Tag Archives: văn hóa đại chúng

Tự sự học đa phương tiện và một số hiện tượng văn hóa đại chúng

Tự sự học đa phương tiện là một nhánh quan trọng của tự sự học hậu kinh điển. Sự phát triển của nhánh nghiên cứu này cho thấy xu hướng liên ngành, xuyên ngành như là một động hướng tất yếu của tự sự học. Trước hết, nó mở rộng đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực này: thay vì lâu nay chỉ tập trung vào những hình thức tự sự bằng lời, các nhà tự sự học mở rộng sang các hình thức tự sự ngoài lời, và do đó, có khả năng chất vấn và tái định nghĩa khái niệm tự sự. Từ đây, tự sự học có thể trở thành phương pháp có thể thích ứng với những lĩnh vực mới, đang phát triển năng động như nghiên cứu phim, nghiên cứu truyền thông, nghiên cứu văn hóa đại chúng. Tự sự học đa phương tiện cũng vận động theo những hướng đi mới của nghiên cứu tự sự học hậu kinh điển như tự sự học tri nhận, tự sự học nữ quyền và đồng tính luận, v.v… Bài viết này sẽ tổng thuật lại những vấn đề lớn mà tự sự học đa phương tiện đặt ra đối với việc nghiên cứu bản chất của tự sự; những chủ đề nghiên cứu mới của nó, trong đó tập trung vào hai phạm vi là tự sự học trong điện ảnh và truyện tranh. Bài tổng thuật chủ yếu dựa trên những nghiên cứu của Marie-Laure Ryan và Werner Wolf, những học giả đầu ngành trong lĩnh vực tự sự học đa phương tiện, người đã có nhiều chuyên luận gây ảnh hưởng lớn đối với các nhà tự sự học.

1. Khái niệm phương tiện. Mối quan hệ giữa phương tiện và tự sự.

Khái niệm phương tiện (medium, số nhiều: media) trong tiếng Anh có hai nét nghĩa phân biệt với nhau khá rõ nét. Một mặt, nó được hiểu như một kênh truyền dẫn thông tin; mặt khác, nó được định nghĩa như là hình thức vật chất hay kỹ thuật của biểu đạt, tức có thể hiểu chúng như một thứ “ngôn ngữ”  nhào nặn nên thông tin. Đối với các nhà tự sự học, nếu phương tiện là các kênh dẫn thì hình thức của kênh dẫn của có thể ảnh hưởng đến kiểu thông tin mà nó truyền đạt, từ đó, điều chỉnh cách người ta tiếp nhận thông tin và việc sáng tạo các tác phẩm được “đo ni đóng giày” cho phương tiện ấy (thí dụ, truyền hình và điện ảnh là hai phương tiện có những sự khác biệt, do đó, kịch bản phim truyền hình sẽ có những khác biệt cơ bản với kịch bản điện ảnh). Như vậy, các phương tiện khác nhau có thể dẫn đến những câu chuyện khác nhau. Đó là lý do mà phương tiện trở thành mối quan tâm của các nhà tự sự học.

Theo học giả Marie-Laure Ryan, trong truyền thống thi học phương Tây, ngay từ Plato và Aristotle, vai trò của phương tiện đối với các loại hình nghệ thuật. Đặc biệt, đến thế kỷ XVIII, triết gia Lessing đã nhấn mạnh đặc thù của phương tiện như nhân tố phân biệt các loại hình nghệ thuật, làm nên sức mạnh của mỗi loại hình nghệ thuật cũng như những hạn chế của nó. Thí dụ, phương tiện của hội họa tác động đến thị giác của người thưởng thức, do đó, hội họa trở thành nghệ thuật không gian, thiên về miêu tả; trong khi đó phương tiện của thơ ca là ngôn từ, tác động đến trí tưởng tượng của người đọc, do đó, nó là nghệ thuật thời gian và tính tự sự là bản chất của nó. Cũng chính Lessing đã sớm lưu ý đến khả năng căng dãn của phương tiện khiến một loại hình nghệ thuật có thể có thêm khả năng biểu đạt của phương tiện khác: “Thơ ca có thể kịch tính hóa sự hiện lên của những vật thể tĩnh bằng cách biến một hình ảnh không gian thành một hành động mang tính thời gian, như cách Homer miêu tả cỗ xe ngựa của Juno bằng việc kể lại thần Hebe lắp từng bộ phận của nó vào với nhau như thế nào. Các nghệ thuật không gian, ngược lại, có thể vượt qua sự thiếu hụt tính tự sự của mình bằng cách chọn một “khoảnh khắc quan trọng” (“pregant moment”), mở ra cửa sổ để người ta có thể hình dung được những gì diễn biến trước và sau đó.”[1] Nhưng phải sang đến thế kỷ XX, thời đại bùng nổ các phương tiện mới: máy ảnh, máy quay phim, radio, tivi, radio…, những suy tư mang tính triết học về bản chất của các phương tiện mới thực sự được đào sâu. Trong số những học giả tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu về phương tiện, Marshall McLuhan là người đặt ra được những luận đề có tính chất nền móng như: “phương tiện là sự mở rộng của con người”, “phương tiện nhào nặn nên và nhào nặn lại những sự hình dung của chúng ta”, “phương tiện chính là thông điệp”. Cùng với McLuhan, Walter J. Ong đã đặt vấn đề nghiên cứu tự sự trong các hình thái phương tiện khác ngoài ngôn từ với những khám phá hệ thống về các hình thức tự sự trong văn hóa truyền khẩu và văn hóa dựa trên nền tảng chữ viết.

Trên thực tế, như Ryan lưu ý, thì các nhà tự sự học ngay từ giai đoạn cấu trúc luận đã sớm chú ý đến bản chất xuyên phương tiện (transmedia) của tự sự, trong đó có thể kể đến các tên tuổi như Claude Bremond hay Roland Barthes mà công trình Những huyền thoại của ông đã thể nghiệm phân tích các hiện tượng văn hóa đa dạng từ quảng cáo, sách hướng dẫn du lịch, tranh, tranh hoạt họa…như là các tự sự (không bó hẹp trong phương tiện ngôn từ đơn thuần). Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của tên tuổi cột trụ của tự sự học kinh điển là Gerard Genette, việc nghiên cứu tự sự ở thời điểm ấy hầu như chỉ tập trung vào các tự sự văn chương hư cấu. Các hình thức tự sự ngoài văn chương và phi văn chương hầu như không được quan tâm cho đến tận những năm cuối thế kỷ XX. Nghiên cứu tự sự trong các hình thái truyền thông đa dạng đã và vẫn đang phát triển rất năng động với những công trình nghiên cứu tự sự trong điện ảnh, truyền hình, truyện tranh, nghệ thuật múa, hội họa, opera, biếm họa…

Trở lên trên là những phác thảo về tự sự học đa phương tiện. Nhưng khái niệm đa phương tiện ở đây không đơn giản chỉ là nói đến tự sự ở những phương tiện khác ngoài ngôn từ. Theo Ryan, khi nghiên cứu về các phương tiện, cần nhớ rằng chúng luôn tồn tại trong mối quan hệ tương tác và cạnh tranh với nhau để thỏa mãn cảm giác của con người. Khi điện ảnh ra đời, chẳng hạn, nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết buộc phải điều chỉnh chính mình để có thể cạnh tranh với phim trong việc kể chuyện. Irving Howe từng nói rằng nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa là nghệ thuật tự sự được điện ảnh hóa. Đến lượt mình, điện ảnh giờ đây lại chịu thách thức từ video-games, một phương tiện không những tích hợp được những khả năng vốn có của phim mà còn gia tăng sự tương tác giữa người chơi với câu chuyện được thiết kế. Games làm cho điện ảnh phải nghĩ lại với những khả năng kể chuyện của nó, thậm chí còn làm cho các tự sự hư cấu phải nghĩ đến việc tìm tòi những phương thức kết cấu và biểu đạt mới… Điều này đã khiến các nhà nghiên cứu đề xuất khái niệm “liên phương tiện” – intermediality hoặc xuyên phương tiện – transmediality để tìm hiểu về bản chất của phương tiện và mối quan hệ giữa phương tiện với nghệ thuật tự sự. Đề xuất này rất hợp lý đối với những hình thái tự sự tích hợp nhiều phương tiện như phim, video games, truyện tranh, nghệ thuật trình diễn…

Bản chất của phương tiện có thể được tiếp cận trên ba bình diện, mỗi bình diện lại nhào nặn nên các tự sự theo những đặc trưng riêng. Thứ nhất, phương tiện mang bản chất ký hiệu và căn cứ vào bản chất ký hiệu này thì có thể phân loại phương tiện thành ba nhóm lớn: ngôn từ, thị giác và thính giác. Các tự sự văn chương tất nhiên dựa chủ yếu vào phương tiện ngôn từ, do đó, nó khả năng thể hiện được diễn biến của sự kiện theo thời gian một cách thuận lợi trong khi đó đây lại là thách thức đối với các tự sự dựa vào phương tiện thị giác vốn mạnh hơn khả năng biểu đạt sự tồn tại trong không gian của các vật thể. Các loại hình tự sự như điện ảnh, truyện tranh, ballet, kịch câm, nghệ thuật trình diễn… đều là những nỗ lực kết hợp khả năng biểu đạt cả tính thời gian lẫn tính không gian của các sự kiện trong thế giới. Ở những loại hình tự sự này, ta có thể quan sát rõ nét nhất sự cộng hưởng khả năng của nhiều phương tiện để biểu đạt và tác động đến người tiếp nhận. Tiếp cận tự sự từ bản chất ký hiệu của phương tiện sẽ tập trung vào những khả năng và giới hạn của phương tiện ấy trong việc kể chuyện. Ryan gợi ý những câu hỏi sau để ta suy tư về vấn đề này: “Làm cách nào cách hình ảnh có thể gợi ra ý niệm về thời gian? Làm thế nào các động tác, cử chỉ có thể biểu đạt được mối quan hệ nhân quả? Ý nghĩa của thiết kế đồ họa là gì? Làm cách nào mà các loại ký hiệu khác nhau có thể góp phần tạo nên ý nghĩa tự sự trong những hình thức nghệ thuật đa phương tiện?”[2]

Thứ hai, phương tiện có bản chất vật chất, bản chất kỹ thuật. Đối với các nhà tự sự học, khi xem xét phương tiện từ khía cạnh bản chất này, mối quan tâm của họ sẽ tập trung vào khả năng “nâng cao hay điều chỉnh sức mạnh biểu đạt của những phương tiện ký hiệu thuần túy.”[3] Thí dụ, nghệ thuật tự sự văn chương chủ yếu được thể hiện trên trang giấy qua công nghệ in ấn. Bản thân việc in ấn đã làm thay đổi đáng kể nghệ thuật tự sự từ hình thức truyền khẩu vốn đã xuất hiện trước đó đến hình thức tự sự được cố định hóa về văn bản trên giấy in. Tuy nhiên, sự ra đời của internet đã mở ra một không gian tồn tại khác cho việc sáng tác và tiếp nhận các tự sự văn chương. Các hư cấu mang hình thức hypertext chính là một dạng chuyển mình của tự sự văn học trong thời đại số, có những đặc thù mới, đòi hỏi một cách tiếp cận khác về thế giới truyện kể (storyworld), tổ chức trần thuật, người kể chuyện… Các tự sự điện ảnh đòi hỏi người nghiên cứu phải tư duy về chức năng của camera trong việc tạo ra các điểm nhìn như thế nào, các hình thức trần thuật ra sao…

Thứ ba, phương tiện mang bản chất văn hóa. Ryan đưa ra một nhận định rất xác đáng: “Đặc điểm của các tự sự được tạo nên bởi một phương tiện nhất định thường là sự gắn kết của các nhân tố văn hóa, kỹ thuật và ký hiệu.”[4] Bản chất văn hóa của phương tiện sẽ giúp chúng ta kiến giải được nhiều phương diện văn hóa của tự sự và hình thành thêm nhiều cách phân loại các thể loại tự sự. Thí dụ, truyện tranh là một thể loại văn học bao gồm nhiều tiểu loại, mỗi tiểu loại lại có những mã riêng của nó: truyện dành cho trẻ em, dành cho người lớn, dành cho độc giả nữ… Các mã này lại được cấu thành bởi những cách vẽ riêng, tương quan giữa phần lời và phần hình ảnh cũng không giống nhau, từ đó mà ý nghĩa tự sự cũng được cấu tạo theo những cách khác nhau. Ý thức được điều này sẽ mở đường cho việc tiếp cận các thể loại tự sự đa phương tiện này từ góc độ phê bình văn hóa, lý thuyết tri nhận, phê bình giới tính, v.v.

Chúng tôi lưu ý: tự sự học đa phương tiện không chỉ phát triển để thích ứng với sự tồn tại phong phú của các hình thức tự sự ngoài ngôn từ lịch sử đến hiện tại. Nhìn rộng hơn, có thể nói đến khúc ngoặt phương tiện/liên phương tiện trong nghiên cứu nhân văn và văn học, nói như học giả Werner Wolf.[5] Khúc ngoặt phương tiện này khiến ta phải quan tâm đến sự tồn tại của văn học trong một hệ sinh thái phương tiện (media ecology). Trên thực tế, một thể loại tự sự như sử thi chẳng hạn bao giờ cũng tồn tại trong môi trường đa phương tiện: đời sống của sử thi chưa bao giờ chỉ là đời sống trên văn bản, nó còn sống trong nhiều phương tiện khác: âm thanh (qua lời hát của nghệ nhân), ngôn ngữ thân thể (qua cử chỉ, điệu bộ trình diễn). Tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa thường có tiền thân là các thoại bản, là các bản kể truyền miệng được lưu hành trong đời sống thị dân. Nhìn xa hơn, các kịch bản sân khấu, điện ảnh thường được sáng tác trong ý thức văn bản ngôn từ có khả năng chuyển thể được sang các phương tiện khác. Bởi lẽ đó, Werner Wolf đã nhận định xác đáng rằng: “Nếu văn học đã gây ảnh hưởng đến nhiều phương tiện và đến lượt mình chịu ảnh hưởng cũng như được lưu truyền bởi nhiều phương tiện thì việc nghiên cứu phương tiện phải trở thành một bộ phận tích hợp của nghiên cứu văn học.”[6]

Cách tiếp cận văn học nói chung, tự sự nói riêng từ phương tiện đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến tổng thể của cả ba bình diện bản chất ở trên vừa nói đến. Phương tiện kiến tạo nên bình diện không-thời gian của tự sự như thế nào, có ưu thế trong việc tác động đến giác quan nào, những mã ký hiệu học nào được sử dụng để truyền đi nội dung tự sự, sự hỗ trợ của các yếu tố vật chất, kỹ thuật tạo nên sự khác biệt gì trong khả năng tự sự, các yếu tố văn hóa trong việc sáng tạo và lưu truyền các tự sự ảnh hưởng như thế nào đến diện mạo và các kiểu loại tự sự… Theo Ryan, thao tác so sánh là thao tác cần thiết khi đối với việc nghiên cứu tự sự từ phương tiện.

2. Từ tự sự ngôn từ đến tự sự ngoài ngôn từ và phi ngôn từ

Không phải ngẫu nhiên mà ở giai đoạn kinh điển, các nhà tự sự học chủ yếu tập trung vào tự sự ngôn từ. So với các phương tiện khác, ngôn từ thực sự có sức mạnh tự sự lớn hơn cả. Ryan phân tích điều này chiếu theo định nghĩa mà bà đưa ra về tự sự, theo đó, một tự sự được cấu thành bởi bốn thành tố: 1 – thành tố không gian: một “thế giới”, một bối cảnh nơi các nhân vật, các sự vật hiện tượng tồn tại, trú ngụ trong đó; 2- thành tố thời gian: nơi cái “thế giới” mà ta vừa nói đến trải qua những biến đổi quan trọng bởi những sự kiện không theo thói quen (non-habitual event);  3- thành tố tinh thần (mental): những sự kiện bất thường kia phải liên đới đến một nhân tố sở hữu đời sống tinh thần, trí tuệ, có những phản ứng về mặt tình cảm đối với những trạng thái của thế giới hoặc những trạng thái của những nhân tố khác; 4- thành tố hình thức và dụng học (pragmatic), biện hộ cho kết thúc và đưa ra một thông điệp có ý nghĩa.[7]

Trong 4 thành tố này, Ryan nhận xét: thành tố thứ nhất và thứ tư không nhất thiết phải phụ thuộc vào ngôn ngữ. Trên thực tế, các hình ảnh có thể làm tái hiện hình ảnh của thế giới một cách hiệu quả hơn ngôn từ bởi tính trực quan của chúng. Người ta cũng có thể dùng những hệ thống ký hiệu khác ngôn từ để biểu hiện sự kết thúc và truyền đạt một thông điệp. Nhưng đặc điểm thứ hai và thứ ba của tự sự thì phụ thuộc rất lớn vào ngôn từ. Ngôn từ, bởi phẩm chất thời tính của mình, có thể miêu tả được sự diễn tiến của các sự kiện. Không những thế, chỉ có ngôn từ mới có khả năng biểu đạt hiệu quả nhất những gì xảy ra trong thế giới tinh thần, ý thức của các nhân vật. Ryan đưa ra một ví dụ dễ hiểu: một bộ phim có thể tái hiện một cách hiệu quả sự tiếp diễn của các sự kiện trong thời gian, thí dụ “nhà vua băng hà, rồi sau đó hoàng hậu cũng qua đời,” nhưng chỉ có từ ngữ mới có thể nói “nhà vua băng hà, rồi sau đó hoàng hậu cũng qua đời vì đau buồn” vì chỉ có ngôn từ mới có khả năng biểu đạt hiển lộ mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện. Đây là điều mà hình ảnh trên phim thường biểu đạt mơ hồ hơn và nếu không có lời thuyết minh, người xem sẽ rất khó để xác quyết hoàng hậu chết vì bệnh tật hay do đau buồn. Điều quan trọng hơn cả: cũng chỉ ngôn từ mới cho phép các tự sự thể hiện được một hình thái giao tiếp phổ biến nhất giữa con người, hay rộng hơn là các nhân tố có trí thông minh, tức giao tiếp bằng lời nói, bởi chỉ có ngôn ngữ mới thể hiện được ngôn ngữ. Tất nhiên, các tự sự bằng ngôn từ cũng thường thường sử dụng cách tỉnh lược để mở rộng không gian cho sự gợi đoán của độc giả nhưng ở đây Ryan đã lưu ý: “Không có gì chán hơn một câu chuyện không để lại chỗ nào cho sự suy diễn, nhưng nếu cứ buộc người ta phải đoán tất cả thì điều này sẽ áp đặt những giới hạn đáng kể đối với vốn chuyện kể mà một phương tiện có thể kể được.”[8]

Tự sự phụ thuộc vào ngôn từ nhưng vẫn có thể có được sự độc lập nhất định. Trên thực tế, vẫn có những tự sự chủ yếu được kiến tạo từ các phương tiện mang tính cảm giác thuần túy, phi ngữ nghĩa học (non-semantic) như âm thanh, tiếng động hay cử chỉ, điệu bộ. Trong một số trường hợp, nhiều khi những phương tiện này có sức mạnh biểu đạt còn lớn hơn ngôn từ. Ryan dẫn ra một ví dụ để minh họa cho luận điểm này: “bản overture 1812 của Tchaikovsky có thể không miêu tả được cụ thể diễn biến của chiến trận, nhưng nó có thể biểu đạt trạng thái tinh thần của hai quốc gia giao chiến một cách mãnh liệt, ấn tượng hơn bất cứ một cuốn sách lịch sử nào.” Trong tác phẩm giao hưởng này, “nước Nga được thể hiện bằng giai điệu tụng ca mang âm hưởng tôn giáo trang nghiêm với tiếng viola và cello ở tông thấp, trong khi đó nước Pháp được thể hiện qua những âm thanh sắc, mạnh của tiếng kèn đồng và bộ gõ, mà người ta có thể nhận ngay ra nét giai điệu của bài La Marseillaise trong đó. Sau sự xung đột giữa hai chủ đề này (themes) của bản nhạc được nhấn mạnh bằng âm thanh mô phỏng tiếng đại bác, giai điệu tụng ca thanh bình tượng trưng cho nước Nga trở thành giai điệu chủ đạo, được thể hiện qua những nét nhạc gợi tiếng rung của các quả chuông nhà thờ giờ đây được toàn bộ dàn nhạc chơi.”[9] Cũng như vậy, không phải ngẫu nhiên khi điện ảnh giờ đây tuy đã có thể thể hiện được tiếng nói của các diễn viên, nhưng vẫn có những đạo diễn điện ảnh thực hiện phim câm. Điển hình là bộ phim The Artist (2013) của Michel Hazanavicius được trao giải Oscar cho phim hay nhất. Việc Hazanavicius quay trở về với hình thức phim câm không đơn thuần chỉ là biểu hiện sự hoài cổ, đúng hơn, nó nên được hiểu như một thách thức mà đạo diễn dám chấp nhận để khai thác sức mạnh của ngôn ngữ điện ảnh giữa bối cảnh loại hình nghệ thuật này vì có quá nhiều công nghệ hỗ trợ, phương tiện cải tiến nên lại làm cho người xem trở nên thụ động trước bộ phim và hình ảnh điện ảnh mất đi sự gợi cảm, tinh tế vốn có. Âm nhạc, khuôn hình và đặc biệt là diễn xuất hình thể của hai diễn viên thực chất đã biểu đạt được nhiều sắc thái nội tâm không thua kém ngôn từ, nếu không muốn nói rằng có những trường đoạn ngôn từ sẽ khó cạnh tranh được với biểu cảm của hình thể thể hiện những khủng hoảng nội tâm, cảm xúc của con người.

