Tag Archives: hậu thực dân

bell hooks – Ngoại vi như là nơi kháng cự

Tôi dịch bài luận ngắn “Marginality as a site of resistance” của bell hooks (bút danh của nữ  học giả người Mỹ Gloria Jean Watkins – 1952, bút danh này được bà chủ ý không viết hoa) để giới thiệu thêm một cách hiểu về phạm trù ngoại vi (margin/marginal/marginality) trong văn hóa, văn học hiện nay. Ở Việt Nam, thời gian gần đấy, cặp khái niệm “trung tâm”-“ngoại vi” cũng thường xuyên xuất hiện trong các diễn ngôn phê bình. Tuy nhiên, cũng như  rất nhiều khái niệm khác, từ “ngoại vi” đã trở thành một thứ thời thường, được hiểu một cách dễ dãi và tương đối tùy hứng.  Khi cái ngoại vi được nhắc đến như một thứ mốt (cũng như  những từ như diễn ngôn, thi pháp…) thì đó cũng là lúc người ta nên nghi ngờ vào chính ngôn ngữ.

Cách đây một thời gian, khi nói chuyện với một người bạn, anh Phạm Quốc Lộc, tôi nhớ anh đã nói cặp khái niệm “trung tâm”-“ngoại vi” vẫn còn dấu vết của cấu trúc luận và thiên về bề mặt, hình thức chứ chưa chạm vào cảm thức con người trong cuộc đấu tranh văn hóa diễn ra dai dẳng và không hề kém quyết liệt trong đời sống đương đại. Ý kiến này của anh khiến tôi nghiệm ra cái đáng sợ phổ biến trong những nghiên cứu văn hóa, văn học hiện nay chính là sự vô cảm. Sự vô cảm thể hiện ở chỗ những nghiên cứu của chúng ta, trong khi tưởng như  đang tìm cách khẳng định cái hay, cái đẹp của chữ nghĩa (mà không hiểu rằng chữ nghĩa chưa bao giờ là cái gì thuần túy), say sưa đi tìm những quy luật nội tại của văn chương, siết chặt các khái niệm, đóng đinh những định nghĩa, thì lại cách rất xa tâm thức của con người, thậm chí đồng lõa với những lực lượng muốn trấn áp con người. Chính sự vô cảm ấy khiến những nghiên cứu văn hóa, văn học của chúng ta hiện nay hầu như không có vang âm đáng kể gì trong đời sống. Chính động hướng ngoại vi hóa của bản thân lý thuyết hiện nay, khi lý thuyết giờ đây xoay quanh những câu chuyện về thân thể, giới tính, sắc tộc, chấn thương, sinh thái, hậu thực dân… cũng chính là sự tự  phản tỉnh của lý thuyết, khiến lý thuyết không phải là cái gì trừu tượng, mệnh lệnh mà là cái mang tính nhân văn thực sự.  Nó không áp đặt tư  duy; trái lại, nó luôn là một độ mở để tư duy ta tiếp tục hành trình suy ngẫm của mình.

*

bell hooks

Bốn năm trước, trong lời tựa cuốn Feminist Theory: From Margin to Center [Nữ quyền luận: Từ Ngoại vi đến Trung tâm], tôi đã trình bày những suy nghĩ của mình về tính ngoại vi (marginality):

Ở vị trí ngoại vi nghĩa là anh là một bộ phận của cái toàn thể, nhưng đồng thời anh lại ở bên ngoài thành phần chính yếu. Chẳng hạn, đối với những người Mỹ da đen sống ở một thị trấn nhỏ ở Kentucky, đường xe lửa chính là hình ảnh gợi nhắc về vị trí ngoại biên trong đời sống thường ngày của chúng ta. Dọc theo những đường xe lửa này là những hè phố, những cửa hiệu chúng ta không được phép đi trên đó hay bước chân vào, những nhà hàng chúng ta không được phép ngồi ăn, và những con người chúng ta không được quyền nhìn thẳng vào họ. Dọc theo đường xe lửa là một thế giới nơi ta có thể làm việc như là những người hầu, những người trông coi nhà cửa khi chủ vắng mặt, những gái điếm khi nào thế giới đó cần phục vụ. Chúng ta có thể bước vào thế giới đó nhưng lại không thể sống ở đó. Chúng ta luôn phải trở về ngoại biên, băng qua đường xe lửa, về lại những ngôi nhà tồi tàn, bị bỏ hoang bên rìa thị trấn.

