Tag Archives: phê bình văn học

Trần Ngọc Hiếu – Internet và cộng đồng tưởng tượng của thơ ca: Một khảo sát về thơ mạng Việt ngữ những năm đầu thế kỷ XXI

Tôi đã từng nghĩ bài viết này là phác thảo ban đầu cho một dự án độc lập của mình: nghiên cứu về tác động của internet lên sự vận động của thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Đó là một bối cảnh mà tôi không chỉ là kẻ quan sát mà ít nhiều cũng dự phần, dù không nhiều. Niềm tin của tôi về khả năng nghiên cứu văn học của mình bắt đầu từ những bài viết về thơ đương đại được đăng trên talawas. Trong những cuộc chuyện trò với những bạn văn thời ấy, nhiều người không giấu sự tiếc nuối về những năm còn mang nhiều ảo tưởng, rằng mạng có thể tạo điều kiện cho một cuộc cách mạng văn học thật sự. Không gì ồn ào, gay gắt và quyết liệt bằng những sáng tác và tranh cãi về thơ trên mạng ở khoảng thời gian ấy. Và nếu như môi trường học thuật cởi mở, lẽ ra người ta sẽ còn phải nghĩ tiếp về những vấn đề còn bỏ ngỏ và đầy khiêu khích ấy.

Thơ ca mạng và những địa điểm trú ngụ của nó những năm đầu thế kỷ XXI – các tạp chí văn chương điện tử như talawas, Tiền Vệ, Da Màu, eVăn… thực sự là một cảnh quan sống động. Dù ở thời điểm này, không ít người cho rằng những hiện tượng cực đoan nhất của thơ ca giai đoạn ấy chỉ là những hiện tượng nhất thời nhưng tôi vẫn bảo lưu ý kiến rằng dư chấn mà chúng gây ra là một thực tế không thể phủ nhận và cần nhiều mô tả và phân tích hơn nữa.

Tôi đã viết nghiên cứu này để tham gia một dự án về Online Creative Writing in Asia nhưng dự án này không thành. Một phiên bản ngắn hơn và có thể có một trọng tâm khác với bài viết này đã được đăng trên tạp chí Southeast Asian Media Studies, Vol. 1 No.2 (2019). Tôi tìm cách công bố bài viết này bằng tiếng Anh chỉ vì chưa thể công bố chính thống bằng tiếng Việt lúc này. Đây cũng là cơ hội để tôi học hỏi từ những người bình duyệt rất tận tâm của tạp chí. Tôi cũng xin cảm ơn bạn Nguyễn Hoàng Quyên đã giúp đỡ rất nhiều trong việc dịch bài này sang tiếng Anh.

https://ejournals.ph/article.php?id=14708

lvt-neighbourgarden2.jpg

Hình: Lê Văn Tài, “The neighbour’s garden is evergreen”, Nguồn: https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=678703BC25E536B567507AD8E5C59F56?action=viewArtwork&artworkId=6085

*

       1. Một phác thảo về thơ Việt hiện đại trước thời internet

Trào lưu được xem như cột mốc đầu tiên của thơ Việt hiện đại là Thơ mới xuất hiện vào năm 1932. Chịu những ảnh hưởng trực tiếp của thơ ca Pháp thế kỷ XIX, Thơ mới, về cơ bản, là một trào lưu lãng mạn, nó đánh dấu sự đoạn tuyệt với truyền thống của thơ ca trung đại, trước hết là ở việc nó dùng chữ Quốc ngữ để sáng tác thay cho văn tự Hán Nôm, xa hơn là ở sự khước từ hệ thống luật lệ vốn kế thừa từ những nguyên tắc thi pháp của thơ ca cổ điển Trung Hoa. Song quan trọng hơn, thứ thôi thúc sự hình thành và phát triển của trào lưu này chính là những tâm thức mới nảy sinh của con người Việt Nam trong bối cảnh thuộc địa. Tác giả chủ lực của nó là những trí thức Tây học: thơ là phương thức để họ thể hiện tình cảm, thị hiếu, khát vọng, phong cách sống mang màu sắc cá nhân và tác động đến bộ phận công chúng chính của mình – lớp độc giả thị dân mới. Môi trường để thi sĩ Thơ mới lan tỏa tiếng nói của mình và xây dựng một cộng đồng cho mình là báo chí và xuất bản đương thời.

 

Là một trào lưu có sự phát triển năng động, Thơ mới đã đem đến những sự cải tạo quan trọng đối với diện mạo thơ Việt: câu thơ tự do hơn, kết cấu bài thơ linh động hơn, giọng điệu trong thơ cá nhân hơn. Điều đáng nói là trong vòng hơn 10 năm, bản thân Thơ mới cũng có những dấu hiệu thoát khỏi từ trường của chủ nghĩa lãng mạn, ngả sang hướng tượng trưng với các sáng tác của Bích Khê, Đinh Hùng, nhóm Xuân Thu Nhã Tập, thậm chí còn manh nha những yếu tố siêu thực, như trong thơ Hàn Mặc Tử[1]. Song những biến động của lịch sử chính trị xã hội đã hãm lại đà phát triển của Thơ mới. Kể từ Cách mạng tháng Tám và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, những người cộng sản không chỉ muốn khẳng định vai trò là lực lưỡng lãnh đạo chính trị và quân sự mà còn muốn thiết lập quyền lực của mình trên bình diện văn hóa. Thơ mới, vì thế, được xem là gắn liền với ý thức hệ tiểu tư sản bạc nhược và yếu đuối, cần phải bị thay thế bằng một nền thi ca mới, hướng tới quần chúng công- nông- binh. Định hướng văn hóa ấy khiến thơ mới bị ngoại biên hóa, nhất là những hướng tìm tòi theo hướng hiện đại chủ nghĩa vốn được so sánh như là những cây nấm độc trên thân gỗ mục của chủ nghĩa tư bản. Có một nghịch lý trong mối quan hệ giữa thơ kháng chiến và thơ mới: trong khi một mặt nó muốn dùng ý thức hệ của giai cấp vô sản và mỹ học của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa để phủ định Thơ mới thì mặt khác nó vẫn phải kế thừa những đột phá về thi pháp được mở ra từ thơ mới như cách tổ chức câu thơ và bài thơ. Nghịch lý này sẽ còn nối tiếp trong thơ miền Bắc thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.