Nhìn vào lịch sử, có thể nghĩ rằng các chuyện kể đã có trước khi con người phát triển ngôn ngữ của mình. Những tác phẩm nghệ thuật sớm nhất của nhân loại được tìm thấy trên hang động không chỉ là những tranh vẽ; ở mức độ nào đó, chúng là tiền thân sớm nhất của thể loại truyện tranh, là những tự sự không lời kể lại câu chuyện bộ lạc săn thú dữ như thế nào chẳng hạn. Ở đây, ta có thể liên hệ đến luận điểm của nhà nghiên cứu Mark Turner cho rằng: “con người không bắt đầu kể chuyện như là hệ quả của sự phát triển ngôn ngữ mà đúng hơn, ngôn ngữ được phát triển để đáp ứng nhu cầu cần kể các câu chuyện.”[10] Các câu chuyện của con người ngày càng phong phú hơn những gì có thể diễn tả trực quan. Ngôn ngữ trở thành phương tiện ưu thế của tự sự là vì thế bởi như Ryan nói, “tự sự không phải là cái gì đó được hình dung bởi các giác quan: nó được kiến tạo bởi tinh thần, hoặc từ những dữ liệu mà đời sống cung cấp hoặc từ những chất liệu được phát minh.”[11] Với bản chất như thế, tự sự gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ vì “ngôn ngữ nói với tinh thần hơn là nói với cảm giác.”

Sự xuất hiện của các loại hình tự sự đa phương tiện, như đã nói ở trên, cho thấy một tham vọng của các nghệ sĩ vừa muốn khai thác sức mạnh kể chuyện của ngôn từ, vừa muốn cộng hưởng khả năng kể chuyện của các phương tiện ngoài ngôn từ. Đi xa hơn, các thể loại này còn chất vấn chính những định kiến mặc định về khả năng tự sự của ngôn từ và các phương tiện ngoài ngôn từ cũng như các khái niệm thường được dùng để tiếp cận các tự sự như điểm nhìn, người kể chuyện, thời gian-không gian tự sự… Sự chất vấn ấy là một động thái quan trọng và cần thiết trong sáng tạo nghệ thuật. Trong phạm vi bài viết này, hai loại hình tự sự đa phương tiện mà chúng tôi muốn phân tích là điện ảnh và truyện tranh.

3. Tự sự học điện ảnh

Là loại hình nghệ thuật của thời hiện đại, điện ảnh, có thể nói, tích hợp được những điểm mạnh của cả tiểu thuyết và sân khấu, và đồng thời cũng khắc phục được những giới hạn cố hữu của chúng. Một bộ phim có thể thể hiện được sự xê dịch không-thời gian như tiểu thuyết nhưng lại cũng giống như sân khấu, người xem phim có thể trực quan các cảnh tượng, sự kiện và nhân vật – điều mà tiểu thuyết không làm được, đồng thời thời gian của một bộ phim cũng thường tương đương thời gian của một vở diễn. Phát triển trên nền tảng của những tiến bộ công nghệ không ngừng, điện ảnh được xem là loại hình nghệ thuật đa phương tiện có khả năng thách thức cao nhất đối với các tự sự ngôn từ truyền thống vốn chủ yếu dựa vào ngôn từ.

Tuy nhiên, việc tiếp cận phim như loại hình tự sự dựa trên những khái niệm tự sự học vốn được thiết lập làm công cụ để phân tích các tự sự văn học, gây ra nhiều tranh cãi, thảo luận về tính thích đáng. Điều này vừa do đặc thù của việc sản xuất một bộ phim vừa do bản chất đa phương tiện của điện ảnh tạo nên. Một bộ phim luôn là một sáng tạo tập thể (nhà sản xuất, đạo diễn, tác giả kịch bản, diễn viên, các nhân viên kỹ thuật, nhạc sĩ…) – điều này đặt ra những vấn đề rất cốt lõi: câu chuyện của bộ phim được kể bởi ai? Vấn đề người kể chuyện và chức năng của người kể chuyện là vấn đề phức tạp bậc nhất trong nghiên cứu tự sự học điện ảnh mà ở phần sau bài viết sẽ bàn thêm. Sự tích hợp các yếu tố kỹ thuật cũng khiến cho trần thuật điện ảnh có những nét đặc thù mà tự sự văn học không có được. Nó có thể đồng hiện nhiều vật thể, nhiều âm thanh, vận động cùng lúc, âm thanh và hình ảnh có thể mang những thông điệp khác nhau. Người xem phim khác với người đọc truyện không có cơ hội lướt, ngừng, hay phá vỡ trình tự của bộ phim. Tuy nhiên, với sự ra đời của video, DVD, điều này giờ lại trở thành khả thi đối với khán giả, khiến việc xem phim bắt đầu có những tính chất mà trước kia chỉ có được trong việc đọc truyện. Camera cũng có những “ngôn ngữ” riêng của nó khác với hành động viết: độ dài của một cảnh quay, góc quay, chuyển động của máy quay, tiêu cự, điểm nhìn… đều có những khả năng đặc biệt trong việc tác động đến tri nhận của người thưởng thức, kích thích họ kiến tạo câu chuyện mà hình ảnh phim gợi ra. Các thủ pháp dựng phim như dựng nối tiếp, dựng song song, dựng nhảy vọt (jump-cut) làm ta liên hệ đến việc tổ chức kết cấu một tác phẩm tự sự, để các yếu tố tự sự thống nhất lại thành một chỉnh thể và thu hút sự chú ý cũng như gợi mở sự tưởng tượng, diễn dịch của người xem. Thậm chí ngay một yếu tố vật chất nhất như loại máy quay cũng góp phần tạo nên những hiệu ứng đặc biệt cho việc kể chuyện bằng ngôn ngữ điện ảnh. Một ví dụ: Bộ phim The Hurt Locker (2008) của nữ đạo diễn người Mỹ Kathryn Bigelow từng được trao giải Oscar cho phim hay nhất. Đề tài bộ phim xoay quanh những người lính Mỹ làm nhiệm vụ phá bom mìn tại Iraq. Trong bộ phim này, đạo diễn đã sử dụng bốn máy quay super 16 mm để nắm bắt nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ khác nhau của hiện  thực, khiến cho bộ phim truyện này mang phong cách của kiểu phim bán tài liệu.

Vấn đề người kể chuyện trong phim là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi nhất giữa các nhà tự sự học. Có hai quan điểm đối lập nhau rất rõ. Quan điểm thứ nhất, xem người kể chuyện là nhân tố tất yếu của mọi tự sự điện ảnh. Người biện hộ tiêu biểu cho quan điểm này là Seymour Chatman, người được xem là đã đưa ra một quan điểm tiên nghiệm về vấn đề người kể chuyện trong điện ảnh cho rằng: mọi câu chuyện đều cần đến một tác nhân để kể nó ra. Quan điểm tiên nghiệm này lập luận theo logic bắc cầu: 1- Trần thuật là hành vi kể hay thể hiện một câu chuyện; 2- Mọi hành vi đều cần có tác nhân để thực hiện; 3- Tác nhân của hành vi kể một câu chuyện hư cấu là người kể chuyện; từ đó suy ra 4- Mọi tự sự hư cấu, bao gồm phim truyện, cũng phải có người kể chuyện.  Quan điểm này bị phản biện bởi luồng quan điểm thứ hai bởi những lý do: 1- Người kể chuyện không đồng nhất với tác giả thực và tác giả hàm ẩn (hình tượng tác giả – “con người” tác giả được thể hiện qua văn bản). Hai khái niệm sau đều không nằm trong thế giới của câu chuyện, đó là những con người có thật hoặc ẩn phía sau tạo nên câu chuyện trong khi đó “người kể chuyện” lại là một nhân vật hư cấu, nằm trong thế giới của câu chuyện, thuật lại những sự kiện của câu chuyện ấy. Nhân tố để kể lại câu chuyện không thể là nhân tố hư cấu được, vì hành động kể chuyện là hành động có thật.[12] Chính những người làm phim (đạo diễn, quay phim, biên tập…) mới là nhân tố tất yếu, bắt buộc để câu chuyện của bộ phim được kể ra, hiện ra. 2- Không phải hành vi nào cũng cần đến tác nhân. David Bordwell cho rằng không cần đưa khái niệm “người kể chuyện” vào nội dung nghiên cứu của lý thuyết phim: “Nhưng khi xem phim, chúng ta hiếm khi ý thức được mình đang được một thực thể nào đó giống như con người kể cho mình một câu chuyện… Đa số các bộ phim không cung cấp một cái gì đó tương tự như một người kể chuyện có thể xác định và không có lý do gì mong chúng sẽ đem đến…” Bordwell, thay vào đó, tập trung vào khái niệm “trần thuật” và ông xử lý vấn đề này từ góc độ tri nhận: “Trần thuật là quá trình tổ chức một loạt các tín hiệu gợi ý người xem kiến tạo nên câu chuyện.” Quả thật, trừ một số trường hợp đặc biệt là các bộ phim có lời thuyết minh dẫn chuyện hay có nhân vật xuất hiện trong phim đảm nhiệm vai trò kể chuyện, người xem luôn có cảm giác như các sự kiện trình ra trước mắt ta “một cách tự nó” và với tri nhận của mình, anh ta phát hiện mối liên kết giữa các sự kiện, các chi tiết, các hình ảnh của bộ phim, tự đó hình thành một chuyện kể. Nhưng hai nhà tự sự học Markus Kuhn và Johann N. Schmidt lại đưa ra một nhận định đáng lưu ý. “Việc xóa bỏ người kể chuyện và ý niệm bộ phim dường như là thứ “tự kể” lại tương phản với ấn tượng ta thường có, rằng mọi yếu tố hình ảnh và âm thanh trong phim lại gợi cảm giác về một sự hiện diện có thẩm quyền tác giả (authorial) hay của một kẻ phát ngôn (enunciator), dù không mang hình hài con người. Nhiều thuật ngữ và những kiến giải lý thuyết khác nhau đã được đưa ra nhắm khắc phục được sự bế tắc logic của hiện tượng trần thuật mà không có người kể chuyện theo nghĩa hẹp: “camera”, “con mắt camera”, “người quan sát vô hình”, “người kể chuyện bên trong”…”[13] Theo đó, camera được xem như nhân tố kể chuyện, làm trung gian giữa kênh âm thanh và hình ảnh, tạo ra dòng trần thuật điện ảnh đặc thù. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh vai trò của camera trong việc kể chuyện thì lại cũng không thể bỏ qua vai trò của việc dựng phim trong việc tạo ra dòng trần thuật điện ảnh.

Ta có thể quan sát sự kiến tạo dòng trần thuật điện ảnh qua một ví dụ từ bộ phim Hiroshima, Mon Amour (1959) do đạo diễn người Pháp Alain Resnais thực hiện trên kịch bản của nhà văn Maguerite Duras. Ở cảnh mở đầu bộ phim, theo kịch bản, Duras mô tả hai đôi vai trần ghì xiết vào nhau, một sẫm màu, một sáng, “như ngập vào tro tàn, nước mưa, sương sớm và mồ hôi”. Ở khung cảnh ấy, khi âm nhạc của Fusco (người soạn nhạc cho bộ phim) lắng xuống, giọng của diễn viên nam (không quay mặt) nổi lên: “Em không nhìn thấy gì hết ở Hiroshima, không gì hết.” Nhân vật nữ đáp lại bằng một giọng bình thản, điềm tĩnh. “Em nhìn thấy hết. Nhìn thấy hết.” Alain Resnais hiện thực hóa lời văn trong kịch bản của Duras bằng góc quay cận cảnh, để nhấn mạnh cảm giác về thân thể ghì xiết lấy nhau của nhân vật, rồi sau đó, cảnh tiếp theo được dựng bằng một loạt các hình ảnh về bệnh viện của Hiroshima – những hình ảnh mang tính chất của phim tài liệu. Máy quay lúc này đóng vai trò như một công cụ giúp người đọc “nhìn” thấy những suy nghĩ của nhân vật nữ: một Hiroshima sau thảm họa từ “điểm nhìn” của nhân vật nữ. Nhân vật nữ chỉ được thể hiện qua giọng nói của mình, trong khi đó, nhân vật nam thỉnh thoảng lại cắt ngang lời kể của nhân vật nữ: “Em không nhìn thấy gì hết.” Sự tương phản này gợi ra ấn tượng về tính bất khả tín của dòng trần thuật. Và điều này được thể hiện rõ nét hơn tại khoảnh khắc khi nhân vật nữ miêu tả: “Hiroshima phủ đầy hoa… Hoa ngô, hoa lay-ơn ở mọi nơi, hoa triêu nhan và hoa hiên lại mọc lên từ tro tàn với sức sống mãnh liệt, điều mà khi ấy chưa ai nói đến về hoa…”, màn hình lại hiện lên hình ảnh các bác sĩ đang dùng bông để lau viết thương sâu và khuôn mặt bị bỏng nặng của bệnh nhân. Sự tương phản này tạo ra tính “bất khả tín” của dòng trần thuật điện ảnh: bộ phim thay vì cho thấy nhân vật đã nhìn thấy gì, nó gợi ra sự chất vấn về khả năng “nhìn thấy” của con người, nhất là những chấn thương ở bề sâu của thời đại dẫu chiến tranh đã đi qua.

Hiroshima, Mon Amour không chỉ là một tự sự về sự thấy của con người; nó còn là một tự sự về sự nhớ và quên của con người về những ký ức chấn thương. Bộ phim khai thác triệt để hai thủ pháp là flashback (hồi cố) và mindsreen (phóng chiếu suy nghĩ). Trong bộ phim, nhân vật nữ – Riva – kể lại cho người tình Nhật Bản của cô – về mối tình của mình với viên sĩ quan Đức trong thời kỳ Thế chiến thứ hai, người đã bị bắn chết trong những ngày cuộc chiến kết thúc. Nhưng để tạo ra một dòng trần thuật chất vấn về sự khả tín của ký ức, Alain Resnais chưa bao giờ để camera quay cận mặt viên sĩ quan người Đức. Thủ pháp này làm người ta liên hệ đến sự mơ hồ dần của hình ảnh người tình trong ký ức, bất kể nhân vật nữ vẫn đang cố gắng dùng ngôn từ để tái hiện nó. Bằng ngôn ngữ của camera và thủ pháp dựng phim, bộ phim diễn tả được sự dằn vặt của nhân vật nữ khi thấy mình đang quên dần, đang để tuột dần ký ức về người tình: “Anh vẫn chưa chết hoàn toàn. Em đã kể câu chuyện của chúng ta. Đêm nay em đã không giữ được sự chung thủy với anh khi ở bên cạnh kẻ xa lạ này. Em đã kể câu chuyện của chúng ta. Đó là câu chuyện, anh thấy đó, có thể kể lại được. Suốt 14 năm, em đã không tìm thấy được nữa..cảm giác về một tình yêu bất khả. Kể từ Nevers. Nhìn xem, em đang dần quên anh…Nhìn xem em đã quên anh.” Chúng tôi chủ ý in nghiêng những chữ vừa rồi để thấy điện ảnh, bằng ngôn ngữ của nó, đã diễn tả một cách trực quan trạng thái dần quên của con người như thế nào và phức tạp hơn thế, nó cho thấy sự lẩn tránh của chấn thương ngay khi con người tưởng như có thể dùng ngôn ngữ để kể nó thành một câu chuyện.

Cùng với vấn đề “người kể chuyện”, “điểm nhìn” cũng là thuật ngữ quan trọng để tiếp cận bộ phim từ tự sự học. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở một điểm: trong điện ảnh, điểm nhìn không chỉ đơn giản gắn với vị trí của camera. Theo Edward Branigan, xét về cấu trúc, một điểm nhìn trong điện ảnh phải cần đến hai cảnh quay: cảnh quay thứ nhất cho biết nhân vật đang nhìn cái gì ngoài màn hình; cảnh quay thứ hai là một vật thể, một đối tượng được chụp tại điểm nằm trong không gian được thể hiện ở cảnh quay thứ nhất.[14] Từ đó, cần phải phân tích điểm nhìn điện ảnh trong một mạng lưới quan hệ giữa hành động nhìn và cái được nhìn thấy: cái nhìn của các nhân vật với nhau, cái nhìn của người xem vào các nhân vật cũng như bối cảnh của bộ phim. Camera lúc này đóng vai trò như một nhân tố mở ra trường nhìn của bộ phim; khung hình của bộ phim sẽ cho người được xem được nhìn thấy cái gì và không thấy cái gì. Điểm nhìn, do vậy, đi liền với việc tiêu cự hóa.

