bởi những sai lầm mà chúng ta gây ra cho nhau”, cũng như “một ý thức hành tinh về bi kịch, sự mong manhm ngắn ngủi của sự hiện sinh không thể phân chia được của loài người”. Tương tự, khi thảo luận về giá trị của chấp nhận một hệ hình nghiên cứu mang ý thức hành tinh rõ hơn, Dimock đưa ra vấn đề về tình trạng nô lệ – vấn đề, theo bà, mặc dù thường được nghiên cứu trong phạm vi địa lý và niên biểu nước Mỹ, nhưng đã trở thành một hiện tượng thực sự không nhận ra được khi nó diễn ra bên ngoài những tọa độ không gian-thời gian này.” (Planet and America, 6). Tuy ở đây Dimock nói về việc mở rộng nền tảng chứng cứ cho nghiên cứu lịch sử nhưng phê bình văn học cũng nên đi theo con đường tương tự, nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, chẳng hạn, mạng lưới liên văn hóa của tình trạng nô lệ và sự lạm dụng các quyền con người khác. Một đường hướng phê bình như vậy sẽ phân tích các tác phẩm văn chương như sản phẩm vừa thuộc về thời gian-không gian đặc thù vừa thuộc về những kinh nghiệm mà con người cùng chia sẻ. Nhưng đáng nói là, điều thậm chí quan trọng hơn cả việc tăng cường ý thức hành tinh trong nghiên cứu văn học là việc nhận diện và phân tích những mạng lưới liên văn hóa thương lượng quan hệ giữa con người và môi trường, đặc biệt là những quan hệ liên đới đến sự xuống cấp của hệ sinh thái.

Cách tiếp cận này là cấp thiết vì một số lý do. Thứ nhất, một định hướng như thế phản chiếu chính xác hơn khách thể mà tên gọi của nó bao quát toàn bộ sự sống: “hành tinh”, chứ không phải “hoàn cầu” hay “thế giới”, ngay lập tức vừa chỉ Trái Đất của chúng ta, nói đến cả sự đa dạng và tương tác của các sinh thể sống – nhìn thấy được và không nhìn thấy được, con người và vô nhân, sinh thể và vô sinh thể, cái vĩ mô và cái vi mô ở kích thước và tác động – vốn hình thành, cư trú và chuyển di trên khắp địa cầu này. Thứ hai, như những nhà hoạt động vì công bằng môi trường và các học giả nữ quyền luận sinh thái gần đây cho thấy việc xem xét các tác phẩm văn chương nghệ thuật diễn tả mối tương tác giữa con người và môi trường, trên thực tế, đào sâu sự hiểu biết không chỉ về mối quan hệ này mà còn về mối quan hệ giữa con người với con người. Thứ ba, và cũng quan trọng hơn cả, những nghiên cứu văn chương có thể giúp chúng ta phát triển sâu hơn, nhiều sắc thái hơn những hiểu biết về mối tiếp xúc giữa con người và những yếu tố vô nhân; những hiểu biết này lại có tiềm năng thúc đẩy nhanh hơn những thay đổi văn hóa cần thiết cho việc điều hòa lại những hệ sinh thái bị tàn phá, hạn chế nhiều hơn tình trạng xuống cấp của môi trường và bảo vệ sức khỏe của con người.

Tuy nhiên, cuối cùng việc tăng cường ý thức hành tinh về văn học đi xa hơn việc mở rộng không gian địa lý của nghiên cứu văn học và xa hơn cả việc dịch chuyển đối tượng nghiên cứu từ mối quan hệ giữa con người với con người đến việc bao hàm cả trong đó mối quan hệ giữa con người và môi trường (tức là mạng lưới diễn ngôn về những mối quan hệ giữa con người và cái vô nhân). Nó cũng bao hàm cả việc đánh giá tinh thần chủ nghĩa thế giới sinh thái của những mối tương tác này: xem xét từng tác phẩm văn chương đơn lẻ, ngay cả những tác phẩm dường như chỉ tập trung thể hiện những mối quan tâm môi trường mang tính địa phương, cũng có thể làm tăng thêm ý thức về những hiện tượng văn hóa xuyên quốc gia và xuyên văn hóa. Tương tự, nó cũng đòi hỏi chúng ta đánh gia cách ứng xử của văn chương về những hiện tượng diễn ra trên quy mô rộng có thể gia tăng nhận thức về những mối quan tâm ở phạm vi nhỏ hơn như thế nào.

