Tag Archives: trần ngọc hiếu

Về nghề… Mấy ý nghĩ rời

the_classHình ảnh từ phim Entre Les Murs của đạo diễn Lauren Cantet-một trong những bộ phim về đề tài giáo dục mà tôi yêu thích nhất.

1. Nếu được hỏi “Đối với anh, bài văn nào khó dạy nhất trong chương trình”, ở thời điểm này, câu trả lời của tôi sẽ là bài “Sa hành đoản ca” của Cao Bá Quát. Dù cố gắng hết sức để soạn bài, nhưng chưa bao giờ tôi nhìn thấy ở mắt học trò có một sự quan tâm, hứng thú hay xúc động nào. Tôi chưa bao giờ nhận được sự chia sẻ từ các em khi cố gắng giảng cho học trò về một bài thơ hiếm hoi trong chương trình nói lên phẩm chất đích thức của kẻ sĩ giữa đời sống này. Sẽ phải đi về đâu? Chưa biết. Nhưng chẳng thể dừng lại, dừng lại là sa lầy. Kẻ sĩ là kẻ tự đặt cho mình trách nhiệm phải đối mặt với những câu hỏi lớn, cho chính mình và rộng hơn là thời đại. Đó là kẻ không chấp nhận những câu trả lời có sẵn, càng không thể thỏa hiệp với những câu trả lời hời hợt, dễ dãi. Nỗi đau khổ của kẻ sĩ vì thế không dễ thấu hiểu. Nhưng đời sống sẽ thế nào nếu thiếu vắng những kẻ cả nghĩ như thế?

Có một bài thơ của Joseph Brodsky mà tôi đặc biệt yêu thích là bài “The Great Elegy for John Donne” (bản dịch tiếng Việt là “Khúc bi ca lớn cho John Donne”). Lần đầu tiên tôi biết đến kiệt tác này qua bản dịch của Hoàng Ngọc Biên (rất tiếc bản dịch này chưa có phiên bản điện tử) năm 1996. Đó là một tác phẩm ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Kẻ sĩ, có lẽ là kẻ mắc bệnh như John Donne, không thể ngủ trong khi tất cả đều đắm chìm trong mộng mị; trí tuệ khiến y tỉnh táo để đối diện với cái rỗng không, cái hư vô đang xâm lấn mọi thứ, khiến y khổ đau, tuyệt vọng vì bất lực không tìm được ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đó là nỗi tuyệt vọng đáng kiêu hãnh.

Tôi đã không thể làm cho học trò của mình đồng cảm với những khắc khoái trí tuệ ấy. Cũng như tôi đã quên chưa nói với các em rằng: đã bao giờ, các em băn khoăn sao trong những bài văn ở chương trình, chúng ta lại phải mất công tìm hiểu những kẻ hay bất mãn với cuộc đời và bất mãn với chính mình? Nào là một Tú Xương tự nhận mình là kẻ nặng nợ chất chồng khổ sở lên vai bà vợ, thấy mình “có cũng như không”, nào là Hộ trong “Đời thừa’ – kẻ rơi vào cái bi kịch khủng khiếp nhất của đời người khi tự chán ghét chính mình, nào là Trương Ba không thể chấp nhận sự tồn tại vay mượn thân xác kẻ khác, cho dù xung quanh ông, cho dù ngay cả Ngọc Hoàng thượng đế, không ai được sống toàn vẹn là mình…? Tại sao những kẻ bất mãn với chính mình, những kẻ không dễ thỏa hiệp với đời sống mới là nguồn cảm hứng mạnh mẽ của văn chương?

Tôi đã quên không đặt câu hỏi ấy cho học trò. Nhưng đó cũng là câu hỏi khó, chính tôi cũng không chắc mình có thể trả lời thấu đáo.

2. Tuần trước, khi đi dạy các em lớp 12, xung quanh chủ đề giá trị của văn chương, tôi lại đưa các em về với câu hỏi “Văn chương ích gì?”. Tôi đã nói với các em khi đặt câu hỏi này, có nghĩa là giá trị của văn chương đang bị nghi ngờ. Sự nghi ngờ đó xuất phát từ chính thực tế của đời sống chúng ta, nơi các giá trị vật chất, thực tê, thực dung lên ngôi, trở thành hệ quy chiếu cho nhiều bình diện của đời sống. Trong bối cảnh ấy, những giá trị tinh thần có nguy cơ bị tổn thương rất lớn. Văn chương, nếu có ích gì, thì với tôi, trước hết, nó biện hộ, nó nâng niu những giá trị đang phải đối mặt với sự tổn thương ấy. Đời sống của chúng ta có hạnh phúc hơn chăng khi ta sẵn sàng đánh đổi những giá trị tinh thần, phi vật chất,vô hình ấy lấy những thứ hữu hình, thực tiễn và quyền lực? Một câu thơ hay cùng lắm chỉ đem đến cho con người một khoái cảm tinh thần; khi chúng ta đang đói, câu thơ hay hình như vô nghĩa; nhưng ngay cả khi chúng ta đã no dạ dày, câu thơ hay liệu có ích gì hơn không. Rất có thể câu thơ hay vẫn vô dụng vậy thôi

Học trò của tôi mới lớp 12. Các em đã không thật hiểu điều tôi nói lắm. Khi nhìn vào những ánh mắt không hiểu ấy, tôi đã nói: Nếu cách đây 6-7 năm, khi tôi nói văn chương chăm chút cho đời sống tinh thần của con người, nhờ đó con người được là người, các em có quyền nghi ngờ tôi đang rao giảng một niềm tin sách vở. Nhưng chính ở thời điểm này, khi nói với các em như thế, tôi mới thấm thía điều mà văn chương mang lại cho riêng tôi.

Lúc nãy thôi, qua lời một người bạn đồng nghiệp, tôi đã được nghe một người thầy khuyên nhủ: cần phải sống hài hòa, chữ nghĩa nhiều làm gì, sách vở nhiều làm gì, sắc sảo để làm gì, tranh cãi đúng-sai để làm gì. Cuối cùng chúng ta đều chết hết. Văn chương, chữ nghĩa vô nghĩa cả thôi. Những luận điểm đó không mới mẻ. Tôi đã được nghe hơn một người nói như thế, thậm chí còn với ngôn ngữ tàn nhẫn hơn. Lần này, tôi đã không chỉ buồn (như mọi lần) mà còn hơi bực mình trước một lời khuyên có vẻ minh triết nhưng cực kỳ độc đoán như thế. Tôi tuyệt nhiên không lý tưởng hóa văn chương, nhưng giữa một thế giới, nơi sự khôn ngoan (được diễn đạt uyển chuyển là “hài hòa”) lên ngôi, nơi con người ta coi sống là một màn trình diễn bất tận, nơi con người ta không thể tồn tại bên ngoài mặt nạ, tôi có thể tìm được sự đồng điệu nào hơn ở thế giới văn chương? Ở đó, sự yếu đuối của con người được lắng nghe; ở đó, những chấn thương dù vô hình của con người được chú mục; ở đó, tôi bắt gặp những gã khờ, những kẻ gàn dở như Don Quixote; ở đó, tôi bắt gặp những kẻ liều lĩnh, sẵn sàng đối mặt với những bất trắc; ở đó, tôi nhìn thấy những người chối từ sự phẳng lặng như là định mệnh đẹp đẽ dành cho mình. Khi xã hội của chúng ta ngại ngần những khác biệt, văn chương lại là nơi chúng ta sống với những kẻ khác, ta có thể đồng cảm, hóa thân vào những khác biệt. Văn chương không nói rằng, con người là dễ hiểu; văn chương chỉ làm ta thấy dễ hiểu vì sao vẫn luôn có những kẻ tự phức tạp hóa đời mình lên, tự đẩy mình vào những tình huống hoang mang. Văn chương không nói với chúng ta rằng rốt cục tất cả chỉ có một giải pháp; không, văn chương nói với chúng ta rằng ta được quyền lựa chọn, mọi lựa chọn đều bất toàn và cũng đều đáng giá, mọi lựa chọn cần được thấu hiểu trước khi phán xét. Và đương nhiên, văn chương vẫn không ngừng nói về cái chết, về hư vô nhưng không phải để chúng ta coi thường đời sống, để chúng ta sống hời hợt, để chúng ta đánh đồng mọi đúng-sai, an phận trong những trật tự giả tạo và gò bó. Tôi đang nghĩ nhiều về sự tuổi già và cái chết được thể hiện trong nghệ thuật. Tôi chưa có những ý tưởng sáng rõ nào, nhưng tôi luôn nghĩ văn chương nói về tuổi già, bệnh tật, cái chết để ta chiêm nghiệm về những giới hạn của đời người cũng như những khả năng con người chiến thắng hư vô. Chẳng phải chỉ khi chết con người ta mới thấy hư vô. Kinh khủng nhất là người ta lợi dụng việc hư vô hóa đời sống để sống một cách vô trách nhiệm.

3. Càng ngày tôi càng cảm thấy chính những người học văn, dạy văn, làm văn…lại là những người dễ làm tổn thương nhau hơn cả. Có thể sẽ có bạn hỏi: nếu văn chương ý nghĩa đến như thế, tôi sẽ lý giải ra sao về những gì vừa xảy ra và hậu quả chưa hết chấm dứt tại môi trường của tôi- Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm? Những người tấn công Nhã Thuyên và PGS. Nguyễn Thị Bình có đọc văn chương không? Tại sao họ lại có thể có những hành động không thể nói là “nhân văn” được? Và cả những người im lặng, không làm gì cả khi những đồng nghiệp học trò của mình rơi vào tình thế bị xúc phạm? Có trớ trêu không khi sự im lặng ấy lại được xem là khôn ngoan? Họ có đọc văn chương không? Văn chương có đem đến cho con người sự khôn ngoan như thế không?

Đến đây, thì tôi bất lực thật sự. Tôi chỉ dám bảo vệ cho niềm tin của tôi mà thôi; tôi không thể nói thay cho người khác. Và bạn ơi, sống cho niềm tin đó, với tôi, khó khăn vô cùng. Vì xét cho đến cùng, cái làm nên một giờ dạy văn trung thực chưa hẳn là kiến thức, mà là con người của anh nữa. Có rất nhiều điều về văn chương, tưởng chừng như đơn giản, nhưng đến giờ phút này, tôi mới có thể diễn giải với học trò từ trải nghiệm của mình. Cũng như văn chương, nếu có làm tôi thay đổi điều gì trong tính cách, thì có lẽ nó làm tôi khiêm tốn hơn hẳn. Nó làm tôi biết thu lại tham vọng muốn khuyên nhủ ai khác, thay vào đó là ý thức chia sẻ, và vì thế tránh mọi áp đặt của mình lên người khác. Rằng, cũng hôm trước, khi nói với học trò về tính có ích của văn chương, tôi đã phải nói đi nói lại: các bạn đừng lệ thuộc vào nhãn quan bi kịch của tôi. Rằng, cốt lõi của giao tiếp văn chương là sự chân thành, mà thời này, sự chân thành thường không phải là hình thức sinh viên, học sinh thấy được ngay. Tôi không có câu chuyện đời tư nào hấp dẫn, tôi không có tài lẻ nào để khoe, tôi không phải là người thành công để chia sẻ… Tôi chỉ có những câu chuyện, những bộ phim, những bài hát. Tôi đã rất hồn nhiên nói về những cuốn sách, những bộ phim đến với tôi đúng thời điểm.

Bạn hỏi: 20-11, vậy thì tôi có gì đáng kiêu hãnh để nói với mọi người về lựa chọn của mình? Có, rằng tôi có những sinh viên, những học trò đã tìm đến những cuốn sách, những bộ phim mà tôi nói.

Trong chừng mực nào đó, tôi tin mình đã làm được một điều có ích cho ai khác, ngoài tôi.

18.11.2014

 

Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam: từ giới hạn của những cách tiếp cận đến đề nghị về những cách đọc khác

sunset-1866

Trong nhận thức của giới nghiên cứu ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn dường như là một hiện tượng lịch sử đã hoàn tất. Có thể thấy điều này qua số lượng thưa thớt các chuyên luận dành riêng để nghiên cứu chủ nghĩa lãng mạn trên thế giới và ở Việt Nam thời gian gần đây. Một dẫn luận đáng kể về chủ nghĩa lãng mạn phương Tây là cuốn Văn học lãng mạn và hiện thực phương Tây thế kỷ XIX của hai nhà nghiên cứu Lê Hồng Sâm và Đặng Thị Hạnh đã được xuất bản cách đây hơn 30 năm nhưng cho đến nay thực sự vẫn chưa có những công trình nào đi xa hơn những kết quả nghiên cứu ấy[1]. Cuốn Văn học lãng mạn của Phan Cự Đệ được tái bản có sửa chữa vào năm 1999, nằm trong số ít ỏi những công trình nghiên cứu chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam như một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt mà cảm hứng chiêu tuyết cho một trào lưu từng chịu nhiều định kiến trong lịch sử vẫn là chủ đạo[2]. Giáo trình Lý luận văn học tập 3 – “Tiến trình văn học” của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ở lần in thứ 6 năm 2013, coi chủ nghĩa lãng mạn như một trào lưu văn học và như một phương pháp sáng tác mang tính lịch sử. Phần viết về chủ nghĩa lãng mạn ở giáo trình này, về cơ bản, không khác biệt với những gì đã viết trong bộ giáo trình được biên soạn vào năm 1987, vào thời điểm mà chủ nghĩa lãng mạn bắt đầu được nhận thức lại một cách rụt rè. Định kiến ý thức hệ vẫn còn bảo lưu rõ nét khi người ta vẫn bắt gặp sự phân chia chủ nghĩa lãng mạn thành hai khuynh hướng: chủ nghĩa lãng mạn tích cực và chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực. Sự phân chia này, theo giáo trình nói trên, dựa vào ý thức hệ giai cấp: chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực hình thành trên cơ sở phản ứng của tầng lớp quý tộc trước Cách mạng Pháp – những người “bất bình với trật tự xã hội mới, lo sợ trước phong trào quần chúng, hoang mang dao động vì tương lai mờ mịt, luyến tiếc cái thời oanh liệt nay không còn nữa” còn cái được goi là chủ nghĩa lãng mạn tích cực thì “phản ánh sự chống đối của tầng lớp dân chủ tư sản cấp tiến”, thể hiện sự “bất bình với những thành quả thực tế của cách mạng”[3]. Như thế, nghiên cứu về chủ nghĩa lãng mạn, với tư cách là một hiện tượng lớn của văn học thế giới, một trào lưu quan trọng của văn học Việt Nam hiện đại, còn bỏ lại nhiều khoảng trống, thậm chí, còn quẩn quanh trong những diễn ngôn chứa đựng nhiều định kiến như đã dẫn ở trên[4]. Để nắm bắt những chuyển động của văn học đương đại, giới nghiên cứu có vẻ như đang tập trung hơn vào việc giới thiệu và “chiêu tuyết” cho các trào lưu chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại – một thời cũng thường bị gắn cho những định ngữ gây nghi kỵ – và xem chủ nghĩa lãng mạn như một khu vực đã yên ổn.