Ta có thể phân tích cách xử lý điểm nhìn trong cảnh cuối cùng của phim Birdman do đạo diễn Alejandro Iñárritu thực hiện (bộ phim được giải Oscar cho phim hay nhất năm 2014), từ phút 110-112. Cả bộ phim này được dựng theo một cú long-take dài hơn hai tiếng đồng hồ kể về Riggan Thomson, một diễn viên trước kia từng nổi tiếng với vai diễn người chim trong một series film, nay đã hết thời và tìm cách lấy lại hào quang của mình qua việc đưa lên sân khấu Broadway một vở kịch chuyển thể từ truyện ngắn nổi tiếng của Raymond Carver – “Mình nói gì khi mình nói chuyện tình”. Vở kịch gây được tiếng vang bởi tính chất scandal của nó hơn là tính nghệ thuật như Riggan kỳ vọng khi ông dùng súng bắn mình trên sân khấu. Nhưng đó chỉ là vụ tự tử hụt, ông không chết mà chỉ bị vỡ mũi. Cảnh cuối của bộ phim là khoảnh khắc khi Riggan tỉnh dậy trong bệnh viện và nhìn ra cửa sổ. Chi tiết này được thực hiện bởi hai cảnh quay đúng như mô tả của Branigan: Riggan nhìn ra bên ngoài (cái nhìn của nhân vật) và một đàn chim bay ngang trời (vật được nhìn thấy bởi nhân vật). Những con chim thật sự, chứ không phải là người chim – một loại biểu tượng siêu nhân, đặc sản của văn hóa đại chúng Mỹ – tự do bay liệng trên cao trên nền một giai điệu giao hưởng thanh thoát, làm Riggan nhận ra một điều gì đó thật đặc biệt. Ông trèo qua cửa sổ. Ở cảnh tiếp sau đó, con gái của ông vào phòng bệnh của bố, không thấy cha mình đâu cả. Lúc này, camera bám sát điểm nhìn của cô, biến cô trở thành nhân vật tiêu cự. Cô nhìn xuống cửa sổ, rồi trong giây lát ngẩng lên, ánh mắt vừa kinh ngạc, vừa như có một cái gì đó đầy cảm động. Bộ phim kết thúc tại đó. Chúng ta không biết chính xác cô con gái của Riggan nhìn thấy gì và tại sao cái cô nhìn thấy lại làm cô cảm động. Chính điều này buộc người xem phải dựa vào những gợi dẫn của hình ảnh để suy đoán: có thể cô đã nhìn thấy cha mình chết khi rơi từ cửa sổ xuống; hoặc cũng có thể cô nhìn thấy cha cô cuối cùng đã trở thành một con chim tự do bay liệng trên cao; hoặc cũng có thể cô đã hiểu lý do vì sao cha mình chết và đó là một lý do đẹp đẽ… Với việc từ chối một điểm nhìn toàn tri, đưa camera quay toàn cảnh để người xem thấy hết mọi thứ, Iñárritu thực sự đã tạo ra một cái kết mở.

Vấn đề “ai nhìn”,”cái gì được nhìn thấy”, “cái gì trong và ngoài khung hình”… không chỉ đơn giản liên quan đến việc tri nhận. Nó gợi mở những suy tư liên quan đến quyền lực, đến ý thức hệ. Nhận thức được điều này sẽ gắn nghiên cứu tự sự học điện ảnh với việc phân tích diễn ngôn, giải cấu trúc. Hiện nay, tự sự học điện ảnh đòi hỏi một sự tích hợp, cộng hưởng với những khám phá mỹ học về ngôn ngữ điện ảnh – một thứ mỹ học đã và vẫn đang được các học giả hàng đầu thế giới thảo luận và phát triển như Gilles Deleuze, Jacques Rancière, Slavoj Zizek… Tuy nhiên, để bàn sâu hơn về nội dung này, phải cần đến một phạm vi khác.

4. Tự sự học và truyện tranh

Trước khi đi vào tự sự học trong truyện tranh, thiết nghĩ cần phải nhìn vấn đề trong khung rộng hơn. Đó là nghiên cứu tự sự học hình ảnh (pictorial narrative/graphic narrative). Câu hỏi đầu tiên được đặt ra ngay: làm thế nào mà bức tranh hay bức ảnh có thể gợi ra được câu chuyện? Nghĩa là, tính tự sự của tranh ảnh, hình vẽ thể hiện ở đâu khi chúng vốn được xem là nghệ thuật tĩnh, thiên về tính không gian, ít có khả năng thể hiện được diễn tiến của sự kiện – điều được xem là yếu tố hạt nhân của tự sự? Ryan viết: “Đọc một bức tranh như một tự sự nghĩa là đặt những câu hỏi: Nhân vật trong bức tranh là ai? Mối quan hệ liên cá nhân giữa những nhân vật đó là gì? Họ đã làm gì trước đó? Họ đang làm gì? Lý do để họ hành động là gì? Sự biến đổi nào mà hành động đó được gây ra? Nhân vật phản ứng như thế nào trước sự kiện ấy?”[15] Rõ ràng, một bức tranh hay một tấm ảnh không trả lời được những câu hỏi này một cách trực tiếp bởi các hình ảnh tĩnh vốn thiếu chiều kích thời gian, chúng lại không có khả năng thể hiện được lời nói, ý nghĩ, trình bày mối quan hệ nhân quả, tạo ra sự trì hoãn và bất ngờ… Tuy nhiên, đúng như Ryan nhận xét: “Chính sự không hoàn tất về tính tự sự của các hình ảnh đã tạo ra một sự tò mò lớn.” Đọc một bức tranh như một tự sự đòi hỏi một quá trình tri nhận phức tạp hơn nhiều so với việc đọc một tự sự bằng ngôn từ để lấp vào những khoảng bỏ ngỏ của nó, tạo thành một câu chuyện.

Đối với một bức tranh, một tấm ảnh tĩnh mà nhà nghiên cứu Werner Wolf gọi là tác phẩm một “pha” (monophase work), tính tự sự có thể thấy rõ trong trường hợp bức tranh, bức ảnh tái hiện lại một sự kiện nổi tiếng, nhiều người đã biết, thí dụ những tác phẩm hội họa lấy đề tài từ các tích trong Kinh Thánh chẳng hạn. Song tính tự sự của tranh không đơn giản chỉ là hệ quả của việc nó phải ký sinh vào những tự sự bằng lời. Một bức tranh có thể “kể” được khi nó phải tái hiện một biến cố, một trạng thái bất thường, từ đó khơi gợi được “tính thời gian”. Bức tranh của sử dụng những biểu trưng đã trở thành quy ước văn hóa để tạo thành “kịch bản” tri nhận cho người xem, giúp họ phán đoán các mối liên hệ và mường tượng được diễn tiến hành động. Tên của bức tranh cũng góp phần tạo ra sự gợi ý để người xem với vốn tri nhận của mình thiết lập nên câu chuyện.

Ta có thể phân tích bức tranh nổi tiếng của Edvard Munch – “Tiếng thét” (1893) để có trực quan về tính tự sự trong hội họa. Nhân vật trong bức tranh là con người đang ở trạng thái lo âu, căng thẳng, sợ hãi (trạng thái này có thể cảm nhận được qua động tác ôm đầu và nét mặt rất bất an của nhân vật) đang đi trên đường (theo các tài liệu cho biết con đường này ở thành phố Oslofjord, Na Uy). Khung cảnh trời chiều được đặc tả bằng một sắc đỏ ối (được pha bằng màu đỏ sẫm và cam); cách vẽ màu của Munch rất phóng khoáng, nét vung mạnh mẽ, chói gắt, gợi lên một ấn tượng bất thường, như thể có một điều gì đó dữ dội sắp ập xuống. Trong bức tranh, người ta nhìn thấy từ phía xa, có hai người mặc áo đen đang đi bộ. Dễ thấy so với một tự sự ngôn từ, bức tranh của Munch không thể thể hiện rõ nhân vật đang lo âu vì điều gì, đâu là mối liên hệ giữa buổi hoàng hôn đỏ quạnh và hai người trên cầu với nhân vật trong tranh, tiếng thét ở đây có phải là của nhân vật hay là từ cái gì đó mà nhân vật nghe được? Nhưng quả thật, tất cả những chi tiết trên đều cho phép ta hình dung một cái gì đó rất bất thường đang hoặc sắp xảy ra (tính thời gian), tác động đến nhân vật làm nhân vật rơi vào trạng thái sợ hãi, căng thẳng. Bức tranh như một tự sự mà các quan hệ nhân quả bị làm mờ buộc người đọc phải suy đoán. Mặc dù vậy, khi nói về tính tự sự của hội họa nói chung, ta hoàn toàn có thể tán đồng với nhận định của Werner Wolf: “[Nếu những bức tranh] được đọc như những tự sự tiềm năng, chúng tất yếu sẽ có những khoảng trống ngắt quãng về ý nghĩa, vì những đặc điểm quan trọng của tự sự đều thiếu vắng hoặc không thể nhận ra trong tranh. Ý nghĩa của những bức tranh như thế thường rất khó hiểu, nếu chúng không được kết nối với một tự sự ở bên ngoài chúng. Thêm vào đó, nếu không có những ám chỉ liên phương tiện, thì một bức tranh đơn rất khó tránh được sự mơ hồ về vị trí chính xác của “khoảnh khắc trọng yếu” xảy ra bên trong tự sự.”[16] Như trường hợp bức “Tiếng thét” của Munch, cho đến giờ người ta vẫn thôi tranh luận về ý nghĩa của bức tranh, màu đỏ của ráng chiều trong bức tranh có phải chỉ đơn thuần gợi nhớ đến những thảm họa thiên nhiên tàn khốc xảy ra quanh thời điểm Munch sáng tác, nỗi lo âu của nhân vật có liên hệ gì với đời sống tinh thần của họa sĩ, nhân vật thực sự nhìn thấy, nghe thấy cái gì để hốt hoảng, sợ hãi? Vì thế, có lẽ nên thận trọng như Wolf đề nghị: “Tóm lại, một bức tranh đơn chưa bao giờ có thể thực sự thể hiện được một tự sự mà tốt nhất, nó chỉ có thể là một gợi ý theo cách hoán dụ về một câu chuyện mà thôi.”[17]

Truyện tranh được phát triển trên nền một chuỗi tranh liên kết với nhau. Bởi vậy, tính tự sự của thể loại này cao hơn hẳn các tranh, ảnh đơn: nó có thể thể hiện được một hành động diễn ra trong thời gian, phản ánh được mối liên hệ nhân quả giữa cái xảy ra trước và cái xảy ra sau. Nhất là, thể loại này cho phép dùng lời (không chỉ giới hạn trong nhan đề của tác phẩm). Ngôn từ giúp truyện tranh bù đắp đáng kể những “khoảng trống ngắt quãng” của ý nghĩa, thể hiện được cụ thể những ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật, cho dù phần ngôn từ luôn phải gọn, kiệm, không lấn át phần hình họa. Họa sĩ cũng có thể có những quy ước trong cách vẽ để gia tăng gợi ý cho người đọc, với vốn tri nhận của mình, có thể liên kết các bức tranh trong chuỗi tạo thành một chuyện kể.

Ta sẽ phân tích một ví dụ từ một truyện trong tác phẩm comic strip (truyện tranh hài hước dạng ngắn, kể theo chuỗi) nổi tiếng, Popeye, của E.C.Segar. Câu chuyện được dùng làm ví dụ minh họa ở đây là “Nịnh đầm”, gồm 7 tranh kết chuỗi với nhau, có cỡ không đồng đều: tấm thứ 6 có kích cỡ nhỏ nhất và tấm cuối cùng có kích cỡ lớn nhất. Độc giả của loạt tranh truyện này đã được giới thiệu từ trước về các nhân vật chính sẽ xuất hiện trong series này với cách tạo hình cố định về tính cách và ngoại hình. Câu chuyện “Nịnh đầm” là màn đối thoại của ba nhân vật Popeye-Olive-Wimpy. Giả sử ta tước bỏ hết phần tranh và chỉ giữ nguyên phần thoại, chúng ta vẫn có một câu chuyện, phần nào cũng có thể gây cười được:

– Olive: Popeye, em đã tự tay nấu cho anh một bữa trưa thịnh soạn!

– Popeye: Suỵt! Nói bé thôi kẻo Wimpy nghe thấy

– Wimpy: Chào em Olive đẹp hơn hoa!

– Olive: Chào anh Wimpy!

– Popeye: Thiêng gớm nhỉ! Đừng có in mấy lời nhăng nhố, hắn nịnh đầm hòng ăn chực em thôi!

– Wimpy: Nịnh hồi nào! Em đẹp thật chứ bộ! Coi kìa nụ cười tỏa nắng, vóc dáng hút hồn, giọng nói như họa mi hót trong mưa.

– Popeye: Nghe phát tởm! Đừng tin, hắn chỉ giỏi ba xạo thôi!

– Olive: Ba xạo á? Ý anh là tôi không được như thế chứ gì? Wimpy, em sẽ đãi anh ăn trưa.

– Wimpy: Đúng ý anh quá! Bái bai Popeye, chàng ngốc thật thà!

Có thể thấy những yếu tố quan trọng sau đã bị mất khi câu chuyện trên bị lược bỏ phần hình ảnh. Thứ nhất, nó bị mất đi những yếu tố dẫn dắt (vừa có tính thời gian, vừa có tính nhân quả) mà hình ảnh đảm nhiệm được. Cụ thể ở đây là sự biến đổi sắc thái tâm lý của Olive và Popeye qua các lượt thoại mà khi xem tranh, người đọc có thể cảm nhận được qua nét vẽ của tác giả, trong đó. Thứ hai, khi rút gọn lại câu chuyện thành những lời thoại đơn thuần, người đọc chỉ có thể đọc các lượt thoại diễn ra tuần tự từ trước đến sau trong khi đó, nếu xem tranh, việc trình bày lời nói của các nhân vật trong các ô biểu diễn lời nói dàn hàng ngang khiến ta có cảm giác các lời nói cùng vang lên một lúc, gợi lên một sự va chạm “kịch tính” giữa các nhân vật. Điều này có lẽ được tô đậm hơn qua việc tác giả chủ ý thu hẹp lại kích cỡ bức tranh thứ sáu khi Olive dí sát mặt vào Popeye với vẻ đầy giận dữ: “Ý anh là tôi không được như thế chứ gì?” Bức tranh thứ bảy, kích cỡ lớn nhất, tạo ra sự tương phản với bức tranh thứ sáu, để nhấn mạnh kết cục khôi hài đầy éo le dành cho Popeye (hình ảnh của nhân vật lúc này được vẽ nhỏ hơn Olive và Wimpy cho thấy rõ sự thất thế của Popeye). Trong trường hợp này, yếu tố hội họa không phải là yếu tố minh họa cho phần lời, chính nó mới là nhân tố kết nối bề sâu tạo ra mạch lạc cho tự sự và hơn hết, khiến câu chuyện có những sắc thái tâm lý trực quan được đồng thời tạo nên ấn tượng hài hước đậm nét hơn.

Truyện tranh trên thực tế là một hiện tượng rất đa dạng, bao gồm nhiều thể loại, mang những đặc trưng riêng về phong cách vẽ, loại cốt truyện, loại độc giả hướng đến và cả những dấu ấn văn hóa của thời đại, của các quốc gia, các nhóm xã hội. Từ chỗ là một hiện tượng “ngoại biên”, vốn được mặc định như là thứ văn học giải trí hoặc chỉ dành cho trẻ nhỏ, truyện tranh ngày càng chứng tỏ là một hiện tượng độc lập không vừa khuôn với sự phân loại nghệ thuật theo truyền thống: nó không hoàn toàn là hội họa và nó cũng rộng hơn ý niệm về văn học vốn được định nghĩa là nghệ thuật ngôn từ. Truyện tranh hoàn toàn có thể thể hiện được những đề tài nghiêm túc, nó có thể thách thức những định kiến văn hóa, thách thức những giới hạn của nghệ thuật kể chuyện. Đã có hẳn những tạp chí chuyên ngành, những số chủ đề dành cho hiện tượng này, thí dụ tạp chí Journal of Graphic Novels and Comics, tạp chí Modern Fiction Studies, Volume 52, số mùa Đông 2006, tạp chí South Central Review, Volume 32, số 3, mùa Thu 2015… Và hàng năm, tạp chí điện tử Words Without Borders đều dành số tháng Hai để giới thiệu những tác phẩm tự sự truyện tranh trên khắp thế giới. Dù rất đa dạng, phong phú và đang rất phát triển năng động như vậy, nhưng nếu tiếp cận truyện tranh từ góc độ tự sự học, người nghiên cứu buộc phải quan tâm đồng thời cả phần hình ảnh lẫn phần lời của tác phẩm: yếu tố nào trong hình ảnh sẽ thúc đẩy mạch truyện, yếu tố nào sẽ tạo ra sự chuyển cảnh, yếu tố nào sẽ giúp cho phần lời được cô đọng lại hay có thể lướt đi, các thủ pháp đóng khung (framing device) nào được sử dụng để tạo ra sự thương thỏa giữa phần lời và phần hình? Những câu hỏi trên sẽ quyết định các kỹ thuật tự sự trong truyện tranh. Chẳng hạn, theo Will Eisner, một tác giả đồng thời là một trong những người lập thuyết quan trọng về truyện tranh: nếu dùng những bảng vẽ (panel) nhỏ, nối tiếp nhau, họa sĩ có thể gợi người đọc liên tưởng đến một tốc độ tự sự nhanh, gấp trong khi đó những bảng vẽ dài lại gợi ra một diễn tiến chậm của các hành động, sự kiện được miêu tả trong tranh.[18] Bản thân phần lời cũng có thể có những biến tấu về hình dạng để gợi ra cảm giác về giọng điệu của nhân vật, thí dụ: chữ phóng lớn đặt trong ô biểu diễn có hình giống tia sét sẽ làm người đọc liên tưởng đến trạng thái kinh hãi của nhân vật.