 

Sự kiện Điện Biên Phủ năm 1954 đánh dấu sự chấm dứt của chế độ thuộc địa ở Việt Nam đồng thời lại viết Việt Nam vào bản đồ của chiến tranh lạnh. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước bằng đường biên ý thức hệ và điều này tác động sâu sắc đến diện mạo thơ ca Việt Nam. Ở miền Bắc, sự áp đặt văn hóa của những nhà lãnh đạo cộng sản khiến thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa tiếp tục trở thành dòng chính, những nguyên tắc chỉ đạo văn nghệ từ chính quyền xung đột với mong muốn tự do biểu đạt của một số nghệ sĩ. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến phong trào Nhân văn giai phẩm mà một số thành viên chủ chốt và có liên quan là những nhà thơ như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Văn Cao… Nhân văn Giai phẩm bị dập tắt bởi giới cầm quyền; những nghệ sĩ và trí thức quan trọng tham gia và hưởng ứng phong trào bị  takỷ luật, họ không được công bố các sáng tác của mình kể từ sau sự kiện này trong suốt một thời gian dài. Tuy nhiên, tại thời điểm hình thành và bị trấn áp, Nhân văn Giai phẩm mang tính chất của một hiện tượng bất đồng chính kiến hơn là một cuộc cách mạng; nó đòi hỏi tự do sáng tạo cho người nghệ sĩ hơn là đưa ra một định hướng mới về mỹ học của thơ ca. Chỉ ở giai đoạn hậu Nhân văn Giai phẩm, khi Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng… bị gạt ra ngoại biên, sáng tác trong âm thầm, họ mới thực sự tạo ra những đột phá về thi pháp mà phải đến 30 năm sau, chúng mới được biết đến một cách chính thức.[2] Dù có những khác biệt trong những tìm tòi thi pháp của mỗi nhà thơ, song trên những nét lớn, giữa họ vẫn có sự cộng hưởng về mỹ học. Họ phát triển xa hơn những nguyên tắc của chủ nghĩa tượng trưng theo tinh thần Stephan Mallarmé mà ở thời kỳ Thơ mới, chúng mới chỉ manh nha được thể nghiệm: họ lao động công phu với những chiến lược tu từ, hướng thơ đến một vẻ đẹp ngôn từ thuần khiết, giải trừ nhiệm vụ minh họa cho những chủ đề định sẵn mà thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa coi là một mệnh lệnh, kết nối ngôn ngữ với những trạng thái tâm lý miền sâu – những ẩn ức, vô thức, mộng mị, thay thế sự sáng rõ của thông điệp bằng nét mơ hồ, u uẩn của nhạc tính và hình tượng. Ở một mức độ nào đó, chủ nghĩa tượng trưng, qua thực hành của các nhà thơ Nhân văn Giai phẩm, vừa thể hiện ý thức muốn vượt thoát khỏi những nguyên tắc thi pháp lãng mạn vốn kiến tạo nên Thơ mới, mặt khác, lại vừa muốn đối lập với mỹ học và ý thức hệ của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đó có lẽ là một lý do quan trọng để giải thích vì sao khi được giới thiệu trở lại một cách chính thức trên báo chí, xuất bản thời kỷ Đổi mới, những sáng tác này vẫn được coi là những hiện tượng nhạy cảm về chính trị, cho dù trên thực tế, chúng hầu như không biểu đạt trực tiếp một thông điệp chính trị nào.

 

Ở miền Nam giai đoạn này, trong bầu không khí chính trị cởi mở và tự do hơn, một diện mạo văn học mới đã được xây dựng trong 20 năm chiến tranh mang tinh thần của chủ nghĩa hiện đại một cách đậm nét. Gần với thời điểm phong trào Nhân văn Giai phẩm hình thành, một nhóm nghệ sĩ tại Sài Gòn đã lập nên tạp chí Sáng tạo[3] với tham vọng cách tân triệt để, không chỉ miễn nhiễm với nghệ thuật tuyên truyền hiện thực xã hội chủ nghĩa mà còn muốn đoạn tuyệt với di sản của chủ nghĩa lãng mạn, thay thế nó bằng một thứ “nghệ thuật đen”[4] – chữ dùng của Thanh Tâm Tuyền, một tên tuổi quan trọng của thơ ca miền Nam trước 1975 – bất tuân, nổi loạn, phá bỏ những gì trói buộc tự do của thơ ca, cả trong tư tưởng, cảm xúc và hình thức. Thơ ca miền Nam có sự tương đồng nhất định với thơ ca hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây hồi đầu thế kỷ XX ở chỗ nó thể hiện khủng hoảng hiện sinh của con người với những âu lo, bất an trong một thế giới đi đến vô nghĩa. Chỉ có điều bối cảnh của nó là cuộc chiến Việt Nam, nơi người dân Việt Nam bị hiến sinh cho cuộc giao đấu của các ý thức hệ mượn những vũ khí tối tân nhất của thời đại để phô diễn sức mạnh của mình. Trong sự đối chiếu với các sáng tác đầu thập niên 1960 của các nhà thơ Nhân văn giai phẩm, thơ ca miền Nam trước 1975 muốn phủ định mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn không phải bằng tinh thần Mallarmé mà bằng một thứ mỹ học dionysian kiểu Nietzsche[5]: các nhà thơ truyền vào thơ sự chói gắt về giọng điệu, sự đứt đoạn của cấu trúc, sự nghịch dị trong tạo hình.

 

Biến cố 30-4-1975, một lần nữa, làm cho cảnh quan của thơ ca Việt Nam bị vẽ lại. Nền thơ ca miền Nam trước 75 với dòng mạch hiện đại chủ nghĩa của nó bị trục xuất khỏi những mô tả văn học sử chính thống: sách vở miền Nam bị nhà nước cộng sản cấm đoán, thiêu hủy, nhiều nhà thơ quan trọng của miền Nam bị đi cải tạo, bị cấm xuất bản, bị gạt ra bên lề hoặc nếu được nhắc đến, họ chủ yếu chỉ được mô tả như là những đại diện cho khuynh hướng suy đồi văn hóa, chịu những ảnh hưởng độc hại của văn hóa đế quốc Mỹ. Đến tận thời điểm này, mặc dù phê bình chính thống đã phần nào không dùng những định ngữ tiêu cực như thế để mô tả văn chương miền Nam trước 1975 nhưng nhiều tác giả quan trọng vẫn chưa được xuất bản chính thức, bị hạn chế nghiên cứu. Song những gì đã bị trấn áp thì luôn có thể quay trở lại, len lỏi vào cảnh quan văn hóa hiện tại bất chấp những hàng rào kiểm duyệt của thiết chế.