Trong khi đó, đối với giới nghiên cứu phương Tây, chính trong bối cảnh của chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa giải cấu trúc, chủ nghĩa lãng mạn lại là một phạm vi nghiên cứu năng động, đem đến nhiều sự hào hứng, nhiều kiến giải bất ngờ, sâu sắc và đột phá. Chủ nghĩa lãng mạn được nhìn nhận rộng hơn không chỉ như một trào lưu nghệ thuật mà, quan trọng hơn, như một thời đại. Một thời đại cách mạng. Nói như thế không chỉ vì các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu và ở Mỹ là cơ sở xã hội-lịch sử, là nguồn cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn mà còn vì tính chất cách mạng bộc lộ ở tình thần đặc trưng của nó: sự phê phán, phủ định. Tinh thần phê phán, phủ định triệt để của chủ nghĩa lãng mạn đã tạo ra những đứt đoạn, những sự phá vỡ nghiêm trọng hệ hình tư duy truyền thống trước đó. Nó cải tạo cơ bản cảnh quan tinh thần của thế giới phương Tây từ cuối thế kỷ XVIII. Octavio Paz đã viết về tinh thần phê phán, phủ định của chủ nghĩa lãng mạn như sau: “Chủ nghĩa lãng mạn là đứa con của Thời đại Phê phán, và sự thay đổi nhận trách nhiệm khai sinh nó, đồng thời là dấu hiệu bản sắc của nó. Không chỉ là sự thay đổi ở lãnh địa văn chương và nghệ thuật không thôi mà còn là sự thay đổi trong tưởng tượng, cảm giác, thị hiếu và tư tưởng. Chủ nghĩa lãng mạn là một thứ đạo lý, một chủ nghĩa dục tính, một thứ chính trị, nó là cách ăn mặc, là cách sống và cách chết. Như một đứa con nổi loạn, Chủ nghĩa lãng mạn là sự phê phán đối với truyền thống phê phán của chủ nghĩa duy lý. Đối với thời gian lịch sử, nó thiên vị thứ thời gian khởi nguyên, có trước lịch sử; đối với tương lai không tưởng, nó ưu ái hơn sự hiện diện tức thời của những đam mê, tình yêu và xác thân.”[5]

Mục đích của sự phủ định, phê phán này là nhằm xác lập một tính hiện đại mới. Tính hiện đại ấy thẩm thấu vào tất cả các bình diện của đời sống từ bình diện vật chất đến tinh thần. Có những hiện tượng, những trạng thái thể chất, tinh thần đi vào diễn ngôn thời đại mang tính cách mạng. Tự tử trong diễn ngôn lãng mạn trở thành hành vi cách mạng bởi nó là sự nổi loạn của ý chí cá nhân muốn tự định đoạt số phận của mình. Tiếng nói của thân thể, thậm chí của thân thể ốm đau, bệnh tật, hóa ra lại là tiếng nói phản đề của con người cá nhân trước những mệnh đề tôn sùng lý trí của thời kỳ cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn biện hộ cho con người được phép sống với phần riêng tư, khép kín, yếu đuối, dễ tổn thương, hay sầu muộn của cá nhân mình. Các chuyến du hành, các không gian mục đồng hay hoang dã, các sinh hoạt từ ẩm thực, luyến ái, thời trang, đọc và viết tiểu thuyết… đều trở thành những diễn ngôn lãng mạn hàm chứa những khao khát vượt thoát, thỏa mãn tình cảm, cảm giác, lách ra ngoài lề, phê phán xã hội, xác lập cái mới.

Octavio Paz đã ví mối quan hệ giữa chủ nghĩa lãng mạn và tính hiện đại vừa như “mối quan hệ theo kiểu con cái” đồng thời lại vừa là “mối quan hệ gây tranh cãi”. Ông viết: “Chủ nghĩa lãng mạn là sự phủ định lớn đối với tính hiện đại như nó vốn được quan niệm ở thế kỷ XVIII bởi lý tính phê phán, không tưởng và cách mạng – nhưng đó là sự phủ định vẫn nằm bên trong tính hiện đại”[6]. Tính hiện đại của thời đại lãng mạn, đến lượt mình, lại là đối tượng phê phán của thời hậu hiện đại; những ý niệm mà thời đại lãng mạn xác lập trở thành đối tượng chủ yếu của hoạt động giải cấu trúc. Chủ nghĩa lãng mạn, như thế, không bao giờ là một hiện tượng đã xong xuôi, hoàn kết. Chúng ta không ngừng phải đối thoại với nó để nhận thức về chính thời đại của mình và về chính bản thân mình.

Đó là lý do tại sao những động hướng lý thuyết năng sản nhất, có ảnh hưởng mạnh nhất hiện nay như phê bình hậu thực dân, phê bình sinh thái, phê bình chấn thương, thuyết đồng tính… phần lớn đều coi chủ nghĩa lãng mạn là một mốc đặc biệt quan trọng để từ đó bắt đầu đặt ra những chất vấn, khơi gợi những phản tư. Những chất vấn, phản tư này dần dần phát lộ những thứ lịch sử nhỏ, những tiểu tự sự khác bấy lâu chìm dưới những lịch sử lớn, những đại tự sự. Đó là những lịch sử nhỏ, những tiểu tự sự về/của những bộ phận thường bị xem là nhỏ/phụ, bị ngoại biên hóa, bị xem như không có tiếng nói. Mà chính bộ phận nhỏ/phụ, ngoại biên hóa, không có tiếng nói ấy lại là đối tượng của nhiều lý thuyết văn hóa đương đại – điều được thể hiện ngay trên tên gọi những lý thuyết phê bình này.

Chủ nghĩa lãng mạn ở Việt Nam, nói một cách thẳng thắn, cũng tạo ra những tác động mang tính cách mạng trên nhiều bình diện của đời sống văn hóa-xã hội đầu thế kỷ XX. Hơn cả việc mở ra “một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh), chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện cùng với ý niệm về “tân thời”, “hiện đại”, dẫn đến những sự phá vỡ, những cải tạo cơ bản môi trường vật chất và không gian tinh thần của con người Việt Nam đầu thế kỷ. Thậm chí, những khuynh hướng tư tưởng chính trị ở thời kỳ này cũng không nằm ngoài từ trường của chủ nghĩa lãng mạn: Jean-Jacques Rousseau và nhất là Victor Hugo có ảnh hưởng quan trọng đến nhiều nhà chính trị đương thời của Việt Nam, thậm chí Victor Hugo còn được phong thánh trong đạo Cao Đài – một tôn giáo mới được hình thành đầu thế kỷ XX, ở thời điểm bối cảnh Việt Nam xuất hiện những biến động lớn[7]. Một điều thú vị là ta có thể quan sát âm bản của cuộc cách mạng mà chủ nghĩa lãng mạn tạo ra qua cuốn tiểu thuyết hiện thực trào phúng Số Đỏ (1936) của Vũ Trọng Phụng. Ở cuốn tiểu thuyết này, chủ nghĩa lãng mạn trở thành một đối tượng chính của giễu nhại nhưng cũng qua đó, ta có thể thấy chủ nghĩa lãng mạn đã thẩm thấu rất sâu vào nhiều phương diện, nhiều hoạt động của xã hội thị dân đầu thế kỷ XX. Lãng mạn trở thành một thứ phong cách sống, một thứ mốt biểu hiện qua thơ ca, thời trang, chuyện tình ái, cách ăn nói phổ biến. Nó gắn với những ý niệm về “Âu hóa”, “văn minh”, “nữ quyền”…- những từ ngữ vốn lạ lẫm giờ tràn vào diễn ngôn đương thời, hàm ẩn bên trong nhiều sự đụng độ, va chạm, khiêu khích với những giá trị truyền thống. Nói cách khác, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, vô hình trung, đã cho thấy chủ nghĩa lãng mạn ở Việt Nam bao hàm bên trong mình rất nhiều thứ lịch sử nhỏ khác mà giới nghiên cứu chưa thật sự dành nhiều quan tâm để đọc chúng ra.

Những lịch sử nhỏ bên trong chủ nghĩa lãng mạn ở Việt Nam lại rất cần được nhìn ra, được bóc tách từ điểm nhìn của phê bình hậu thực dân. Không thể phủ nhận thực tế rằng chủ nghĩa lãng mạn đã thông qua con đường của chủ nghĩa thực dân để cập bờ những nền văn hóa, văn học ngoài châu Âu. Con đường ấy khiến diễn ngôn của chủ nghĩa lãng mạn ở không gian thuộc địa mang những phẩm chất như tính mơ hồ (ambiguous), tính nước đôi (ambivalent), tính lai ghép (hybrid)… Trong ngữ cảnh Việt Nam, văn chương lãng mạn, tình cảm ban đầu đã xuất hiện như tác nhân cực mạnh làm lung lay xã hội truyền thống mà nền tảng của nó là đạo đức Nho giáo. Trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt (1935) của Nhất Linh, người đại diện cho bên nguyên trong phiên tòa xét xử vụ án Loan giết chồng có lẽ đã nói lên một định kiến đương thời về khả năng kích động của văn chương lãng mạn, làm đổ vỡ khuôn mẫu gia đình truyền thống: “Vì kiêu căng, vì lãng mạn, lại vì so sánh những cảnh thần tiên thấy trong tiểu thuyết với cái sự thực tầm thường trước mắt nên Thị Loan tìm cách thoát ly.”[8] Tiến sĩ Nguyễn Nam cũng đã có một khảo cứu công phu về hiện tượng phụ nữ đầu thế kỷ XX tự sát dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết tình cảm để chỉ ra những dịch chuyển sâu sắc, quan trọng trong ý thức xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là vị thế độc lập hơn của lớp phụ nữ thành thị từ chỗ có thể chủ động quyết định việc đọc gì đến chỗ thậm chí tự quyết cả số phận của mình[9]. Cùng với sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn, văn học Việt Nam thực sự đã chấm dứt mười thế kỷ văn học trung đại để gia nhập vào tiến trình văn học thế giới.

Nhưng chủ nghĩa lãng mạn ở Việt Nam là một sự kháng cự kép: nó không chỉ kháng cự ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến mà còn kháng cự chính ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân văn hóa từ phương Tây. Với ý thức kháng cự này, chủ nghĩa lãng mạn tham gia vào việc cấu thành những diễn ngôn về chủ nghĩa dân tộc đầu thế kỷ. Không phải ngẫu nhiên khi ở giai đoạn này, người ta lại thường dùng phạm trù “hồn” – một phạm trù mà chủ nghĩa lãng mạn đề cao, xem như là phần tinh túy, riêng biệt nhất của mỗi cá nhân – để biểu đạt những ý niệm dân tộc chủ nghĩa như “hồn nước”, “hồn dân tộc”… Thơ ca là kết tinh của ngôn ngữ dân tộc, bởi thế, đó là nơi bảo lưu sâu đậm nhất hồn vía của dân tộc. Niềm tin của Phạm Quỳnh vào sức sống của dân tộc khi phát biểu: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước Nam còn”, ở chừng mực nào đó, có thể xem như một thứ diễn ngôn lãng mạn nhưng không phải không có lý. Và Hoài Thanh có lẽ đã nói với một giọng điệu không mặc cảm về các nhà thơ trong phong trào Thơ mới: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.”[10] Tiếng Việt đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong nỗ lực kháng cự này, nói như Nguyễn An Ninh, nó trở thành nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức[11]. Trong trường hợp này, ta phải nói đến chữ quốc ngữ. Thứ chữ được La mã hóa bởi giáo sĩ Ky tô giáo từ phương Tây này ban đầu được sử dụng trong một cộng đồng hẹp của một tôn giáo ngoại lai, có địa vị ngoại biên và không thể nói không hàm ẩn tham vọng thực dân cuối cùng lại được tận dụng từ phía chủ thể thuộc địa biến thành phương tiện hiệu quả, năng động để dẫn nhập, kiến tạo cái mới. Rất nhiều những ý niệm của thời hiện đại đã trải qua quá trình dịch văn hóa như “dân tộc”, “văn minh”, “tiến hóa”, “xã hội”…để trở thành những khái niệm nền tảng, quan trọng của một hệ hình tư duy mới. Trong số đó, có khái niệm về “cái tôi” – khái niệm hạt nhân của chủ nghĩa lãng mạn.