Khủng hoảng sinh thái xuất hiện khắp nơi trên hành tinh của chúng ta, với phạm vi thời gian và không gian địa lý vướt xa hơn bất cứ một mối quan tâm cấp thiết mang tính toàn cầu nào. Hơn bất kỳ hiện tượng nào khác, khủng hoảng môi trường hối thúc chúng ta phải suy nghĩ lại về sự sống của chúng ta, những trách nhiệm của chúng ta từ hệ quy chiếu hành tinh. Thông qua những phân tích xuyên văn hóa về các tác phẩm văn chương trực diện viết về sự tàn phá môi trường vô nhân, chúng ta có thể có có được những cái nhìn thấu thị mới mẻ vào những thách thức lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt, không cần quan tâm đến sự chuyên biệt hóa nào: đâu là cách tốt nhất để tổng hợp và phân tách những động lực (dynamics) của cái cục bộ, cái toàn cầu và mọi thứ ở giữa; đâu là cách tốt nhất để tổng hợp và phân tách những khoảng khắc trong thời gian của người từ thời gian của hành tinh và mọi thứ ở giữa?

Văn học hiếm khi nào đem đến những phương thuốc phổ biến, nó lại càng ít đưa ra được những chính sách để ngăn ngừa những nguy cơ trong tương lai hay khắc phục sự tàn phá đang diễn ra ở các cảnh quan; trong một số trường hợp, bản thân văn chương thậm chí có thể còn tiếp tay cho những hành vi phá hại môi trường mà nó tỏ ra xót xa. Nhưng việc đề ra các chính sách, ở đây chưa bàn đến việc thực thi, đòi hỏi những thay đổi      trong ý thức – tức là trong hình dung, hiểu biết và kỳ vọng – đó là những thứ mà văn học, nếu được đặt đúng chỗ, có khả năng tác động rất lớn. Chắc chắn, những tụng ca về các kỳ quan thiên nhiên, ngay cả những trường hợp không đề cập gì đến những môi trường bị tổn thương, cũng có khả năng làm lay động người đọc sâu sắc, từ đó, thúc đẩy ý thức về môi trường. Bên cạnh đó, việc tôn vinh thiên nhiên, ngay cả trong những tác phẩm được xuất bản ở những xã hội đang phải chịu đựng tình trạng khủng hoảng môi trường nghiêm trọng cũng không phải là những sản phẩm tất yếu của sự không biết hay của ham muốn có vẻ như tích cực nhằm che giấu những hệ sinh thái bị phá hoại. Thay vào đó, đôi khi chúng là sự phản đối những thay đổi đang xảy ra trong thế giới kinh nghiệm. Tuy nhiên, một cách trực diện hơn, diễn ngôn văn chương về ô nhiễm, khủng hoảng môi trường – dù là phản ánh thực trạng hay tưởng tượng về những viễn cảnh có thể/không thể xảy ra đi nữa, dù được lồng vào bên trong những hình thức ca tụng, tôn vinh tự nhiên hay trở thành trung tâm của một văn bản – đều nhấn mạnh rất rõ ràng những thách thức trực tiếp mà các hệ sinh thái thuộc đủ mọi loại phải đương đầu. Tác phẩm văn chương trực tiếp đề cập đến sự tàn phá môi trường cũng có thể cho thấy những khó khăn trong việc xác định chính xác các nguyên nhân dẫn đến thực trạng này cũng như gợi ý những giải pháp hiệu quả. Và ở những mức độ khác nhau, những tác phẩm này đã đề cập đến một trong những sự mơ hồ lớn nhất của những biến đổi do con người gây ra đối với cảnh quan môi trường: đến mức độ nào thì những biến đổi này thật sự đáng lưu tâm, về mặt đạo đức cũng như về mặt sinh thái, qua không gian và thời gian? Văn chương chú ý phát hiện, miêu tả những hệ sinh thái bị đe dọa để từ đó nêu bật sự cấp thiết của một nhận thức tốt hơn về những sự phức tạp bao trùm, xuyên thấm những mối quan hệ giữa con người và môi trường, bao hàm cả những cố gắng của con ngời nhằm bảo vệ hay khắc phục các yếu tố vô nhân. Thứ văn chương này cũng trực tiếp nói đến những hậu quả khi không thể làm được điều đó. Nguy cơ lớn ở đây không phải là sự mất đi cái tự nhiên hoang dã phủ hào quang được tưởng tưởng tượng mà đáng kể hơn nữa, chính là sự mất mát sự sống thật sự của con người và của cả những yếu tố vô nhân.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: KarenThornber, “Ecocritical and Literary Futures” in East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment), ed. by Simon C. Estok and Won-Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan (2013).