 

Mốc 1986 được xem là mốc khởi điểm của Đổi mới – một thời kỳ đánh dấu nhiều thay đổi quan trọng nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa Việt Nam kể từ sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Một môi trường ít nhiều dân chủ hơn, cho phép mở rộng tự do sáng tác hơn đã dẫn đến những đột phá trong văn học. Những hiện tượng văn học đầu tiên của thời kỳ này gây tranh luận chủ yếu là các tác giả văn xuôi: Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài. Những dấu hiệu lệch chuẩn trong thơ cũng đã xuất hiện trong khoảng thời gian từ cuối những năm 1980 – đầu 1990 như Ngựa biển” (Hoàng Hưng – 1988), Ba sáu bài tình (Lê Đạt, Dương Tường – 1989), Đêm mặt trời mọc (Nguyễn Quốc Chánh – 1990), Bến lạ (Đặng Đình Hưng-1991)… Thơ thật sự trở thành tâm điểm phê bình bắt đầu vào năm 1993-1994 khi có thêm những tập thơ thoát khỏi thi pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Những tác giả làm diện mạo thơ ca đương đại chấn động này thuộc nhiều thế hệ khác nhau: có người bắt đầu cầm bút từ sau 1975 (Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quốc Chánh); có người là các tác giả Nhân văn giai phẩm, sau một thời kỳ dài bị treo bút, giờ đây mới có điều kiện công bố những sáng tác trong ngăn kéo của mình (Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hương), có những tác giả từ trước 1975 đã âm thầm tách khỏi dòng chính của thơ ca và chỉ đến lúc này mới có thể công bố những sáng tác ngoài luồng của mình (Dương Tường, Hoàng Hưng)… Một số nhà nghiên cứu đã nhận diện chúng như là những thể nghiệm thi ca mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại. Tranh luận xung quanh chúng phân hóa thành hai cực rõ nét và gay gắt: một bên cho rằng đó là những thứ phản thơ, vô nghĩa, dung tục; trong khi đó, một bên nhận diện chúng như là những cách tân đáng ghi nhận, nối kết chúng với những tìm tòi theo khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa trước đó trong phong trào Thơ mới và thơ ca miền Nam trước 1975. Cuộc tranh luận diễn ra trên nhiều tờ báo văn nghệ từ trung ương đến địa phương, mà tâm điểm là tờ Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam, xoay quanh hàng loạt những chủ đề: thế nào là thơ hiện đại, vai trò của tính dân tộc trong thơ, lịch sử thơ ca Việt Nam… Tuy nhiên, cuộc tranh luận đã tạm thời phải dừng lại sau bài tổng kết của ban Lý luận phê bình văn học của báo Văn nghệ số 13 năm 1995. Trên thực tế, khuynh hướng phủ nhận giá trị của những tìm tòi thơ ca được coi là mang hơi hướng hiện đại chủ nghĩa này là khuynh hướng chính thống khi cuốn sách tấn công chúng dữ dội nhất  – cuốn Thơ phản thơ của Trần Mạnh Hảo được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam.[6]

 

Nảy sinh trong bối cảnh thuộc địa, trong hơn 60 năm, thơ hiện đại Việt Nam đã khởi đầu bằng trào lưu lãng mạn để phủ định thi pháp thơ ca cổ điển từng thống trị mười thế kỷ trước đó, rồi sau đó, nó bắt đầu phát triển những yếu tố hiện đại chủ nghĩa. Tuy nhiên, khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa trong văn học Việt Nam là một hiện tượng đứt đoạn, thường xuyên bị ngoại biên hóa bởi những lý do chính trị. Về cơ bản, nó là một thứ văn học thiểu số, một dòng chảy ngầm. Ngay cả khi được hiện diện công khai, nó cũng thường bị nhìn nhận như là thứ thơ ca khó hiểu và tiềm tàng phẩm chất nổi loạn. Báo chí và xuất bản của Việt Nam sau 1975 dành chỗ cho chúng xuất hiện nhưng đồng thời cũng luôn cảnh giác trước khả năng lan tỏa, cộng hưởng mà chúng có thể tạo ra.

  1. Không gian mạng –không gian xuyên quốc gia của thơ Việt

Năm 1997, internet chính thức xuất hiện tại nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.[7] Nhưng thực ra tác động của internet vào văn chương Việt ngữ có lẽ đã bắt đầu sớm hơn khi vào năm 1995, Diễn đàn văn học nghệ thuật liên mạng – tạp chí văn chương điện tử của các nhà văn Việt Nam tại hải ngoại ra mắt ở Mỹ.[8] Văn học Việt Nam hải ngoại vừa là bộ phận kế tục văn học miền Nam trước 1975 vừa là tiếng nói của cộng đồng lưu vong của người Việt sau sự thất thủ của Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên văn học Việt ngữ khai thác những lợi thế của internet để đổi mới hình thức xuất bản của mình, phá vỡ tính độc quyền của hình thức in ấn. Bộ phận văn học Việt ngữ bị hai lần ngoại biên này – vừa bị gạt ra khỏi những mô tả văn học sử chính thống trong nước vốn đóng khung trong biên giới quốc gia, vừa là khu vực văn học thiểu số trong quan hệ với quốc gia nơi người Việt lưu vong cư trú – đã tìm thấy ở hình thức xuất bản mạng nhiều khả năng để kết nối người viết, người đọc trong cộng đồng người Việt.