Cách Hoài Thanh nói về sự xuất hiện của chữ “Tôi” cho phép ta nghĩ đến quá trình dịch văn hóa khái niệm này diễn ra hồi đầu thế kỷ: “Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cái cá nhân. cái bản sắc của cá nhân như giọt nước trong biển cả.”[12] Quá trình dịch văn hóa chữ “tôi” hàm chứa nhiều lịch sử nhỏ thú vị và phức tạp. Nhà nghiên cứu David G. Marr trong tiểu luận “Concepts of ‘Individual’ and ‘Self’ in Twentieth-Century Vietnam” (Những khái niệm về “cá nhân” và “cái tôi” ở Việt Nam thế kỷ XX) đã phác thảo một lịch sử sống động về sự hiện diện của chữ “tôi” mà có thể xem đó là một quá trình dịch chữ ấy từ chỗ là một đại từ biểu thị ngôi thứ nhất khiêm nhường, phục tùng trong mối quan hệ với đối tượng giao tiếp được mặc định ở địa vị cao hơn, quyền lực hơn, mang dấu ấn ý thức hệ phong kiến đến chỗ được các trí thức Tây học sử dụng, cải tạo thành một đại từ biểu thị ngôi thứ nhất, trung tính, có giá trị tự thân, tương đương như từ “moi” hay “je” trong tiếng Pháp và xem việc xác lập được một đại từ như vậy là tạo ra không gian cho cái cá nhân được biểu hiện đàng hoàng, tự chủ. Nền tảng cho một xã hội dân chủ mới được kiến tạo gắn liền với khẳng định chỗ đứng cho một đại từ “tôi” như thế. (David Marr đã dẫn ra những ví dụ về việc các nhà cải cách hồi đầu thế kỷ đã vận động người Việt sử dụng chữ “tôi” trong hành văn như thế nào, ngay cả phụ nữ cũng được khuyến khích xưng “tôi” trong giao tiếp). Chữ “tôi” từ chỗ hoàn toàn không có tiếng nói, phải bỏ khuyết trong truyền thống giờ đã hiện diện rộng rãi trong thơ Mới, trong tự truyện. Chữ “tôi” trong tiếng Việt hiện đại, như David Marr nhận xét, không đạt đến phẩm chất trung tính như đại từ “moi” hay “je” trong tiếng Pháp, bởi để có được phẩm chất ấy, nó buộc phải tìm được một ngôi thứ hai cũng hoàn toàn trung tính, giải phóng khỏi những quan hệ tôn ti, họ hàng hay tình cảm. Bằng một cách ví von gây ấn tượng, Marr nhận xét về sự hiện diện của chữ “tôi” ở đầu thế kỷ XX như sau: “Tuy nhiên, nhìn chung, chữ ‘tôi’ giống một gã lãng tử đào hoa, bến nào cũng cặp kè nhân tình, thế nhưng cuối cùng đến già cũng không tìm thấy ai xứng với mình.”[13] Dẫu vậy, sự hiện hữu đậm nét, chững chạc của nó trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, trước tiên là trong văn học lãng mạn, vẫn là một chỉ dấu rất quan trọng về sự trưởng thành của ý thức cá nhân trong đời sống Việt Nam.

Ben Tran có một quan sát thú vị và sâu sắc khác về sự hiện diện của chữ “tôi” như một ý niệm dịch văn hóa qua một trường hợp nghiên cứu cụ thể về văn chương lãng mạn Việt Nam: tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng. Tranh luận lại với Marr, Ben Tran không xem việc chữ “tôi” trong tiếng Việt không đạt được những phẩm chất như chữ “moi” hay “je” trong tiếng Pháp là một điểm hạn chế – đó là logic kiểu lấy phương Tây làm trung tâm và do đó không thấy được sự phức tạp, tinh vi của các diễn ngôn thuộc địa. Ben Tran đọc tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng như một tiểu thuyết về khả năng thao túng, chiếm lĩnh ngôn ngữ-xã hội (socialinguistic) của người phụ nữ. Mai, nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết, theo cách đọc của Tran, bằng việc sử dụng lại chính hệ thống ngôn ngữ mang tính tôn ti của truyền thống để tự cứu mình trước sự gạ gẫm, ràng buộc của Hàn Thanh. Không phải bằng chữ “tôi” mà chính bằng những cách xưng hô tự hạ mình xuống vị thế dưới thấp (“cháu/cụ”) mới giúp Mai tạo được sự gián cách để bảo vệ chính bản thân mình. Ben Tran nhận xét: “Mai dùng ngôn ngữ để phá vỡ cấu trúc xã hội nói chung và chế độ hôn nhân ở nền tảng của nó.”[14] Việc Mai đặt tên cho đứa con giữa nàng và Lộc theo họ của mình cũng là hành động ngôn ngữ để kháng cự lại những chuẩn mực, tôn ti của thứ ngôn ngữ gia trưởng, lấy đàn ông làm trung tâm. Cùng với việc này, Mai quyết định chia tay Lộc, dù vẫn còn yêu chàng, chứ không chấp nhận việc làm thiếp (một thỏa hiệp với chế độ hôn nhân truyền thống) và cũng không chấp nhận bỏ trốn cùng Lộc – một giải pháp theo Mai là ích kỷ. Ben Tran đi đến kết luận: “Khi những cơ cấu nền móng của xã hội Việt Nam đang biến chuyển, cách sử dụng ngôn ngữ nói của Mai gây sự chú ý về khả năng của ngôn ngữ trong việc phản chiếu và cấu trúc những tôn ti và khác biệt xã hội đồng thời phá vỡ những quan niệm lý tưởng về một xã hội chuyển hướng theo phương Tây.” [15] Mặt khác, Tran lưu ý, chữ “tôi” trong cách ví von của Marr mà ở trên có dẫn lại hàm ẩn những giả định về giới tính trong đó. Chữ “tôi” là một ý niệm ẩn chứa sự thống trị của nam giới. Nhìn vào tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, Tran băn khoăn về sự thiếu vắng những tác phẩm mà người kể chuyện xưng tôi là phụ nữ, dù văn chương của nhóm thường được xem như là đại diện cho những quan niệm cấp tiến về phái nữ. Ngay cả trong Nửa chừng xuân, Ben Tran nhấn mạnh tất cả những chiến lược ngôn ngữ của Mai đều chỉ thể hiện qua đối thoại thông tục và chúng được viền lại trong một khung truyện được kể từ ngôi thứ ba. Tran dẫn lại nhận xét của Hue-Tam Ho Tai để lưu ý về phạm vi hẹp cho phép người phụ nữ xưng “tôi”: “…các nhân vật nữ chính của họ [của các tác giả Tự lực văn đoàn] bị khước từ quyền là những cá nhân hành động trong một ngữ cảnh rộng hơn hệ thống gia đình”[16] và đưa đến phép loại suy: “Không gian gia đình, trong trường hợp này, tương tự như ngôn ngữ thông tục, và hoạt động chính trị thì tương tự như trung gian (agency) của sự viết.”[17] Sự vắng mặt các tự sự trao cho người phụ nữ ngôi thứ nhất để kể chuyện trong văn xuôi Tự Lực văn đoàn nói riêng, trong văn học lãng mạn Việt Nam nói chung, cho phép ta nghĩ đến một giả thiết về sự thống trị của nam giới trong diễn ngôn của chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam. Nếu như vậy, một trường hợp như bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn” đến giờ vẫn chưa xác định được tác giả tiểu sử sẽ là một ca thú vị. Sự mập mờ của cái tên tác giả viết tắt nên được hiểu như một “mặt nạ” để bài thơ đậm tính tự sự với nhân vật nữ xưng tôi kể chuyện tình này thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của diễn ngôn lãng mạn lấy đàn ông làm trung tâm và đặt người phụ nữ ở tình trạng không có tiếng nói, hoặc chỉ có thể nói bằng lời đàn ông, nếu quả thật tác giả là nữ, như một số người đã cất công truy tìm phán đoán hay nên được hiểu như một thủ pháp tạo huyền thoại mà các nhà thơ nam muốn tạo ra cho bài thơ (không phải ngẫu nhiên mà có nhiều tác giả nam được cho là tác giả bài thơ như Thâm Tâm, Nguyễn Bính…). Cả hai trường hợp đều cho phép ta liên hệ đến các hình thức ngụy trang giới tính và tiểu sử vốn cũng có một truyền thống trong văn học Việt Nam từ thời trung đại. Mặt khác, nếu đã đến lúc cần phải chất vấn diễn ngôn lãng mạn định hướng trung tâm là nam giới thì điều này đồng nghĩa với việc cần phải viết lại lịch sử của văn chương nữ Việt Nam, trong đó vai trò của những tác giả nữ tiên phong hồi đầu thế kỷ như Huỳnh Thị Bảo Hòa, Manh Manh, Đạm Phương… một thời gian rất dài bị lãng quên, bị chìm bên dưới danh mục các điển phạm cũng hàm chứa sự thiên vị về giới tính. Hai nghiên cứu của David Marr và Ben Tran cho thấy những khả năng, những giới hạn và những lịch sử của chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam có thể được phát hiện bằng sự chất vấn những mặc định dành cho nó bắt đầu từ những gì ở bình diện vi mô.

Nhìn rộng hơn, bản thân chủ nghĩa lãng mạn ở Việt Nam cũng nên được tiếp cận như một hiện tượng dịch văn hóa trong ngữ cảnh thuộc địa. Một đề nghị như vậy không phải là xem nhẹ văn học lãng mạn Việt Nam; trái lại, chính “dịch” mới là từ phản ánh xác đáng hơn cả mối quan hệ giữa văn học lãng mạn Việt Nam với văn học lãng mạn phương Tây, trực tiếp là văn học Pháp, chứ không phải từ “ảnh hưởng” hay thậm chí “tiếp nhận”. Dịch bao hàm nét nghĩa của sự tiếp nhận, nhưng nó nhấn mạnh hơn khía cạnh tích cực, chủ động của chủ thể tiếp nhận trước tác động từ nền văn hóa thực dân. Nó là tập hợp của hàng loạt hành vi như chọn lựa, cải biên, bỏ sót, dịch nhầm, diễn giải, môi giới, ngăn chặn… Dấu ấn của dịch trước hết có thể được quan sát ngay trên bình diện ngôn ngữ. Trở lại với chữ “tôi”, trong tiểu luận của David Marr, ông lưu ý đến hiện tượng các trí thức Tây học đầu thế kỷ đã không dịch các đại từ “toi”, “moi” mà sử dụng lẫn với tiếng Việt thông tục trong giao tiếp để “tránh hàng loạt những cặp đại từ khác nhau dựa trên quan hệ tuổi tác, cấp bậc, địa vị hay phái tính.”[18] Tất nhiên, chữ “tôi” không phải được dịch từ chữ “moi” hay “je” nhưng từ sự hiện diện đan xen của chúng trong tiếng Việt đến việc chữ “tôi” được xưng lên công khai với ý thức giao tiếp hướng đến sự bình đẳng, mất đi nhiều dấu vết của sự mặc cảm về một địa vị thấp trong các tự sự và thơ ca đầu thế kỷ có thể là kết quả của sự cọ xát, tương tác giữa hai ngôn ngữ. Trên bình diện ngữ pháp, dấu ấn của dịch thể hiện rất rõ ở sự hình thành câu văn xuôi tiếng Việt hiện đại, ở sự du nhập các câu kiểu câu thơ định nghĩa, vắt dòng, các tổ hợp, lối diễn đạt vốn dĩ rất xa lạ trong tiếng Việt như “Đây mùa thu tới”, “Đây thôn Vĩ Dạ”, “Hơn một loài hoa đã rụng cành/Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, “Hôm nay tôi đã chết trong người/Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi”… Dịch trở thành nhân tố tham gia kiến tạo hình thức của thơ mới, bắt đầu từ những bài dịch thơ ngũ ngôn của Nguyễn Văn Vĩnh phá vỡ mọi quy tắc niêm luật hay từ nỗ lực thử áp mô hình thể alexandria 12 chân vào thơ Việt của Nguyễn Vỹ… Những hành động dịch ấy đã tạo ra đứt gãy, nứt rạn trong những hình thức truyền thống, mở ra nhiều khoảng tự do cho những cấu trúc diễn đạt mới, những thể phách khác cho thơ Việt. Thơ Xuân Diệu được đánh giá là “Tây” quá cũng vì những dấu vết của dịch hiện diện rõ ở nhiều chỗ: “Tây” vừa là điểm khiến Xuân Diệu đáng được ghi nhận như là thi sĩ “mới nhất của phong trào Thơ mới” (Hoài Thanh) nhưng lại cũng chính là điểm gây nên nỗi e dè của công chúng đương thời. Nhìn chủ nghĩa lãng mạn như một hiện tượng dịch văn hóa, ta có thể quan sát được rõ hơn sự thương thỏa giữa ý niệm về ta và về kẻ khác (Other), tức phương Tây hay trực tiếp hơn là Pháp, có thể nhận ra được tính chất thuộc địa trong những diễn ngôn lập thuyết ở giai đoạn này. Như ở nhận định sau của Hoài Thanh: “Mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp…Sự thực đâu có thế. Tiếng Việt, tiếng Pháp khác nhau xa. Hồn thơ Pháp hễ chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn…Thi văn Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam. Những sự mô phỏng ngu muội lập tức bị đào thải.” [19] Đoạn văn của Hoài Thanh, dưới góc nhìn của lý thuyết dịch văn hóa, cho thấy quá trình tiếp biến ảnh hưởng thơ Pháp vào Thơ mới có thể được xem như một quá trình dịch “nội hóa”(domesticating translation), lấy sự tiết giảm cái xa lạ, ngoại lai ở văn bản nguồn trong văn bản đích, xem sự trơn tru, mượt mà là tiêu chí. Đồng thời với quá trình này, ý niệm “bản sắc Việt Nam”, “hồn dân tộc” được kiến tạo như một màng lọc đối với hành vi dịch: những gì không thuần theo hướng nội hóa sẽ bị xem là “Tây quá”, là “lai căng”, hay mượn chính chữ của Hoài Thanh, “những sự mô phỏng ngu muội”. Ta thường xem điều này như là biểu hiện của tinh thần dân tộc, của sự tiếp thu tích cực, chủ động ảnh hưởng phương Tây của văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỷ mà chưa để ý chính “màng lọc” của ý niệm bản sắc cũng tạo ra những sự cố thủ, ngăn hãm nhất định. “Tây”, “lai căng”, “bắt chước”…trở thành những định kiến dễ chụp cho bất cứ thử nghiệm nào trong nghệ thuật. Những thể nghiệm thơ 12 chân của Nguyễn Vỹ, dưới con mắt của tác giả Thi nhân Việt Nam, có thể là ví dụ trực quan cho “những sự mô phỏng ngu muội” nhưng ở đây ý kiến của Nguyễn Hưng Quốc về những thể nghiệm này đáng để ta tham khảo: “chúng gợi ra cho giới cầm bút niềm tin về khả năng mở rộng câu thơ ra khỏi khuôn khổ 8 chữ vốn rất phổ biến thời bấy giờ.”[20] Tính chất thuộc địa trong diễn ngôn phê bình của Hoài Thanh thể hiện ở giọng điệu không giấu nỗi đau đáu về bản sắc, về gốc, về những nguy cơ phai nhạt, tha hóa của truyền thống và cả ở thái độ khắc nghiệt trước những biểu hiện có xu hướng trở thành “lai căng” hay “bắt chước”.