Karen Thornber – Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Phần 1)

Ta hãy bắt đầu từ một dự án khu đô thị là điểm nóng của những mâu thuẫn chính trị xã hội trong thời gian vừa qua – dự án EcoPark ở Văn Giang (Hưng Yên). Tên gọi của dự  án đã hàm ẩn trong đó một môi trường sống lý tưởng, nơi con người hòa hợp với thiên nhiên, hưởng bầu không khí trong lành, thanh bình, xa lánh những ồn ào, bụi bặm của đô thị. Người thực hiện dự án này đã thỏa mãn cái tâm lý muốn được kết nối lại với thiên nhiên của những cư dân đô thị bằng cách bứng cả những cây cổ thụ từ rừng về trồng để tạo ra một không gian xanh thoáng đáng, hiền hòa. Nhưng môt khu đô thị thân thiên với môi trường như thế, thực chất, lại được hình thành trên sự bất công về môi trường (ở đây, tạm thời chưa nói đến viêc tranh cháp đất đai): nó chỉ dành cho một bộ phận người dân có thu nhập cao trong khi đó lại đẩy những người nông dân vốn găn bó vơi ruộng đồng bị cắt lìa với không gian quen thuộc nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của họ; cảnh quan đẹp ơ đây lại được tạo nên từ kết quả sự tàn phá một cảnh quan khác.

Nhìn rộng ra, vấn đề bất công môi trường không phải là một hiện tượng cá biệt, mang tính địa phương. Nó còn là vấn đề mà nhiều nước bị xếp vào nhóm thế giới thứ ba phải chấp nhận để trả giá cho sự phát triển kinh tế. Một hiện tượng như hãng Vedan xả nước thải ô nhiễm, có chứa chất gây ung thư ra sông Thị Vải cho thấy vấn đề môi trường không tồn tại biệt lập mà bao hàm trong/liên đới đến hàng loạt quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa phức tạp diễn ra trên phạm vi toàn cầu.

Cách con người tương tác với môi trường chịu sự chi phối mạnh mẽ của những ý niệm/diễn ngôn về môi trường. Phân tích các diễn ngôn này nằm trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất của phê bình sinh thái – một khuynh hướng lý thuyết phê bình đang phát triển rất năng động hiện nay, đặc biệt ở Anh-Mỹ. Đây là một lý thuyết liên ngành, kết hợp giữa văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh báo về môi trường. Nó có thể không đưa ra được những giải pháp trực tiếp cho những vấn đề môi trường nghiêm trọng hiện nay nhưng bằng cách phân tích các diễn ngôn về thiên nhiên và môi trường, nó có thể tác động đến tâm thức con người, điều chỉnh nhận thức, khắc phục những ngộ nhận về môi trường, để từ đó, có những hành động đúng đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền vững và xa hơn, đồng thời là quan trọng hơn cả, là hình thành một chủ nghĩa nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của thiên nhiên để đối thoại với nó.

Karen Thornber là một học giả mới nổi trong lĩnh vực phê bình sinh thái. Bà đã sang VN thuyết giảng về  lý thuyết này. Công trình của bà Ecoambiguity: Environmental Crises and East Asian Literatures (2012) [Sự mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan)] vừa được Hiệp hội nghiên cứu văn học so sánh Hoa Kỳ trao giải Honorable Mention Wellek Prize 2013.  Đóng góp lớn nhất của công trinh này là Thornber  đã sáng tạo đươc một khái niệm – ecoambiguity-như một khái niệm phản ánh đặc trưng phổ biến của diễn ngôn về môi trường, thiên nhiên trong các nền văn hóa Đông Á, từ đó dẫn đến những ngộ nhận không nhỏ trong ý thức và cách ứng xử đối với môi trường của con người trong khu vực. Những ngộ nhận này, đến lượt chúng, lại dẫn đến những bất công môi trường. Karen Thornber cũng đề nghị  phê bình sinh thái cần thiết phải đi theo hướng tiếp cận so sánh trong bối cảnh các vấn đề  môi trường không phải là vấn đề mang tinh địa phương nữa. Thậm chí, như trong bài viết mà tôi dịch dưới đây, bà còn cho rằng ý thức hành tinh (planet consciousness) cần phải được thấm đẫm vào trong nghiên cứu phê bình sinh thái. Theo tôi hiểu,  ý niệm hành tinh được Karen Thornber đề xuất thay cho những từ xác định không gian địa lý như transnation, globe, world… không phải chỉ vì đó là ý niệm không gian rộng nhất, bao trùm cả sự sống con người và cả sự sống của các thành tố vô nhân (nonhuman) mà còn vì nó đó là ý niệm không gian không bị phân cắt, không bị chiếm dụng để tạo ra những sự bất đối xứng về không gian, từ đó, dẫn đến bất bình đẳng về văn hóa và môi trường.  Chẳng hạn, khái niệm thế giới vẫn đang bị chia thành thế giới những nước phát triển, đang phát triển và chậm phát triển, hay khái niệm toàn cầu hóa vẫ n gợi liên tưởng đến quá trình đồng hóa của những “đế quốc mới” trong thời đại mới.  Bài dịch dưới dây là lời bạt mà Karen Thornber viết cho tuyển tập East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment) [Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập phê bình (Các nền văn học, văn hóa va môi trường)] (2013), trong đó giới thiệu những nhà nghiên cứu trong và ngoài khu vực về  diễn ngôn môi trường, thiên nhiên trong văn chương Đông Á. Rất tiếc không có mặt của một học giả VN nào ở đây và văn chương VN cũng đứng ngoài cuộc thảo luận của các học giả. Nhưng cá nhân tôi cho rằng phê bình sinh thái có thể  tìm thấy ở  văn chương, mỹ thuật, điện ảnh, nghệ thuật đương đại VN nhiều “ca” thú vị để nghiên cứu. Đây cũng là một hướng nghiên cứu mà tôi có ý định thể nghiệm trong tương lại.