 

Ở thời kỳ đầu, internet chủ yếu đóng vai trò như là một kênh để giới thiệu các tạp chí văn chương Việt ngữ từng có giai đoạn phát triển khá sôi nổi như Hợp Lưu, Văn học, Việt… Đến năm 2001, đã bắt đầu hình thành các webzine văn chương của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Trong đó, talawas ra mắt lần đầu vào ngày 3.11.2001 có thể xem là diễn đàn đầu tiên cập nhật hàng ngày các trao đổi, bình luận văn nghệ và cả các sáng tác văn học. Được thành lập tại Berlin và do nhà văn Phạm Thị Hoài – một trong những tên tuổi nổi bật của văn học Đổi mới và hiện sống tại Đức – chủ trương, talawas, trên thực tế, không hẳn chuyên sâu vào văn học, thậm chí càng về sau, các vấn đề chính trị lại trở thành trọng tâm của nó. Song không thể phủ nhận, từ thời điểm hình thành cho đến lúc ngừng hoạt động, văn học đã luôn là một chủ đề được quan tâm từ phía người chủ trương lẫn phía công chúng, đến mức nó thường được gọi là một trang mạng văn học. Cũng chính trên diễn đàn này, Nguyễn Quốc Chánh, một gương mặt thơ ca của Sài Gòn gây nhiều tranh cãi từ đầu thập niên 1990, đã giới thiệu tập thơ Của căn cước ẩn dụ[9]. Tập thơ, như Nguyễn Quốc Chánh nói, là sự từ chối thỏa hiệp với xuất bản chính thống và thời đại internet trở thành thời đại tạo điều kiện cho nhà thơ đi đến cùng sáng tạo của mình, bất chấp những kiểm duyệt văn hóa. “Của căn cước ấn dụ” xứng đáng được coi là tập thơ samizdat đầu tiên của văn chương Việt ngữ trong thời đại internet. Gần thời điểm với sự ra mắt của talawas là trang Gió-O do nhà văn Lê Thị Huệ tại Hoa Kỳ làm chủ biên, xuất hiện lần đầu vào ngày 15-11-2001. Đến năm 2002, website Tiền Vệ (mà tiền thân của nó là tạp chí Việt, 1998-2001) do hai nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc -Tuấn được thành lập tại Australia. Chủ trương hướng đến một sự cách tân triệt để văn học Việt ngữ và uy tín của hai nhà phê bình khiến Tiền Vệ từng trở thành website văn chương sôi nổi bậc nhất, quy tụ nhiều gương mặt khiêu khích nhất những năm đầu thế kỷ XXI, trong đó có những tác giả từ chối hoặc không được xuất bản chính thống trong nước. Xuất hiện muộn hơn vào tháng 10-2006 tại Hoa Kỳ – nơi tập trung lớn nhất cộng đồng lưu vong của người Việt là Da Màu mà sáng lập viên bao gồm các nhà văn Đỗ Lê Anh Đào, Đặng Thơ Thơ, Phùng Nguyễn. Vốn được hình thành ban đầu như một tạp chí văn chương điện tử, bản thân tên gọi “Da Màu” đã cho thấy những người khởi xướng rất ý thức về tính chính trị của căn tính. Da Màu vừa muốn thúc đẩy bộ phận văn chương Việt ngữ trong của đa văn hóa, đa ngữ của Hoa Kỳ, vừa muốn phá vỡ các biên giới văn chương theo nghĩa địa lý, chính trị, lịch sử, chủng tộc để tạo nên “một sân chơi văn chương đúng nghĩa để mọi tiếng nói đều được lắng nghe, mọi giọng nói đều được cất cao, và mọi khuynh hướng văn chương đều đồng đẳng”.[10]

 

Có thể nói trong khoảng 10 năm ấy, từ 1995-2006, sự xuất hiện của các trang web và tạp chí văn chương điện tử là một tín hiệu đặc biệt đáng chú ý: nhiều sự kiện và biến động của văn chương Việt ngữ đã được bắt đầu và lan tỏa đi từ đây. Không khó để thấy sự đi trước về công nghệ khiến cho các trang văn chương mạng ở hải ngoại được hình thành và phát triển sớm hơn trong nước. Thậm chí sức ảnh hưởng của chúng cũng khiến cho trong nước có những nỗ lực để xây dựng các tờ báo văn chương điện tử, trong đó đáng chú ý nhất là trang eVăn (hình thành năm 2003). Là một nhánh của trang báo điện tử VnExpress vốn được xem là có lượng người đọc lớn nhất trong nước, eVăn đã chủ trương trở thành một diễn đàn văn chương cởi mở hơn hẳn so với báo chí văn nghệ chính thống, sẵn sàng giới thiệu trang trọng những hiện tượng văn học giàu tính thể nghiệm hoặc đầy thách thức về mỹ học và thi pháp như Tam Lệ, các cây bút nữ trong nhóm Ngựa trời và đặc biệt là nhóm Mở Miệng.[11] Những người chủ trương các website văn chương ở thời điểm ấy không chỉ nhìn thấy internet như một giải pháp kỹ thuật nhiều lợi thế cho hoạt động công bố, truyền bá sáng tác và kết nối độc giả; quan trọng hơn, họ còn hào hứng bởi tính dân chủ tiềm tàng của môi trường internet, một điều kiện cần thiết cho sự phát triển của văn học. Phạm Thị Hoài, vào năm thứ ba của talawas, đã phát biểu:

Vậy mà với một niềm tin không thể tuyệt đối hơn, các công dân internet của hành tinh này tiếp tục hăng say chuyển những sở hữu thật ở dưới đất của mình lên mạng. Tất cả những gì có thể dịch ra kí hiệu digital. Với nền dân chủ kĩ thuật số, mọi nhà văn đều có thể tự xuất bản toàn tập tác phẩm của mình theo ý mình cho muôn đời; và nếu lợi tức từ văn chương không đáng trọng bằng việc được bạn đọc chia sẻ thì chỉ e viết chẳng kịp sức ngốn của một site cỡ mini nhất. Nếu muốn, ngay sáng mai mọi nhà văn tại Việt Nam đều có thể lên mạng, nghĩa là chấm dứt gõ cửa những nhà xuất bản còn ảo hơn cái không gian ảo kia, chờ mua tấm giấy phép sặc sụa mùi giao phối của chính trị hạng bét và thương mại hạng ba; chấm dứt ảo tưởng và tự vỗ về, thụ động và phó mặc; chấm dứt làm một con giun ngưỡng mộ kiếp quằn, một con lừa nghiện roi, một con thoi thoăn thoắt trong một và chỉ một quỹ đạo. Lên mạng là cuộc lên đường của hôm nay. Chế độ toàn trị có thể chặn thành công hầu hết mọi ngả đường, nhưng nó đã không lường đến sự ra đời của internet. Với chúng ta, người Việt, nhà văn Việt, internet là ân sủng không thể lớn hơn của số phận. Luật cấm xuất bản tư nhân nào còn hiệu lực trước hàng trăm ngàn cơ sở tự xuất bản của mỗi tác giả trên mạng? Hạn chế tự do ngôn luận nào còn tác dụng trước hàng triệu diễn đàn tự lập và tự quản trên mạng?[12]