Ta có thể triển khai những gợi ý về cách tiếp cận này đối với tác phẩm Cửa sổ của Tạ Huy Long (2014) – một trong những tác phẩm hiếm hoi ở Việt Nam theo chúng tôi đáng được xem như một tiểu thuyết bằng tranh (graphic novel). Tác phẩm của Tạ Huy Long, khác với nhiều cuốn truyện tranh của Việt Nam đang được xuất bản khá nhiều trong vài năm gần đây, có sự kiệm lời cao độ. Sáu tranh mở đầu và năm tranh kết thúc đều không có phần thoại của các nhân vật, ngoại trừ bức tranh đầu tiên, tác giả có dùng âm thanh để mô tả tiếng xe đạp trên đường. Sự kiệm lời ấy, ít nhất, có hai ý nghĩa: thứ nhất, họa sĩ muốn khai thác sâu hơn tính tự sự của hình ảnh, để cho hình ảnh tự kể chuyện; thứ hai, tạo không gian rộng mở cho trí tưởng tượng của người đọc tham gia vào việc kiến tạo câu chuyện. Cuốn truyện mở đầu bằng những bức tranh khổ lớn mà người đọc Việt Nam, với vốn tri nhận của mình, có thể nhận ra đó là bối cảnh Hà Nội những năm 80, một Hà Nội nghèo nàn, vất vả sau chiến tranh. Kích cỡ lớn của ba bức tranh đầu tiên làm ta liên tưởng như thể đang xem một bộ phim bắt đầu bằng cảnh quay toàn cảnh, tiết tấu diễn ra từ từ. Tính thời gian được cảm nhận qua hình ảnh con châu chấu từ chỗ bay là là mặt đất (bức tranh 1) rồi vút lên cao (bức tranh 2), hình ảnh to dần lên (bức tranh 3). Các bức tranh tiếp theo đều có khung khổ nhỏ hơn, được trình bày như một chuỗi hành động nối tiếp nhau của nhân vật cho thấy nhịp điệu tự sự bắt đầu được đẩy lên nhanh, dẫn dắt người đọc cuốn vào cơn ác mộng của cậu bé trong truyện. Ngoài các yếu tố “bắt mắt” như màu sắc, đường nét, Tạ Huy Long rất ý thức việc chọn các kích cỡ của bảng vẽ để tạo ra sự di chuyển điểm nhìn không gian và cả tiết tấu của câu chuyện. Cửa sổ còn là một tác phẩm mang tinh thần tiểu thuyết ở chỗ sự kiệm lời của họa sĩ khiến cho câu chuyện như mang một kết thúc mở: mở trong phán đoán của độc giả về những gì diễn ra trong nhận thức của cậu bé, mở trong những cảm xúc mà câu chuyện gợi lên.

Như vậy, ta thừa nhận tính tự sự của tranh, ảnh và đặc biệt là ở truyện tranh, nhưng Wolf lưu ý, phương tiện hình ảnh cũng đặt ra những giới hạn. Dù gì đi nữa, trong truyện tranh, giữa từng bức, từng bảng vẽ trong chuỗi, vẫn có những khoảng khó xác định về mối liên hệ về cả thời gian lẫn tính nhân quả. Truyện tranh cũng khó khắc họa sâu được những diễn biến tâm lý, những trạng thái vô thức, những phán đoán giả định của nhân vật. Dẫu vậy, sự phát triển rất sung sức của thể loại này ở thời điểm hiện tại cho thấy: nghệ thuật luôn là sự đối mặt và thách thức những giới hạn tưởng chừng đã mặc định cho nó.

5. Tự sự học đa phương tiện và văn hóa đại chúng đương thời: Trường hợp Việt Nam

Tự sự học đa phương tiện là một cách tiếp cận thích ứng đối với nhiều hiện tượng văn hóa đại chúng đương thời. Một trong những đặc điểm nổi bật của văn hóa đại chúng hiện nay đó là sự bùng nổ đa dạng của phương tiện mới phục vụ cho nhu cầu kể chuyện của con người. Thêm nữa, những phương tiện mới ấy tiện lợi hơn, phổ cập hơn, có nhiều tính năng để tạo ra những hiệu ứng tự sự mới mà các phương tiện truyền thống chưa làm được. Mạng và các thiết bị số chính là những phương tiện đang gây ra những tác động đặc biệt đối với sự phát sinh và diện mạo mới của các tự sự hiện nay. Tiêu biểu nhất là sự phát triển của games điện tử. Xem games như một tự sự mà bản thân người chơi trở thành nhân tố trực tiếp cấu thành thế giới truyện kể, games buộc các nhà tự sự học phải nghĩ lại đến những khái niệm then chốt như người kể chuyện (games là câu chuyện được kể bởi ai), cốt truyện (trong games, cốt truyện phải chăng được xây dựng bởi người thiết kế, người thiết kế dựa trên những mẫu gốc nào để xây dựng nó, làm thế nào để người chơi dù chơi nhiều lần vẫn không mất đi cảm giác bất ngờ, rơi vào bẫy, v.v…). Các tự sự hình thành trên nền tảng kỹ thuật số – các hypertext – mặc dù vẫn chưa được đón nhận giống như games – như ít nhiều đã ảnh hưởng ngược trở lại đối với nghệ thuật tiểu thuyết và điện ảnh. Một bộ phim như Lara Croft: The Tom Raider (2001) trên thực tế là phiên bản chuyển thể của games được ra mắt trước đó Tomb Raider vào năm 1996. Tiểu thuyết House of Leaves của Mark Z. Danielewski (2000) – một cách tân thường được nhắc đến của văn học Mỹ đương đại – được kết cấu như một games thực sự, ngay từ hình thức của cuốn sách. Gần đây nhất, mạng xã hội và công nghệ livestream không chỉ khiến cho báo chí truyền thống phải dè chừng bởi khả năng cạnh tranh rất cao, mà ngay cả báo mạng và truyền hình cũng bị thách thức bởi giờ đây mỗi người đều có thể trở thành phóng viên, trở thành một nguồn cung cấp tin tức, một kênh tạo ra các tự sự của riêng mình. Chưa bao giờ người ta có thể trực quan sự tan rã của các đại tự sự như ở thời tiến bộ công nghệ diễn ra với tốc độ chóng mặt như thế này. Từ đó, theo chúng tôi, trong nghiên cứu, càng không thể đặt văn học tách khỏi những mối tương tác của nó với hệ sinh thái phương tiện quanh nó, để nhấn mạnh lại một luận điểm mà ở trên bài viết này có nhắc tới.

Các tự sự đa phương tiện đang tồn tại dưới nhiều hình thức phong phú trong đời sống văn hóa Việt Nam hiện nay và gây được những ảnh hưởng đáng chú ý, đặc biệt trong khu vực văn hóa trẻ.  Khái niệm “văn hóa trẻ” là một khái niệm rất cần quan tâm trong nghiên cứu văn hóa đại chúng. Đó là thứ văn hóa được làm nên và gắn bó với giới trẻ của một xã hội – bộ phận năng động nhất, dễ tạo ra những xu hướng phong cách sống mới, tạo ra những lệch chuẩn, những khác biệt mới trong đạo đức, thẩm mỹ, nhận thức. Văn hóa trẻ thường gắn với đô thị, bộc lộ từ những biểu hiện vật chất như ăn mặc, đầu tóc, xăm mình đến những hình thức tự do biểu đạt trong cách nói năng, cách nghĩ. Một nền văn hóa giàu tính khoan dung luôn cố gắng nới rộng không gian cho văn hóa trẻ, một thứ văn hóa luôn có thể phá vỡ những giá trị đã định hình, đã thành những khuôn thức. Bước đầu có thể nhắc đến những thể loại tự sự đa phương tiện đang khởi sắc hiện nay trong văn hóa Việt Nam và đồng thời hoàn toàn có thể tiếp cận chúng từ lý thuyết tự sự học:

– Truyện tranh: Một thời kỳ khá dài, phần lớn các truyện tranh được đón nhận nồng nhiệt bởi giới trẻ chủ yếu được dịch từ nước ngoài, đặc biệt là từ Nhật Bản. Trong lịch sử, ở Việt Nam, cũng đã có những họa sĩ chuyên về truyện tranh, song nói đúng hơn, tác phẩm của họ nên được gọi là sách tranh minh họa. Người ta hoàn toàn có thể bỏ phần tranh mà giữ phần truyện mà không mất mát gì đáng kể về ý nghĩa. Một hiện tượng đáng ngạc nhiên là trong khoảng 5 năm trở lại đây các tác giả Việt đã bắt đầu chiếm lĩnh thị trường truyện tranh. Có thể kể đến Lê Linh với Thần đồng đất Việt, Phong Ronin với Sát thủ đầu mưng mủ, Long thần tướng, Lê Bích (Huara Team) với Đời về cơ bản là buồn cười, Dịch tiếng Việt ra tiếng Yêu, Đời vai phụ, Mèo Mốc với Nhật ký mèo mốc, Bích Ngọc với Chuyện vặt của Múc, Thăng Fly với Quan trọng là phải đẹp trai… Trong những cuốn sách vừa nói đến ở trên, dạng comic strip có lẽ đang chiếm ưu thế hơn về số lượng so với tiểu thuyết tranh – graphic novel (Long thần tướng Cửa sổ là hai tác phẩm trong phạm vi những gì chúng tôi đọc được vừa vặn hơn cả với tính chất tiểu thuyết). Đặc trưng văn hóa trẻ thể hiện ở sự hài hước qua nét vẽ và ngôn từ của các tác giả: nguệch ngoạc, phóng đại, chủ ý xây dựng nhân vật như một biểu tượng icon chạy xuyên suốt cả series dài (Lê Bích, Đậu lướt ván, Mèo mốc…). Bám sát vào những tình huống đời thường và thời sự của giới trẻ, các tác phẩm comics thường tạo nên tự sự trên nền một thành ngữ được nhại chế, một sự kiện đang nóng, một trào lưu trên mạng xã hội. Nét vẽ phải làm sao nhấn mạnh được sự dí dỏm, sự cợt nhả hay sự ngoa ngoắt của nhân vật trung tâm trong series. Mỗi một truyện trong tác phẩm comic này có thể ví như một tập sit-com được cô đọng tối đa bằng hình vẽ và lời văn.

– Sách ảnh: Trường hợp chúng tôi muốn nhắc đến nhất ở đây là hiện tượng cuốn Humans of Hà Nội – Bước vào thế giới của nhau (2015) mà người trường nhóm dự án là Trần Quang Tuán và Bùi Hoàng Long. Dự án được truyền cảm hứng từ Brandon Staton, nghệ sĩ nhiếp ảnh người Mỹ sinh năm 1984 và mới chỉ bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp nhiếp ảnh từ năm 2010, người khởi xướng trang Humans of New York trên mạng xã hội facebook giới thiệu ảnh chân dung những con người đời thường, được chụp trong những khoảnh khắc thường nhật, đi kèm với những văn bản ngắn ghi lại câu chuyện mà họ tâm tình với người chụp. Brandon Stanton trên thực tế đã tạo ra một thể loại tự sự mới chứ không đơn giản chỉ là những bức ảnh. Phần văn bản và phần hình ảnh trong những cuốn sách chịu ảnh hưởng từ Humans of New York luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau. Có thể nói một cách hình ảnh, những bức ảnh-câu chuyện trong cuốn Bước vào thế giới của nhau là những truyện cực ngắn đa phương tiện. Người chụp ảnh cố gắng nắm bắt được những khoảnh khắc, những sắc thái nào đó của nhân vật khiến người ta phải “tò mò” đọc vào câu chuyện và ngược lại, câu chuyện cũng phải bỏ ngỏ một điều gì đó để người ta nhìn chăm chú hơn nữa vào bức ảnh chụp người kể câu chuyện ấy.

Sit-com: Là thể loại phim truyền hình ngắn, nhiều tập, đậm chất hài hước, thường là xoay quanh một dàn diễn viên cố định, với những câu chuyện chủ yếu gắn với sinh hoạt đời thường trong gia đình, công sở, trường học. Sitcom gần với kịch tiểu phẩm nhưng được thực hiện ở trường quay chứ không phải trên sân khấu, được quay từ nhiều góc khác nhau với tiết tấu luôn phải được duy trì ở mức độ nhanh, gọn. Sit-com ở Việt Nam bắt đầu với phim Lẵng hoa tình yêu được Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh sản xuất vào năm 2004 và đang ở giai đoạn phát triển khá nhanh với các series chạy được qua nhiều mùa như 5S online hay Phụ nữ là số 1. Lối nghiên cứu tự sự học kết hợp với phân tích diễn ngôn có thể giúp nhận thấy ở những tự sự bông đùa này có sự đóng khuôn những hình mẫu về giới tính, về sự khác biệt đô thị-nông thôn, sự phân hóa xã hội…

Với thực tiễn sống động của các dạng tự sự đa phương tiện trong văn hóa đại chúng Việt Nam hiện nay mà bài viết này mới chỉ đề cập rất sơ lược, có thể thấy nghiên cứu tự sự học đa phương tiện hoàn toàn thích ứng để tiếp cận bộ phận này. Cố nhiên, trong trường hợp này, tự sự học đa phương tiện phải có sự gắn kết với phê bình văn hóa (cultural studies) thì mới thật sự đi đến những phát hiện, khám phá có chiều sâu.

TRẦN NGỌC HIẾU

Nguồn: Tự sự học kinh điển & hậu kinh điển – Lý thuyết & ứng dụng, Trần Đình Sử chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2018, trang 339-365.


[1] Marie-Laure Ryan, “Narration in Various Media”, The Living Handbook of Narratology, http://www.lhn.uni-hamburg.de/article/narration-various-media

[2] Marie-Laure Ryan, tài liệu đã dẫn

[3] Marie-Laure Ryan, tài liệu đã dẫn

[4] Marie-Laure Ryan, tài liệu đã dẫn

[5] Werner Wolf,”(Inter)mediality and the Study of Literature”, CLCWeb: Comparative Literature and Culture 13.3 (2011): <http://dx.doi.org/10.7771/1481-4374.1789>

[6] Werner Wolf, tài liệu đã dẫn.

[7] Marie-Laure Ryan, “Narration in Various Media”, The Living Handbook of Narratology, http://www.lhn.uni-hamburg.de/article/narration-various-media

[8] Marie-Laure Ryan, tài liệu đã dẫn

[9] Marie- Laure Ryan, “Media and Narrative” in trong Routledge Encyclopedia of Narrative Theory, David Herman, Manfred Jahn & Marie-Laure Ryan chủ biên, NY:Routledge 2005, trang 292.

[10] Mark Turner, The Literary Mind. New York: Oxford UP, 1996.

[11] Marie-Laure Ryan, , “Narration in Various Media”, The Living Handbook of Narratology, http://www.lhn.uni-hamburg.de/article/narration-various-media

[12] Berys Gaut, “The Philosophy of the Movies: Cinematic Narration” in trong The Blackwell Guide to Aesthetics, Peter Kivy chủ biên, NY: Blackwell, 2004, trang 236.

[13] Markus Kuhn & Johann N. Schmidt, “Narration in Film”, The Living Handbook of Narratology, http://www.lhn.uni-hamburg.de/article/narration-film-revised-version-uploaded-22-april-2014

[14] Dẫn theo Patrick Keating, “Point of View (Cinematic)” in trong Routledge Encyclopedia of Narrative Theory, David Herman, Manfred Jahn & Marie-Laure Ryan chủ biên, NY:Routledge 2005, trang 440.

[15] Marie-Laure Ryan, “Narration in Various Media”, The Living Handbook of Narratology, http://www.lhn.uni-hamburg.de/article/narration-various-media

[16] Werner Wolf, “Pictorial Narrativity” in trong Routledge Encyclopedia of Narrative Theory, David Herman, Manfred Jahn & Marie-Laure Ryan chủ biên, NY:Routledge 2005, trang 432.

[17] Werner Wolf, “Pictorial Narrativity” tài liệu đã dẫn, trang 433.

[18] Jeanne C. Ewert, “Comics and Graphic Novel”, Routledge Encyclopedia of Narrative Theory, David Herman, Manfred Jahn & Marie-Laure Ryan chủ biên, NY:Routledge 2005, trang 72.

Dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn hóa trẻ đương đại (bài 2)

Bài viết của Trần Nguyễn Lan Nhi, sinh viên lớp CLC K65 là bài viết thứ hai tôi muốn giới thiệu trong chủ đề “Dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn trong văn hóa trẻ đương đại.” Sau khi đăng bài viết đầu tiên của bạn Vũ Thị Kiều Chinh, chúng tôi đã nhận được những phản hồi rất thú vị. Mới đây, tạp chí “Văn nghệ quân đội” đã giới thiệu bài viết của Chinh. Nhờ đó, những suy nghĩ, những cách đặt vấn đề của Chinh có thể tiếp cận với công chúng rộng hơn nữa. Tôi hy vọng, đúng hơn, tôi tin rằng, bài viết dưới đây của Lan Nhi cũng có thể nhận được nhiều chia sẻ.

Bouquet with Flying Lovers c.1934-47 by Marc Chagall 1887-1985

*

1. Không biết có phải do đọc thơ Xuân Diệu suốt những năm 17, cho nên, có một điều lạ, tôi luôn cho rằng từ “trẻ” thực chất là cách viết giản quy của sự lãng mạn. Ngày mẹ tôi cầm đàn ghita và hát ở tuổi 47 (điều mà tôi chưa từng nhìn thấy ở bà bao giờ), tôi đã nói “Mẹ trẻ quá!”. Ý tôi là, với tư cách một đứa con, tôi nghĩ tâm hồn mẹ theo thời gian đã khô cằn đi nhiều bởi sự khó tính quá mức với đời sống gia đình cũng như bộn bề của công việc mưu sinh, nhưng, hóa ra cô sinh viên của 27 năm về trước vẫn còn: lãng mạn, sôi nổi và cũng điên rồ lắm. Thế nên, có lý gì mà không thể kết luận chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn để lại những ảnh hưởng về cảm quan và thẩm mỹ trong văn hóa trẻ đương đại? Tôi hai mươi mốt và tôi trả lời “Có. Lúc nào cũng có.”

Chủ nghĩa lãng mạn bắt rễ vào nhiều khía cạnh của đời sống hiện đại. Những quán tính của văn học đôi khi trong những va đập của lịch sử không dủ khả năng để ngăn lại. Đến chừng nào, con người vẫn còn cần đến xúc cảm như một năng lực nhân tính, lãng mạn sẽ không mất đi. Nhất là ở thời kì này, cảm quan lãng mạn thực sự là một thứ sức mạnh tinh thần lớn. Nó trao cho con người một chiều kích để dám bình thường và một chiều kích để vĩ đại mà “dấn thân.”

“Một bài thơ cũ” của Lu hay “Đưa nhau đi đốn” của Đen được xem như là những tuyên ngôn, là mã hóa của đời sống giới trẻ đương đại. Tại sao những bài nhạc và phong cách thơ theo kiểu như thế lại trở thành trào lưu cho những tự sự của tuổi trẻ? Mà kiểu như thế là kiểu thế nào?

2. Mỹ học của thời đại mới trước hết là mỹ học nảy sinh từ đô thị. Đô thị lấp lánh thơm tho với cấu trúc bên trong như một cái máy say sinh tố vừa cắm điện, nuốt chửng và nhào nát từng cá thể bởi vô vàn những guồng quay của trách nhiệm, của mặc định xã hội, của tham vọng và của ước mơ “đầy tạm bợ”. Trong bước chân đầu tiên “gia nhập” vào cộng đồng ấy, những “gã trẻ” thấy lạc lõng và cô đơn khủng khiếp. Nó nhận ra thứ mình muốn và thứ người ta cần là sự vênh lệch quá lớn. Trong những đoạn dốc treo leo hướng đến lý tưởng của mình, nó bỗng chùn chân và muốn được “bình thường”. Nó ngại vội vã. Nó sợ ganh đua. Nó muốn được lắng nghe. Nhưng “ai cũng” là một lý do thỏa đáng. Thế giới đầy tính tự trị và quân chủ của một cá thể khiến cho phần còn lại của thế giới vẫn mãi là những “người lạ” không thể đồng điệu. Chính lúc này, nó tìm đến những hình thức biểu hiện khác nhau để giải phóng. Và viết, luôn là một sự an ủi lớn.