 Có những thứ luật lệ để bảo đảm việc trở về của chúng ta. Không trở về tức là có nguy cơ bị trừng phạt. Sống như chúng ta – tức sống bên lề – chúng ta hình thành một cách nhìn đặc thù về hiện thực. Chúng ta vừa nhìn  từ bên ngoài vào bên trong, lại vừa từ bên trong nhìn ra bên ngoài. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình vào nơi trung tâm cũng như vào cả phần ngoại vi. Chúng ta hiểu cả hai. Cách nhìn này gợi chúng nghĩ đến sự tồn tại của một vũ trụ toàn vẹn, một cái toàn thể được cấu thành bởi cả cái trung tâm lẫn cái ngoại vi. Sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào một nhận thức công khai luôn vận động của ta về sự chia tách của cái ngoại vi và cái trung tâm cũng như sự nhận thức cá nhân luôn vận động của chúng ta, rằng ta là cái bộ phận tất yếu, năng động của cái toàn thể.

 Cảm quan về cái toàn thể, vốn áp đặt lên ý thức của chúng ta bằng cấu trúc của đời sống thường nhật mà ta đang sống, cung cấp cho chúng ta một thế giới quan đối lập – một cách nhìn thế giới mà những kẻ đàn áp chúng ta không biết tới, chính nó đã duy trì chúng ta, đã trợ giúp chúng ta trong cuộc đấu tranh để vượt qua đói nghèo và tuyệt vọng, củng cố cảm quan về bản ngã cũng như sự đoàn kết của chúng ta.

Dẫu vẫn chưa hoàn thành nhưng khi viết ra những nhận định này, tôi muốn xác định không gian ngoại vi còn có ý nghĩa nhiều hơn một không gian của thân phận bị tước đoạt. Trên thực tế, tôi muốn nói điều ngược lại: đấy còn là nơi của những khả năng đột phá quyết liệt, một không gian của sự kháng cự. Tôi muốn gọi cái không gian ngoại vi này như một địa điểm trung tâm để tạo sinh một thứ diễn ngôn phản bá quyền vốn không chỉ được nhìn thấy ở ngôn từ mà còn ở thói quen và cách mà người ta sống. Chiếu theo cách hiểu vốn phổ biến thì ở đây tôi không muốn nói đến một thứ ngoại vi như mà người ta muốn rũ bỏ, khước từ hoặc chấp nhận nhượng bộ như một phần động thái của việc dịch vào trung tâm; đúng hơn, đó lại là nơi mà người ta ở đó, thậm chí, còn muốn giữ chặt, vì nó nuôi dưỡng khả năng kháng cự của người ta. Nó đem đến khả năng của một góc nhìn cấp tiến mà từ đó người ta có thể thấy và sáng tạo, tưởng tượng nên những sự phá cách, những thế giới mới.