Đặt chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam vào không gian và lịch sử thuộc địa sẽ giúp ta nhận ra nhiều quan hệ phức tạp và cũng sâu sắc hơn giữa diễn ngôn lãng mạn của thực dân và diễn ngôn lãng mạn của thuộc địa – một phạm vi hầu như chưa thực sự được nhiều nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam quan tâm. Có thể quan sát điều này qua hiện tượng dịch không gian trong diễn ngôn thực dân lẫn diễn ngôn thuộc địa đầu thế kỷ. Nghiên cứu hậu thực dân cho thấy chủ nghĩa thực dân gắn liền với với việc dịch – dịch ở đây vừa được hiểu theo nghĩa trực tiếp là sự chuyển ngữ giữa các văn bản và vừa theo nghĩa rộng như là những hoạt động vật chất, tạo nên những cải biến – không gian ngoài phương Tây thành không gian của kẻ khác (Other) với những đặc điểm như nhược tiểu (subaltern), dị lãm (exotic), nữ tính (feminine), huyền bí (mystic)…Những diễn ngôn ấy khơi gợi, khiêu khích ham muốn chinh phục của chủ thể thực dân phương Tây vốn được mặc định như thượng đẳng, văn minh, nam tính, khai sáng, lý trí. Edward Said đã có lý để đòi hỏi sự nghi ngờ đối với một thứ Đông phương luận trong các diễn ngôn du ký, dân tộc học, nhân chủng học… của phương Tây về phương Đông. Thực dân Pháp đến Đông Dương không chỉ cùng với quân đội, các nhà chính trị, các thương gia, các giáo sĩ… mà còn cùng với các nhà dân tộc học, nhân chủng học. Những ghi chép, mô tả, khảo cứu của họ đã tạo nên một thứ diễn ngôn đậm tinh thần Đông phương luận, nhất là ở những trước tác của họ về văn hóa các cộng đồng thiểu số. Vấn đề này đã được Richard G. Thomas lược thuật khá cặn kẽ trong tiểu luận “Philology in Vietnam and Its Impact on Southeast Asian Cultural History” (Ngành ngữ văn học ở Việt Nam và tác động của nó đối với lịch sử văn hóa Đông Nam Á)[21]. Vấn đề có thể gợi ra từ đây: cảm quan exotic của diễn ngôn thực dân có liên hệ nào chăng với chính cảm quan được xem là đặc trưng thẩm mỹ của thể loại truyện đường rừng – một thể loại mới của văn chương lãng mạn được sáng tác chủ yếu bởi những tác giả nam giới và người Kinh? Và nếu như thế, sẽ cần phải lưu ý đến một thứ diễn ngôn thực dân hình thành từ bên trong chứ không chỉ từ bên ngoài trong văn học Việt Nam: các tác giả truyện đường rừng đã dùng chính logic của phương Tây khi kiến tạo hình ảnh Việt Nam để đưa ra những trình hiện (representation) các cộng đồng thiểu số.

Trường hợp của nhóm Xuân Thu Nhã Tập xuất hiện ở hậu kỳ trào lưu lãng mạn sẽ là một trường hợp thú vị khác nếu ta nhìn lại hiện tượng này trong ngữ cảnh thuộc địa. Xuân Thu Nhã Tập được xem là hiện tượng thể hiện rõ nét nhất khuynh hướng ngả sang thơ tượng trưng. Mỹ học của chủ nghĩa tượng trưng phương Tây một phần được xác lập bởi niềm say mê văn hóa phương Đông của các thi sĩ nửa cuối thế kỷ XIX. Trên thực tế, định hướng mỹ học của Xuân Thu Nhã Tập cũng chưa thoát ra khỏi cảm quan mang hơi hướng Đông phương luận mà phương Tây tạo ra: “Tính chất của “thơ” tự nhiên đưa đến tính cách hàm súc, tĩnh-mạc, tổng-hợp; đặc tính của Á Đông, và tất cả nền Văn Minh ấy. Ngôn ngữ, cú-pháp Á Đông rất thích hợp cho thơ, bởi phát hiện toàn bằng hình ảnh, hương sắc, xếp đặt một cách u uẩn huyền diệu…Từ cuối thế kỷ trước, thơ Pháp nhờ dòng “tượng trưng” đã gặp thơ Á- Đông, ở chỗ uẩn súc, huyền ảo.”[22] Nhưng điểm đặc sắc hơn cả là các tác giả Xuân Thu Nhã Tập đã tìm vào di sản triết học phương Đông để bước đầu xây dựng được một hệ thống các phạm trù thẩm mỹ của riêng mình. Hơn nữa, những bài thơ của Nguyễn Xuân Sanh, một thời thường bị phê phán là bí hiểm, “kín mít kiểu Mallarmé”, thực ra, lại là những nỗ lực kiến tạo kiểu câu thơ mới, thoát ra khỏi sự thống trị của những quy tắc ngữ pháp lý tính, tuyến tính và phân tích kiểu phương Tây – điều sau này sẽ được Lê Đạt phát triển xa hơn và đạt đến mức độ nhuần nhị hơn. Như thế, cả trên tuyên ngôn lẫn trong thực hành sáng tạo của Xuân Thu Nhã Tập, ta thấy được những biểu hiện của tính chất thuộc địa, nhưng quan trọng hơn, ta nhận ra cả tính chất giải thuộc địa.

Đặt chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam vào ngữ cảnh thuộc địa, ta cũng có thể tìm thấy những đề tài rất đáng được quan tâm dưới góc nhìn hậu thuộc địa, từ đó, có điều kiện để so sánh trường hợp của Việt Nam với văn học của các nước cũng trải qua giai đoạn thuộc địa. Một thí dụ mà ta có thể dành nhiều suy nghĩ hơn về nó trong tương lai: hình ảnh đường sắt-tàu hỏa-nhà ga trong văn học hiện đại. Đường sắt chính là biểu tượng cho thành quả của công cuộc khai thác thuộc địa; nó phô diễn sức mạnh của thực dân về kinh tế, chính trị, kỹ thuật; nó là hiện thân cho một đặc trưng quan trọng của tính hiện đại – tính tốc độ. Cùng với sự hiện diện của đường sắt là sự cải tạo quan trọng cảnh quan thuộc địa. Văn chương lãng mạn Việt Nam cũng có một số lượng tác phẩm đáng kể xoay quanh những biểu tượng này. Đối với một xử sở nông nghiệp, sự hiện diện của nhà ga, đường sắt đem đến ý niệm về một thứ thời gian lý tính, rạch ròi, lạnh lùng. Nó gắn với những cảm thức xê dịch, phiêu lưu mới. Trong truyện ngắn của Thanh Tịnh, đường sắt chạy qua làng Mỹ Lý, để rồi từ đó, những người đàn ông trong làng theo những chuyến tàu tìm đến các thành phố, ngôi làng có những nàng vọng phu chờ chồng không phải trên núi mà bên những đường tàu. Thế giới của đoàn tàu từ chỗ là không gian sáng rực, lấp lánh, hiện thân cho thứ văn minh đáng mơ ước trong truyện ngắn Thạch Lam đến Chùa Đàn của Nguyễn Tuân lại trở thành nguồn cơn dẫn đến nỗi căm ghét văn minh ở nhân vật lãnh Út khi một vụ tai nạn hỏa xa đã cướp đi người vợ của chàng. Dòng văn chương “bên đường xe lửa” này là nguồn tư liệu thú vị để ta khảo sát sự tương đồng và đa dạng của cảm thức thuộc địa, trong đó có những cảm giác mới được kích thích, những chấn thương tinh thần, sự bất bình đẳng về cảm giác… mà nền văn minh hiện đại tạo ra cho những người dân thuộc địa.

Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam chủ yếu được tiếp cận như một trào lưu, một hiện tượng lịch sử mà mốc kết thúc của nó thường được thống nhất là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhưng cũng có thể tiếp cận tiến trình của văn học lãng mạn từ một góc độ khác. Nhìn chủ nghĩa lãng mạn như một diễn ngôn với các hệ đề tài, các cấu trúc tu từ đặc trưng, ta sẽ thấy tiến trình của nó có những biến thiên, thăng trầm, lắt léo hơn quy ước phân kỳ vốn được chấp nhận rộng rãi. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, diễn ngôn của chủ nghĩa lãng mạn đã bắt đầu có xu hướng kết tinh và hóa thạch, trở thành những cách diễn đạt, biểu hành thời thượng của văn hóa đại chúng ở thành thị mà tiểu thuyết Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng chính là một trực quan sinh động cho điều này. Diễn ngôn lãng mạn vừa có sức hấp dẫn, mê hoặc một lớp công chúng mới mà áp lực của các giá trị truyền thống đã nhạt phai đi nhiều song đồng thời cũng thường trực bị nhìn nhận, nghi ngại như một nhân tố kích thích những sự nổi loạn, phá vỡ trật tự. (Nghiên cứu của Nguyễn Nam được nhắc đến ở trên cho thấy đương thời có những nỗ lực kết tội tiểu thuyết tình cảm, lãng mạn trong việc xúi giục phụ nữ tự sát là thí dụ minh họa tốt cho vấn đề này). Chủ nghĩa lãng mạn đã tạo ra một vùng ngôn từ đặc thù mà ký ức về nó còn tồn tại dai dẳng trong văn học nghệ thuật Việt Nam, lâu hơn cả cái mốc xác định cho sự chấm dứt của trào lưu, thậm chí vẫn luôn có khả năng được phục sinh. Trên thực tế, đến tận năm 1948-1949, những bài hát lãng mạn của Tô Vũ, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Tý, Phạm Duy… vẫn nối tiếp giai điệu và ca từ không khác giai đoạn trước cách mạng, đến mức có một tên gọi uyển chuyển hơn vẫn được dùng để gọi những bài hát này là “ca khúc tiền chiến”. Những năm 87-88, khi văn chương lãng mạn Việt Nam được nhìn nhận lại, có cả một trào lưu làm phim truyền hình dựa trên các tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn như Nửa chừng xuân, Đời mưa gió… Người ta bắt đầu thấy cách ăn mặc, vấn tóc được mô tả trong văn chương lãng mạn một thời trở lại như một thứ thời trang. Trong thơ ca, năm 1990, khi cuộc thi văn chương đầu tiên sau 1975 dành cho giới trẻ được báo Tiền Phong khởi xướng – cuộc thi Tác phẩm tuổi xanh, giải nhất được trao cho cô nữ sinh Đinh Thu Hiền, khi đó mới là nữ sinh lớp 12. Bài thơ “Ảo ảnh” của chị với giọng điệu tự thú thiên về sắc thái thống cảm, giãi bày không khỏi làm ta liên hệ đến âm hưởng của những bài Thơ mới mà thời điểm ấy đã bắt đầu được đưa trở lại vào chương trình phổ thông:

Tôi đã chôn sao anh cứ hiện về

Nấm mồ ấy không một lần hương khói

Vùi sâu anh trong quãng đời nông nổi

Tôi bồi hồi, tôi cuống quít, tôi yêu

Bài thơ nhận được sự chia sẻ của nhiều độc giả đương thời. Điều này lại làm ta nhớ rằng những bài Thơ mới ra đời trước đó hơn nửa thế kỷ cũng một giọng sầu muộn, than thở và cũng được công chúng nhiệt tình đón nhận, say sưa. Nhìn xa hơn, văn chương lãng mạn bắt đầu cũng bằng những tiếng nói của bản ngã yếu đuối, u hoài, vậy mà từ đó, những cuộc cách mạng đã dấy lên. Tưởng như nghịch lý nhưng hóa ra không phải. Vì chính khi con người sống chân thành với ngay cả phần yếu đuối nhất của bản thể, con người ấy thực sự đã là một cá nhân nhiều can đảm. Sức mạnh của cá nhân, không gì khác hơn, là xuất phát điểm của mọi đổi thay, mọi sáng tạo, mọi cách mạng.

Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học tháng 11-2014.

Trần Ngọc Hiếu

 

[1] Lê Hồng Sâm & Đặng Thị Hạnh, Văn học lãng mạn và hiện thực phương Tây thế kỷ XIX, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1981.

[2] Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), tái bản lần thứ hai, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.

[3] Phương Lựu (chủ biên), Lý luận văn học – Tập 3- Tiến trình văn học, in lần thứ 6, có sửa chữa, bổ sung, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2013, trang 136-137.

[4] Trong khi đó, có thể tham khảo định nghĩa sau về chủ nghĩa lãng mạn: “[Chủ nghĩa lãng mạn] là một phong trào văn học, một sự thay đổi sâu sắc về cảm thức diễn ra ở Anh và trên khắp châu Âu trong khoảng thời gian từ 1770 đến 1848. Về mặt tri thức, nó đánh dấu một phản ứng quyết liệt đối với thời đại Ánh Sáng. Về mặt chính trị, nó được thôi thúc bởi những cuộc cách mạng ở Mỹ và Pháp… Về mặt cảm xúc, nó đặc biệt đề cao bản ngã và giá trị của kinh nghiệm cá nhân…cùng với cảm quan về cái vô tận và cái siêu nghiệm. Về mặt xã hội, nó đấu tranh cho sự nghiệp tiến bộ… Về phong cách, chủ âm của chủ nghĩa lãng mạn là sự mãnh liệt còn khẩu hiệu của nó là ‘Tưởng tượng’” (Margaret Drabble [chủ biên], The Oxford Companion to British Literature, 5th edition, Oxford University Press, 1985, trang 842-843)

[5] Octavio Paz, The Other Voice- Essays on Modern Poetry, bản dịch tiếng Anh của Helen Lane, A Harvest/HBJ Book, Harcourt Brace Jovanovich, Publishers, 1990, trang 36.

[6] Octavio Paz, tlđd, trang 36.

[7] Xin xem Trần Thu Dung, Đạo Cao Đài và Victor Hugo, NXB Thời đại & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2011.