Trong tình hình dịch thuật luôn có khả năng sai, nhất là dịch thuật học thuật, việc giới thiêu bản dịch này là một sự liều linh của tôi. Bản dich mới chi là bản thảo và tôi sẽ tiếp tục sửa chữa dần dần.

Cuối cùng, trước khi giới thiệu phần  1 bài dịch, xin giới thiệu link bài thuyết trình của Karen Thornber về phê bình sinh thái và văn chương Đông Á:

*

Những sản phẩm văn hóa của loài người đã thương thỏa với những biến đổi về sinh thái, hiểu theo nghĩa chúng đã phát lộ, diễn dịch lại và nhào nặn những biến đổi này, kể từ thời tiền sử. Những tranh vẽ trong hang động thời kỳ đồ đá cũ có niên đại chắc chắn sớm hơn 30.000 năm trước công nguyên cho thấy nhiều góc nhìn khác nhau về các hoạt động của người nguyên thủy làm môi trường bị biến đổi. Ngôn ngữ con người đóng một vai trò thậm chí còn quan trọng hơn trong hệ sinh thái đang và đã bị biến đổi. Nó đã được sử dụng để chế ngự, mô tả, biện hộ, tôn vinh, kết án, khuyến khích sự cải thiện môi trường,  làm chệch hướng và đồng thời thu hút sự chú ý đối với cách con người ứng xử với môi trường. Các văn bản truyền miệng và văn bản viết trên khắp thế giới từ ngàn năm nay đã không chỉ cố gắng khám phá việc con người bị ảnh hưởng như thế nào bởi môi trường xung quanh mình mà còn cả việc con người đã biến đổi môi trường ở mọi nơi như thế nào và tại sao họ làm vậy. Những quy chiếu trong văn chương về sự kiến tạo, cư ngụ và phá dỡ những môi trường đã được hình thành cũng như liên quan đến việc săn bắn, canh tác, ăn uống đều đem đến cho chúng ta cái nhìn thấu thị về những cảnh quan bị biến đổi. Ngay cả những văn bản không có hình tượng con người thì chúng cũng thường ít nhất đề cập đến sự biến đổi các môi trường do con người gây nên. Về phần mình, văn chương thế giới – được hiểu rộng rãi như là các văn bản sáng tạo được lưu truyền vượt ra khỏi nền văn hóa cội nguồn của chúng – kể từ Sử thi Gilgamesh (thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên) đã mô tả con người như kẻ những kẻ làm thay đổi triệt để môi trường xung quanh mình.

Ngược lại, phải đến những năm 1990, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường vật chất mới trở thành một trào lưu tri thức được xác định rõ ràng. Chắc chắn, bất chấp việc khởi điểm của nó thực sự mới chỉ được tính từ gần đây, phê bình sinh thái (nghiên cứu văn học được định hướng về chủ đề môi trường) đã nhanh chóng phát triển thành một lĩnh vực đa dạng, liên ngành, một hướng nghiên cứu mới hình thành không bị ràng buộc vào bất kỳ một phương pháp đơn lẻ nào hay một giáo điều, một cam kết theo quan điểm môi trường luận nào. Trong cuốn The Cambridge  Introduction to Literature and the Environment (2011), Timothy Clark nhận định rằng “phê bình sinh thái đã tạo được một khu vực hoạt động rất năng động, chưa đánh giá hết được, nơi các vấn đề, các chuyên ngành học thuật và chính trị giao cắt nhau. Sức mạnh tiềm tàng của nó không phải ở chỗ nó chỉ như một nhánh phê bình văn học khác, được đặt bên trong những biên giới thiết chế đã có sẵn mà ở chỗ nó là một cách tiếp cận mang tính khiêu khích cả trong việc phân tích văn học lẫn những vấn đề vừa đồng hiện, vừa che khuất lẫn nhau của khoa học, đạo đức, chính trị và thẩm mỹ” (8). Còn trong cuốn Sense of Place and Sense of Planet (2008), Ursula Heise cho rằng: “Thay vì tập trung vào sự khôi phục cảm quan về nơi chốn, thuyết môi trường luận (bao gồm cả phê bình môi trường) cần thiết phải thúc đẩy một nhận thức về cách mà cả một phạm vi rất đa dạng rộng rãi những nơi chốn và quá trình trong tự nhiên cũng như trong văn hóađã kết nối lẫn nhau, nhào nặn lẫn nhau như thế nào trên khắp thế giới” (21). Những nhận định này đã nhấn mạnh đến một số thay đổi cơ bản mà phê bình sinh thái đã trải qua trong hai thập niên gần đây.