Đây không phải là một quan niệm thần bí về tính ngoại vi. Nó đến từ chính kinh nghiệm sống. Tuy nhiên, điều tôi muốn nói ở đây là ý nghĩa của cuộc đấu tranh nhằm duy trì tính ngoại vi này ngay cả khi người ta làm việc, sản xuất, sống – nếu họ muốn – ở trung tâm. Giờ đây, tôi không còn sống trong cái thế giới bị cô lập bên đường xe lửa nữa. Điều có ý nghĩa trung tâm trong đời sống nơi thế giới ấy là ý thức không ngừng về tính cấp thiết của sự đối lập. Khi Bob Marley hát, “Chúng tôi chối từ làm kẻ mà các người muốn chúng tôi trở thành, chúng tôi là chúng tôi, và trong tương lai thì cũng vẫn như thế,” thì không gian của sự chối từ, nơi người ta có thể nói “không” với kẻ thực dân, với kẻ áp bức, được đặt ở bên lề. Và người ta chỉ có thể nói “không”, nói với cái giọng nói phản kháng kia bởi vì có sự tồn tại của một thứ ngôn ngữ đối lập. Tuy có nhiều điểm giống với ngôn ngữ của kẻ thực dân song nó cũng phải trải qua sự biến đổi. Nó đã bị thay đổi như một tình thế không thể khác được. Khi tôi rời không gian cụ thể ở bên lề, tôi luôn giữ trong mình cách nhìn hiện thực vốn không ngừng khẳng định không những tầm quan trọng của sự kháng cự mà còn cả tính tất yếu của sự kháng cự được duy trì bởi ký ức về quá khứ, trong đó bao hàm cả sự hồi tưởng về những tiếng nói từng bị coi thường, bị phá vỡ. Sự kháng cự này trao cho chúng ta những cách cất lời để giải thực dân nhận thức của chúng ta, sự sống của chính chúng ta. Có một lần, mẹ tôi tâm sự với tôi khi tôi lại chuẩn bị để vào học ở trường đại học vốn chủ yếu dành cho dân da trắng, “Con có thể nhận những gì mà người da trắng phải dành cho con song con không nhất thiết phải yêu họ.” Giờ đây, khi hiểu mã văn hóa ẩn chím trong lời của mẹ, tôi hiểu bà không dạy tôi đừng yêu thương những kẻ khác chủng tộc với mình. Bà đã nói đến sự thực dân hóa và thực tế của những gì được dạy trong một nền văn hóa có sự thống trị bởi những kẻ cai trị. Bà đã nhấn mạnh đến quyền năng của tôi trong việc có thể tách tri thức hữu ích mà tôi có thể thu nhận được từ nhóm thống trị với việc chấp nhận những hiểu biết áp đặt sẽ dẫn đến việc mình bị họ coi như kẻ xa lạ, làm cho trở nên tha hóa, và tệ hơn nữa, bị họ đồng hóa và thu phục. Mẹ tôi nói tôi không cần thiết phải giao nộp bản thân mình cho họ để học. Dù không ở trong những thiết chế ấy, mẹ tôi vẫn hiểu tôi sẽ phải đối mặt liên tục với những tình huống mà tôi bị người ta “thử”, làm cho mình có cảm giác như thể đấy là yêu cầu từ cái trung tâm để xem tôi có thể được chấp nhận hay không, và đấy sẽ là điều kiện để tôi được tham gia vào cái hệ thống trao đổi sẽ đảm bảo cho thành công của tôi, cho “việc tôi có thể làm được”. Mẹ đã nhắc tôi về sự cần thiết của ý thức đối lập, đồng thời khích lệ tôi không từ bỏ quan điểm triệt để được hình thành và nhạo nặn bởi vị trí bên lề.

Sự hiểu thấu về vị trí bên lề như là lập trường và không gian của sự kháng cự là điều đặc biệt quan trọng đối với những người bị áp bức, bóc lột, chịu ách thực dân. Nếu ta chỉ nhìn “lề” như một ký hiệu, đánh dấu hoàn cảnh khổ đau và bị tước đoạt của chúng ta, thì một nỗi vô vọng, tuyệt vọng, một thứ hư vô chủ nghĩa sâu sắc sẽ xuyên thấm vào chính nền tảng của sự tồn tại của chúng ta theo một cách thức hủy hoại. Chính ở đó, trong không gian của sự tuyệt vọng tập thể, sự sáng tạo, sức tưởng tượng của con người bị lâm nguy, nhận thức của con người sẽ bị thực dân hóa trọn vẹn, thứ tự do mà con người mong mỏi sẽ bị đánh mất. Thực sự, cái ý thức kháng cự lại sự thực dân hóa luôn đấu tranh cho sự tự do biểu hiện. Cuộc đấu tranh ấy, thậm chí, có thể không bắt đầu với kẻ thực dân mà bắt đầu ngay từ bên trong không gian bị cô lập của cộng đồng và gia đình của mỗi người. Tôi muốn lưu ý rằng tôi không cố gắng khắc họa lại một cách lãng mạn ý niệm về không gian ngoại vi, nơi những kẻ bị đàn áp sống tách khỏi những những kẻ áp bức mình, như một không gian “thuần khiết”. Tôi muốn nói rằng những không gian ngoại vi này một mặt, vữa có tính chất của một không gian trấn áp, mặt khác, vừa có tính chất của một không gian phản kháng. Và vì chúng ta có thể dễ gọi được bản chất của sự trấn áp nên chúng ta thường hiểu ngoại vi như là không gian của sự tước đoạt. Chúng ta thường im lặng hơn khi nói ngoại vi như là không gian của sự kháng cự. Chúng ta thường bị buộc phải im lặng khi cần phải nói về ngoại vi như không gian của sự kháng cự.