Chính nhà thơ Lu cũng chia sẻ anh chỉ viết khi cảm xúc đẩy anh phải viết. Anh viết rất tự nhiên. Anh viết về những gì anh cảm thấy, anh nhìn thấy. Anh viết về những người quanh anh, về anh, về Hà Nội. Những câu thơ bài hát trở thành lời tự thuật. Hiện thực mang tính phê phán bị dư thừa. Con người cần đến một sự lãng mạn để nhịp sống chậm hơn, để lắng nghe những cảm xúc và cảm giác bị xã hội tốc độ tua đi quá nhanh. “Anh về giữa Bùi Thị Xuân/ uống hai mươi cốc nhân trần cho say/thế thôi là hết một ngày”. Hai mươi cốc cơ mà. Ấy là những tự sự đầy mộc mạc, chân thật và “phản” đời thường khiến bài thơ tạo ra một sức hấp dẫn rất kì lạ. Như thể nó mở đường cho cái tinh thần “chống đối” đang nhen nhóm trong nhiều tâm hồn trẻ đang bị kìm chặt đến bí bách, ngột ngạt: “Bố anh thì đi lại/ Còn mẹ anh gọi điện thoại đến từng nhà/ Nhiều ngày rồi mình không về/ không liên lạc được gì cả/ chỉ vỏn vẹn lại mảnh giấy/ đừng lo đêm nay con đi chơi xa.

Xã hội đương đại đem đến cho người ta cảm nhận về một sự không ổn không thể gọi tên.Và văn hóa của giới trẻ là cách họ đối thoại lại với những sự không ổn ấy. “Ôi những thứ chán chường/ Không tẹo nào háo hức/ Mình rời thành phố chật chội náo nức/ Nơi mà việc thở cũng làm ta lao lực”; “đời cuốn xô ta/cả khi ta trống trong phòng ngủ/ âu lo theo về/ dù ta đã khóa ba lần cửa”. Họ không hề ổn với những bổn phận, ngay cả khi họ lựa chọn nó. Sự nâng đỡ về mặt đạo đức nay trở thành những gánh nặng.

3. Nếu như chủ nghĩa lãng mạn ghi dấu vào lối tư duy của người trẻ theo cách như thế thì cũng thật thú vị khi một vài những nguyên tắc mỹ học của nó cũng đi vào kết cấu nghệ thuật của các loại hình văn hóa giới trẻ.

Nếu trong chủ nghĩa lãng mạn cổ điển, con người đi vào thế giới của tôn giáo để thể hiện suy tư và niềm tin của mình, thì nay giới trẻ tạo lập cho mình một thế giới riêng – một thế giới có anh em,  một thế giới song song. Ngọt vẽ ra thế giới màu xanh: “Con đường màu xanh/ xanh màu lá, xanh đại dương/ không còn nhớ không còn thương/ em là nắng, anh là sương/ thiên đường màu xanh”. Với Vũ: “và xin đưa tôi về một nơi rất xa loài người, về một nơi phía sau mặt trời”. Ấy là thế giới lý tưởng đối với họ – nơi họ được sống là mình.

Hoặc thảng khi, họ quay về tìm lại quá khứ để trốn chạy hiện thực bất toàn và thiếu chắc chắn. “Ngày mai vẫn đến gió hát ngang trời/Còn mình nhắm mắt không nói một lời / lại được thấy mùa hè ta gặp nhau, lại được sống mùa hè ta gặp nhau”. Giống như Huy Cận cô đơn, lạc lõng tìm về với vần thơ Đường cổ kính, “Nhắm mắt thấy mùa hè” hình như cũng mượn giai điệu nhạc Hoa cổ để hoài niệm về những thứ xa xăm đã đi qua.

Nếu như ngày trước, Nguyễn Tuân – một cây bút lãng mạn được xem là nhà văn của chủ nghĩa xê dịch; thì nay, giới trẻ cũng “ngả mũ” học hỏi lối sống ấy. Xê dịch, quả thực, đem lại cho người ta những cảm giác thuộc về trải nghiệm cá nhân. Cảm giác bạn thuộc về nó nhưng cũng chẳng thuộc về nó; cảm giác về những tri nhận với mây trời, thiên nhiên thay vì là tòa nhà cao trọc trời, cảm giác được buông bỏ những bổn phẩn để “một lần được sống như những đứa nhóc không nhà/ sớm thức dậy ở một nơi xa”,… chưa bao giờ lại đáng đến thế.

Đặc biệt, vận dụng và quay về với các chất liệu dân gian “Em đừng xanh quá khổ anh/ khổ thân con cáo hóa thành cây si” hay ngôn ngữ bình dân, kiểu thơ con cóc “anh đứng đầu Hồ Đắc Di/ ngóng Lương Đình Của lầm lì gọi em/ em đừng lạnh lùng giống que kem/ để trong ngăn đá bỏ quên một tuần” cũng là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa lãng mạn. Hay thậm chí cách phối nhạc với những làn điệu dân ca như trong “Ai chờ ai” (Linh Cáo) hay kết cấu tự sự kiểu Bolero trong “Ừ thì” khiến cho âm nhạc giới trẻ ngày nay bàng bạc những dấu vết của một thời ông cha. Nhiều người của thế hệ đi trước hay đánh giá tuổi trẻ bây giờ không sâu sắc, nông cạn. Bắt từ một mạch cũ để tạo ra một thứ riêng như thế có gọi là nông cạn được nữa không?

4. Những nghệ sĩ trẻ đem tâm trạng rất đời của mình để làm chất liệu cho những sản phẩm nghệ thuật. Và đúng như quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn: “Khờ khạo thay nếu cho rằng tôi không phải là anh” (Victor Hugo). Mỗi tự sự của họ, tôi thấy mình trong đó. Và mỗi đêm về tôi vẫn lải nhải: “Vì sao lại khóc. Vì sao lại buồn? Vì sao mưa không về. Tôi nằm giữa mênh mông tôi thẫn thờ. Tôi nằm giữa căn nhà nhìn lên nắng.” dẫu rằng đông đã sang và chẳng còn nắng. Nhưng giống như thời cha mẹ tôi thích nghe nhạc Bolero vì họ tìm thấy mình trong ấy thì tôi cũng thế. Tôi nghe trong những loại hình văn hóa của thế hệ tôi những câu chuyện của mình. Tôi thích nó vì tôi tìm thấy một sự lắng nghe trong ấy – thứ mà đời thực không cho tôi quá nhiều. Tôi cảm giác mình được hiểu. Và thế là “ngày nắng đẹp rạng ngời hay gió về hay bão táp mưa rơi”, tuổi trẻ vẫn tiến lên một cách thật điên rồ và huy hoàng. Cái lý tưởng đẹp đẽ và sự vươn lên của con người trước hoàn cảnh như thế, phải chăng chính là điều còn lại của chủ nghĩa lãng mạn?

Trần Nguyễn Lan Nhi

SV lớp CLC K65, Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội

Phục trang bản ngã trong văn học mạng – Nhìn từ một số thể loại

rupi kaur

 

1. Bản ngã như là kết quả của sự phục trang

Khái niệm “phục trang bản ngã” (self-fashioning) được đề xuất lần đầu tiên bởi nhà nghiên cứu Stephen Greenblatt thuộc Đại học Harvard, Hoa Kỳ trong chuyên luận – Renaissance Self-Fashioning: From More to Shakespeare (Sự phục trang  bản ngã ở thời đại Phục hưng: từ More đến Shakespeare, 1980). Ở công trình nghiên cứu gây nhiều ảnh hưởng này, Greenblatt đã phân tích cách mà bộ phận thuộc tầng lớp trên ở nước Anh thế kỷ XVI kiến tạo căn tính và mặt nạ công cộng (public personae) theo những chuẩn mực xã hội như thế nào. Không phải ngẫu nhiên ông lại sử dụng động từ “phục trang” để mô tả quá trình tạo hình bản sắc của con người thời bấy giờ bởi công việc này bắt đầu từ việc người ta phải ăn mặc sao cho tương xứng với địa vị và đẳng cấp của mình. Nhưng không chỉ được dùng với nét nghĩa về sự tạo hình bề ngoài, ở thế kỷ XVI, từ này còn thể hiện việc con người tạo cho mình “một tính cách đặc thù, một cách đặc trưng để thể hiện bản thân trong thế giới, một phương thức nhất quán trong nhận thức và ứng xử”.[1] Có nghĩa là, “phục trang” ở đây còn bao hàm những phương diện khác như học vấn, nghi thức giao tiếp, phong thái, thị hiếu… Như thế, “phục trang” chính là một thực hành văn hóa của con người.

Greenblatt từ chối xem bản ngã (self), căn tính cá nhân (individual identity) như một cái gì tự nhiên, nằm sẵn trong mỗi con người mà cũng là một ý niệm được kiến tạo, được “phục trang” trong những ngữ cảnh văn hóa nhất định. Văn hóa, theo ông, cần được nhìn nhận như sau: “Toàn bộ những niềm tin và các hoạt động hình thành nên một nền văn hóa nhất định đóng vai trò như một thứ công nghệ kiểm soát bao trùm tất thảy, một tập hợp các giới hạn mà các hành vi xã hội phải được bao hàm trong đó, một danh mục những mô hình mà mỗi cá nhân phải thích ứng theo. Các giới hạn này không nhất thiết phải hẹp…song không thể rộng vô bờ bến được và hậu quả của việc vượt quá các giới hạn này có thể rất nghiêm khắc”[2] Bản ngã cá nhân, theo đó, được kiến tạo  vừa như là nỗ lực để thích nghi với những giới hạn, khuôn mẫu mà văn hóa áp lên mình, lại vừa như là sự kháng cự, bất tuân những giới hạn, khuôn mẫu ấy. Greenblatt đã nhìn ra mâu thuẫn nội tại của văn hóa thời kỳ Phục hưng: một mặt, thời đại này vừa có những khoảng tự do cho phép con người có những lối nghĩ khác, lối sống khác, có sự linh động trong mối quan hệ giữa các tầng lớp và địa vị xã hội, mặt khác, lại vừa có những sức mạnh muốn hạn chế, kiềm tỏa, thậm chí phá hoại những khả năng khác ấy. Việc phục trang cho bản ngã là một hành động thương lượng liên tục giữa những mâu thuẫn, xung đột này. Nó vừa là sự phục tùng những quy ước, chuẩn mực văn hóa, để có thể được thừa nhận nhưng cũng vừa là sự bất tuân, khiêu khích với những giá trị áp đặt, để thể hiện quyền tự do cá nhân. Một xã hội cởi mở với sự phát triển của con người cá nhân không thể chỉ dùng sức mạnh của nó, qua các thiết chế, các chuẩn mực, để buộc cá nhân phải quy phục; nó còn cần cả sự độ lượng, rộng rãi để  dung nhận sự dám lệch chuẩn, dám khác biệt của các cá nhân.

Cách tiếp cận của Greenblatt về bản ngã cá nhân, như đã nói đến ở trên, có sức gợi mở lớn đối với giới nghiên cứu. Phục trang cho bản ngã không chỉ là một hiện tượng ở thời Phục hưng mà cần phải xem nó như một khía cạnh quan trọng của thời hiện đại. Nó thậm chí còn được xem được như một “thứ nghệ thuật vĩ đại và hiếm hoi”, như Nietzsche đã khẳng định trong tác phẩm The Gay Science (Khoa học vui). Theo ông, ở thứ “nghệ thuật” đặc biệt này, những bậc thầy của nó “đã tìm hiểu tất cả điểm mạnh và điểm yếu trong bản chất của mình, rồi sau đó lắp chúng vào một bản kế hoạch nghệ thuật, cho đến khi mọi điểm mạnh/yếu ấy hiện ra như là nghệ thuật.”[3] Sáng tạo bản ngã là một lao động cũng đòi hỏi sự tinh tế, công phu, và đặc biệt, là tính thẩm mỹ. Nhà nghiên cứu triết học Costica Bradatan có lý khi cho rằng giữa việc sáng tạo bản ngã và sáng tạo văn chương có sự tương đồng sâu sắc.[4] Bản thân ông đã vận dụng khái niệm này để phân tích các triết gia tử đạo đã bản lĩnh, táo bạo và thách thức như thế nào khi dùng chính cái chết của mình để phục trang cho bản ngã, thậm chí, xa hơn thế, biến điều này trở thành tác phẩm lớn nhất của đời mình, có thể gây ảnh hưởng và sức lan tỏa lâu dài đến hậu thế.

Văn học và sự phục trang bản ngã có mối liên hệ mật thiết với nhau. Greenblatt viết: “Văn học hành chức trong hệ thống này [quá trình kiến tạo bản ngã của một cá nhân trong mối tương tác qua lại với văn hóa – T.N.H] theo ba cách đan cài chặt chẽ với nhau: như là sự biểu hiện hành vi cụ thể của tác giả; như là sự biểu đạt những mã chi phối hành vi ấy; như là sự suy tư về chính những mã ấy.”[5] Hiểu như vậy, viết văn, trước hết, thể hiện tham vọng kiến tạo cái tôi của người viết. Ý niệm này có phần gần gũi với một thuật ngữ vốn được sử dụng khá nhiều trong nghiên cứu thi pháp học ở Việt Nam – “hình tượng tác giả”. Thuật ngữ này muốn nói đến “sự tự ý thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm, một vai trò được người đọc chờ đợi.”[6] Vai trò đó được tác giả bộc lộ qua tư thế mà anh ta thấy mình trong thế giới, qua những động tác, điệu bộ, phong thái được phô diễn trong tác phẩm, qua giọng điệu mà anh ta muốn nói với thế giới, với người đọc tiềm ẩn. Tất cả những điều này, đến lượt chúng, lại bị quy định bởi những ngữ cảnh văn hóa. Thí dụ, trong văn học trung đại, khi soạn một bài cáo, người viết luôn phải ý thức về vai “quân vương” mà mình sắm và vai trò này có những bắt buộc đối với sự tự trình hiện (self-representation) về khẩu khí, về tư thế giao tiếp trước bàn dân thiên hạ. Trong văn học lãng mạn, hình tượng tác giả là cái tôi tự ý thức về tính cá biệt, độc đáo của mình và cái làm nên tính cá biệt, độc đáo ấy, quan trọng hơn hết, là cảm giác, cảm xúc của con người. Những trạng thái cảm xúc vu vơ, mơ hồ, không mục đích, vốn ít khi được xem là những yếu tố cần phô diễn trong thơ ca trung đại, giờ đây lại thành “chất liệu” đặc biệt để tạo hình cái tôi. Giống như một diễn viên trên sân khấu, khi tác giả ý thức được “vai” mình phải “đóng” trong tác phẩm mình viết, anh ta hiểu mình cần phải nương theo những “kịch bản”, những “chỉ dẫn sân khấu” nhất định – những ẩn dụ cho các quy ước, chuẩn mực của một ngữ cảnh văn hóa – để có thể tròn vai. Nhưng để có dấu ấn cá nhân, anh ta cũng phải hiểu mình có những quyền tự do nhất định trong sự thể hiện vai diễn đó, có như thế, hình tượng của anh ta mới có sức hấp dẫn đối với công chúng.

Mặc dù có nhiều nét tương đồng nhưng chúng tôi nghĩ khái niệm “phục trang cho bản ngã” vẫn có những điểm khác biệt quan trọng so với khái niệm “hình tượng tác giả”. Thứ nhất, phạm vi ứng dụng của khái niệm đầu rộng hơn: trong khi khái niệm “hình tượng tác giả” chỉ gắn với các văn bản văn học thì khái niệm “phục trang bản ngã” có thể được dùng để tiếp cận nhiều loại hiện tượng văn hóa hơn. Chẳng hạn, hoàn toàn có thể dùng khái niệm này để nghiên cứu các hình thức khẳng định cá tính của giới trẻ đô thị như cách ăn mặc, xăm trổ, điệu bộ, gu thẩm mỹ, v.v… Khi nghiên cứu văn học ở thời điểm này chuyển hướng theo khúc ngoặt văn hóa, một khái niệm có phổ áp dụng rộng như vậy tiềm tàng khả năng trở thành một khái niệm công cụ hiệu quả. Thứ hai, khái niệm mà Greenblatt đề xuất là một cách tiếp cận độc đáo về “bản ngã”. Không những nó cho thấy bản ngã là một ý niệm mang tính nhân tạo, là một “sản phẩm văn hóa” được làm ra, mà còn cho thấy sản phẩm ấy được làm bằng những “chất liệu” nào. Những “chất liệu” này nhiều khi là những yếu tố rất vật chất, hữu hình như thời trang, phương tiện đi lại, không gian sinh hoạt, thậm chí cả các loại bệnh tật… Một khi nhận thức được tính chất nhân tạo của ý niệm bản ngã, người ta có thể giải phóng mình khỏi những cảm quan tiền định về nó, sẽ ý thức được thứ tự do mà mình có để sáng tạo chính mình, tìm thấy nhiều khả thể của mình. Và người ta có thể thực hiện điều này bằng việc thay đổi, làm mới những “chất liệu” cấu thành nên bản ngã. Đấy chính là cách thương thỏa giữa ta và các diễn ngôn về căn tính, các chuẩn mực, khuôn phép xã hội. Thí dụ, trong cuốn Fashion: Very Short Introduction (Dẫn luận về thời trang), tác giả Rebecca Arnold đã đưa ra nhiều dẫn chứng rất sinh động trong lịch sử để cho thấy người ta có thể dùng trang phục để tạo nên những căn tính mới, thách thức những phân định về văn hóa xã hội như thế nào, từ việc những người đàn ông  ăn mặc theo phong cách Macaroni ở châu Âu thế kỷ XVIII vốn diêm dúa, sặc sỡ, qua đó xúc phạm những hình mẫu về nam tính đến việc phụ nữ mặc quần dài hồi đầu thế kỷ XX, qua đó phá vỡ những định kiến về tính nữ cũng như giai cấp.[7] Khái niệm “phục trang bản ngã” có lẽ càng dễ trực quan hơn trong thời đại internet. Đó là lý do mà bài viết này sử dụng nó làm một khái niệm công cụ để tiếp cận một số hiện tượng văn học mạng.