Những nhà phê bình sinh thái đầu tiên, một phần do dựa vào lý thuyết sinh thái học chiều sâu (deep ecology), thường đi theo cách tiếp cận sinh học trung tâm luận (biocentric) hoặc theo quan điểm bảo tồn (preservationist). Cách tiếp cận này chủ yếu tập trung xung quanh những sáng tác về đề tài thiên nhiên, quan tâm đến khả năng của văn chương trong việc tạo nên những khuôn mẫu về các giá trị mà ở đó môi trường là trung tâm (ecocentric values), cũng như chú ý đến những cách miêu tả của văn chương về những mối quan hệ về mặt sinh học, tâm lý học và tâm lý giữa con người và thế giới tự nhiên. Kiểu phê bình sinh thái này quan tâm đến trạng thái gắn với nơi chốn (place-attachment) ở phạm vi địa phương hay vùng miền, như ta có thể thấy được qua các tác phẩm của Wendell Berry (1934-), bao gồm hai cuốn The Unsettling of America (1977) và Standing by Words (1983), và Gary Snyder với những cuốn như The Practice of the Wild (1990) và A Place in Space (1995). Bước sang thế kỷ XXI, phê bình sinh thái bắt đầu hướng theo một quan điểm thiên về tính chất nhân chủng học và đặt bình diện xã hội làm trung tâm; giờ đây giới nghiên cứu lại tập trung vào mảng văn học về thành phố và quá trình công nghiệp hóa cũng như vấn đề công bằng/bất công môi trường cùng những vấn đề xã hội liên đới, đặc biệt trong bối cảnh mà những vấn đề về sắc tộc, về các nhóm thiểu số, cộng đồng bản địa, chủ nghĩa hậu thực dân, cộng đồng lưu vong và chủ nghĩa thế giới trở thành mối quan tâm hàng đầu. Theo đó, nó dịch chuyển mối quan tâm về nơi chốn từ phạm vi địa phương sang phạm xuyên quốc gia hay toàn cầu.

Không có gì ngạc nhiên khi hai khuynh hướng chính này lại có nhiều điểm chung. Cả hai đều bao hàm một sự gắn kết chặt chẽ, bền bỉ với tất cả những hình thức truyền thông biểu hiện, từ các văn bản in đến sự trình diễn thị giác, âm nhạc, điện ảnh cũng như các tài liệu pháp lý và các báo cáo của NGO. Những mối quan tâm khác đang diễn ra bao gồm nghiên cứu tu từ học về môi trường; nữ quyền luận môi trường gắn theo đó là những mô hình khoa học, đặc biệt là từ tiến hóa luận sinh học, sinh thái học và các khoa học thông tin; những khác biệt trong quan niệm về môi trường dựa trên phái tính và di sản văn hóa, thí dụ như truyền thống bản địa; sự tưởng tượng văn chương về các mối quan hệ giữa con người và thú vật.

Tính đến nay, cả hai khuynh hướng phê bình sinh thái này đã tạo được những đột phá quan trọng, trong đó có cả việc chúng đã phát hiện lại tầm quan trọng của những thể loại và thể tài văn chương gần như bị quên lãng như các sáng tác về đề tài thiên nhiên, các tự sự về tình trạng bị nhiễm độc của môi trường và con người, thơ ca và kịch sinh thái (ecopoetry/ ecodrama) – những thể loại/thể tài quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh họ. Phê bình sinh thái cũng diễn dịch lại sự cấu thành các hệ đề tài liên quan đến môi trường như đề tài mục ca, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gắn với môi trường, tư tưởng tận thế gắn với môi trường (ecoapocalypticism). Đồng thời nó cũng phát hiện những nội dung “ngầm” về môi trường trong một loạt các văn bản nghệ thuật. Gần đây nhất, phê bình sinh thái đã chú ý đến những thể loại và hình thức truyền thông đa dạng khác ngoài văn bản viết, gồm cả truyện tranh, phim hoạt hình, mỹ thuật sinh học (bioart), kiến trúc xanh, các nguồn dữ liệu kỹ thuật số – điều này đã làm thay đổi cách các học giả nghĩ về nội dung của phê bình sinh thái.