Bị im lặng. Trong suốt thời sinh viên, tôi nghe thấy chính mình thường nói bằng giọng phản kháng. Tôi không thể nói lời nói của tôi được đón nhận. Tôi không thể nói lời nói của tôi đã được nghe theo hướng nó có thể điều chỉnh mối quan hệ giữa kẻ thực dân và kẻ chịu sự áp bức thực dân. Tuy nhiên, điều mà tôi nhận ra là  những học giả, đặc biệt nhất là những người tự xem mình là những nhà tư tưởng phê phán cấp tiến, giờ lại đang tham gia hết mình vào sự kiến tạo một diễn ngôn về Cái/Kẻ Khác. Tôi bị coi là “kẻ khác” ngay trong không gian cùng với họ. Trong cái không gian bên lề, trong cái thế giới bị cách ly của quá khứ và hiện tại của mình, tôi không phải là kẻ khác. Họ không gặp tôi ở đó, trong không gian ấy. Họ gặp tôi ở trung tâm. Họ chào đón tôi trong tư thế của những kẻ thực dân. Tôi đợi để được học từ họ con đường phản kháng, để hiểu làm thế nào mà họ có thể từ bỏ quyền lực để hành động như những kẻ thực dân. Tôi đợi việc họ sẽ làm chứng, trình bày những chứng ước. Họ nói diễn ngôn  về ngoại vi, về sự khác biệt giờ đã nằm ngoài cuộc thảo luận giữa chúng tôi và họ. Họ không nói động hướng này đã xảy ra như thế nào. Đây là một phản ứng từ vị trí được ý thức rất triệt để của địa vị ngoại vi của tôi. Đó là một không gian kháng cự. Là không gian tôi lựa chọn.

Tôi đợi họ ngừng nói về “cái/kẻ khác”, thậm chí, thôi nói về tầm quan trọng của việc có thể nói về sự khác biệt. Quan trọng không phải ở chỗ chúng ta nói về cái gì, mà nói như thế nào và tại sao nói. Thường thì thứ lời nói về kẻ khác này cũng là một mặt nạ, một cách nói chuyện trấn áp che giấu những khoảng trống, những sự khuyết diện, chế giấu đi không gian của ngôn từ chúng ta, nếu chúng ta nói, nếu chúng ta im lặng, nếu chúng ta ở đó. Chữ “chúng ta” ở đây là thứ “chúng ta” ở bên lề, thứ “chúng ta” nơi không gian ngoại vi: đó không phải là địa điểm của sự thống trị mà là nơi kháng cự. Hãy bước vào không gian ấy. Thường thì thứ lời nói về “cái/kẻ khác” này thủ tiêu, xóa bỏ. Không cần phải nghe giọng nói của chị khi tôi có thể nói về chị tốt hơn chính chị nói về bản thân mình. Không cần phải nghe giọng nói của chị. Chỉ cần kể cho tôi nỗi đau của chị. Tôi muốn biết câu chuyện của chị. Và rồi tôi sẽ kể lại nó cho chị theo một cách thức mới. Tôi sẽ kể lại nó cho chị theo một cách mà câu chuyện ấy sẽ là của tôi, của riêng tôi. Viết lại chị thì đồng thời tôi cũng viết lại bản thân tôi, theo kiểu để làm mới chính tôi. Tôi vẫn là tác giả, tôi có thẩm quyền. Tôi vẫn là kẻ thực dân, chủ thể nói và chị, bây giờ, là trọng tâm của lời nói của tôi. Chúng tôi chào đón bạn như những kẻ giải phóng. Chữ “chúng tôi” ở đây là thứ chúng tôi ở bên lề, là thứ chúng tôi nơi không gian ngoại vi: đó không phải là địa điểm của sự thống trị mà là nơi kháng cự. Hãy bước vào không gian ấy. Đây là một sự can thiệp. Tôi đang viết cho bạn. Tôi đang nói từ một nơi ngoại vi nơi tôi là kẻ khác biệt – nơi tôi nhìn mọi thứ khác biệt. Nói từ bên lề. Nói với ý thức kháng cự. Tôi mở một cuốn sách. Trên bìa sau cuốn sách là dòng chữ “ĐỪNG BAO GIỜ Ở TRONG BÓNG NỮA”, một cuốn sách gợi ra khả năng của sự cất lời như những kẻ giải phóng. Chỉ những người lên tiếng và im lặng. Chỉ những người đứng trong những cái bóng – bóng của khung cửa, không gian nơi hình ảnh phụ nữ da đen được thể hiện như những kẻ không có tiếng nói, không gian nơi ngôn từ của chúng ta chỉ được viện đến để phục vụ và ủng hộ, không gian của sự vắng mặt của chính chúng ta. Những có những vọng âm nho nhỏ của sự phản kháng. Chúng ta được viết lại. Chúng ta là “kẻ khác”. Chúng ta là ngoại vi. Ai đang nói và nói với ai. Nơi nào ta dịnh vị chúng ta và những đồng chí của mình.