[8] Nhất Linh, Đoạn tuyệt, NXB Tự Do, Sài Gòn, 1972, trang 182.

[9] Xin xem Nguyễn Nam, “Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết (Một góc nhìn về phụ nữ với văn chương-xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX)”, http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=991:phu-n-t-sat-loi-tai-tieu-thuyet&catid=85:hi-tho-qua-trinh-hin-i-hoa-vn-hc&Itemid=147

 

[10] Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, bản in lần thứ 11, NXB Văn học, Hà Nội, 1995, trang 47.

[11] Nguyễn An Ninh, “Tiếng mẹ đẻ-nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” in trong Văn học Việt Nam thế kỉ XX-Văn nghị luận đầu thế kỉ, Quyển năm, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 2003.

[12] Hoài Thanh, tlđd, trang 45.

[13] David G. Marr, “Concepts of ‘Individual’ and ‘Self’ in Twentieth-Century Vietnam”, Modern Asia Studies, Vol. 34, No. 4 (Tháng 10, 2000), trang 788.

[14] Ben Tran, “I Speak in the Third Person: Women and Language in Colonial Vietnam”, Positions: East Asia Cultures Critique, Volume 21, No.3, số mùa Hè, 2013, trang 595.

[15] Ben Tran, tlđd, trang 601

[16] Ben Tran, tlđd, trang 605.

[17] Ben Tran, tlđd, trang 605.

[18] David G. Marr, tlđd, trang 777.

[19] Hoài Thanh, tlđd, trang 32.

[20] Nguyễn Hưng Quốc, “Chủ nghĩa h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam”, Tuyển tập Tiền Vệ I, Tiền Vệ xuất bản, Australia, 2007, trang 302-303.

[21] Richard G. Thomas, “Philology in Vietnam and Its Impact on Southeast Asian Cultural History”, Modern Asian Studies, Vol.40, No.2 (Tháng Năm, 2006), trang 477-515.

[22] Xuân Thu Nhã Tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1991, trang 35-36.

Tiếp cận bản chất trò chơi của văn học (Những gợi mở từ công trình Homo Ludens của Johan Huizinga)

“This is Play” [Chơi] – đó là chủ đề của tạp chí New Literary History số 1 -2009. Một lần nữa, sự chơi/trò chơi (play/game) lại khơi dậy những tranh luận trong giới học thuật, cho thấy đây là một chủ đề được quan tâm bậc nhất trong nghiên cứu văn hóa-văn học từ thế kỷ XX. Quan sát diễn ngôn khoa học nhân văn trong thế kỷ XX, có thể nhận thấy trò chơi đã trở thành một từ khóa, một khái niệm công cụ để tư duy lại hàng loạt những vấn đề hiện sinh cốt lõi: thế giới, con người, bản sắc, ngôn ngữ, ý nghĩa… Trò chơi hiện diện như một phạm trù then chốt trong thông diễn học của Hans Georg- Gadamer, thuyết giải cấu trúc của Jacques Derrida, hệ thống triết học của Ludwig Wittgenstein và Jean –Francois Lyotard. Nó liên đới với hàng loạt khái niệm quan trọng của nhiều học giả hàng đầu như phạm trù “carnival” của Mikhail Bakhtin, khái niệm “readerly/writerly text” [văn bản khả độc/khả tác] và “myth” [huyền thoại] của Roland Barthes, khái niệm “performative” [tính biểu hành] trong lý thuyết về phái tính của Judith Butler, khái niệm “simulacra” [bản thế vì] của Jean Baudrillard… Trò chơi không chỉ có giá trị như một ẩn dụ hiệu nghiệm để con người nhận thức được nhiều mặt của đời sống, nó còn là phương thức để con người kiến tạo nên những giá trị của đời sống và chính bản thân mình.

Trong số các công trình nghiên cứu về trò chơi, Homo Ludens [Người chơi] của Johan Huizinga (1872-1945), nhà sử học/nghiên cứu văn hóa người Hà Lan, được coi là tác phẩm đặt nền tảng. Kể từ khi công bố lần đầu tiên (1938), cuốn sách đã nhận được nhiều sự đối thoại, phản biện cũng như gợi mở những hướng phát triển vấn đề mới. Nó hầu như luôn được nhắc đến trong các tranh luận, công trình nghiên cứu về trò chơi. Bản thân việc được nhắc lại rất nhiều này đã cho thấy khả năng kích thích tư duy rất lớn bởi cách đặt vấn đề của Johan Huizinga trong công trình.

Homo Ludens không phải là một chuyên luận văn học, đúng hơn, nó là một công trình nhân học-sử học nghiên cứu tầm quan trọng của sự chơi, trò chơi trong nền văn minh của nhân loại song những phát hiện, nhận định, kiến giải của Johan Huizinga đã gợi mở nhiều suy nghĩ về bản chất trò chơi của văn học – một phương diện vẫn còn ít được chú ý tìm hiểu. Bài viết này của chúng tôi không hẳn là một sự tổng thuật cuốn sách của Huizinga – một công việc thực ra đã được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Chúng tôi xác định một mục tiêu khác: trên cơ sở tóm lược một số nhận định của Huizinga mà thiết nghĩ, chúng soi rọi rõ nét hơn cả những đặc trưng của văn học, chúng tôi muốn phát triển những vấn đề mà tác giả Homo Ludens đã đặt ra gắn với những chủ điểm được các lý thuyết đương đại quan tâm.

Quan niệm về trò chơi của Huizinga – Một cái nhìn hệ thống

Luận điểm có tính chất nền móng cho công trình Homo Ludens là: “nền văn minh nhân loại đã hình thành trong sự chơi, như là sự chơi và chưa bao giờ rời bỏ nó.” (Johan Huizinga: 173). Với luận điểm này, Johan Huizinga không phải là người đầu tiên đưa ra quan niệm cõi nhân gian là một thế giới trò chơi, cũng không phải là người đầu tiên phát hiện tầm quan trọng của trò chơi đối với đời sống con người. Đằng sau ông là cả một truyền thống triết học phong phú, khởi đi từ Heraclitus, Plato cho đến Kant, Schiller, Hegel, Nietzsche, Heidegger… Nhưng điểm đột phá của Huizinga, theo Robert Anchor, là ở chỗ: “ông là người đầu tiên cố gắng đưa ra một định nghĩa chính xác về sự chơi và sự thẩm thấu cũng như biểu hiện chúng trong văn hóa, ở mọi lĩnh vực…” (Robert Anchor:63).

Sự chơi, theo quan niệm của Johan Huizinga, được hiểu là “… một hoạt động tự do, tách ra một cách tương đối khỏi cuộc đời ‘thường nhật’ như là một sự ‘không nghiêm trọng’ song đồng thời lại có khả năng cuốn hút người chơi mãnh liệt và tuyệt đối. Nó là một hoạt động không gắn với một quan tâm vật chất nào và vụ lợi nào. Nó triển diễn bên trong những giới hạn không gian và thời gian của riêng mình, tuân theo những luật lệ cố định và theo một cách thức mang tính mệnh lệnh” (Huizinga:13).

Từ diễn giải về sự chơi như thế, có thể thấy chơi được định nghĩa như là sự đối lập với thực tại, với cái nghiêm trọng, nghiêm túc. Sự chơi tạm thời đưa con người bước ra khỏi quỹ đạo của cuộc đời thường nhật với những giới hạn không-thời gian, những quy luật, tất yếu của nó, để thâm nhập vào một thế giới khác vừa ở trong mà cũng vừa ở ngoài thực tại, mang tính tự trị tương đối (có không gian-thời gian riêng, có những luật lệ riêng). Thế giới chơi (play-sphere/play world) này thực chất là một ảo ảnh (Huizinga lưu ý nghĩa từ nguyên của “ảo ảnh” [illusion] – illusion, ilusere – vốn có nghĩa là “đang chơi/trong sự chơi” [in-play]), không hướng đến một mục đích thực dụng nào song lại có sức mê hoặc, lôi cuốn con người bởi lẽ chơi là “một chức năng biểu nghĩa” (significant function) (Huizinga:1). Nó gắn với nỗi thôi thúc mang màu sắc hiện sinh: Con người chơi để được là mình, để không bị quy giản thành một thực thể duy lý vì “chơi là phi duy lý” (Huizinga:4). Con người chơi như một cách để tìm kiếm ý nghĩa sự tồn tại của chính mình, như một cách để tạo nghĩa cho chính thế giới mà y tồn tại trong đó. Con người chơi để khai phá sự tự do khi vượt qua những tất yếu của thực tại, để phát hiện những khả thể của bản thân và của chính thế giới. Chơi, vì thế, vừa mang tính chất xây dựng, kiến tạo, vừa hàm chứa năng lượng của sự lật đổ, phá vỡ. Chức năng biểu nghĩa, vị thế kép vừa ở trong vừa ở ngoài thực tại, tính chất hai mặt – kiến tạo và phủ định – những phát hiện nói trên về đặc trưng của sự chơi trong công trình Homo Ludens, theo chúng tôi, có nhiều điểm tiệm cận với hướng tư duy của các nhà giải cấu trúc sau này.

Ở đây, cần lưu ý: đối tượng mà Johan Huizinga khảo sát trong cuốn sách của mình là “play” – dịch sát nghĩa sang tiếng Việt là “sự chơi” – chứ không phải là “game” – “trò chơi”, dịch đúng nghĩa. Ông quan tâm nhiều đến mặt tinh thần, triết lý của hoạt động chơi hơn là phương diện cấu trúc của hoạt động này, cái tạo thành “trò chơi”. Khái niệm trò chơi sẽ được định nghĩa chặt chẽ hơn bởi những công trình nghiên cứu sau này, tiêu biểu là Roger Caillois với cuốn sách Man, Play and Games và Bernard Suits với luận văn triết học The Grasshopper: Games, Life and Utopia.

Toàn bộ hoạt động chơi phong phú và đa dạng của nhân loại từ cổ chí kim, ở phương Đông lẫn phương Tây, theo Huizinga, có thể quy thành hai dạng thức cơ bản: các trò chơi mang tính chất tính chất thách đố, ganh đua, cạnh tranh vì một cái gì đó (contest) và các trò chơi nhằm mục đích thể hiện, phổ diễn, biểu hành về một cái gì đó (representation). Hai dạng thức này có thể tồn tại ngay trong cùng một trò chơi: khi ganh đua để đạt được một cái gì đó thì đồng thời người ta cũng bộc lộ, biểu hiện một điều gì đó. Theo quan sát của Huizinga, sự chơi phóng chiếu lên hầu hết các hoạt động cơ bản của con người, các hình thái ý thức chủ yếu của xã hội loài người. Mô hình văn hóa mà loài người kiến tạo, ngay từ thoạt kỳ thủy, đã được hình thành trên nền tảng của sự chơi, như là sự chơi. Thực sự, điều này đã khiêu khích một quan niệm khá phổ biến xem văn hóa là một cái gì đó hết sức nghiêm trọng, nghiêm túc, chỉ có thể bắt nguồn từ những tác nhân nghiêm túc.

Johan Huizinga đã đưa ra một quan niệm rất rộng về trò chơi, đến nỗi, mọi hình thái nhận thức của con người, theo đó, đều mang tính chất của trò chơi. Nhận định của ông không phải quá cực đoan. Nếu ngôn ngữ là công cụ của tư duy thì ngay ở đây, Huizinga đã lưu ý chúng ta việc dùng ngôn ngữ để gọi tên sự vật, đưa sự vật vào địa hạt của cái tinh thần, về bản chất, là một sự chơi. Lúc này, vật đã bị “bứng khỏi” thực tại vật lý, được dịch chuyển vào địa hạt của thực tại tinh thần, một thực tại “ảo”. “Đằng sau mỗi hình thức diễn đạt trừu tượng là những ẩn dụ rõ nét, và mỗi ẩn dụ lại là một trò chơi trên ngôn từ” (Huizinga:4). Phát hiện gây ngạc nhiên nhất của Huizinga trong công trình Homo Ludens là dấu ấn của trò chơi thể hiện ngay trong những hoạt động tưởng chừng không có chỗ cho sự chơi như luật pháp và chiến tranh. Ở hoạt động luật pháp, tính chất trò chơi thể hiện ngay ở hình thức trình diễn (performance) của phiên tòa nơi mà theo truyền thống phương Tây, quan tòa buộc phải mặc một thức trang phục riêng và nhất thiết phải đội tóc giả – thứ mà theo Huizinga, có “mối liên hệ gần gũi với những tấm mặt nạ nhảy múa của người nguyên thủy” và “bằng việc phục trang như thế, người ta trở thành một ‘thực thể’ khác” (Huizinga:77). Các màn tranh tụng trong phiên tòa, ở những thời kỳ đầu tiên của xã hội văn minh, có thể xem như các cuộc thi đấu (contest/competition) bằng lời lẽ mà điều quan trọng nhất chưa phải là ý chí muốn đánh bại, khuất phục đối phương mà để nhằm chứng tỏ sự hơn người, khẳng định danh dự. Cũng như vậy, không phủ nhận khía cạnh tranh giành lợi ích, xung đột quyền lực, tính chất bạo lực của chiến tranh song Huizinga đồng thời cũng chứng mình cho ta thấy, những cuộc chiến thời cổ đại còn là cơ hội để con người bộc lộ tài năng, chứng tỏ danh dự, nhất là thể hiện tinh thần hiệp sĩ, thượng võ – điều mà theo ông sẽ trở thành nền tảng của luật pháp quốc tế hiện đại. Ở những hình thái ý thức xã hội khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo, tính chất trò chơi còn dễ quan sát hơn với nhiều biểu hiện sống động mà một sự lược thuật khá đầy đủ những phân tích của Johan Huizinga có thể tìm thấy trong tiểu luận “History and Play: Johan Huizinga and His Critics” của Robert Anchor (1978).