Ngành nhân văn môi trường (environmental humanities) đã cho thấy rất rõ nhiều khả năng môi trường địa phương, vùng miền và toàn cầu bị đẩy vào tình trạng nguy hiểm bởi chính những can thiệp có vẻ như mang tính nhân văn của con người. Song những thách thức quan trọng vẫn còn đó, cả về mặt văn hóa (tức trên phương diện ngôn ngữ và địa lý) và khái niệm.

Phê bình sinh thái thường được định nghĩa khá rộng. Chẳng hạn, Scott Slovic xem đó là khuynh hướng phê bình “khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trường sinh thái và quan hệ giữa con người – tự nhiên trong bất kỳ văn bản văn chương nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dường như không để ý gì đến thế giới không con người (non-human world)” (27). Các nhà nghiên cứu cho rằng tương lai của phê bình sinh thái được nằm ở việc nó thể hiện được mối quan tâm của văn học về tình trạng của môi trường, đặc biệt là cách văn học tra vấn về vấn đề môi trường như “một thể nghiệm tư tưởng… được phức tạp hóa bởi sự đa bội các diễn ngôn và từ chối nhận lấy những vị trí cố định”.

Nhưng bất kể phép tu từ nói về khả năng dung nạp của phê bình sinh thái, ngay từ những ngày đầu khi lĩnh vực này mới hình thành, các nhà phê bình trên thực tế đã tự giới hạn phạm vi nghiên cứu mình trong văn chương được viết bằng ngôn ngữ của các nước phương Tây, đặc biệt là văn học Mỹ khu vực Anh ngữ nói riêng. Thậm chí ngay cả ở châu Á, những thảo luận về mối quan hệ giữa văn học và môi trường bị tàn phá cũng tập trung một cách bất cân xứng vào văn học phương Tây với những ví dụ chủ yếu được lấy từ văn học của khối Anh ngữ. Những năm gần đây chứng kiến sự sôi động của thuyết môi trường luận và hậu thực dân luận. Những phân tích hàm ý về môi trường ở các văn bản từ các nước châu Phi, châu Mỹ La-tinh (bao gồm cả khu vực Carribean), các đảo Thái Bình Dương, Nam Á, và những so sánh về “sự tưởng tượng môi trường” (environmental imagination) của các nước phát triển ở phía Bắc vốn có nhiều đặc quyền hơn với “thuyết môi trường luận của dân nghèo” ở các nước đang/chậm phát triển thuộc phía Nam toàn cầu cũng đã có đóng góp quan trọng trong việc mở rộng quan điểm về những mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên trên khắp thế giới. Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của những tri thức học thuật này đối với các ngành nhân văn và xa hơn thế. Song chúng vẫn bị loay hoay bởi chính trọng tâm dồn vào văn học phương Tây của mình; chúng thường trở đi trở lại với một vài dẫn chứng quen thuộc, gần như loại trừ các văn bản đến từ những khu vực viết bằng những ngôn ngữ khác. Chúng không hề khảo sát văn học của khu vực Đông Á, một khu vực với lịch sử thuộc địa nhiều chấn thương mặc dù hiếm khi được ngành nghiên cứu hậu thực dân chú ý đến; một khu vực, hơn nữa, là nơi tập trung ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và dân số chiếm ¼ thế giới.

Văn hóa Đông Á từ lâu được gắn với hệ thống những niềm tin chủ trương tôn sùng thiên nhiên, đặc biệt là Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và Shinto cũng như nhiều triết lý và tôn giáo bản địa. Những phương thức tư tưởng này đã khơi gợi ý thức về môi trường của rất nhiều người châu Á cũng như người Mỹ, châu Âu và một phạm vi nhỏ hơn là các trí thức Trung Đông và châu Phi. Những hình dung phổ biến ở trong và ngoài Đông Á thường cho rằng tình trạng môi trường bị xuống cấp ở khu vực này bắt đầu xảy ra từ cuối thế kỷ XIX, khi người dân  Đông Á, dưới áp lực của các quốc gia Tây phương, đã tiếp thu, đồng hóa kỹ thuật và các ngành công nghiệp của họ. Song thực chất, các xã hội Đông Á đã kế thừa cả hàng ngàn năm môi trường bị thoái hóa nghiêm trọng. Rhoades Murphey đã đi rất xa khi tranh luận:

“Tất cả những nền văn hóa châu Á thuộc khu vực ở phía đông Afghanistan và phía nam khu vực thuộc Liên Xô cũ từ lâu đã được biết đến như là những nền văn hóa tôn sùng thiên nhiên… Điều này được xem như đối lập với quan điểm của phương Tây. Thế nhưng những tư liệu ở châu Á lại cho thấy rõ rằng bất chấp những giá trị mà giới tinh hoa trí thức ở đây tuyên xưng, người dân đã làm biến đổi  hoặc phá hủy môi trường châu Á sớm hơn và ở mức độ lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, thậm chí so với cả phương Tây thế kỷ XX.” (“Góc nhìn châu Á” 36).