Bị im lặng.  Chúng ta sợ những kẻ nói về chúng ta những kẻ không nói với chúng ta cùng chúng ta. Chúng ta hiểu bị buộc phải im lặng là như thế nào. Chúng ta hiểu những sức mạnh bắt ta câm lặng vì chúng không bao giờ muốn chúng ta lên tiếng, muốn chúng ta khác với những sức mạnh bảo rằng: Nào, nói đi, kể cho tôi nghe câu chuyện của bạn. Chỉ có điều đừng nói bằng giọng kháng cự. Chỉ được nói từ không gian bên lề được hiểu như một ký hiệu về sự bị tước đoạt, như một vết thương, một mong mỏi không được thực hiện. Chỉ được nói nỗi đau của bạn.

Đây là một sự can thiệp. Một thông điệp từ không gian ngoại vi là địa điểm của sự sáng tạo và quyền năng, là không gian bao chứa nơi chúng ta phục hồi bản ngã của mình, nơi chúng ta chuyển động trong sự đoàn kết để xóa bỏ cặp đối lập kẻ bị thực dân hóa/kẻ thực dân. Ngoại vi như là không gian kháng cự.

Hãy bước vào không gian ấy. Gặp chúng tôi ở đó. Hãy bước vào không gian ấy. Xin chào đón bạn như những người giải phóng.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: bell hooks, “Marginality As a Site of Resistance” in Out There: Marginalization and Contemporary Cultures, ed. by Russell Ferguson, Martha Gever, Trinh T. Minh-ha, Cornel West,  The MIT Press 1992, p.341-3.

Octavio Paz – Phát minh, Tình trạng chậm phát triển, Tính hiện đại

Đối với chúng ta, giá trị của một tác phẩm nằm ở sự mới mẻ của nó: sự phát minh những hình thức mới, hay sự kết hợp mới của những hình thức cũ; sự khám phá những thế giới chưa được biết đến hay sự thám hiến những vùng còn chưa quen thuộc trong những thế giới đã được phát hiện rồi – những khải thị, những ngạc nhiên. Dostoevski đã đào sâu xuống tầng đất cái của tinh thần, Whitman gọi tên những hiện thực mà thơ ca truyền thống từng khinh rẻ, Mallarmé bắt ngôn từ phải nếm trải những thí nghiệm còn nghiêm ngặt hơn cả những gì mà Góngora đã thực hiện và sáng tạo nên loại bài thơ phê phán chính phương thức tồn tại của nó, Joyce biến ngôn ngữ nói thành một sử thi và xây dựng nên một anh hùng từ tình huống ngẫu nhiên của ngôn ngữ (Tim Finnegan là cái chết và sự phục sinh của tiếng Anh và mọi ngôn ngữ khác), Roussel làm một bài thơ từ trò đố chữ… Từ thời kỳ Chủ nghĩa Lãng mạn trở đi, một tác phẩm nghệ thuật phải mang tính độc nhất và không thể bắt chước được. Lịch sử nghệ thuật và văn chương, kể từ đó, mang hình thức của một loạt những trào lưu đối kháng nhau: Chủ nghĩa Lãng mạn, Chủ nghĩa Hiện thực, Chủ nghĩa Tự nhiên, Chủ nghĩa Tượng trưng. Truyền thống không còn là một sự liên tục nữa mà là một loạt những sự đứt đoạn đột ngột. Truyền thống hiện đại là truyền thống của sự nổi loạn. Cách mạng Pháp cho đến hôm nay vẫn còn là khuôn mẫu của chúng ta: lịch sử là sự thay đổi mãnh liệt, và sự thay đổi này mang tên tiến bộ. Tôi không rõ liệu những quan niệm này thật sự có phù hợp với nghệ thuật. Chúng ta có thể bị thuyết phục rằng lái một chiếc ô tô dễ hơn nhiều so với cưỡi ngựa: song tôi không thể hiểu làm sao ta có thể nói rằng điêu khắc Ai Cập cổ đại lại thua kém so với  những tác phẩm của Henry Moore, hay Kafka là một nhà văn vĩ đại hơn Cervantes. Tôi tin vào truyền thống của một sự đứt đoạn bất ngờ và ở đây tôi không hề phủ nhận nghệ thuật hiện đại: tất cả những gì tôi muốn nói là chúng ta đang sử dụng những chuẩn mực hãy còn mơ hồ trong nỗ lực để hiểu và nhận định về nó. Những thay đổi trong thị hiếu thẩm mỹ của chúng ta không có giá trị và ý nghĩa tự thân; cái có giá trị và ý nghĩa là ý niệm về bản thân sự thay đổi. Hay, nói rõ hơn: không phải sự thay đổi tự nó, cho nó mà sự thay đổi ở đây có ý nghĩa như một tác nhân hay nguồn cảm hứng cho những sáng tạo hiện đại. Sự mô phỏng tự nhiên hay các khuôn mẫu cổ điển – ý niệm mô phỏng, đúng hơn, hành động mô phỏng – đã nuôi dưỡng những nghệ sĩ của quá khứ; và từ hai thế kỷ trở lại đây, tính hiện đại – ý niệm về sự độc đáo và sự  sáng tạo mang tính cá nhân tuyệt đối – đã nuôi dưỡng chúng ta. Nếu một ý niệm như thế không tồn tại, thì những tác phẩm hoàn hảo nhất, có sức sống nhất của thời đại chúng ta cũng không tồn tại. Đặc trưng của tính hiện đại là sự phê phán: cái mới là cái lấp lên cái cũ, đối chọi với cái cũ và chính sự tương phản kiên định này làm nên tính liên tục của truyền thống. Trong quá khứ, tính liên tục nằm trong sự nối dài hay sự bền bỉ của những hình thức, những đặc trưng cổ mẫu (archetypal) của tác phẩm nghệ thuật; ngày nay, tính liên tục mang hình thức của sự phủ định hay đối lập. Trong nghệ thuật cổ điển, cái mới mẻ là một kiểu biến tấu từ khuôn mẫu; trong nghệ thuật Baroque, đó là sự cường điệu; trong nghệ thuật hiện đại, đó là sự đập vỡ bất ngờ. Trong cả ba trường hợp trên, truyền thống là một mối quan hệ sống động, kể cả khi đó là quan hệ mang tính chất bút chiến, và cuộc đối thoại giữa các thế hệ không bao giờ bị đứt đoạn hoàn toàn.