Xem xét hình thái của sự chơi trong nền văn minh nhân loại trên trục lịch đại, Johan Huizinga nhận định: nếu như ở những thời kỳ cổ sơ, sự chơi hiện diện rất đậm nét trong tất cả những hoạt động cơ bản của xã hội, thì sang đến thời hiện đại, từ thế kỷ XIX, “nhiều thành tố của sự chơi vốn đặc trưng cho những thời đại trước đó đã bị mất mát” (Huizinga:195). Tính chất trò chơi trong các hoạt động và hình thái ý thức của nền văn minh hiện đại trở nên suy thoái bởi quá trình công nghiệp hóa, thương mại hóa, chuyên nghiệp hóa, chính trị hóa diễn ra mạnh mẽ. Quá trình này, qua sự tóm tắt ý tưởng của Huizinga bởi Robert Anchor, “khiến cho sự phân biệt giữa sự chơi và cái nghiêm túc bị phá bỏ, nhờ đó, những việc nghiêm túc của cuộc đời – chính trị, chiến tranh, kinh tế và luân lý-tha hóa thành những sự chơi giả (pseudo-play) trong khi sự chơi lại mất đi những phẩm chất vốn không thể thiếu được của mình như sự tự nhiên, bộc phát (sponaeity), sự vô tư (detachment), tính phi nghệ thuật (artlessness), niềm hoan lạc, và do đó, mất đi quyền năng của một hoạt động tạo tác văn hóa” (Robert Anchor:83). Huizinga đưa ra nhận định này như một cảnh báo, mà theo Anchor, đó là một cảnh báo “u ám” đối với nền văn minh đương thời, bởi theo tác giả Homo Ludens, “một nền văn minh thực sự không thể tồn tại nếu thiếu vắng thành tố của sự chơi, vì văn minh luôn tiền giả định giới hạn và sự làm chủ bản ngã, không được đánh đồng những khuynh hướng của nó với cái mục tiêu tối hậu và cao nhất mà phải hiểu rằng bao giờ nó cũng tồn tại trong những ranh giới được chấp nhận tự nguyện. Theo nghĩa nào đó, nền văn mình sẽ luôn được chơi theo những luật lệ nhất định, và nền văn minh đích thực sẽ luôn đòi hỏi sự chơi đẹp” (Huizinga:211).

Homo Ludens ra đời vào năm 1938, vào thời điểm nền văn minh châu Âu đang ở đêm trước của Thế chiến II, cũng là giai đoạn mà chủ nghĩa hiện đại trong văn hóa nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao. Cuốn sách của Huizinga, theo chúng tôi, cũng là một tác phẩm mang đậm cảm quan hiện đại chủ nghĩa, thể hiện phản ứng của tác giả trước sự khủng hoảng của nền văn minh kỹ trị, duy lý của phương Tây lúc bấy giờ và việc nghiên cứu hình thái, vai trò và giá trị của sự chơi trong đời sống nhân loại của Huizinga có lẽ cũng ngầm gợi ý một giải pháp cho thực trạng của nền văn minh đương thời.

Những gợi mở về bản chất trò chơi của văn học

Chức năng trò chơi của văn học

Tất nhiên, khi khảo sát những thành tố của sự chơi trong các hình thái ý thức xã hội cơ bản, Johan Huizinga không quên văn học. Mở đầu chương “Play and Poetry” [Sự chơi và thi ca”], Huizinga đã nhận xét: “…trong khi ở những hình thái xã hội được tổ chức cao hơn, tôn giáo, khoa học, luật pháp, chiến tranh và chính trị dần dần mất đi liên hệ với sự chơi – mối liên hệ vốn rất đậm nét ở những giai đoạn trước đó, thì chức năng của thi sĩ vẫn định vị vững chắc trong thế giới của sự chơi (play-sphere), nơi thi ca được khai sinh. Thi ca (Poiesis), trên thực tế, mang chức năng trò chơi” (Huizinga:119). Ông nói tiếp: “Thực sự, định nghĩa mà chúng ta trao cho sự chơi hoàn toàn có thể xem như định nghĩa về thơ ca… Gọi thơ ca là một trò chơi ngôn từ, nói như Paul Valéry, không hề là một ẩn dụ: đó là một sự thật chính xác, hiển nhiên” (Huizinga: 132).

Thế nhưng, dẫu phương trình “thơ ca (văn học) = trò chơi” có thể được chấp nhận hoàn toàn thì vẫn rất cần những nỗ lực nhận thức thấu đáo cái thực tế được coi là hiển nhiên này, ít nhất là trong ngữ cảnh nghiên cứu văn học ở Việt Nam hiện nay, khi ý niệm “văn học như là trò chơi” vẫn có nguy cơ bị hiểu như là một sự hạ giá văn học, xem văn học như thứ phù phiếm. Hầu hết các giáo trình lý luận văn học hiện nay, khi viết về chức năng văn học, đều chỉ tập trung đến các chức năng thẩm mỹ, nhận thức, giáo dục, và phần nào có nhắc đến chức năng giải trí. Song chức năng giải trí không đồng nhất với chức năng trò chơi bởi nếu theo quan niệm của Huizinga, trò chơi rộng hơn khái niệm giải trí, tiêu khiển. Theo chúng tôi, không nên tách chức năng trò chơi thành một chức năng độc lập mà nên nhìn nhận nó một mặt vừa nằm bên ngoài hệ thống, một mặt vừa nằm bên trong hệ thống chức năng văn học. Nó tác động, hòa lẫn, thẩm thấu vào các chức năng khác, tạo nên tính đặc thù của các chức năng này.

Theo đó, giá trị nhận thức của văn học không phải nằm ở nằm việc phản ánh thực tại, phát hiện những quy luật, những cái phổ quát mà nằm ở việc gợi ra những khả thể khác của thực tại, giải bỏ cái phổ quát, cho phép đa nguyên hóa nhận thức ở con người. Cũng theo đó, cái gọi là chức năng nhân đạo hóa của văn học không nên chỉ đơn giản hiểu ở khía cạnh giáo hóa, hướng thiện con người. Nó cần phải được chú ý ở khả năng đem đến cho con người sự vui tươi (fun) – thành tố được xem là hạt nhân của sự chơi theo quan niệm của Huizinga, thứ kháng cự mọi phân tích, diễn giải logic, giúp con người thả lỏng, cân bằng trước những áp lực của thực tại, của những quy luật duy lý, giúp con người luôn là một thực thể “đang trở thành”, “sẽ trở thành” (becoming) chứ không phải một khái niệm đã hoàn kết, rắn lại, trừu tượng. Chức năng nhân đạo hóa của văn học không chỉ quan sát được ở phía hiệu ứng tác động mà còn nằm ngay ở thế giới nghệ thuật của tác phẩm – một thế giới chơi đúng nghĩa, hội tụ đầy đủ những phẩm chất của sự chơi – nơi cho phép con người hóa thân vào “cõi ảo” nơi những khả thể được phát hiện, được khai phóng, thay vì bị hãm lại, nén lại dưới áp lực của thực tại. Thực tại càng khắc nghiệt, nhu cầu giải thoát thực tại, tìm một khả thể thực tại khác lại càng mãnh liệt. Điều này gợi ý chúng ta quan tâm đến tính chất trò chơi của những hiện tượng văn học ra đời trong những điều kiện ngặt nghèo như thơ tù hay nhật ký chiến tranh vốn hầu như chưa được xem xét nhưng thiết nghĩ, quan sát từ chính giác độ này, nhiều khía cạnh lý thú của hiện tượng sẽ được phơi mở. Ngay cả ở khía cạnh tác động của văn học, ta cũng cần lưu ý: văn học giáo hóa con người trong hình thức của sự chơi, bằng phương thức của sự chơi mà sự chơi, nói như đại ý của Hegel, “chính bởi bản chất phi vụ lợi và cực kỳ vô tư, lại là cái cao cả nhất và là hình thức đích thực duy nhất của cái nghiêm túc” (Eugen Fink:25). Và Friedrich Nietzche, trong Ecce Homo, đã khẳng định rằng: “Tôi không biết phương cách nào khác để đối trị với những sứ mệnh vĩ đại ngoài sự đùa chơi”.

Sự hòa kết giữa chức năng trò chơi và chức năng thẩm mỹ của văn học lại càng sâu sắc. Trên thực tế, chức năng trò chơi của văn học còn có trước chức năng thẩm mỹ và đã từng có địa vị quan trọng hơn cả chức năng thẩm mỹ. Huizinga viết: “Nếu để tìm mẫu số cho sự đồng dạng đáng kinh ngạc và sự giới hạn của phương thức thi ca ở tất cả các thời kỳ của xã hội loài người thì có lẽ nó nằm trong thực tế rằng cái chức năng sáng tạo mà ta gán cho thơ bắt nguồn từ một chức năng thậm chí còn cố sơ hơn bản thân văn hóa, cái mà ta gọi là sự chơi” (Huizinga:132). Trong mối quan hệ giữa sự chơi nói chung và thẩm mỹ, Huizinga nhận xét: “Sự chơi muốn trở nên đẹp… Những từ vựng mà chúng ta huy động để nói về những thành tố của sự chơi phần lớn bắt nguồn từ mỹ học, phái sinh từ những thuật ngữ mà chúng ta muốn dùng để miêu tả những hiệu ứng của cái đẹp: độ căng, sự cân đối, thăng bằng, tương phản, biến tấu, hòa tan, hóa giải, v.v… Sự chơi mê hoặc chúng ta; nó ‘bỏ bùa’ ta, ‘hút hồn’ ta. Nó được phú cho những phẩm chất quý hiếm nhất mà chúng ta có thể hình dung được ở các sự vật hiện tượng, ấy là nhịp điệu và sự hài hòa” (Huizinga:10). Khoái cảm trò chơi tương hợp với khoái cảm thẩm mỹ không chỉ ở tính chất phi vụ lợi, phi thực dụng, không phải chỉ ở chỗ chúng đều bắt nguồn từ “thế giới chơi”/”thế giới nghệ thuật” vốn mang cùng những đặc tính mà còn ở chỗ cả hai thế giới này đều được hình thành trên nguyên tắc lặp lại, trật tự và chỉnh thể, nói theo chữ của Huizinga, đó là thế giới “hoàn thiện bị giới hạn” (limited perfection), đều kiến tạo và duy trì sự bí mật (secrecy) – nhân tố gây hấp dẫn ở cả trò chơi lẫn văn học. Nếu khoái cảm thẩm mỹ ở trò chơi biểu hiện ngay ở những thành tố cấu trúc nên chính nó thì khoái cảm thẩm mỹ ở văn học, trước hết và hơn hết, nằm ngay ở phương diện hình thức, kết cấu tác phẩm.

Chức năng trò chơi của văn học, bất chấp tầm quan trọng của nó, trên thực tế, lại bị xem nhẹ, không được nhận thức thỏa đáng trong suốt một thời kỳ khá dài, khi văn học còn đứng ở vị trí trung tâm trong các hình thái ý thức xã hội, được đối xử như là đại diện cho những giá trị phổ quát, như một thứ diễn ngôn đại tự sự. Bởi vậy văn học bị nghiêm túc hóa, nghiêm trọng hóa, và phần “chơi” của văn học bị hạn chế, kìm hãm, bị phớt lờ cố ý nhưng ngay cả khi đó, vẫn không thể triệt tiêu sự chơi. Trong nền văn minh hiện đại, văn học không còn chiếm giữ vị trí trung tâm nữa mà bị dạt ra ngoại vi và chính ở tình thế này, chức năng trò chơi của văn học mới thực sự được hiểu lại, nhận thức lại. Chỉ có thể bằng sự chơi, văn học mới có thể phát huy được quyền năng của cái ngoại vi.

Từ mối quan hệ trò chơi – thực tại đến mối quan hệ trò chơi – diễn ngôn

Ở trên chúng tôi đã lưu ý, trong quan niệm của Huizinga, sự chơi được xác định như một phản đề với thực tại. Hơn một lần trong cuốn sách, tác giả láy lại luận điểm: tham gia một cuộc chơi tức là bước ra khỏi đời thực, để nhập vào một thế giới khác mang tính tự trị nhất thời, với những ước lệ riêng về không – thời gian. Tuy nhiên, đối với nhiều nhà nghiên cứu về trò chơi sau này, luận điểm trên của Huizinga cần phải được phản biện.

Tiêu biểu cho sự phản biện này phải kể đến Jacques Ehrmann. Trong luận văn “Homo Ludens Revisited” [Nhìn nhận lại vấn đề người chơi] (1968), Jacques Ehrmann cho rằng việc tạo ra phản đề giữa trò chơi-thực tại là một giả thuyết sai. Theo ông, “sự chơi không triển diễn trên nền của một thứ thực tại cố định, bền vững, được xem như là chuẩn để đối chiếu với nó. Mọi thực tại đều được nắm bắt trong trò chơi của những khái niệm xác định nó. Thực tại, vì thế, không thể khách quan hóa, cũng không thể chủ quan hóa. Thế nhưng nó không bao giờ là thứ trung lập. Cũng như không thể trung lập hóa nó.” (Ehrmann:56). Không có một thứ thực tại chung chung, phổ quát tồn tại trước văn hóa theo như xác tín của Huizinga, và cũng không có thực tại nào tồn tại trước sự chơi. Trò chơi và thực tại không thể tách rời khỏi nhau: “Nói cách khác, đặc trưng của thực tại là ở chỗ nó bị chơi (it is played). Sự chơi, thực tại, văn hóa đồng nghĩa với nhau và có thể hoán đổi cho nhau” (Ehrmann:56, chữ in nghiêng do chúng tôi muốn nhấn mạnh).

Quan niệm trên của Jacques Ehrmann, theo chúng tôi, có nhiều điểm đến rất gần với tinh thần giải cấu trúc luận sau này. Erhmann đã khước từ chủ nghĩa bản chất (essentialism) trong quan niệm về hiện thực. Nếu thực tại, trò chơi, văn hóa đồng nghĩa với nhau và đồng hiện trong sự chơi, nếu bản thân thực tại cũng là cái “bị chơi”, từ sự chơi mà hình thành, vậy thì thực tại chỉ là một kiến tạo, một ước lệ, một hư cấu như chính sự chơi mà thôi. Và khi Erhmann mở rộng suy luận, cho rằng “sự chơi [được] cấu thành, mở ra và khép lại [nhờ] ngôn ngữ” (Erhmann:56) thì thực tại, về bản chất, cũng là một kiến tạo bởi/của ngôn ngữ. Ở đây, xin được giải thích hình thức diễn đạt mà chúng tôi lựa chọn để dịch luận điểm trên của Jacques Erhmann sang tiếng Việt. Theo bản dịch Anh ngữ của Cathy Lewis & Phil Lewis, câu văn của Ehrmann là: “Play is articulation, opening and closing of and through language”. Theo chúng tôi hiểu, ngôn ngữ không chỉ là nhân tố cấu trúc sự chơi mà còn là đối tượng tạo tác của chính sự chơi nữa. Vì thế, chúng tôi có sử dụng dấu ngoặc vuông để có thể chuyển tải nghĩa kép câu văn trong nguyên bản một cách hàm súc nhất. Đến đây mối quan hệ giữa trò chơi và thực tại trở thành vấn đề diễn ngôn. Mệnh đề “văn học phản ánh hiện thực” của phản ánh luận rất có thể cần được hiểu lại, rằng “văn học chơi hiện thực”, “văn học sinh thành/phá hủy hiện thực”.