Murphy có lẽ đã quá lời trong trường hợp này vì những biến đổi môi trường mà người dân Đông Á trước đây gây nên không thể bằng với mức độ mà các xã hội phương Tây thế kỷ XX tạo ra được.

Tuy nhiên, sự không tương hợp giữa những niềm tin và những hành vi ở đây là rất đáng lưu tâm. Như nhà sử học Mark Elvin đã nhận xét về Trung Hoa:

“Trải qua hơn ba ngàn năm, người Trung Hoa đã tạo hình lại đất nước Trung Hoa. Họ phá rừng và thảm thực vật nguyên sinh, đắp những sườn đồi và biến những bậc thung lũng thành những cánh đồng. Họ đã đào, đã xây đập, đã làm chệch dòng chảy của sông hồ. Họ đã săn bắn và thuần hóa những loài động vật và chim muông, dẫn đến chỗ họ tàn phá chính môi trường sống của mình như một hệ quả phụ của việc theo đuổi mục đích cải thiện kinh tế. Đến cuối thời kỳ phong kiến, hầu như chẳng có gì có thể được gọi là ‘tự nhiên’, chưa bị chạm đến bởi quá trình bóc lột và cải hóa này… Một nghịch lý nằm ngay trong chính thái độ của người Trung Hoa đối với phong cảnh. Một mặt, phong cảnh được nhìn nhận như một phần của quyền năng tối thượng thiêng liêng. Minh triết dạy rằng con người cần hòa mình vào nhịp điệu của phong cảnh và cần phải ý thức được sự bất lực của mình trong việc nhào nặn lại nó. Nhưng mặt khác, trên thực tế, phong cảnh lại bị thuần hóa, bị biến dạng và khai thác đến mức hầu như có rất ít sự tương đương trong thế giới tiền hiện đại.” (321,323).

Heiner Roetz đã mở rộng luận điểm này, khẳng định quả quyết rằng ở Trung Hoa thời kỳ cổ -trung đại, “một sự đồng cảm với thiên nhiên, như được biểu hiện trong sách Trang Tử, chỉ là một phản ứng đơn giản chống lại những gì thật sự đang diễn ra”. (85)

Roetz đã phóng đại điểm này. Không phải tất cả những biểu hiện của sự đồng cảm, càng không thể nói những hình thức sùng bái thiên nhiên, thậm chí ngay cả những nghi thức bắt nguồn từ các xã hội làm biến đổi đáng kể môi trường, đều có thể được đọc như là những phản ứng chống lại hoàn cảnh thực tế. Nhưng đa phần đều có thể cung cấp những hình dung khác về những gì đang diễn ra trong môi trường lúc bấy giờ, chứ không chỉ đơn giản là biểu hiện của sự trân trọng, tôn thờ thiên nhiên. Dân Đông Á từ lâu đã có một ý thức sâu sắc về những tổn thất mà con người gây ra đối với môi trường, song  mặc dù đã có những cam kết của các cá nhân, tổ chức, chính phủ nhằm khắc phục những thiệt hại hiện còn và hạn chế những tác hại xa hơn, sự xuống cấp của môi trường trong khu vực, nhìn chung, vẫn cho thấy những dấu hiệu của hệ lụy dai dẳng từ truyền thống đến giờ. Chắc chắn, nhiều vấn đề môi trường nổi cộm nhất ở Đông Á đã được cải thiện hơn trong vài thập niên gần đây, trong đó có vấn đề ô nhiễm không khí và nguồn nước tại đô thị ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Hoa – ở một phạm vi nhỏ hơn. Như khi quy mô dân số và mật độ phân bố thay đổi, phong cách sống biến chuyển, thì tình trạng, hay đúng hơn phạm vi của sự xuống cấp môi trường cũng thay đổi theo. Thí dụ, trong nhiều trường hợp, ô nhiễm chỉ đơn thuần là bị xuất ra, chứ không phải được khắc phục triệt để, điều này tạo nên nhiều hệ sinh thái phủ bóng (shadow ecologies).