 

  1. Phục trang bản ngã và văn học mạng

Sự ra đời và phát triển của internet từ những năm cuối thế kỷ XX đã làm thay đổi ngoạn mục cảnh quan văn hóa của nhân loại. Những tác động ấy khó liệt kê xong xuôi được nhưng ở bài viết này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh vào một khía cạnh: internet dẫn đến sự ra đời của các mạng xã hội và điều này làm lung lay, nếu không muốn nói là phá vỡ, sự độc tôn của các không gian công (public sphere) truyền thống và chính mạch, tạo ra một không gian rộng rãi chưa từng có trong lịch sử văn hóa cho tự do biểu đạt của các cá nhân. Không cần phải qua các trung gian được bảo đảm nhưng đồng thời cũng chịu sự kiểm duyệt bởi các thiết chế xã hội như báo chí, xuất bản, các giải thưởng, v.v…, mỗi cá nhân giờ đây có thể trở thành chủ nhân của một kênh truyền thông, tự xây dựng uy tín hay sức hấp dẫn của bản thân qua các bài viết, các hình ảnh mình đăng tải, các tin tức mình đưa ra, bình luận, từ đó, tăng quyền (empower) cho mình, tạo ra thế đối xứng với các kênh truyền thông khác, kể cả các kênh chính thống. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2006, báo Times đã chọn YOU – những người sử dụng những tiện ích của mạng như Youtube, blog, Facebook… như một kênh truyền thông cá nhân, độc lập – là nhân vật của năm, nhân vật tạo được những ảnh hưởng mạnh nhất đến thế giới, chứ không phải là một chính trị gia, một lãnh tụ tôn giáo, một chủ tập đoàn lớn, hay một nghệ sĩ.[8]

Mạng cũng chính là không gian dành cho sự phục trang bản ngã. Khi giao tiếp trên mạng, mỗi cá nhân, trên thực tế, đều phải tạo hình cho cái tôi của mình: chọn một biệt hiệu, chọn một hình ảnh đại diện, đăng một dòng tâm sự, đưa ra một lời bình luận. Lượt tương tác, bấm “like”, chia sẻ của người theo dõi mình dễ kích thích người ta làm thế nào để hình ảnh của mình được chú ý hơn, được ưa thích hơn, gây ấn tượng hơn. Điều này tạo ra quyền lực và cả lợi nhuận cho người tham gia mạng xã hội. Các KOL (key opinion leader) – một thuật ngữ chỉ những người có khả năng dẫn dắt dư luận, tạo các xu hướng trên mạng từ gu ăn uống, thời trang, du lịch cho đến các quan điểm về các vấn đề xã hội – vừa là những hình tượng quyền lực trong truyền thông, vừa là những người có thể kiếm tiền được từ sức ảnh hưởng của mình, bởi lẽ mạng xã hội giờ đã trở thành công cụ quảng cáo hiệu quả. Nền tảng kỹ thuật của các trang mạng cho phép ta có thể ưu tiên cách thức nào để phục trang bản ngã: nếu như các blog thuận lợi hơn cho việc viết lách thì Instagram là nơi người ta có thể thu hút sự chú ý của người khác qua các hình ảnh mình đăng tải và Youtube là nơi ta có thể phô diễn mình qua các clip, hình ảnh động hay phim ngắn… Bằng việc hiện diện trên mạng xã hội, mỗi người có quyền chọn một điểm nhấn ở bản thân, khuếch trương nó lên như là một phương diện bản sắc cá nhân để hấp dẫn người khác. Đó có thể là vẻ đẹp ngoại hình, cá tính độc đáo, tài lẻ đặc biệt, chính kiến sắc sảo, trải nghiệm phong phú… Chính bởi tính nhân tạo quá rõ nét của cái tôi trên mạng này mà người ta vẫn thường định kiến “mạng là ảo”. Nhưng xét đến cùng, ở không gian nào, con người cũng phải phục trang cho bản ngã.

Văn học dĩ nhiên không khước từ những khả năng mà internet và mạng xã hội tạo ra. Khái niệm “văn học mạng” ra đời trước hết như là kết quả của việc người viết tận dụng những ưu thế của internet cho hoạt động sáng tác, công bố và truyền bá tác phẩm của mình: điều kiện xuất bản tự do, độc lập; khả năng truyền bá nhanh chóng, rộng rãi, sự tương tác tiện lợi khiến mối quan hệ giữa độc giả và người viết trở nên gắn bó hơn, tạo nên những tiêu chí đánh giá mới, không phụ thuộc vào quyền uy của phê bình chuyên nghiệp, nền tảng kỹ thuật số cho phép người viết có thể tìm tòi những hình thức biểu đạt mà in ấn truyền thống không gợi ý được. Nhưng văn học mạng nên được định nghĩa thế nào? Trong những tranh luận sôi nổi nhất về văn học mạng cách đây hơn 10 năm, khi văn học mạng trở thành một hiện tượng thời sự với sự ra đời của các tạp chí văn chương điện tử với ý hướng tạo ra những cách tân thẩm mỹ và ở cực kia là sự xuất hiện của một số cây bút với những cuốn sách có xuất xứ từ blog cá nhân cùng với làn sóng dịch thuật các tiểu thuyết mạng từ Trung Quốc, hướng đến thị hiếu đại chúng, đặc trưng của nó thường được nhận diện trong sự đối lập với văn học được in trên giấy. Chẳng hạn, Inrasara cho rằng văn chương mạng phải là sáng tác của “các tác giả chỉ muốn xuất hiện trên mạng… Họ sống đời sống văn chương của mạng, viết trên mạng, vận dụng ưu thế kĩ thuật của Internet, xử lí thông tin trên mạng, tương tác trên mạng, tồn tại trên mạng, buồn vui trên mạng, hi vọng hay thất vọng cũng trên mạng… Họ là công dân mạng toàn phần. Và có thể nói đây là thứ văn chương mạng đúng nghĩa, khác hẳn các sáng tác được đăng trên mạng. Văn chương mạng khi in ra giấy sẽ mất đi hơi thở đời sống mạng và giảm “giá trị đích thực” của nó không ít!”[9] Nhưng chính đời sống của văn học đương đại khiến ta cần phải nhìn nhận lại mối quan hệ giữa mạng và sách giấy. Đó là mối quan hệ cộng sinh thay vì đối lập, nhất là nhìn từ hành vi phục trang cho bản ngã. Thu hút độc giả mạnh bậc nhất vào thời điểm này là các tác giả mà hình ảnh của họ trên mạng xã hội tạo được chú ý lớn đối với công chúng, nhất là lớp trẻ. Họ biết “phục trang cho bản ngã” của mình theo những cách để công chúng không dễ quên trong thời đại bão lũ thông tin. Có thể thấy ngay qua cách họ tự giới thiệu về mình trên truyền thông: một thư sinh lịch lãm, phong lưu, giàu cảm xúc (Anh Khang), một cô gái tự tin về vẻ “xấu lạ” của mình (Mèo Xù), một kẻ “ngoại hình tầm thường, tính khí thất thường, đi trên dây thành thạo” (Lu), một cô gái tự nhận mình là “Ta ba lô”, có nhiều trải nghiệm về du lịch (Đinh Hằng), hay thậm chí một người có khả năng kể những chuyện cười “bậy”, “bựa” (Song Hà)… Theo những cách khác nhau, họ nhấn mạnh “đặc điểm nhận dạng” của họ trong thế giới mạng, trong đó, nét khác biệt, lập dị, sự bất cần, tuyên ngôn sống khiêu khích… không phải là những điểm cần nén giấu mà trái lại, có thể biến thành những điểm thu hút sự chú ý. Việc họ xuất bản những gì đăng tải trên trang cá nhân của mình thành sách cũng nằm trong dự phóng phục trang cho bản ngã đó. Khi xuất bản sách, ngoài việc những tác giả này phải chấp nhận kiểm duyệt ở mức độ nhất định, thì cũng có thể coi đây là cơ hội để họ chỉnh sửa lại “trang phục” mà họ mặc cho bản ngã của mình, khiến hình ảnh ấy hấp dẫn hơn, lôi cuốn hơn đối với công chúng. Sách ở đây là phương tiện để mở rộng thêm sức ảnh hưởng của họ.

Phục trang bản ngã có thể xem yếu tố nằm sâu trong tâm lý sáng tác của những tác giả văn học mạng, trong đó có việc lựa chọn thể loại. Thể loại, từ góc độ này, được tiếp cận như là phương thức để người viết xây dựng hình ảnh, biểu đạt cái tôi của mình một cách ấn tượng và thuyết phục đối với công chúng nhất. Điểm đáng lưu ý là rất nhiều các tác giả nổi bật của văn học mạng gần đây tuyên bố họ không phải là nhà văn, cuốn sách của họ không phải là văn học. Những tuyên bố ấy, một mặt, cho thấy họ mang một tâm thế nhẹ nhàng trong việc viết lách, không mang theo mình những trách nhiệm lâu nay thường được gắn cho văn học như là thiên chức, sứ mệnh của nó. Viết, đơn giản, là một hứng thú cá nhân để trưng diện cái tôi của mình, bên cạnh nhiều cách để trưng diện khác: cái tôi ấy có thể với ai đó là nhạt nhẽo hay thú vị, nhưng trước hết, việc biểu đạt nó là niềm vui của người viết. Mặt khác, họ tuyên bố vậy bởi nhiều người trong số họ lựa chọn các thể loại lâu nay thường bị xem là ngoại biên, thậm chí là cận văn học (như truyện tranh), nhưng vì thế lại khiến họ thoải mái, tự do hơn trong việc biểu đạt. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn ba thể loại, phân tích diện mạo của chúng trong mối liên hệ với ý thức phục trang bản ngã trên không gian mạng là tản văn, truyện tranh và thơ. Sự lựa chọn này có lý do: một thể loại hiện đang phát triển sung sức nhất (tản văn); một thể loại nhờ sự lan tỏa của không gian mạng trở thành một hiện tượng rất cần quan tâm trong đời sống văn hóa trẻ (truyện tranh); và một thể loại mà sự cộng hưởng với không gian mạng đã khiến sinh mệnh của nó có những biến động thú vị (thơ).

2.1. Tản văn

Tản văn có thể xem là thể loại đang giữ vị trí chủ lực của văn học mạng, nếu căn cứ vào các đầu sách được xuất bản và bán chạy, dù nó không phải là thể loại được khai sinh từ mạng. Thể loại này, theo chúng tôi, thỏa mãn nhu cầu phục trang bản ngã ở thời đại internet bởi hai đặc điểm. Thứ nhất, tản văn là thể văn xuôi tự do nhất: nó hầu như không đặt ra bất cứ quy phạm nào về đề tài, kết cấu, bút pháp, giọng điệu. Phẩm chất tự do này cho phép người viết có thể tùy biến với thể loại để biểu đạt bản thân, giống như người ta có thể phối đồ một cách phóng túng, linh hoạt nhất trên cơ sở những trang phục và phụ kiện có sẵn. Thêm nữa, phẩm chất tự do này còn bắt nguồn từ chỗ tản văn vốn là một thể loại “hầu như bị lãng quên” trong thế kỷ XX, không được quan tâm miêu tả trong bất cứ công trình văn học sử nào và cũng không được chú ý nghiên cứu từ góc độ lý thuyết.[10] Địa vị “ngoại biên” này của tản văn lại tương thích với tâm thế giải nghiêm trọng hóa đối với việc viết lách của nhiều tác giả. Những tên gọi khác nhau dành cho thể loại này như nhàn đàm, phiếm luận, tạp bút, tản mạn… phần nào cho thấy với nhiều người viết, tản văn giống như một thể “văn chơi”. Thứ hai, tản văn được xem là một thể văn phi hư cấu (non-fiction). Có vẻ như nghịch lý song trên chính không gian được coi là “ảo” này, cái thật, cái thực lại là yếu tố gây hấp dẫn lớn nhất. Sự phát triển của công nghệ càng ngày càng tạo điều kiện để những người tham gia mạng xã hội trình diễn “sự thật”. Chẳng hạn, một ứng dụng như livestream khiến ta không chỉ nghe, nhìn “cái thật” mà còn có thể trực tiếp tương tác với nó. Đối với hoạt động viết lách, tính chất cởi mở, tự do của không gian mạng cũng khiến người viết muốn dùng tản văn để thể hiện “cái thật” nhất của mình. Cái “thật” ở đây nên được hiểu như là hiệu quả của sự “phục trang bản ngã”, giống như trong nghệ thuật hóa trang, kẻ thành công nhất là kẻ có mặt nạ mà người khác thấy “giống thật” nhất. Các tác giả cũng thường phát triển bài tản văn của mình trên nền các thể loại lời nói vốn được xem là bảo đảm cho “sự thật” như nhật ký, thư từ, hồi ức…

Nhìn từ khía cạnh “phục trang bản ngã”, tản văn mạng hiện nay nổi lên một số “vai” mà các tác giả muốn sắm. Có lẽ bắt đầu từ hiện tượng gây nhiều chú ý – Ký ức vụn của Nguyễn Quang Lập (xuất bản lần đầu vào năm 2009), một dòng tản văn mạng có lối viết gần với giai thoại hay tiểu phẩm chính thức hiện diện và tạo thành một vệt ấn tượng cho đến bây giờ, mà ta có thể nhắc thêm một số tên tuổi khác như Võ Tòng Đánh Mèo (nickname/bút danh của Đinh Long), Song Hà (nickname: Boy Già), Đinh Vũ Hoàng Nguyên (nickname: Thầy bói già)… Ở dòng tản văn này, tác giả chủ ý xây dựng hình tượng của mình như là một người tếu táo, thích bông đùa, cà khịa. Mạng được họ hình dung như một không gian thân mật, nơi họ có thể giao tiếp với người đọc như bạn bè một cách dân chủ, bình đẳng, suồng sã. Nguyễn Quang Lập từng gọi blog của ông là “chiếu rượu quê choa” – một hình ảnh tự nó đã gợi ra một không gian giao tiếp giữa những người bằng vai, nơi họ có thể trò chuyện bằng một thứ ngôn ngữ thù tạc kiểu “chén chú chén anh”, không phải khách khí, câu nệ. Lớp khẩu ngữ sống động, luôn cập nhật những từ khóa thời sự, những thành ngữ thời thượng, đặc biệt, không ngại những cách diễn đạt “bậy”, “bựa”, “lầy”… cho thấy tinh thần carnival đậm đặc trong dòng tản văn này. Có một lưu ý ở đây: nhiều người gọi những bài văn được công bố trên mạng rồi đưa vào sách của những tác giả này là truyện ngắn trào phúng. Nhưng chúng tôi cho rằng chúng nghiêng về tính chất tiểu phẩm nhiều hơn: về mặt nội dung, chúng đa phần xoay quanh các sự kiện mà các tác giả thường cam đoan là “chuyện thật” của mình; về mặt dung lượng và cấu trúc, chúng thường ngắn, thường xoay quanh một tình huống nảy sinh trong đời sống thường nhật, về cách kể chuyện, chúng có thể làm ta liên hệ đến hình thức tấu hài vốn khá phổ biến trên truyền hình hiện nay. Song xét về mặt nguyên mẫu, hình thức phục trang bản ngã của các tác giả tản văn thuộc dòng mạch này lại gần với các nhân vật nói trạng, nói khoác, nói nhại…trong văn học dân gian truyền thống. Đó là những nhân vật “bịa chuyện như thật” nhưng vô hại, nói nhảm nhưng vui, chọc cười nhưng có duyên, không làm tổn thương ai, và khi can đảm, cũng có thể dùng khả năng hài hước của mình để chỉ trích, phê phán. Nhu cầu đùa vui, giải bỏ áp lực cũng như cấm kỵ trong đời sống khiến thời hiện đại cũng cần những nhân vật như vậy. Mạng đã trở thành không gian carnival cho sự tái diễn của các nguyên mẫu văn hóa dân gian này, tất nhiên, trong những diện mạo mới.

Một dòng mạch khác cũng rất nổi bật trong tản văn đương đại mà chúng tôi tạm đặt tên là dòng tản văn trải nghiệm. Ở dòng tản văn này, cái tôi tác giả thường được phục trang trong  hình ảnh của một người có sự nếm trải, có thực tế ở một số lĩnh vực: du lịch, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm khởi nghiệp, tâm lý lứa tuổi, tình yêu-hôn nhân, thậm chí cả về bệnh tật… Mạng xã hội cho phép họ thể hiện được “thực tế” mà họ có qua hình ảnh và nhất là qua câu chuyện cá nhân mà họ kể. “Thực tế” được trải nghiệm khiến tác giả tản văn có thẩm quyền để có thể tư vấn cho người khác về những vấn đề họ phải đối mặt, hay khơi gợi sự đồng cảm đón nhận từ công chúng. Các lời khuyên, triết lý của họ thường được biểu đạt dưới những hình thức ngắn gọn, dễ nhớ, dễ gây chú ý, mang dáng dấp của các các khẩu hiệu (slogan) mà độc giả của họ có thể vay mượn để đăng lại như là cách thể hiện quan điểm sống của mình. Thí dụ: “Không xinh, không thông minh, không bất bình thế giới” (Phan Ý Yên), “Không có trải nghiệm, tuổi trẻ không đáng một xu” (Phi Tuyết), Yêu thì có thể nhiều lần, nhưng sống thì chỉ có một lần thôi. Yêu lầm thì yêu lại, nhưng sống sai thì không có một cuộc đời thứ hai để làm lại đâu” (Anh Khang)… Có thể đặt ra một giả thiết ở đây: lối biểu đạt đó có mối liên hệ mật thiết với công nghệ sản xuất nội dung truyền thông – một lĩnh vực thương mại đang phát triển rất năng động hiện nay ở Việt Nam nhưng điều này cũng cần chứng minh thêm. Trong cách phục trang cho bản ngã của những tác giả ở dòng tản văn này, những chi tiết cá biệt trong tiểu sử hay cá tính vốn thường bị xem là lệch chuẩn so với những khuôn mẫu đạo đức truyền thống, thậm chí bị xem là những chuyện không nên công khai, phơi bày để thiên hạ biết, lại được nhấn mạnh: một phụ nữ say mê đi phượt, làm mẹ đơn thân và sẵn sàng đưa con mình khi mới ba tuổi cùng phiêu lưu trên những cung đường (Yếm Đào Lẳng Lơ – Gái phượt); một cô gái từng trải qua trầm cảm, mang tâm lý “Tôi muốn sống nhưng cuộc sống đang giết chết tôi” (plaaastic – Lỗi); một cô gái du lịch nước Mỹ trong tâm trạng thất tình (Đinh Hằng – Quá trẻ để chết)… Những bài viết, câu chuyện của họ khi công bố rời trên mạng thiên về thể loại tản văn nhiều hơn nhưng khi in thành sách, lại thường được biên tập thành những tự truyện. Khi khắc họa những chi tiết lệch chuẩn, thường bị giấu đi khi tự thể hiện bản thân, cách phục trang bản ngã như vậy cho thấy một sự thách thức, hay giản dị hơn, một ý hướng thay đổi các diễn ngôn phổ biến về giới, về tuổi trẻ, về hạnh phúc… Ở thời điểm này, chúng tôi nghĩ đây là phương diện giá trị quan trọng nhất của dòng tản văn mạng này.