                                                           

Như lời của Phạm Thị Hoài, internet trở thành công cụ để nhà văn Việt Nam vượt khỏi sự kiểm duyệt của nhà nước toàn trị, thực thi quyền tự do biểu đạt. Còn trong hình dung của những người chủ trương Tiền Vệ, internet giúp các nhà văn Việt Nam hiện thực hóa lý tưởng “xây dựng một khối Thịnh Vượng Chung của văn học nghệ thuật Việt Nam, nơi, bất chấp những dị biệt về địa lý và chính trị, mọi người có thể gặp gỡ nhau trong nỗ lực tìm tòi và thử nghiệm để trả công việc sáng tác trở về đúng nguyên nghĩa của nó: làm ra cái mới.” “Khối Thịnh vượng chung” gợi liên hệ đến ý niệm về “cộng đồng tưởng tượng” mà Benedict Anderson dùng để định nghĩa về dân tộc. Trong trường hợp này, nó được dùng để chỉ một cộng đồng giải lãnh thổ: internet tạo điều kiện để các nhà văn viết tiếng Việt, dù ở bất cứ đâu, miền là cùng chia sẻ ý hướng sáng tạo, ở đây là tham vọng cách tân văn chương, có thể quy tụ. Khối Thịnh vượng chung ấy là một không gian văn hóa xuyên quốc gia, nó nằm trên các biên giới địa lý và nằm trong ngôn ngữ văn chương, nó được xây bằng tinh thần tiên phong về mỹ học và không thỏa hiệp về chính trị.

 

“Cộng đồng tưởng tượng” mà các trang web văn chương Việt ngữ dự phóng là một môi trường dân chủ, tự do, hứa hẹn khả năng cộng hưởng giữa các cây bút và với độc giả. Ở nửa thập niên đầu của thế kỷ XXI, văn chương mạng Việt ngữ có lẽ mang một diện mạo rất khác so với văn chương mạng ở Trung Hoa đại lục – nơi có nhiều điểm tương đồng về hoàn cảnh chính trị ở Việt Nam. Văn học mạng ở Trung Hoa đại lục ngay từ đầu đã có một nhánh đi theo hướng văn hóa đại chúng, thậm chí mạng còn tạo điều kiện để sáng tác văn chương trở thành một business. Trong khi đó, những trang mạng văn chương Việt ngữ hoạt động mạnh nhất ở thời điểm này thì đều mang tham vọng tạo ra cách tân mỹ học, nói cụ thể hơn, kích thích những khuynh hướng sáng tác khác biệt với thứ văn chương Việt ngữ dòng chính vốn chiếm lĩnh không gian công trong nước. Internet trao cơ hội để website văn chương Việt ngữ ở hải ngoại tạo được lực hấp dẫn từ phía ngoại biên. Nó không chỉ là không gian cho các tác giả hải ngoại nữa mà còn thu hút các cây bút ở trong nước, những người muốn đi ngược lại dòng chính của văn nghệ, bị lôi cuốn bởi tinh thần tự do và tiên phong mà thế giới văn chương mạng gợi mở. Nói một cách hình ảnh, internet đã kích thích một cuộc “vượt biên” đối với nhiều nhà văn Việt Nam: hầu hết những tác giả quan trọng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là trong thơ ca, đều đã từng công bố sáng tác của mình trên những website này, từ những cây bút luôn kiên định vị thế dissident của mình như Nguyễn Quốc Chánh cho đến những cây bút vẫn được thừa nhận bởi dòng chính như Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư…[13] “Vượt biên” để công bố sáng tác, đối với nhiều tác giả trong nước, có thể xem là hành động tự ngoại biên hóa. Tính chất tự ngoại biên hóa cũng có thể xem là động thái của eVăn – trang web văn chương trong nước hiếm hoi theo đuổi một chủ trương khác biệt với đường lối văn nghệ do nhà nước chỉ đạo. Những tiếng gọi từ ngoại biên này, lẽ dĩ nhiên, dần dần làm cho cái trung tâm cảm thấy bất an. Các cơ quan quản lý văn hóa đương nhiên thấy e ngại như họ đã từng e ngại trước làn sóng văn chương thời kỳ Đổi mới nổi lên đúng thời điểm hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rã. Các hình thức kiểm duyệt được đưa ra: Evăn buộc phải dừng hoạt động theo định hướng ban đầu của những người chủ trương; talawas bị chặn tường lửa ở Việt Nam vào năm 2005, Tiền Vệ và Da Màu cũng không dễ dàng truy cập được từ trong nước.

 

Các webzine văn chương Việt ngữ có thể xem là sự xuất hiện đúng lúc đối với thơ ca Việt ngữ khi ở thời điểm những năm đầu tiên của thế kỷ này, lại có những tác giả trẻ trong nước gây tranh cãi bởi sự phóng khoáng trong giọng điệu và thi pháp mà những cái tên nổi bật có thể kể đến gồm Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh. Các webzine này trước hết mở rộng không gian cho những tranh luận này, đi tiên phong là talawas.  Mục “Thơ và thơ trẻ” trên website này được lập ra từ những ngày đầu tiên, không chỉ tập hợp các bài phê bình trên các báo in, tạo điều kiện để độc giả tiện truy cập mà còn đăng tải những bài phê bình được các tác giả chủ động gửi cho mình thay vì các kênh truyền thông chính thống. Talawas đã cố gắng xây dựng một môi trường dân chủ khi giới thiệu nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí xung đột với nhau, về các hiện tượng thơ ca này. Xa hơn thế, trong vòng 5 năm này, nhiều chủ đề quan trọng liên quan đến thơ tiếp tục được đưa ra thảo luận trên mạng trong khi báo chí chính thống hầu như không đề cập đến, hoặc nếu có thì với thái độ cảnh giác: cách tân thơ, tính dục trong thơ, cái tục trong thơ, thủ pháp giễu nhại, khuynh hướng nữ quyền, chủ nghĩa hậu hiện đại… Có thể nói, một không gian phê bình trên mạng đã được mở ra và hoạt động sôi nổi hơn cả báo in chính thống, nơi vẫn chịu sự chi phối của kiểm duyệt và luôn dè chừng trước những biện hộ cho các hiện tượng bị coi là lệch chuẩn.