Tương tự, văn học châu Á vốn nổi tiếng bởi sự tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên và miêu tả con người trong sự gắn bó sâu sắc với thế giới tự nhiên. Nhưng phân tích văn xuôi hư cấu và thơ ca Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan hàng trăm năm qua lại cho thấy những nền văn học này lại dồi dào diễn ngôn về sự suy thoái của môi trường (ecodegradation) đến mức có thể gây ngạc nhiên cho những độc giả vốn quen với những hình ảnh đã thành ước lệ về sự hài hòa với môi trường sinh thái của người châu Á. Các nghệ sĩ và triết gia Đông Á từ lâu đã lý tưởng hóa sự tương tác giữa con người với môi trường vô nhân xung quanh họ (nonhuman surroundings). Cách thể hiện của họ tạo ra ấn tượng rằng người Đông Á, không như người Mỹ hay người châu Âu, có sự nhạy cảm cố hữu đối với môi trường, rằng họ yêu thiên nhiên và hòa hợp với nó. Tuy nhiên, việc lãng mạn hóa những mối quan hệ giữa con người và môi trường của họ thường là sự thách thức hơn là sự phản ánh cái hiện thực mang tính kinh nghiệm. Quan trọng hơn, phần lớn văn chương, thơ ca Đông Á hiện đại, thậm chí  ngay cả một số sáng tác tiền hiện đại, lại đi vào miêu tả con người tàn phá mọi thứ từ những không gian nhỏ đến toàn bộ lục địa.

Các nhà nghiên cứu  khoa học xã hội và khoa học tự nhiên trong và ngoài khu vực Đông Á đã viết nhiều về những vấn đề môi trường ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thời hiện đại và tiền hiện đại, về nhiều phong trào và tổ chức chống lại sự xuống cấp của hệ sinh thái, về những phản ứng chính thống của địa phương, các vùng lãnh thổ, quốc gia trước tình trạng này. Ngược lại, phần lớn những nghiên cứu theo quan điểm chủ nghĩa nhân văn trong văn chương Đông Á khi thảo luận về mối tương tác giữa con người và thiên nhiên lại chỉ tập trung vào việc thiên nhiên dưới ngòi bút sáng tạo của các nhà văn hiện lên như thế nào, tức là dành sự chú ý đến cách văn chương ca tụng thiên nhiên, miêu tả thiên nhiên như nơi lánh trú, thường mang tính chất tưởng tượng, khỏi xã hội con người; những bức tranh văn chương mô tả sự hòa điệu của con người với thiên nhiên; hay, ở mức độ ít thường xuyên hơn, là hình ảnh con người bị khuất phục bởi những thảm họa như tuyết lở, động đất, lũ lụt. Hầu như chưa có mấy công trình bàn về những cách thương thỏa sáng tạo với những tổn thất về môi trường được thể hiện trong văn chương Đông Á, bất chấp sự hiện diện hàng ngàn năm nay của thực tế này trong văn chương Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là ở mảng tư liệu văn học thế kỷ XX-đầu thế kỷ XXI của khu vực.

Do những điều kiện môi trường và những phản ứng đối với những điều kiện này có sự khác biệt rất đáng kể giữa các nước trong khu vực, thậm chí ngay giữa những vùng miền khác nhau ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, những suy tư trong văn chương Đông Á về mối quan hệ giữa con người với môi trường, đặc biệt là những mối quan hệ bao hàm sự biến đổi được gây ra đối với thế giới vô nhân, cũng có sự khác biệt rất lớn theo không gian và thời gian. Trong những năm tới, các nhà phê bình sinh thái sẽ cần phải hướng đến nhiều nền văn học hơn. Như tuyển tập này cho thấy, những nền văn học đa dạng ở Đông Á là mảnh đất màu mỡ cho nghiên cứu phê bình sinh thái ở thế kỷ XXI.

Song ngay cả khi phê bình sinh thái không dồn toàn bộ sự chú ý của mình vào các văn bản và cảnh quan trong các ngôn ngữ phương Tây, đặc biệt là Mỹ thì văn chương Đông Á, cũng như những nền văn học phi phương Tây khác, xét đến cùng, không thể được xem xét một cách cô lập. Chắc chắn, lĩnh vực này sẽ được hưởng lợi khi có nhiều học giả hơn quan tâm đến văn chương Đông Á và những văn bản ngoài phương Tây khác. Như Simon Estok đã nêu ngay trong lời giới thiệu, những phản ứng đối với tình trạng khủng hoảng môi trường, thậm chí ở quy mô toàn cầu đi nữa, thường mang tính địa phương như một tất yếu, với những biểu hiện văn hóa khác nhau. Việc khảo sát những ngữ cảnh và nền văn học địa phương này là một nhiệm vụ cấp thiết, không đơn thuần chỉ nhằm lập lại thế cân bằng trước tình trạng nghiên cứu trong lĩnh vực này quá dồn vào sáng tác viết bằng tiếng Anh mà còn để đào sâu hơn nhận thức, hiểu biết của con người về nhiều cảnh quan văn hóa đa dạng trên thế giới. Và tuyển tập này đã đưa ra những ví dụ rất thú vị về sự thực hành phê bình sinh thái trong những ngữ cảnh dân tộc và văn  hóa đặc thù.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: KarenThornber, “Ecocritical and Literary Futures” in East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment), ed. by Simon C. Estok and Won-Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan (2013).