Phản biện quan điểm của Johan Huizinga, Jacques Ehrmann đã dừng lại khi đẩy vấn đề trò chơi sang địa hạt của ngôn ngữ, diễn ngôn. Chỗ dừng lại của Ehrmann lại là xuất phát điểm của giải cấu trúc luận. Một trong những nhà nghiên cứu tiếp cận bản chất trò chơi của văn học từ quan điểm giải cấu trúc luận là Susan Stewart. Rất tiếc, chúng tôi chưa có điều kiện đọc toàn văn công trình bàn về lý thuyết trò chơi của bà, cuốn Nonsense: Aspects of Intertextuality in Folklore and Literature [Cái vô nghĩa: Những bình diện của tính liên văn bản trong folklore và văn chương] nhưng thông qua những giới thiệu tổng thuật về cuốn sách, có thể hiểu Stewart quan niệm: “động thái chơi luôn hàm ẩn sự vi phạm quá trình diễn dịch ý nghĩa chung, phổ biến [common sense], nó là một quá trình tái phân định ranh giới, tái định khung” [dẫn theo Enrique A. Giordano:218]. Theo Stewart, ý nghĩa chung là một mô hình được tạo tác, một trật tự có một sự mạch lạc chặt chẽ, “một quy ước được tạo lập không mang tính tự nhiên hay rạch ròi và cũng không nhất thiết mang tính chất duy lý” [Lydia H. Rodríguez:86]. Đối tượng nghiên cứu của Stewart là cái vô nghĩa. Theo bà, xã hội rất cần cái vô nghĩa vì “một cấu trúc thì không thể nào tĩnh tại được trong khi xã hội lại luôn sống động” và “nhờ cái vô nghĩa, ý nghĩa chung tự tổ chức lại song đồng thời cũng tự giải thể chính nó” [cf:86]. “Đó là một quá trình liên tục tái tổ chức sau khi giải thể và ngược lại” [cf:86]. Cái vô nghĩa ở đây chính là sự chơi, là sự vượt khuôn khỏi những hạn định của ý nghĩa chung. Bởi sự chơi này diễn ra không ngừng nên ý nghĩa bao giờ cũng ở tình trạng bất ổn. Tuy nhiên, sự bất ổn này lại là điều kiện để ý nghĩa được sinh thành. Cách tiếp cận của Susan Stewart, trên thực tế, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Jacques Derrida. Và thật sự, nếu nói đến sự phát triển lý thuyết trò chơi theo quan điểm giải cấu trúc thì không thể bỏ qua được tư tưởng của Derrida. Song chính bởi sự sâu sắc và cực kỳ phức tạp trong tư tưởng của ông, chúng tôi muốn dành một nghiên cứu riêng, sẽ trình bày trong một tương lai gần, thay vì diễn giải sơ lược trong phạm vi bài viết này. Ở đây, chỉ xin nói rằng những luận điểm về sự chơi của Susan Stewart đã gợi ra cho chúng tôi nhiều điều phải suy nghĩ về bản chất trò chơi của văn học, nhất là đặc trưng của thơ ca.

Trước hết, chúng ta có thể thiết lập những mô hình tam đoạn luận, bắc cầu nối tư tưởng của Huizinga với luận điểm của Stewart. Nếu chơi luôn là động thái vi phạm những ranh giới và quy luật của thực tại thường nhật, mang tính kinh nghiệm, để tạo nên thế giới của sự chơi (theo Huizinga) và nếu cái thực tại đó cũng chỉ là kiến tạo bởi ngôn ngữ, là “diễn ngôn được chấp nhận bởi những mã của một thứ thực tại đã được nói”, nói khác đi, thực tại chẳng qua là một kiến tạo bởi ý nghĩa chung (theo Stewart) [dẫn theo Giordano:218] vậy thì, sự chơi bao giờ cũng giải bỏ thứ văn cảnh xác định ý nghĩa chung, tạo nên những ý nghĩa mới, những mã mới. Nếu văn học là trò chơi ngôn từ được chấp nhận như một thực tế hiển nhiên, và nếu ngôn từ tự bản thân nó đã là một hệ thống chơi, vậy thì văn học là sự chơi với chính sự chơi, sự chơi diễn ra bên trong sự chơi. Và như vậy, trò chơi ngôn từ của văn học không chỉ đơn giản là câu chuyện tu từ, chơi chữ mà bản chất của động thái chơi ở đây chính là sự kiến tạo ngôn ngữ, khai phóng ngôn ngữ. Đó là một cuộc chơi với mức độ thách thức rất cao, bởi lẽ nhà thơ vừa phải sử dụng ngôn ngữ lại vừa phải vi phạm nó để tạo ra một diễn ngôn mới. Đúng như tình thế mà Octavio Paz mô tả: “Anh ta phải sử dụng từ ngữ, thông qua các ký hiệu mà mọi người đều hiểu, để tạo nên một thứ ngôn ngữ mới. Từ ngữ của nhà thơ vẫn là ngôn ngữ, tức là phương tiện giao tiếp, nhưng đã đóng một vai trò khác. Thơ phải là thứ gì đó chưa từng được nói hoặc nghe” [Paz:8]. Thứ hai, luận điểm của Stewart còn đặt ra vấn đề xem cái vô nghĩa như một phạm trù triết mỹ. Nó giúp ta hiểu được sự ám ảnh của cái vô nghĩa trong văn học từ những sáng tác sơ khai của nhân loại cho đến sự nổi dậy của cái vô nghĩa, cái bị coi là nhảm nhí trong nghệ thuật thời kỳ hiện đại, thời kỳ con người trở nên ngờ vực ngôn ngữ, một nỗi ngờ vực bản thể luận.

Trò chơi, luật chơi và tiến trình văn học

Tính luật lệ được Johan Huizinga nhắc đến như một đặc trưng quan trọng nhất của sự chơi nhưng ông không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về luật chơi. Thay vào đó, Huizinga lại nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc phải giữ luật. Luật cần phải được tuân thủ để trò chơi được khả hữu, để duy trì cộng đồng chơi. Đi sâu vào vấn đề luật chơi là đóng góp của những nhà nghiên cứu đi sau, trong đó phải kể đến Bernard Suits, người mà theo chúng tôi, đã đưa ra một quan niệm về luật chơi hàm súc nhưng có khả năng báo quát cao các hiện tượng chơi đa dạng và phong phú trong đời sống. Suits định nghĩa: : “Chơi một trò chơi nghĩa là cố gắng nhằm đạt đến một trạng thái đặc thù , chỉ sử dụng những phương tiện được luật cho phép mà luật ở đây lại cấm sử dụng những phương tiện hiệu quả hơn trong khi ủng hộ những phương tiện kém hiệu quả [luật cấu thành] và một thứ luật như thế được chấp nhận chỉ vì nó khiến cho một hoạt động như thế [chơi] trở thành khả hữu…Chơi một trò chơi nghĩa là một nỗ lực tự giác để vượt qua những chướng ngại vật không tất yếu” [Suits: 41]. Qua đó, có thể thấy luật chơi bao giờ cũng có tính chất oái ăm, trớ trêu, nghịch lý và chính bởi những tính chất này, mà trò chơi được kiến tạo như một thế giới đặc thù, phân biệt với thực tại, một thực tại được quan niệm theo tinh thần của Huizinga. Luật chơi bao giờ cũng tạo ra độ khó khăn, tính thử thách, khống chế phương tiện được mang vào cuộc chơi nhưng chính sự ngặt nghèo này cũng là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của trò chơi, nó thỏa mãn một ham mê thường trực ở con người: chinh phục độ khó. Chính trong sự chinh phục độ khó này, con người mới thăm dò được các khả thể, mới trở thành chính mình một cách toàn vẹn như lời khẳng định của Schiller. Nhưng theo chúng tôi, định nghĩa của Bernard Suits, trong khi nhấn mạnh đến việc luật chơi nào cũng quy định nghiêm ngặt về phương tiện chơi, thì lại chưa chú ý đến thực tế rằng, luật chơi còn điều kiện hóa người chơi. Không phải ai cũng được, cũng có thể, tham gia vào trò chơi. Một số trò chơi đòi hỏi người chơi phải đến một độ tuổi nào đó, phải tích lũy những kinh nghiệm nhất định nào đó, phải được sự chấp thuận của một cộng đồng chơi, v.v. Đứng đằng sau luật chơi là cả một hệ thống uy quyền cho phép hoặc loại trừ người nào đó bước vào thế giới trò chơi.

Tính luật lệ cũng là một điểm tương hợp giữa trò chơi và văn học. Nếu hiểu luật chơi là những quy ước, nguyên tắc, điều kiện mà con người phải tuân theo để duy trì trò chơi thì điều này có thể quan sát ngay ở các thể loại văn học. Thể loại văn học tự nó đã là hiện tượng mang tính quy ước; hệ thống thể loại văn học hoàn toàn có thể ví như hệ thống trò chơi, từng thể loại có những luật lệ riêng thách đố người viết. Sáng tác văn học, do đó, thực chất, là sự chơi thể loại, là cuộc đấu giữa một bên là tính chất bó buộc, nguyên tắc của luật chơi, tính chất siêu cá tính của thể loại và một bên là cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong tiến trình văn học, ở mỗi thời kỳ, sự chơi thể loại lại có tính chất riêng, xu hướng riêng. Về cơ bản, ở thời kỳ trung đại, cuộc chơi của người viết là chấp nhận những thách đố cực kỳ nghiêm ngặt của thể loại trên cả cấp độ nội dung đến cấp độ hình thức, thậm chí thắt chặt đến tận cấp độ vi mô (như trong thơ) để chứng tỏ sự tinh vi, thiện nghệ của mình như một người thợ thủ công tinh xảo. Chơi trong văn học trung đại là chơi với, chơi trong những luật lệ đã hình thành, sẵn có, đã rắn lại. Thời hiện đại, trò chơi thể loại diễn ra theo một xu thế khác. Nói như Jean- Francois Lyotard thì người nghệ sĩ hiện nay “ở vị thế của một triết gia: văn bản anh ta viết, tác phẩm anh ta tạo ra, về nguyên tắc, không chịu chi phối bởi những luật lệ đã được thiết lập trước đó, không thể phán xét chúng rạch ròi bằng việc ứng chiếu văn bản, tác phẩm đó theo những phạm trù quen thuộc. Những luật lệ, phạm trù đó là cái mà bản thân tác phẩm đang kiếm tìm. Người nghệ sĩ, nhà văn đã làm việc mà không theo một luật lệ nào để thiết lập nên những luật lệ cho cái chắc chắn sẽ được thực hiện” [Patricia Waugh (ed): 337, in nghiêng trong nguyên bản]. Nhận định của Lyotard cho thấy luật lệ không còn là những yếu tố siêu cá tính, được đúc kết, khái quát từ thực tiễn và muốn trở thành cái phổ quát áp đặt lên tất cả. Luật lệ, quy ước giờ đây bản thân chúng đã là những sáng tạo, in đậm cá tính của nghệ sĩ, chối bỏ tham vọng trở thành cái phổ quát mà trở thành cái mang tính chất độc sáng. Hơn nữa, luật lệ, quy ước không nhằm tạo lập một mô hình mô phỏng cái đã có trước, mà để cấu trúc một mô hình chưa từng hiện hữu. Từ đó, suy ra, trò chơi trong văn học hiện đại/hậu hiện đại bắt đầu bằng việc đặt ra những quy ước, những phép luật, những thỏa thuận ngầm mới giữa nhà thơ – văn bản – người đọc. Điều này lý giải vì sao mô hình thể loại trong văn học hiện đại/hậu hiện đại biến dạng một cách ghê gớm khiến cho bảng phân loại thể loại truyền thống trở nên chật chội. Thực tiễn thơ ca đương đại có thể là một minh họa sinh động. Dường như mọi định nghĩa về thơ, mọi quy ước về thơ đều có thể được chấp nhận. Thơ có thể chối bỏ nghĩa để trở thành những chuỗi vô nghĩa như những sáng tác của các nhà thơ Dada. Thơ có thể chối từ sự tồn tại như một văn bản in như những thể nghiệm thơ âm thanh, thơ trình diễn. Thơ có thể chối bỏ cả chính từ ngữ, cú pháp, tu từ, thậm chí lấy chính chất liệu ngoài ngôn ngữ để kiến tạo tác phẩm như thơ cụ thể (concrete poetry)… Chính sự cá nhân hóa các quy ước thể loại khiến cho không chỉ đặc trưng thể loại trở thành nhập nhòa mà ranh giới giữa thơ ca và các loại hình nghệ thuật khác hóa mơ hồ.

Khi bàn đến tầm quan trọng của việc giữ luật chơi, Johan Huizinga có lưu ý chúng ta đến một thực tế: “Rất đáng lưu tâm khi chúng ta để ý rằng so với những kẻ phá luật chơi thì xã hội khoan dung hơn rất nhiều đối với những tên lường gạt. Đó là vì kẻ phá luật chơi kia đã đập vỡ bản thế thế giới chơi (play-world). Với việc rút khỏi trò chơi, y đã cho thấy tính tương đối và mong manh của cái thế giới chơi mà trước đó y đã khóa chặt mình trong đó với những người khác. Y đã lấy đi ảo ảnh (illusion) của nó – một từ nhiều ý vị mà nghĩa đen có nghĩa là ‘trong sự chơi’ (in-play) (xuất phát từ inlusio, illudere hay inludere). Thế nên nhất thiết phải tống khứ y, vì chính y đã đe dọa sự tồn tại của cộng đồng chơi.” (Johan Huizinga: 11). Những biến thể của kẻ phá luật chơi trong những hình thức xã hội tổ chức cao, theo Huizinga, gồm có những kẻ bỏ đạo, dị giáo, tiên tri, những nhà cách mạng, những kẻ ngoài vòng pháp luật, thành viên hội kín…Ở những nhân vật này, “tính chất trò chơi hiện diện rất rõ trong những việc họ làm” [Huizinga:12].