 

Thơ là thể loại chủ lực của các tạp chí văn chương mạng. Điều này, trước hết, do tính chất ngắn gọn, thơ có thể thích ứng với hình thức trình bày trên màn hình tốt hơn so với các loại hình tự sự dài hơi. Nhưng quan trọng hơn, khi muốn thể nghiệm một khuynh hướng lệch chuẩn so với dòng chính của thơ ca đương thời, các tác giả sẽ rất khó được chấp nhận bởi báo chí và xuất bản chính thống. Bởi lẽ đó các tạp chí văn chương mạng ở thời điểm này, dù có thể có những khác biệt nhất định về chủ trương, đều ý thức xây dựng một cộng đồng tưởng tượng cho thơ ca. Cộng đồng tưởng tượng này mang hình ảnh của một sân chơi mang tính chất carnival. Bằng các hoạt động phê bình, dịch thuật, công bố tư liệu, các tạp chí này kiến tạo một quá khứ cho dòng thơ ca ngoại biên này đồng thời vẽ ra một tương lai mà nó có thể đi đến.

 

  1. Một sân chơi carnival của thơ

Carnival là mô hình thế giới nghệ thuật của Francois Rabelais theo diễn giải của Mikhail Bakhtin. Tuy nhiên, thuật ngữ do Bakhtin đề xuất này còn có sức gợi mở rất lớn đối với nghiên cứu văn hóa. Thế giới carnival có thể được coi như một đối không gian (counter-space) với văn hóa dòng chính vốn chịu sự thống trị của tầng lớp đặc quyền. Nó đối lập với với thực tại thường nhật trong đời sống xã hội với những luật lệ, quy phạm, tôn ti, cấm đoán đoán của văn hóa chính thống. Thay vào đó, nó  phản ánh tính khả biến, đa diện và tương đối của thế giới, tương phản với hình ảnh một thế giới bất biến, bất khả xâm phạm và quyền lực chính thống muốn duy trì. Carnival, do đó, là một không gian ngoại vi văn hóa mà nói như Robert R. Wilson, đó là nơi “tiếng nói phi chính thống của người dân ‘chơi’ lại những tiếng nói chính thống của quyền lực”[14]. Sự chơi ở đây có thể được hiểu là giễu nhại, giải thiêng, giải quy phạm, hay nói khác đi, nó thách thức, làm lung lay các diễn ngôn chính thống.

 

Với định hướng như đã mô tả ở trên, có thể nói các tạp chí văn chương mạng Việt ngữ ở nửa thập niên đầu thế kỷ XXI đã cố gắng thiết lập mình như một không gian carnival. Dù có những khác biệt nhất định về bút pháp nhưng nói chung những thực hành thơ ca trên mạng đều có thể được gọi là diễn ngôn carnival. Như một diễn ngôn carnival, những thực hành này không chỉ thách thức một cách không khoan nhượng với những ý niệm về thơ được chuẩn mực hóa bởi văn hóa chính thống hiện tại mà còn chất vấn những hình dung về về thơ đã được định hình trong truyền thống. Đây là những gì mà Đinh Linh nói về thơ ca đăng tải trên website Tiền Vệ: “So với cái văn hoá chữ nghĩa chính thống ở Việt Nam, nơi những cây bút già bị bắt nạt phải viết loại thơ nhếch nhác như con nít, và những cây bút liều lĩnh hơn chỉ dám nhét một hai bóng ma vào bài thơ để khoe cái phẩm chất “siêu thực” của họ, thì Tiền Vệ nện cho một đá bể đít!”[15]

 

Nếu như những nỗ lực cách tân thơ Việt từng xuất hiện trước đây, từ thời kỳ Thơ mới, có thể cải tạo một cách đáng kể câu thơ hay kết cấu bài thơ thì giờ đây, những thực hành thơ ca trên mạng thậm chí muốn chất vấn ngay khả thể của thơ. Ở hình thức cực đoan nhất, các tạp chí văn chương mạng sẵn sàng giới thiệu những sáng tác đi rất xa khỏi những hình dung phổ biến về thơ. Một thí dụ tiêu biểu: những bài thơ cụ thể của Lê Văn Tài đăng trên Tiền Vệ. Không chỉ chơi với hình ảnh thị giác của chữ, đặc biệt là tận dụng những lợi thế của digital để gia tăng hiệu ứng thị giác của tác phẩm, gây tác động lên độc giả, Lê Văn Tài thậm chí còn xóa mờ ranh giới giữa thơ và tranh hay nhiếp ảnh ý niệm. Cũng trên Tiền Vệ, Tam Lệ (Trần Nguyên Anh) giới thiệu những bài thơ làm với các con số hay những bài thơ hình ảnh chỉ làm trên một chữ cái hay một từ. Không chỉ bản thân các bài thơ có thể gây sốc cho độc giả mà cách bài thơ được làm ra cũng chưa từng thấy tiền lệ. Với trường hợp của Tam Lệ, thơ hình ảnh của anh là một thứ thơ kỹ thuật, hiểu theo nghĩa trực tiếp nhất của từ này. Bản thân tác giả cũng không giấu những công đoạn, thao tác để thực hiện tác phẩm của mình, theo đó, “làm thơ” cũng không loại trừ cả những việc “tay chân”. Nhưng bên cạnh đó lại cũng có tác giả như Bùi Chát coi làm thơ như là một cách “nghịch thơ”: “Tôi ngịch thơ – jã chàng ngịch cát –con lít ngịch những thứ khác”[16], hay như Đinh Linh coi làm thơ tức là “lộn ngược thơ ra.”[17] Lý Đợi – thành viên của nhóm Mở Miệng, hiện tượng thơ ca mang tính khiêu khích bậc nhất của thơ Việt đương đại – thì đưa ra tuyên bố: “Chúng tôi không làm thơ”[18]. Nói khác đi, làm thơ, với các nhà thơ thuộc nhóm Mở Miệng, là đi ngược lại, là phủ định tất cả những định nghĩa đã sẵn có, những điển phạm mà văn hóa chính thống thiết lập, những tiêu chí đánh giá thơ ca được biến thành chuẩn mực. Nói “chúng tôi không làm thơ”, do đó, tương đương với việc nói rằng “chúng tôi đang thực hành phản thơ”. Tính chất carnival của môi trường mạng khiến nơi đây trở thành nơi dung chứa những thực hành phản thơ quyết liệt ấy.