 

2.2. Truyện tranh

Truyện tranh cũng không phải là loại hình văn học được sinh ra từ môi trường mạng. Nhưng rõ ràng môi trường mạng, với nhiều ưu thế của mình, đã khiến truyện tranh ở Việt Nam có một sinh khí mà trước giai đoạn internet, rất khó đạt được: Mạng giúp những người ham mê truyện tranh tạo thành một cộng đồng, cùng thưởng thức, dịch thuật, chia sẻ tác phẩm, bàn luận, phê bình, thậm chí gây quỹ cho các dự án sáng tác. Các tác giả truyện tranh Việt Nam cũng thông qua mạng mà trực tiếp giới thiệu tác phẩm của mình, nhờ vậy, một thị trường tuy vẫn còn ưu tiên cho việc xuất bản các tác phẩm dịch nhưng giờ đã chú ý hơn đến các tác phẩm nội địa. Ở đây, cần phải lưu ý đến một thực tế: truyện tranh vốn thường được xếp vào nhóm “cận văn học”, tức các hiện tượng văn học pha tạp, có sự pha tạp giữa nghệ thuật ngôn từ và các phương tiện biểu đạt ngoài ngôn từ, phi văn học. Nhưng như Werner Wolf đã lưu ý, việc nghiên cứu văn học tại thời điểm này đang đứng trước “khúc ngoặt liên phương tiện” (“intermedial turn”)[11], theo đó, một khía cạnh quan trọng của khúc ngoặt này là không chỉ nên hiểu văn học như một nghệ thuật đơn phương tiện (ngôn từ). Ngay một số thể loại lớn của văn học như kịch, sử thi, thơ… vốn dĩ cũng đã sống đời sống của một thứ nghệ thuật đa phương tiện, khi nó kết hợp với ngôn ngữ của thân thể và bài trí sân khấu trong trình diễn, đi kèm với âm nhạc… Và bản thân nghệ thuật ngôn từ cũng tìm thấy được những ưu thế của mình, khắc phục những giới hạn trước đó của nó khi đặt trong mối quan hệ với các phương tiện ngoài ngôn từ. Truyện tranh, từ góc độ này, hoàn toàn xứng đáng được xem xét như một hiện tượng văn học đa phương tiện, mà ở đó, phần văn bản ngôn từ và văn bản hình ảnh đòi hỏi một sự cộng hưởng hiệu quả.

Truyện tranh ở Việt Nam hiện nay khá đa dạng về tiểu loại và khuynh hướng: manga (Địa ngục môn – Can Tiểu Hy), graphic novel -tiểu thuyết truyện tranh (Cửa sổ – Tạ Huy Long), comic strip – tạm dịch truyện tranh chuỗi (Đời về cơ bản là buồn cười – Lê Bích, Chuyện vặt của Múc – Bích Ngọc…), comic books – tạm dịch truyện tranh hài hành động (Nhật ký đầu gấu –  TéddiBe)… Từ khía cạnh phục trang bản ngã, bài viết này muốn bàn sâu hơn về hiện tượng comics. Là thể loại truyện tranh vui nhộn, comics có phần tương đồng với dòng tản văn trào tiếu trên mạng mà trước đó chúng tôi đã mô tả. Comics ở Việt Nam có thể xem như một dạng tự họa hay nhật ký hàng ngày dưới hình thức chuỗi tranh. Các tác giả thường khai thác những câu chuyện bản thân, xung quanh những biến cố nho nhỏ trong đời sống thường nhật từ chuyện thi lại, tán tỉnh, thất tình, xin việc, tăng cân…và kể lại bằng những hình vẽ hóm hỉnh, nghịch ngợm, có khi gây cảm giác nguệch ngoạc và bằng thứ ngôn ngữ đùa bỡn, lém lỉnh. Hình thức tự sự của các comic này có sự gần gũi nhất định với các sitcom – thể loại hài kịch tình huống vốn rất ăn khách trên truyền hình cũng như qua kênh Youtube. Nếu cách phục trang bản ngã ở comic có gì khác với tản văn trào tiếu thì trong cảm nhận của chúng tôi, nó nằm ở điểm này: cái tôi ở tản văn thường đặt mình trong những không gian bình dân, truyền thống hơn kiểu “chiếu rượu”, quán cóc, quán bia vỉa hè thì ở comics, do chủ yếu hướng đến đối tượng là người trẻ, nên tác giả thường tự họa mình như một kẻ kể chuyện phiếm, tán dóc nơi quán cà phê, trà sữa…- những không gian ít nhiều thời thượng hơn, đô thị hơn.

Đâu là khía cạnh nghiêm túc ở thể loại coi sự giải nghiêm túc là tinh thần chủ đạo của nó? Ở những sáng tạo đáng ghi nhận nhất đến thời điểm này, comics Việt Nam đã cho thấy nhiều áp lực xã hội đang dồn vào tuổi trẻ. Đôi khi, những áp lực mạnh nhất, chứa chất nhiều định kiến và ràng buộc xã hội nhất lại tập trung vào những khía cạnh dễ bị xem là nhỏ nhặt, và cũng chính vì thế, chúng lại khó được nhận ra và quan tâm thích đáng. Thí dụ, việc bị coi là ế hay việc giảm cân được một số tác giả comics đi vào khai thác (Lê Bích, Phạm Kiều Oanh) ẩn chứa trong đó nhiều định kiến đối với giới nữ. Một đề tài khác là khoảng cách, xung đột giữa các thế hệ trong gia đình cũng là một thực tế đang diễn ra (Chuyện vặt của Múc, Đời về cơ bản là buồn cười). Comics tiếp cận đề tài này từ lăng kính của sự hài hước để cho thấy những mâu thuẫn ấy có thể giải quyết với một tinh thần khoan hòa. Comics dựng lên một số hình tượng thông minh, sắc sảo, biết cười đời, biết bắt bẻ những diễn ngôn thời thượng về sự thành công, tình yêu, hôn nhân, giới tính… đang tạo áp lực cho giới trẻ nhưng quan trọng hơn, biết tự cười, tự giễu chính mình. Nó thực sự là một thể loại đáng quan tâm nếu ta muốn khảo sát bức tranh về văn hóa trẻ hiện nay.

 

2.3. Thơ

Sinh mệnh của thơ ca mạng ở Việt Nam là một câu chuyện phức tạp mà khuôn khổ bài viết này chưa cho phép chúng tôi có thể đi sâu. Trong quan sát của mình, chúng tôi nghĩ diện mạo của thơ ca trên mạng trong gần 20 năm qua chia thành hai chặng. Ở chặng đầu tiên, trong khoảng gần 10 năm đầu thế kỷ XXI, khi mạng internet bắt đầu phổ biến ở Việt Nam và các tạp chí văn chương điện tử bằng tiếng Việt xuất hiện, đây là không gian tập trung những sáng tác thơ theo ý hướng cách tân thẩm mỹ, thách thức thị hiếu của số đông công chúng và dĩ nhiên, gây nên những tranh cãi quyết liệt, gai góc nhất về thơ kể từ sau 1986, cho đến giờ nhiều vấn đề lớn vẫn còn bỏ ngỏ. Nhưng sự thoái trào của các tạp chí điện tử trước sự lên ngôi của blog cá nhân bắt đầu từ những năm 2005 khi Yahoo 3600 trở thành mạng xã hội được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam và đặc biệt khi Facebook chiếm lấy vị trí số một trong số các mạng xã hội được sử dụng từ khoảng năm 2008 đã khiến thơ ca trên mạng tạm thời mất đi tính chất của một hiện tượng thời sự văn học. Chặng thứ hai, thơ ca trên mạng bất ngờ gây chú ý trở lại với những quan sát thời sự văn học từ khoảng năm 2012, bắt đầu với hiện tượng Nguyễn Phong Việt với tập thơ Đi qua thương nhớ trở thành một tác phẩm best-seller, cho đến giờ đã tái bản lần thứ 8 (năm 2017). Từ thời gian đó, ngoài Nguyễn Phong Việt, một số tác giả vốn đăng thơ trên internet cũng trở thành tâm điểm chú ý của công chúng khi in sách, nếu nhìn vào số lượng xuất bản và tái bản. Có thể kể đến những cái tên như Nồng Nàn Phố (Anh ngủ thêm đi anh. Em phải dậy lấy chồng, 2014), Lu (Lấp kín một lặng im, 2015; Sự đã rồi anh ngồi anh hát, 2017), Nguyễn Thiên Ngân (Mình phải sống như mùa hè năm ấy,  2012; Lạ lùng sao, đớn đau này -2013, Ôm mỏ neo nằm mộng những chân trời – 2015)…

Nếu nhìn vào những hiện tượng này, có thể thấy thơ trên mạng ở thập niên thứ hai thế kỷ XXI mang một diện mạo tương phản đến bất ngờ với những hiện tượng gây chú ý nhất ở thập niên thứ nhất. Thay vì theo đuổi thể nghiệm, chú trọng kỹ thuật và đặc biệt là khiêu khích, gây hấn với những ý niệm về thơ vốn đã định hình trong nhận thức của công chúng, những hiện tượng thơ mạng gần đây không mang tham vọng cách tân, càng không muốn thách thức tầm đón nhận của công chúng. Khai thác những hình thức thơ không quá xa lạ với người đọc, xem thơ ca như là cách giãi bày, tâm sự nỗi niềm hay trình bày triết lý, đa phần các sáng tác này không ra khỏi trường ngôn ngữ và mỹ cảm của chủ nghĩa lãng mạn. Vậy sự hấp dẫn thật sự của những hiện tượng này là đâu? Chúng tôi nghĩ, nhìn từ cách tạo hình bản ngã, ta có thể thấy được một số phương diện đáng chú ý. Trường hợp Lu là một thí dụ. Trong phần giới thiệu hai tập thơ của Lu, ngoài những chi tiết nói về ngoại hình “tầm thường”, tính cách “thất thường”, về công việc “làm thơ” và “bán cà phê” – những điểm chưa có gì thật sự thu hút, thì điểm nhấn có lẽ gây chú ý nhất ở đây là tác giả coi “rong chơi” chính là một nét độc đáo của bản thân. “Rong chơi” là hành động sống vô cầu, vô ưu, giải trừ sức nặng của đời sống và cũng chính vì vậy, nó lại khơi gợi khao khát, bởi trong trò chơi luôn chứa đựng tinh thần tự do. Trong thơ của Lu, con người chơi được tạo hình mang dáng dấp của hình mẫu kẻ lãng tử – một mẫu hình chưa bao giờ hết sức hấp dẫn đối với cả người sáng tác lẫn công chúng bởi tinh thần tự do ấy. Đó là kẻ nhiều khi ngồi không, chẳng làm gì, chỉ nhìn ngắm mọi thứ, trong một tâm thế yên tĩnh, đủ để cảm nhận đời sống này như mỗi lúc trống trải nhiều hơn, mất mát nhiều hơn song vẫn còn tiềm ẩn những điều ngạc nhiên nào đó, đủ để ta gắn bó: “có một bầy ong làm tổ/trên cửa sổ đối diện nhà tôi/ cánh cửa ấy cũ rồi/bây giờ chẳng ai dám mở/giữa đêm/tôi lắng nghe mình thở/và tưởng như trên trái tim mình/cũng có một bầy ong” (“Bầy ong trên cửa sổ”); “xe đạp, đạp xe/hạnh phúc, niềm vui/tất thảy đều cọc cạch./ấy thế mà/đánh thức được rồi con sẻ nhỏ/lần đầu tiên cất tiếng hót/sau mưa” (“Sau cơn mưa”). Đó là kẻ sở hữu một không gian riêng của mình – một không gian Hà Nội phố, với những tên phố phường còn ít đi vào thơ ca của ai khác, không quá rộng nhưng lại cũng đủ để lạc, để bất định: “cho tôi về lại dốc Khâm Thiên/đường ray xe lửa/cây xăng giấu mình một nửa/đầy bình lượn phố thâu đêm” (“Cho tôi về”). Đó là một kẻ thích chơi một mình, và trò chơi hắn yêu thích nhất là đùa nghịch với chữ, biết lạ hóa những số từ để chúng trở thành những con chữ tung tẩy, mang thi tính, biến những tên phố phường trở thành những cái tên biết gợi cảm xúc, gợi liên tưởng bất ngờ, nhiều khi quái chiêu: “anh đứng đầu Hồ Đắc Di/ngóng Lương Định Của lầm lì gọi em/…/anh về giữa Bùi Thị Xuân/uống hai mươi cốc nhân trần cho say” (“Một bài thơ cũ”)… Nếu như hình ảnh người chơi trong thơ mạng ở giai đoạn đầu nhiều khi là hình ảnh của kẻ nổi loạn, sẵn sàng nói với công chúng bằng giọng điệu gây sự, bằng cách tạo hình gây sốc, thì hình ảnh người chơi ở thơ Lu có phần hiền lành hơn, nói bằng giọng điệu tâm tình, tự thú nhiều hơn, và cách tạo hình nghiêng về những nét chấm phá trong sáng, nhẹ nhõm, nghịch ngầm. Công chúng, đặc biệt là độc giả trẻ, cảm thấy gần gũi hơn với thơ của anh, có thể trích dẫn lại vài câu, vài hình ảnh để nói thay tâm trạng mình, chia sẻ qua các trang mạng xã hội. Nói khác đi, họ có thể dùng thơ để phục trang cho chính bản ngã của mình. Xét đến cùng thì hiện tượng này không mới; nó làm ta liên hệ đến việc cha ông ta từng có thú lẩy Kiều, dẫn câu chữ của Nguyễn Du để vận vào mình, để chứng tỏ mình cũng có hiểu biết chữ nghĩa hay việc mượn thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính… để nói lên quan điểm sống, ý thức về bản thân, thể hiện học thức hay là để tán tỉnh theo phong cách lãng mạn. Thơ ca, theo đó, luôn có mối liên hệ mật thiết với các phong cách sống (life-style) của mỗi thời. Thời thế thay đổi, công chúng trẻ có nhu cầu tìm một thứ thơ ca có ngôn ngữ gần với thế hệ mình hơn, để trích dẫn, để nói giùm họ tình cảm, quan niệm sống và giúp họ tạo hình phong cách. Việc các nhà thơ như Lu, Nguyễn Phong Việt, Nguyễn Thiên Ngân, Nồng Nàn Phố… được giới trẻ chú ý nhiều có thể được lý giải từ khía cạnh này.

Có một sự tương ứng giữa những hiện tượng thơ mạng nói trên ở Việt Nam với sự nổi lên bất ngờ của một số tác giả thơ ở một số nước nói tiếng Anh nhờ hiệu ứng của mạng xã hội như Rupi Kaur, Lang Leav, Tyler Knott Gregson, Atticus… Việc thơ của họ trở thành best-seller đã khiến cây bút bình luận Michelle Dean trên tờ The Guardian gọi họ là những nhà thơ Instagram[12] – một mạng xã hội ưu tiên cho việc đăng tải hình ảnh, nơi những tác giả này đã tận dụng để đăng những bài thơ của mình, đa phần thường ngắn gọn và được trình bày như một tấm postcard, từ đó, nhận được sự ưa thích và chia sẻ rất lớn từ những người theo dõi họ. Mạng xã hội đã khiến “những nhà thơ Instagram” tìm được một kênh độc lập để giới thiệu tác phẩm của mình đến người đọc; họ thỏa mãn được thú vui của con người ở thời đại internet là thích chia sẻ, trích dẫn và trình diễn bản thân – hay nói theo một từ mới được tạo ra để chỉ sở thích này là “tự sướng” (“selfie”). Cho dù vẫn chưa có những nghiên cứu về giá trị nghệ thuật của những sáng tác này và cho dù đã có ngay những quan ngại rằng sự say mê của công chúng đối với thứ thơ ca bị cuốn vào văn hóa đại chúng này sẽ khiến các giá trị văn chương kinh điển bị quên lãng, thì nói như Dean, vẫn cứ nên bình tĩnh. Thơ ở thời đại Instagram vẫn có thể nhắc nhở người đọc về những giá trị kinh điển ấy, theo cách của nó, và nó cũng có thể truyền tải những cảm thức hay thông điệp mà các thiết chế xã hội thường tìm cách kìm nén.

Phục trang bản ngã là một thực tế của đời sống và thời đại internet càng làm ta nhận thức rõ nét hơn về điều này. Văn học mạng, theo đó, có thể xem là một trò chơi với căn tính mà các thể loại được sử dụng như là chiến lược để người viết tạo hình chính mình. Từ phía công chúng, văn học mạng cũng đang được đối xử như một chất liệu để người đọc, nhất là lớp trẻ giờ đây, phục trang cho bản ngã. Có những chuyển động trong nhận thức, tâm lý của cả người viết và người đọc văn học mạng hiện nay mà việc quan tâm đến chúng có thể giúp ta nhìn ra được nhiều vấn đề lớn hơn, sâu rộng hơn của đời sống văn hóa xã hội đương đại. Bài viết này, vì thế, là một phác thảo chuẩn bị cho những nghiên cứu chiều sâu hơn trong tương lai của chúng tôi.

Trần Ngọc Hiếu

(Bài đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 9 năm 2017).

[1] Stephen Greenblatt,  Renaissance Self-Fashioning: From More to Shakespeare, Chicago & London: The University of Chicago Press, 1980, trang 3.

[2] Stephen Greenblatt, “Culture” in trong Critical Terms for Literary Study, Frank Lentrichia & Thomas Laughlin biên tập, Chicago & London: The University of Chicago Press, 1990, trang 225.

[3] Friedrich Nietzsche, The Gay Science, bản dịch tiếng của Anh của Walter Kaufman, New York: Random House, 1974, trang 290.

[4] Costica Bradatan, Chết cho tư tưởng: Cuộc đời nguy hiểm của các triết gia, Trần Ngọc Hiếu dịch, Nhã Nam & NXB Tri thức, 2017.

[5] Stephen Greenblatt,  Renaissance Self-Fashioning: From More to Shakespeare, Chicago & London: The University of Chicago Press, 1980, trang 4

[6] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên),Từ điển thuật ngữ văn học,  NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 149.

[7] Rebecca Arnold, Chương V, “Ethics” in trong Fashion: A Very Short Introduction, Oxford & New York: Oxford University Press, 2009, trang 85-104.

[8] Lev Grossman, “YOU – yes, YOU – are TIME’s Person of the Year” http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,1570810,00.html

 

[9] Inrasara, “Văn chương mạng”, http://tiasang.com.vn/-van-hoa/van-chuong-mang-1312 (Phần in nghiêng do chúng tôi muốn nhấn mạnh).

 

[10] Trần Đình Sử, “Tản văn Việt Nam hiện đại – một thể loại bị lãng quên” in trong Tản văn hiện đại Việt Nam, Lê Trà My (chủ biên), NXB Hải Phòng, 2011, trang 3.