Nếu sự mô phỏng trở thành một sự lặp lại đơn thuần, cuộc đối thoại sẽ dừng lại và truyền thống sẽ hóa thạch; nếu tính hiện đại không mang tính tự phê phán, nếu nó không phải là sự đột phá mãnh liệt và chỉ xem mình như là sự nối dài của “cái hiện đại” thì truyền thống sẽ bị tê liệt. Đấy chính là cái xảy ra trong khu vực rộng lớn của cái được gọi là “nghệ thuật tiền phong” (avant-garde). Lý do cho điều này thật hiển nhiên: ý niệm về tính hiện đại bắt đầu mất đi hiệu lực của mình. Nó đánh mất hiệu lực vì tính hiện đại thôi không còn là một thái độ phê phán nữa mà trở thành một thứ quy phạm được chấp nhận, được điều chỉnh. Thay vì làm một kẻ dị giáo, như ở thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, nó trở thành một thứ niềm tin mà mọi người đều chấp thuận. Đảng Cách mạng Thiết chế (Institutional Revolutionary Party) – một phát kiến vĩ đại về logic và ngôn ngữ của chính trị Mexico –  là một nhãn hiệu rất phù hợp với một bộ phận lớn của nghệ thuật đương đại. Hơn mười lăm năm trở lại đây, chúng ta đã được chào mời bởi một diễn cảnh khá khôi hài, đặc biệt trong hội họa và điêu khắc; mặc dù nhiều “trường phái” khác nhau nối tiếp nhau với một tốc độ chóng mặt, tất cả những gì bày ra này có thể được quy giản về một công thức đơn giản: sự lặp lại với mức độ tăng tốc không ngừng. Chưa bao giờ ta thấy những sự bắt chước điên rồ, trần trụi lại hóa trang thành sự độc đáo, sự phát kiến và cách tân. Đối với tổ tiên của chúng ta trong quá khứ, sự mô phỏng không chỉ là một sự thực hành hợp thức mà còn là một bổn phận nhưng mô phỏng lại không phải là cách sáng tạo cái mới và những tác phẩm thật sự độc đáo. Nghệ sĩ là một khối mâu thuẫn sống động: anh ta cố gắng mô phỏng và anh ta phát minh; anh ta cố gắng phát minh và anh ta sao chép. Nếu nghệ sĩ đương đại thật lòng muốn trở nên độc đáo, sáng tạo, mới mẻ, anh ta nên bắt đầu bằng việc không cần đếm xỉa đến những ý niệm về sự độc đáo, tính cá nhân và cách tân: anh ta là kẻ “cliché” (mòn sáo) trong thời đại của chúng ta.