 

Phản thơ, trước hết, là khước từ sự gắn liền thơ với cái nên thơ – một truyền thống được duy trì bền bỉ trong thơ Việt. Cái nên thơ đem đến cho người ta cảm giác dễ chịu hoặc ảo giác về sự giải thoát thực tại thông qua những hình ảnh đời sống được gọt giũa hay chắt lọc theo hướng mỹ hóa hoặc lý tưởng hóa. Thay cho cái nên thơ, các thực hành thơ ca trên mạng đưa vào trong thơ không chỉ những góc cạnh trần trụi của đời sống Việt Nam đương đại mà cả những gì vốn bị coi là gây cảm giác bẩn thỉu, nhơ nhớp. Nguyễn Quốc Chánh, trong hai tác phẩm samizdat mạng “Của căn cước ẩn dụ” và “Ê, tao đây”, thẳng thừng mô tả một không gian đô thị mắc kẹt trong những “cơn mê đầm lầy”, trong ngập ngụa của rác rưởi. Trạng thái ấy được trình hiện trong một lối hành văn chóng mặt, ngồn ngộn các hình ảnh đồng hiện:

“Giữa trung tâm Sài Gòn, loa phóng thanh chỏ vào nhà hàng, khách sạn lải nhải, Xin hát về người…!…Xin hát về mẹ…! Và đường Ðồng Khởi, ăn mày đủ loại, đồng ca bài Muôn Thuở, rồi xòe tay rượt theo du khách. Trên những bãi bồi, còng gió chơi trò du kích, mùa đông nhớ làng. Ðất ngậm nước, những thế kỷ đái dầm, một sinh vật dài ngoẵng, khai và mắc cạn. Những cái dĩa nhôm, chồng lên mặt bẹt, quần thun sắm áo vét. Cần một cú toạc, xóa những lằn ranh. Tôi bực mình vì tính sợ đau, hơi ghê màu trắng, và sống, bằng cách đục một cái gì đem bán. Căn tính nhiệt đới: xài chung khăn, và kinh nghiệm không để sống. Ông cố tôi vì hãnh diện, bỏ mạng trong tù; bà tôi mù, bởi độc quyền nghề dệt. Ðôi khi, tôi uống sự sống đóng chai, lai rai đái cái chết rất buốt. Trong đội hình xếp ngang, tôi thứ W trong những kẻ đồng nát, và tin, sau khi chết, tôi sẽ được ướp. Những người mê tín khói, cúi mọp trước đồng trinh. Thỉnh thoảng, tôi cũng xuất tinh vào cái gì đó, không quan trọng là hũ hay lọ. Ðằng trước có con ngựa đá đuổi theo kim gió. Tới chỗ mùa thu, tôi sẽ triển lãm cái dễ chịu của con thú. (Trích “Triển lãm bản địa”)[19]

 

Hệ từ vựng liên quan đến những thứ gây cảm giác xú uế, tanh tưởi cũng xuất hiện dày đặc trong thơ của Đinh Linh, Phan Bá Thọ, Lynh Bacardi. Các tác giả trong nhóm Mở Miệng công khai gọi những thực hành thơ của mình là “thơ rác”, “thơ dơ”, “thơ nghĩa địa”. Để cái phi thơ tràn vào thơ cho cái nên thơ không chỉ là một phản ứng về mỹ học thơ ca mà còn cần phải được hiểu như một thái độ chính trị của các nhà thơ này. Nếu thơ bị đồng nhất với cái nên thơ, thơ chỉ làm được một việc là che đậy thực tại và do đó, nó trở nên tha hóa. Nó đồng lõa với những diễn ngôn của cái chính thống vốn thao túng ngôn ngữ để che đậy sự bất ổn, bất an của mình. Bằng thực hành của mình, các nhà thơ mạng kéo thơ xa khỏi những lối tu từ uyển ngữ vốn đang bị lạm dụng vào trò chơi ngụy trang của ý thức hệ thống trị. Có thể dùng chữ của Nguyễn Quốc Chánh, nhà thơ cần phải giải cứu tình trạng “ngôn ngữ bị bắt làm con tin”[20]. Để như thế, tiếng nói của nhà thơ cần phải là tiếng nói thẳng thừng nhất, bỗ bã nhất trong ngữ cảnh này. Inra Sara đã bình luận về hiện tượng này: “Nó mang trong mình làn gió thối thổi vào không khí thơ chúng ta. Nó buộc chúng ta quay lại nhìn nó. Và nhìn lại cả mình nữa! – Lâu nay, mình có quá thơm, quá diêm dúa lắm không!?”[21]

 