[11] Werner Wolf, “(Inter)mediality and the Study of Literature”, CLC: Comparative Literature and Culture 13.3. (2011), http://docs.lib.purdue.edu/clcweb/vol13/iss3/2/

 

[12] MIchelle Dean, “Instagram Poets Society: Selfie Age Gives New Life and Following into Poetry”, https://www.theguardian.com/books/2016/feb/26/instagram-poets-society-social-media-phenomenon

 

Laura Miller – Trường hợp lạ lùng của các thám tử Bắc Âu

girl-with-a-dragon-tattoo-banner16

Có một sự thật được thừa nhận như là phổ quát – ít nhất trong đời sống văn học – rằng những tiểu thuyết u ám thường không bán được. Nói với một độc giả rằng cuốn sách trong tay anh ta kể một câu chuyện khắc nghiệt về những nhân vật muộn phiền giữa một bối cảnh ảm đạm, anh ta sẽ bỏ rơi cuốn sách ngay lập tức để chọn một cuốn thriller hồi hộp đến thót tim hay một tác phẩm cảm thương về một mối tình xuyên thời gian. Chỉ có một ngoại lệ lớn: trên một phong cảnh mùa đông lạnh lẽo, có một xác chết, rồi xuất hiện một nhân vật chính, tóc tai bù xù, anh ta trở thành tham tử để điều tra ai phải chịu trách nhiệm cho cái xác chết kia. Xác nhận rằng bối cảnh câu chuyện của chúng ta không ở quá xa Bắc Cực; thế là bất ngờ, ta đã có công thức cho một cuốn best-seller trên toàn thế giới.

Thành công lớn của bộ ba Thiên niên kỷ (bắt đầu bằng cuốn Cô gái mang hình xăm rồng) của Stieg Larsson là ví dụ hữu hình nhất về hiện tượng nghiện tiểu thuyết trinh thám Scandinavia. Một trường hợp khác tương tự là series truyện thám tử Kurt Wallander,gồm chín tiểu thuyết, đã bán được 25 triệu bản trên toàn thế giới và được chuyển thể thành một series phim truyền hình tại vương quốc Anh với diễn xuất của Kenneth Branagh cũng như một vài phim điện ảnh khác của Thụy Điển. Đây thực sự là một hiện tượng đặc biệt bởi nhân vật trung tâm của Mankell là một thám tử điều tra ở tuổi trung niên, bụng phệ, mắc bệnh tiểu đường, sống và làm việc tại một thành phố tỉnh lẻ của Thụy Điển, một nguời đàn ông luôn từ hoài nghi, bi quan, mắc bệnh thèm ăn vặt không thể chữa được. Ở Mỹ, Mankell có một nhà xuất bản mới, nơi đang in cuốn sách sắp ra của ông, The Man from Beijing (Người đàn ông từ Bắc Kinh) với số ấn bản nhiều gấp năm lần so với cuốn sách trước đó. Thậm chí, trước Mankell, cặp vợ chồng nhà văn người Thụy Điển, Maj Sjowall và Per Wahloo, cũng đã có mười cuốn tiểu thuyết rất thành công vào những năm 1960-70 xoay quanh Martin Beck, một thám tử tại Stockholm, kiệm lời, cơ thể đầy chỗ loét lở. Cuốn sách nổi tiếng nhất trong số đó có tên The Laughing Policeman (Viên cảnh sát mặt cười), được chuyển thể thành một bộ phim Mỹ năm 1973 với sự tham gia của tài tử Walter Matthau.

Các nhà xuất bản Thụy Điển hiển nhiên đã đi đầu trong việc nắm bắt hiện tượng văn học này nhưng các nước láng giềng cũng đang đua tranh rất nhanh. Các nhà xuất bản ở Mỹ và Anh đã tích cực khai thác dòng sách trinh thám này bằng việc mua bản quyền dịch các tác giả trinh thám nổi tiếng nhất của khu vực Scandinavia, họ dành sự ưu ái đối với bất cứ tác giả nào có khả năng trở thành một hiện tượng lớn. Nhà văn Iceland Arnaldur Indriðason mới đây đã nhận được những giải thưởng lớn về văn học trinh thám từ giới xuất bản cũng như giới phê bình ở các nước nói tiếng Anh, trong đó phải kể đến giải Barry Award cho cuốn The Draining Lake (Hồ cạn). Và năm ngoái nhà văn Nauy Karin Fossum được trao giải Los Angeles Prize cho tiểu thuyết trinh thám xuất sắc nhất với cuốn The Idian Bride (Cô dâu Ấn Độ).

Vậy những câu chuyện về những vết máu trên tuyết, những dấu ủng cảnh sát giẫm trên những đồng cỏ đóng băng và những thám tử mà mỗi lần nói, hơi thở lại phả ra hữu hình giữa một đêm đông mịt mùng có gì hấp dẫn cơ chứ? Nhiều người trong chúng ra dường như ngay lập tức có cảm giác như đang xem phim của Igmar Bergman. Trong khi đó, chúng ta thích duỗi mình trên sofa, xem các nhân vật trong phim Mad men (Những kẻ điên) ngẫm ngợi về sự cô đơn của họ, sự bất lực của cuộc đời họ trong khi đang nhìn trân trân vào những căn phòng tối chất đầy những đồ nội thất hiện đại của Đan Mạch. “ Có cả một bộ phim ma cà rông của Thụy Điển làm theo phong cách Bergman, đó là bộ phim nghệ thuật Let the Right One In (Mời đúng khách vào nhà). Người Mỹ không phải bao giờ cũng muốn khai thác dòng mạch của Bergman song người Thụy Điển thì không quên ông. Mankell lại càng không thể; ông ta còn kết hôn với con gái của Bergman nữa kia.

Nỗi u sầu kiểu Scandinavia, dường như với tính chất phản trực giác (counterintuitive) của mình, có thể trở thành một khoái cảm êm dịu khi mà thời đại trở nên khắc nghiệt. Nó có cội nguồn từ văn học cổ đại, thời kỳ Cơ đốc giáo còn chưa thống trị tại khu vực này, được bảo lưu trong các saga được ghi chép lại thành văn bản lần đầu tiên ở Iceland thời trung cổ. Các saga, vốn được viết nên bởi và dành cho những người dân phải sống một đời sống ngặt nghèo, là những chuyện kể về tình yêu, cái chết và chiến tranh, như mọi chuyện kể vĩ đại khác, song trên tất cả, đó là những câu chuyện về định mệnh. (Hãy nhớ rằng gần như không một nhân vật nào trong thần thoại Bắc Âu, kể cả các vị thần, ý thức được họ phải chết khi nào và như thế nào). “Có rất ít điều mạnh hơn định mệnh”, nhân vật Ingimund trong The Saga of the People of Vatnsdal (Saga của người dân Vatnsdal) (Nauy) đã nói như thế: ông không muốn rời bỏ quê hương để di cư sang Iceland, nhưng khi một thầy bói người Lapp nói rằng ông sẽ phải đi thì đấy là thời điểm để bắt đầu cuộc xuất hành.

Thực vậy, sự tất yếu của định mệnh có thể dẫn đến nỗi tuyệt vọng dày vò Gudrun, nhân vật trong The Saga of the Volsungs (Saga của người Volsungs), khi người bạn của nàng, Brynhild, tiên báo nàng sẽ giành được người chồng đầu tiên của mình bằng mưu mô, rồi sẽ đánh mất anh ta, đánh mất cả hai người anh em của nàng, rồi lại cưới một người đàn ông khác, người mà nàng sẽ bị xui khiến đi đến chỗ giết chết anh ta. “Ta hối hận vì đã biết những điều như thế,” Gudrun nói khi đã đủ thấu hiểu mọi sự. Song chủ nghĩa định mệnh cũng hư vô hóa cả sự hối hận nữa; nếu mọi thứ chỉ có thể trở thành như thế này, vậy không có lý do gì để ta dằn vặt, tự nguyền rủa bản thân. Nỗi bất hạnh của ta không phải là lỗi lầm của ta, đúng hơn nó từ việc ta tìm ra những thế lực nào nằm ngoài sự kiểm soát của ta đã chi phối, đưa đẩy ta. Trong một thế giới như thế, thử thách thực sự đối với nhân vật không phải là việc phải giành chiến thành mà là sự can đảm để đối diện với những nghiệt ngã như là tất yếu của cuộc đời này.

Trong văn học trinh thám Scandinavia, lý tưởng khắc kỷ này được biểu hiện ở ý thức hành động dứt khoát, quyết liệt và có phương pháp. Hầu hết các tiểu thuyết trinh tham Bắc Âu đều là tiểu thuyết điều tra, một thể loại tập trung chủ yếu và những chi tiết đơn điệu, lặp lại hàng ngày trong công việc của cảnh sát. Điều đó có nghĩa là Martin Beck và đồng nghiệp phải lật giở hàng chồng hồ sơ đăng ký ô tô để tìm ra sai lầm này dẫn đến sai lầm kia như thế nào trong The Laughing Policeman. Điều đó có nghĩa là phóng viên điều tra Mikael Blomkvist trong tiểu thuyết của Larsson phải nghiên cứu tỉ mẩn âm bản của hàng trăm bức ảnh tư liệu trên báo chí để tìm ra chính xác thời điểm trước đó 30 năm khi một thiếu nữ nhìn thấy một điều gì đó khủng khiếp đang băng qua một con phố đông nghẹt người.

Tương tự, thám tử Wallander trong tiểu thuyết Faceless Killers (Những tên sát nhân không mặt) (1991) của Mankell đã phỏng vấn và loại trừ tất cả những bà mẹ đơn thân ở một thị trấn gần đó để tìm ra ai là mẹ của đứa con ngoài giá thú của nạn nhân vụ giết người. Các thám tử Bắc Âu luôn phải xoay sở với hàng đống các danh sách trong cuộc điều tra của mình, với những đêm thức trắng cùng với tách cà phê văn phòng dở tệ trong khi chân tay đau nhức.

Các thám tử Mỹ cũng thực hiện các quy trình điều tra, nhưng chúng ta thường thấy họ gắn liền với những thiết bị công nghệ hiện đại, họ là những người dễ nóng nảy, không chịu tuân theo những nguyên tắc của tổ chức như Harry Bosch, nhân vật thám tử của Michael Connolly, họ chống cự lại được sự mệt mỏi. Các cuộc điều tra trong tiểu thuyết Mỹ bao giờ cũng cần đến ít nhất một chiếc siêu xe, cũng gắn với các cuộc đọ súng, một số tình huống thử thách với những ràng buộc về luật lệ, công khai nỗi bức xúc về chính trị… Tất cả để cho thấy sự tận tụy vì công lý của nhân vật người hùng còn trong sáng hơn và mãnh liệt hơn ngay cả vị sếp của anh ta. Và tuy nhân vật cảnh sát trong tiểu thuyết hình sự của Mỹ thường có đời tư rất lộn xộn song họ vẫn là những chiến binh cao quý, nghị lực và hào hiệp như là chúng ta kỳ vọng từ một đất nước gồm toàn những cá nhân lạc quan.

Nhân vật Wallander của Mankell, ngược lại, chỉ là một con người của đời thường. Ông cảm thấy như bị mắc kẹt bởi công việc và thường xuyên nói đến chuyện bỏ nghề, cho dù chưa lần nào chuẩn bị cho điều này. Ông thường để ý đến những tiểu tiết trong công việc và thường lấy đó như là lý do để biện hộ cho những sai sót trong công việc quản lý của mình. Thay vì xin lỗi cấp dưới khi nhận ra ông đã vô tình chạm vào niềm kiêu hãnh của họ, ông lại cảm thấy chạnh lòng: “Đã bao nhiêu lần ông cảm thấy mình bị bỏ quên hoặc bị sỉ nhục trong suốt những năm tháng làm cảnh sát? Bởi những nhân viên đồng nghiệp, bởi bọn tội phạm, bởi các công tố viên, và nhất là bởi những kẻ thường được coi là đại diện cho dư luận? Nếu ông có leo lên một chiếc xe đua thì cũng sẽ phải nghe sếp khiển trách là “lố bịch”. Nhưng tiểu thuyết của Mankell cũng không có gì phải tỏ ra gấp gáp. Để Wallander trèo một chiếc ô tô, hành động tiểu thuyết rồi vẫn cứ diễn ra từ từ giống như một cảnh trong cuốn Tường lửa (Firewall), ở đó Wallander quyết định ăn bánh mì kẹp xúc xích ngay tại ghế trước thay vì lái xe về nhà để ăn một bữa trưa tử tế, để rồi làm rớt nước sauce vào chiếc jacket mà ông đi mượn và cuối cùng chỉ còn cảm giác muốn “mở toang cửa xe, hất tung mọi thứ xuống đất.” Chẳng phải tất cả chúng ta đều có một lần như thế sao? Wallander chính là ta đấy thôi.

Các thám tử Scandinavia có thể là những người dễ cảm thông với người khác và dễ mắc sai lầm nhưng – đây là điều quan trọng – cuối cùng thì họ vẫn tóm được thủ phạm. Chỉ có điều thay vì dựa vào năng lực suy luận tuyệt vời theo kiểu Sherlock Holmes hay nghị lực phi thường cùng sự hóm hỉnh tự kiêu như nhân vật Spenser của Robert Parker, những nhân vật rất đỗi bình thường này không có cái gì để phô trương ngoài sức bền bỉ và tinh thần chịu đựng. Đôi khi những nỗ lực của họ hóa ra trở nên vô nghĩa. Tiểu thuyết đen Bắc Âu đầy rẫy những chi tiết đánh lạc hướng, những chuyện vặt vãnh. Cứ như thể đời sống điều độ của một công bộc đã giới hạn nhân vật thám tử trong những sinh hoạt thường ngày. Anh ta sống giữa các nhân vật khác, cũng bị cuốn theo cái nhịp đều đều của đời sống thường ngày.

Nếu bạn nhận thấy có một cái nháy mắt đằng sau những tiểu tiết có sắc thái mỉa mai nà thì bạn không nhầm đâu. Luôn có sự song hành của chất humor đen bên cạnh chủ nghĩa định mệnh Bắc Âu mang màu sắc huyền thoại. Truy bắt những kẻ khốn nạn không bao giờ là một cuộc săn đuổi vô ích nhưng đôi khi, những thiên tài của nghệ thuật trinh thám Scandinvia lại thể hiện ở chỗ cho thấy những sự ngớ ngẩn, ngu ngốc đôi khi trở nên cực kỳ phức tạp khiến cho việc điều tra trở nên khó khăn một cách không cần thiệt. Trong The Laughing Policeman, đến cuối chuyện, Martin Beck nhận ra đáng lẽ không mất đến một tháng điều tra nếu anh ta không mắc phải một sai lầm thiếu suy nghĩ.

Mặc dù nỗi bất an hiện sinh thường ám ảnh các nhân vật trong tiểu thuyết đen Bắc Ây, sự đơn giản của các phương pháp giải quyết vấn đề là trong những khoái cảm khổ hạnh của hình thức thể loại. Cũng như cái lạnh giá của Bắc cực, sự khắc nghiệt cũng gia tăng. Nó đưa chúng ta đến một thế giới hầu như không có sự mê hoặc, quyến rũ và hầu như không giải thích điều gì khi câu chuyện xảy ra. Điều có ý nghĩa duy nhất là hãy đặt chân lên trước dấu chân của kẻ khác và cứ thế đi, không dừng lại. Cần phải có một sự bền chí cao độ khi môi trường xung quanh ở trong trạng thái biến động cao độ. Nó giống như sự bình tĩnh khi ta ngồi xuống, liệt ra một danh sách cần làm sau khi một mất mát lớn đã xảy ra.

Dễ hiểu tại sao sự loay hoay với công việc, sự chú mục và bình tâm làm công việc của mình giờ đây lại trở thành một khoái cảm êm dịu. Các bộ óc minh mẫn thường được xem như kẻ điều khiển một thế giới không ngừng trở nên thịnh vượng và ổn định hóa ra giờ đây lại không biết mình đang làm gì. Các thám tử trong tiểu thuyết đen Bắc Âu không phải là những người thiếu nhẫn nại, những thiên tài lập dị hay những người hùng hành động. Phương pháp của họ-sự quyết đoán, sự khiêm nhường và sức chịu đựng – đều là những gì có sẵn đối với tất cả mọi người.

Và nếu thỉnh thoảng chúng ta thèm muốn một nhân vật nổi loạn, thì đó, chúng ta có Lisabeth Salander của Larsson, một ngoại lệ trong số các thám tử Bắc Âu. Một cô gái lưỡng tính xăm mình, một hacker siêu hạng, tính cách lạnh lùng và không thèm đếm xỉa gì đến những thiết chế xã hội của Thụy Điển. Cũng có thể thấy hình bóng những nguyên mẫu saga ở Salander. Nàng là hiện thân ở thế kỷ XXI của phản anh hùng mang dáng dấp tomboy, gợi nhớ đến nữ chiến binh Hervor trong saga, nhân vật “chẳng giống phụ nữ chút nào”, “có thể làm bất cứ cái gì về bản thân mình… nàng chạy vào rừng và giết đàn ông để cướp tiền của họ.”

Sự khó hiểu của cơn sốt tiểu thuyết trinh thám Scandinavia, dĩ nhiên, nằm ở chỗ tại sao nó lại nảy sinh từ một nơi mà các vụ án hãi hùng, tàn bạo hiếm hoi lắm mới xảy ra. “Chúng ta đâu có ở Chicago”, một nhân vật cảnh sát người Nauy trong The Indian Bride đã nhún vai nói như thế. Sự tương phản giữa hệ thống phúc lợi xã hội hiện đại với thế giới tổ tiên trong các saga, với những vụ giết chóc mang tính nhân quả và và những hận thù đẫm máu bất tận, không thể nào ảm đạm hơn nữa. Và nếu như có một đề tài nào thể hiện sự đối chọi với định mệnh trong các saga truyền thống thì đó là đề tài báo thù, điều được coi là luật lệ duy nhất trong xã hội bộ tộc bộ lạc, và đó cũng là phương pháp đấu tranh mà Salander lựa chọn để giành công lý.

Các xã hội Scandinavi hiện nay nổi tiếng bởi sự ổn định, thanh bình và trật tự, mặc dù có lẽ chả có nơi nào thật sự lý tưởng cả. Cũng cần thiết để khuấy động tinh thần Viking già nua, làm nó trở nên bất an, đối diện với những hỗn loạn và sự khắc nghiệt của công lý. “Thụy Điển giờ đã trở thành một nơi mà người ta cố trốn thoát khỏi đó”, Wallander đã nhận xét như thế, khi trong mắt ông, mọi thứ dường như không còn như là nó đã từng. Cũng như ông, tất cả chúng ta đôi khi cũng cảm thấy hối thúc, muốn vứt hết mọi thứ ra khỏi xe của mình.

Hải Ngọc lược dịch

Nguồn: Laura Miller, “The Strange Case of the Nordic Detectives”, http://online.wsj.com/articles/SB10001424052748703657604575004961184066300

Bài dịch từng được đăng trên báo Văn nghệ trẻ với nhan đề “Truyện trinh thám Bắc Âu như một hiện tượng văn học”, nhưng tôi không nhớ chính xác trên số báo nào, nay post lại trên blog nhân có bạn sinh viên muốn làm luận văn về Stieg Larsson