Một số nhà phê bình Mexico đã dùng từ “chậm phát triển” để mô tả tình trạng của nghệ thuật và văn chương châu Mỹ -khu vực sử dụng tiếng Tây Ban Nha: nền văn hóa của chúng ta “chậm phát triển”, tác phẩm của nhà văn X hay Y là một cú đột phá khỏi “nền tiểu thuyết đang ở tình trạng chậm phát triển của đất nước của ông”, v.v… Như tôi thấy, từ này liên đới với một số khuynh hướng không được các nhà phê bình (ngay cả tôi) ưa chuộng: chủ nghĩa dân tộc sô-vanh, chủ nghĩa kinh viện, chủ nghĩa truyền thống, v.v… Song từ “chậm phát triển” còn là một uyển ngữ mà Liên hợp quốc dùng để chỉ các quốc gia lạc hậu. Ý niệm “chậm phát triển” là một nhánh của ý niệm về sự tiến bộ của xã hội và kinh tế. Ngoài việc trên thực tế, tôi là người phản đối xu hướng quy giản sự đa nguyên của các nền văn hóa và chính số phận của con người về một hình mẫu đơn nhất, tôi còn đặc biệt hồ nghi liệu mối quan hệ nào giữa sự thịnh vượng về kinh tế và sự ưu tú về thẩm mỹ có phải là một thứ quan hệ nhân quả? Cavafy, Borges, Unamuno và Reyes đều không thể được gắn cho cái nhãn “chậm phát triển” được, bất chấp địa vị ngoại biên của nền kinh tế Hy Lạp, Tây Ban Nha và các nước châu Mỹ Latin. Hơn nữa, sự hối hả để “phát triển” thực sự chỉ gợi tôi nghĩ đến một cuộc chạy đua điên rồ để đặt chân trước cánh cổng Địa ngục đang ở trước tất cả chúng ta.

Nhiều nhóm dân chúng và nhiều nền văn hóa đã lấy tên của một vị thần, một phẩm chất, một định mệnh, một tình huynh đệ làm tên gọi của mình: Hồi giáo (Islam), người Do Thái (the Jews), người Nhật Bản (Japanese), người Tenochas, người Aryan. Mỗi cái tên giống như một loại đá đặt nền, một thỏa ước với vĩnh cửu. Thời đại của chúng ta là thời đại duy nhất phải lựa chọn một tính từ vô nghĩa để mô tả về chính nó: hiện đại. Vì thời hiện đại tất yếu sẽ thôi không còn là hiện đại; điều này cũng có nghĩa là nó chẳng có bất kỳ cái tên nào cả.

Ý niệm mô phỏng cái cổ điển bắt nguồn từ một nhãn quan về dòng thời gian chảy trôi như là sự xa rời khỏi thời gian nguyên thủy vốn được xem là lý tưởng. Đây chính xác là sự đối lập với ý niệm về sự tiến bộ: cái hiện tại luôn không thực chất và bất toàn khi so sánh với quá khứ, và ngày mai sẽ là tận cùng của thời gian. Hàm ẩn trong quan niệm này là niềm tin rằng, trước hết, quá khứ có những quyền năng hồi phục và thứ hai là niềm tin vào sự tái diễn vĩnh cửu của cái chu kỳ suy thoái, diệt vong và khởi đầu mới. Thời gian tự ăn chính nó, và cũng bởi vậy, tự tái sinh chính nó. Quá khứ là hình mẫu của hiện tại: mô phỏng cổ đại và và tự nhiên – cái mô hình phổ quát mà bên trong những hình thức của nó hàm chứa tất cả các thời đại –  là một cách để làm chậm dần quá trình suy thoái. Ý niệm về tính hiện đại là sản phẩm của thời gian tuyến tính: hiện tại không lặp lại quá khứ và mỗi khoảnh khắc là độc nhất, khác biệt và tự lực (self-sustaining). Mỹ học của tính hiện đại, như Baudelaire – một trong những người đầu tiên định nghĩa nó – nhận thức rất rõ, không đồng nghĩa với ý niệm về sự tiến bộ: thật khó – hay thậm chí thật phi lý – để tin rằng cái gọi là tiến bộ có thể tồn tại trong lãnh địa nghệ thuật. Song tính hiện đại và tiến bộ lại giống nhau ở chỗ cả hai đều là sản phẩm của một quan niệm về thời gian mang bản chất tuyến tính. Quan điểm về thời gian này nay đang chết. Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng hai mặt: sự phê phán ý niệm tiến bộ ở những nước phát triển cao và sự thoái hóa của tính tiền phong trong lĩnh vực văn chương, nghệ thuật. Cái phân biệt nghệ thuật hiện đại với nghệ thuật ở những thời đại khác là tính phê phán – và nghệ thuật tiền phong đã không còn mang tính phê phán nữa. Quyền năng phủ định của nó đã bị cùn mòn khi nó bước vào vòng tròn sản xuất-tiêu dùng của xã hội công nghiệp, hoặc như một vật thể (object) hoặc như là tin tức (news). Ở trường hợp thứ nhất, giá cả trở thành một tiêu chí thật sự xác định giá trị của một bức tranh hay một pho tượng; ở trường hợp thứ hai, cái quan trọng không phải là bài thơ hay cuốn tiểu thuyết nói gì mà là người ta đã nói gì về chúng, những bình phẩm nhảm nhí đã thoái hóa thành một trận lụt quảng cáo đơn thuần.