Khá bất ngờ khi phát hiện thú vị trên của Huizinga lại ít được nhắc đến trong những công trình nghiên cứu về trò chơi sau này nhưng theo chúng tôi, đây là luận điểm có khả năng gợi mở vấn đề lớn. Thứ nhất, trên thực tế, Huizinga đã chạm đến khía cạnh mà Bernard Suits không nhấn mạnh: tính chất quyền năng của luật chơi. Không phải ai cũng được tham dự vào trò chơi, sẽ luôn có những kẻ bị đặt ngoài cuộc. Thứ hai, sự đòi hỏi cao đối với việc giữ luật chơi cũng hàm ẩn rằng trò chơi thường trực phải đối mặt với nguy cơ bị phá luật. Sự phá luật, một mặt, là sự lật đổ, phá vỡ thế giới chơi cũ đồng thời làm giải thể cộng đồng gắn với trò chơi ấy, mặt khác bao giờ cũng mang tham vọng kiến tạo một thế giới chơi mới, với những luật lệ mới cùng một cộng đồng mới. Lịch sử nhân loại nói chung, tiến trình văn học nói riêng, xét đến cùng, cũng chính là sự giằng co, tranh chấp giữa một bên muốn duy trì trò chơi cũ với một bên muốn thiết lập một trò chơi mới.

Theo chúng tôi, hoàn toàn có thể “dịch” luận điểm trên Huizinga sang ngôn ngữ của giải cấu trúc luận, từ đó, có thể nhận thức rõ hơn về bản chất trò chơi của văn học. Nếu nhìn trò chơi như là một hệ thống nghĩa thì cái nghĩa đó để hiện hữu bao giờ cũng phải đẩy rất nhiều những cái khác ra phía sau, biến chúng thành cái vắng mặt, cái vô nghĩa, cái tàng hình. Văn hóa đồng nghĩa với trò chơi, như Jacques Ehrmann từng nói, vậy thì văn hóa cũng vận hành theo nguyên tắc dùng quyền năng để loại trừ, biến một số bộ phận trở thành ngoại vi, trở thành nhỏ/lẻ/phụ (minor), nhằm tạo nên và duy trì hình ảnh tưởng tượng của nó. Đối với bộ phận ngoại vi, đứng bên lề trò chơi của văn hóa này, chỉ bằng cách chơi, chơi như là hành vi vi phạm vào cái diễn ngôn trung tâm được xem như là ý nghĩa chung, phổ quát (common sense), phá những mã đã có, họ mới có thể hình thành nên diễn ngôn của mình, kiến tạo nên bản sắc của mình. Không phải ngẫu nhiên, sáng tác của những bộ phận ngoại vi, thiểu số trong văn học thế giới hiện nay như văn chương của phụ nữ, của giới đồng tính, da màu, dân thuộc địa cũ… thường hướng đến lối viết mang tính trò chơi với những thủ pháp điển hình như biếm phỏng (parody), nhại lại (pastiche), lai ghép, làm lệch chuẩn ngôn ngữ… Xét trong cấu trúc xã hội, khi văn học cũng đang là một thực thể ngoại biên thì diễn ngôn của văn học chính là diễn ngôn chơi: nó giải cấu trúc diễn ngôn trung tâm, diễn ngôn đại tự sự, giúp cất lên những tiếng nói vốn bị bắt phải câm lặng, làm hiện hình những gì vốn bị biến thành vô hình, khuất mặt. Đó có lẽ chính là ý nghĩa nhân bản của văn học ở thời đại này.

Trò chơi như một khuynh hướng thẩm mỹ chủ đạo của văn học hiện đại

Trong phần tóm lược tư tưởng của Huizinga trong cuốn Homo Ludens ở trên, chúng tôi đã nhấn mạnh ý kiến của ông, cho rằng yếu tố chơi đã bị suy thoái nghiêm trọng ở mọi hình thái ý thức của nền văn minh hiện đại, không loại trừ văn học. Nhưng theo chúng tôi, nhận định này của Huizinga cũng có thể xem xét lại. Dưới góc nhìn của Roy C. Caldwell, Jr., “người ta thậm chí có thể phải băn khoăn nếu thời đại của chúng ta sau này sẽ không được nhớ đến như là Kỷ nguyên Chơi, Thời đại Chơi” [Caldwell:547]. Sự bi quan ở Huizinga hay sự hứng khởi ở Caldwell đối với thời đại của mình xuất phát từ cách đặt vấn đề khác nhau về sự chơi. Nếu xem xét sự chơi trong cặp phản đề trò chơi-thực tại, trò chơi-nghiêm túc thì Huizinga hữu lý khi đưa ra nhận xét như vậy. Nhưng nếu ta đồng ý với Jacques Ehrmann rằng sự chơi, văn hóa, thực tại đồng hiện, đồng dạng, đồng nghĩa với nhau thì có lẽ ta sẽ chia sẻ với Caldwell. Trò chơi đã trở thành một khuynh hướng thẩm mỹ chủ đạo của văn học hiện đại/hậu hiện đại. Văn học đã lấy trò chơi làm chính lẽ tồn tại của nó.

Nếu như Huizinga cho rằng bắt đầu từ thế kỷ XIX, yếu tố chơi đã phai nhạt đi rất nhiều trong văn hóa nhân loại thì riêng đối với văn học, cũng trong thế kỷ này, ta lại chứng kiến những hiện tượng quyết liệt trả văn học về với sự chơi thuần khiết, mà hai gương mặt tiêu biểu, cũng là hai cột mốc báo hiệu kỷ nguyên mới của văn học là Gustave Flaubert và Stephane Mallarmé. Flaubert là người đầu tiên chối từ biến tiểu thuyết trở thành một tự sự về hiện thực theo kiểu Balzac, thay vào đó, ông biến tiểu thuyết trở thành tự sự về chính lối viết, với một tham vọng mà Milan Kundera đã diễn tả: “Tiểu thuyết sẵn sàng đảm nhận những đòi hỏi cao nhất của thơ” [Kundera:155]. Stephane Mallarme thể nghiệm hàng loạt trò chơi ngôn ngữ trên cả mặt hình ảnh và âm thanh, tìm tòi một thứ thơ thuần túy, nơi ngôn từ thể khôi phục lại sự mê hoặc, bí ẩn của chính nó. Thơ ca, với Mallarme, không chạy theo cái gì hết, kể cả xúc cảm, ngoại trừ chính thú vui ngôn ngữ. Hướng đến một thứ văn chương đòi quyền tự trị cho mình, theo đuổi những khoái cảm thẩm mỹ vô tư, phi vụ lợi, đấy chính là biểu hiện của thái độ không thỏa hiệp của nghệ sĩ với quá trình công nghiệp hóa, kỹ trị hóa, thương mại hóa, thực dụng hóa đang tăng tốc trong xã hội hiện đại.

Nhà văn hiện đại chủ nghĩa, nói như Nguyễn Hưng Quốc, là những kẻ theo đuổi “một thứ chủ nghĩa hình thức và một thứ chủ nghĩa duy mỹ”[Nguyễn Hưng Quốc:212]. Nỗi đam mê hình thức và chủ nghĩa duy mỹ thôi thúc người nghệ sĩ phát kiến nhiều hình thức trò chơi trên văn bản nghệ thuật. Việc thể nghiệm tính trò chơi này khiến nhà văn hiện đại chủ nghĩa phát hiện nhiều khả thể khác của thể loại, của ngôn ngữ, thậm chí của cả chính cách người ta có thể làm nghệ thuật. Những thực hành nghệ thuật của các nhà Dadaist có thể xem là ví dụ điển hình. Nghệ sĩ Dada chính là những kẻ phá luật ghê gớm nhất, đập vỡ những “ảo ảnh” mà nghệ thuật theo đuổi, vi phạm nghiêm trọng những định chế, quy phạm nghệ thuật nhưng cũng chính vì thế, họ lại được coi là những người khai phóng nhiều khả năng nhất cho nghệ thuật. Với Dada, nghệ thuật không chỉ mang tính chất trò chơi mà bản thân trò chơi có thể tồn tại như là nghệ thuật thực thụ. Những loại hình nghệ thuật mà Dada được xem là trào lưu mở đường như nghệ thuật sắp đặt (installation), nghệ thuật trình diễn (performance art), nghệ thuật thực địa (land-art), thơ cụ thể (concrete poetry), v.v…chính là những loại hình mà ranh giới giữa nghệ thuật và trò chơi được sáp nhập. Dada cũng là trào lưu đầu tiên lưu ý chúng ta đến tầm quan trọng của cái vô nghĩa qua những thể nghiệm của Tristan Tzara, Hugo Ball, Kurt Schwitter. Cái vô nghĩa ở đây thực chất không phải là cái nhảm nhí, điên loạn mà chính là nhân tố tạo sinh nên nghĩa, là chính cái giúp chúng ta nhận ra tính ước lệ, tạm thời, bất ổn của những cái được xem là có nghĩa, để giải phóng tư duy ra khỏi sự câu chấp vào ngôn ngữ.

Cuộc chơi của văn học hiện đại không chỉ là cuộc chơi của nhà văn. Đó còn là cuộc chơi mở, mang tính tương tác giữa nhà văn – độc giả-văn bản. Nếu văn học là trò chơi ngôn từ thì trò chơi đó, về bản chất, là trò chơi của cả sự viết và sự đọc, và qua trò chơi của cả sự đọc lẫn sự viết đó, ngôn ngữ không hề đứng yên, ý nghĩa được triển diễn đến vô tận. Tính tương tác của văn học càng được tăng cường khi nhân loại bước vào thời đại công nghệ thông tin, khi nhờ sự hỗ trợ của kỹ thuật, dưới ảnh hưởng của kỹ thuật, ý thức về sự “cùng chơi”, cùng tạo tác tác phẩm được hiện thực hóa thành những biện pháp, phương thức, mô hình sống động, mà những tác phẩm hypertext hay metafiction là ví dụ cho ta kiểm nghiệm điều này.

Chơi là cách để nghệ thuật tìm kiếm những khả thể cho mình. Nghệ thuật chỉ có thể vận động phát triển khi nó không ngừng khám phá những khả thể mới, khi nó có thể được tái định nghĩa liên tục. Nhưng chơi là còn là luân lý của chính nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng nữa. Bởi như ở trên đã nói đến, bằng cách chơi, văn học khuấy động, tháo dỡ những diễn ngôn trung tâm, khai phóng cho những gì bị đè nén, trấn áp, bị tước quyền hiện diện. Chơi là cách văn học kiến tạo và giải kiến tạo thế giới, bản ngã và cả chính bản thân nó nữa. Và đó chính là sự vận động đích thực của đời sống.

*
Có thể nói, với bài viết này, chúng tôi muốn tiếp tục làm công việc mà nhiều nhà nghiên cứu về trò chơi đã làm: đọc lại Homo Ludens của Johan Huizinga, để nhận thức lại những đặc trưng của văn học. Quá trình đọc lại của chúng tôi cũng chính là đối thoại, phản biện và diễn dịch lại cuốn sách, kết hợp tham chiếu những công trình, luận văn nghiên cứu sau này. Và cũng chính trong sự đọc này, chúng tôi cũng đã đối thoại, phản biện và diễn dịch lại những ý niệm mặc định cho văn học. Chúng tôi cũng hy vọng sự đọc của mình cũng tiếp tục bỏ ngỏ lại những khoảng trống đối thoại, điều mà chúng tôi đã bắt gặp trong công trình của Huizinga, cũng là điều khiến sự đọc của chúng tôi là một sự chơi đúng nghĩa.

TRẦN NGỌC HIẾU
(Bản in lần đầu trên tạp chí Nghiên cứu văn học 11-2011, trang 16-27. Bản đăng lại trên weblog này là bản đầy đủ)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Anchor, Robert. “History and Play: Johan Huizinga and His Critics”, History and Theory, Vol.17, No.1. (Feb., 1978), pp63-93
Cadwell, Roy C. (Jr). “The Robbe-Grillet Game”, The French Review, Vol.65, No.4. (March., 1992), pp 547-556.
Erhmann, Jacques. “Homo Ludens Revisted”, trans. by Cathy Lewis & Phil Lewis, Yale French Studies, No.41, Games, Play and Literature. (1968), pp. 31-57.
Fink, Eugen. “The Oasis of Happiness: Toward an Ontology of Play”, trans. by Ute Saine & Thomas Saine, Yale French Studies, No.41, Games, Play and Literature. (1968), pp. 19-30
Giordano, Enrique A. “Play and Playfulness in Garcia Marquez’ ‘One Hundred Years of Solitude’”, Rocky Mountain Review of Language and Literature, Vol.42, No.4. (1988), pp 217-229
Huizinga, Johan. Homo Ludens: A Study of The Play Element In Culture, Beacon Press 1955
Kundera, Milan. Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, NXB Văn hoá thông tin & Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
Paz, Octavio. “Ngôn ngữ và trừu tượng”, Minh Tự dịch, Báo Văn nghệ, số 21, năm 1993
Rodriguez H. Lydia. “A Theoretical View of Games in Literature: Julio Cortazar and Cristina Peri Rossi”, Hypertexto 10, Vernano 2009, pp. 82-89.
Nguyễn Hưng Quốc. Thơ, v.v và v.v, NXB Văn nghệ, Hoa Kỳ, 1996.
Suits, Bernard. The Grasshopper: Games, Life and Utopia, David R. Godine, Publisher, Boston 1990.
Waugh, Patricia & Rice, Philip. Modern Literary Theory: A Reader. Arnold Publishers 2001.