Một nghệ thuật mới đang ló rạng. Mối quan hệ giữa nghệ thuật với ý niệm về thời gian tuyến tính đang bắt đầu thay đổi, và sự thay đổi này thậm chí sẽ trở nên triệt để hơn cả hai thế kỷ trước đây khi ý niệm về tính hiện đại đã làm xói mòn quan điểm Thiên chúa giáo về thời gian như một quá trình hữu hạn, kết thúc trong tính vĩnh cửu bất động. Tương lai bắt đầu đánh mất đi sự mê hoặc, quyến rũ của mình khi ý niệm về sự tiến bộ bắt đầu suy thoái. Sự kết thúc ý niệm của chúng ta về thời gian cũng có nghĩa là sự kết thúc của “những trung tâm thế giới về nghệ thuật”. Hôm nay, tất cả chúng ta đều nói  cùng một ngôn ngữ phổ quát, nếu không muốn nói là một thứ tiếng giống nhau. Không có một trung tâm duy nhất và thời gian đã đánh mất đi sự rạch ròi trước đây của nó: Đông và Tây, hôm qua và ngày mai tồn tại trong mỗi chúng ta như một khối lộn xộn, nhập nhằng. Những thời gian khác nhau và những không gian khác nhau được kết nối lại trong cái ở đây-bây giờ, mọi nơi và mọi khoảnh khắc cùng đồng hiện. Một nhãn quan đồng đại đang thay thế cho nhãn quan lịch đại trước đây về nghệ thuật. Động thái này đã bắt đầu khi Apollinaire tìm cách đặt những không gian khác nhau cận kề nhau trong một bài thơ duy nhất; khi Pound và Eliot ứng xử với lịch sử theo cùng một cách, tích hợp những văn bản từ những thời đại khác và ngôn ngữ khác vào tác phẩm của mình. Những thi sĩ ấy đã tin rằng với cách làm như thế, họ trở thành thi sĩ hiện đại; thời gian của họ là sự tổng hợp mọi thời gian. Nhưng điều thật sự mà họ đã làm là dấn bước đầu tiên để phá hủy tính hiện đại. Những biên giới cũ đã biến mất và những biên giới khác đang hình thành; chúng ta đang chứng kiến sự kết thúc của ý niệm về nghệ thuật như một sự trầm tư (contemplation) thẩm mỹ và trở lại với một ý niệm mà phương Tây từ lâu đã lãng quên: sự tái sinh nghệ thuật như một hành động và biểu trưng tập thể và sự tái sinh của sự đối lập bổ sung của nó – sự trầm tư đơn độc. Nếu như từ “tâm linh” (spiritual) không mất đi ý nghĩa chặt chẽ của nó thì tôi đã muốn gọi thứ nghệ thuật mới này là nghệ thuật tâm linh. Một nghệ thuật tinh thần đòi hỏi người đọc và người nghe sự nhạy cảm và trí tưởng tượng của người trình diễn, nghĩa là, giống như những nhạc sĩ người Ấn Độ, họ phải đồng thời là người sáng tạo. Những tác phẩm của thời đại mới được sinh thành không phải trên cơ sở của ý niệm về sự tiếp nối tuyến tính mà là của ý niệm về sự kết hợp: sự liên kết, sự khuếch tán và hội tụ của các ngôn ngữ, các không gian và thời gian. Vừa mang tính chất hội hè, vừa là sự trầm tư sâu lắng. Một nghệ thuật của sự kết hợp.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Octavio Paz, “Invention, Underdevelopment, Modernity”, bản dịch tiếng Anh của Helen Lane, in trong Alternating Current, Arcade Publishing, New York, 1990, trang 17-21.