Sự tràn lan của lớp ngôn ngữ tính dục cũng là một đặc điểm nổi bật của những hiện tượng phản thơ trên mạng này. Trước đó, ở một số hiện tượng cách tân độc đáo nhất trong lịch sử thơ Việt, ngôn ngữ tính dục cũng hiện diện như là những yếu tố khiêu khích cảm quan đạo lý và mỹ học: trong thơ Hồ Xuân Hương[22], nó được sử dụng để gợi nhớ văn hóa phồn thực dân gian vốn bị kìm nén khi Nho giáo được độc tôn và đồng thời để thách thức những giá trị đạo đức gia trưởng áp đặt lên người phụ nữ trong thời phong kiến; trong thơ Trần Dần, nó khắc họa cái bản năng và cái riêng tư – những bình diện mà hệ tư tưởng marxist muốn trấn áp để đề cao bản chất xã hội của con người. Tuy nhiên, ngôn ngữ tính dục trong thơ Hồ Xuân Hương là những hình ảnh lấp lửng, lưỡng nghĩa, gần với lối “đố tục giảng thanh” trong câu đố dân gian, trong khi đó, Trần Dần lại tạo ra những phép chính tả của riêng mình để ám thị những ẩn ức và bức bối thân thể. Những thực hành thơ trên mạng sử dụng ngôn ngữ tính dục một cách trực tiếp, khước từ ngụy trang các hình ảnh về bộ phận sinh dục và hành vi tính giao trong một lớp ngôn ngữ nhã nhặn hơn. Thay vào đó, các nhà thơ sẵn sàng biến ngôn ngữ tính dục trở thành một thứ ngôn ngữ phản kháng báng bổ và gay gắt đối với những trấn áp tư tưởng và những mặt nạ của diễn ngôn chính thống. Nguyễn Quốc Chánh tấn phong cho những từ ngữ bị coi là tục tĩu, dơ dáy trong tiếng Việt như “đụ”, “lồn”, “cặc”… thành những “từ đẹp nhất”, thậm chí là những tiếng mang thân phận đang thương nhất khi “Sau 10 thế kỷ bị Tàu hầm nhừ, Lồn, Cặc & Đụ có màu sắc khác: Âm hộ, Dương vật & Giao hợp. Lồn, Cặc & Đụ bị tống khỏi hàng ngũ của Mông, Má… & chúng vất vưởng ở vỉa hè cùng với bà bán vịt lộn, thằng đạp xe & ả Magdalena đĩ thoã.”[23] Hành động tấn phong carnival này, ở mức độ nào đó, cũng là sự chất vấn những huyền thoại được kiến tạo nên từ những từ ngữ trang trọng, lịch lãm, trở thành những đại tự sự về truyền thống, về bản sắc dân tộc – những thứ mà giới cầm quyền ở Việt Nam đang muốn trưng dụng để chống đỡ cho những tự sự của ý thức hệ cộng sản vốn giờ đây không thể đứng tự nó. Theo những cách khác song cũng vẫn mang tinh thần ấy, Lê Văn Tài chơi đùa trên những bài thơ cụ thể của mình khi ông thiết lập mối quan hệ giữa các biểu tượng văn hóa truyền thống, lịch sử với những chữ suồng sã nhất chỉ bộ phận sinh dục. Nguyễn Hưng Quốc đã có phân tích thú vị khi chỉ ra ý thức chất vấn của Lê Văn Tài về lịch sử như một diễn ngôn phallogocentrism – một thuật ngữ của Derrida sáng tạo để nói đến tính đặc quyền trung tâm của nam giới trong lịch sử.[24] Khi bóp méo Kinh Thánh để định nghĩa lại lịch sử: “khởi thủy là lồn”, Bùi Chát không chỉ báng bổ diễn ngôn phallogocentrism mà còn thể hiện sự cười cợt với mọi đại tự sự của lịch sử.[25] Những sự thách thức những chuẩn mực của thơ ca và ngôn ngữ như thế này minh họa rõ nét cho nhận định của Julia Kristeva về diễn ngôn carnival: “Diễn ngôn carnival phá vỡ những luật lệ của ngôn ngữ vốn bị kiểm duyệt bởi ngữ pháp và ngữ nghĩa, đồng thời nó còn là sự phản kháng xã hội chính trị. Giữa việc thách thức những mã ngôn ngữ chính thống và thách thức luật lệ chính thống không phải là quan hệ tương đương, mà là quan hệ đồng nhất.”[26]

 

Giọng điệu chủ đạo trên sân chơi carnival này là sự bông đùa, mỉa mai, giễu nhại, vô kị úy. Giọng điệu ấy đã được xác lập trong văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thời kỳ đầu Đổi mới song hãy còn vắng bóng trong thơ. Ở thời điểm cuối những năm 80 đầu những năm 90, ngôn ngữ tính dục và những hình thức biểu đạt thực tại cực thực đã xuất hiện trong thơ của Dương Tường và Hoàng Hưng [27]nhưng về cơ bản, thơ vẫn nằm trong địa hạt của cái nghiêm túc. Thơ mạng những năm đầu thế kỷ XXI có thể chơi đùa với mọi thứ nghiêm túc. Bùi Chát có hẳn một tập thơ nhại xuất bản năm 2007 mà đối tượng của hành động nhại chính là những thứ thơ được yêu thích, những điển phạm đã được thừa nhận. [28]Nhan đề của tập thơ Xin lỗi chịu hổng nổi thể hiện công khai sự ngao ngán với những chuẩn mực về thơ ca và bằng sự giễu nhại, Bùi Chát muốn gợi mở về khả năng thơ ca thoát khỏi những chuẩn mực đã có. Ở một bài thơ khác, tác giả sử dụng lại tất cả các yếu tố ngôn ngữ của văn bản mà Bộ Văn hóa thông tin gửi cho viện Goethe để yêu cầu tổ chức này hủy sự kiện giao lưu với nhóm thơ Mở Miệng vào ngày 17/6/20005 với lý do sáng tác của Mở Miệng là thô tục, không phù hợp với thuần phong mỹ tục dân tộc. Bùi Chát đập vụn chữ nghĩa của văn bản này, rồi sắp xếp lại chúng thành một bài thơ mới trong đó bên cạnh những chuỗi ngôn từ vô nghĩa lại có những câu không giấu giếm sự mai mỉa:

Chúng tôi xin kính trọng

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Thơ

Dừng ngay các hoạt động

Ủng hộ và tổ chức

17/6/2005

(Trích “Xạo chẻ bờ kè”)

Sự đùa nghịch là một biểu hiện của tâm thế tự do. Bài thơ collage theo phong cách Dada của Bùi Chát không chỉ là sự bỡn nghịch với một văn bản quyền uy của nhà nước mà còn thẳng thừng cho thấy thơ bị giết chính là bởi những hình thức trấn áp tự do biểu đạt như thế này chứ không phải bởi những sáng tác bị kết án vi phạm thuần phong mỹ tục.

Trong vòng 5-6 năm đầu của thế kỷ XXI, sân chơi carnival ở vùng ngoại biên văn hóa này có một hấp lực lớn không thể phủ nhận. Sự ra đời của các tuyển tập thơ như Khoan cắt bê tông (2005) hay Thơ 47 (2007)[29] cho thấy việc chủ động lề hóa này có dấu hiệu trở thành một khuynh hướng, vượt qua những rào cản về địa lý và kiểm duyệt của chính trị, tập hợp các cây bút có thể có những khác biệt về thi pháp song đều muốn chối từ việc thỏa hiệp với dòng chính văn hóa. Các tạp chí văn chương mạng giống như một sân chơi nơi mọi quy tắc và chuẩn mực của văn hóa chính thống đều mất đi khả năng ràng buộc kẻ sáng tạo, nơi mọi điển phạm đã có đều bị chất vấn, nơi cho phép tiếng cười, sự giễu nhại, sự mai mỉa được cất tiếng. Trong tương quan với dòng chính văn hóa, sân chơi carnival này là sân chơi của những kẻ muốn phá đám. Sự tồn tại của những kẻ phá đám này là điều nguy hiểm đối với văn hóa chính thống bởi như phân tích của Johan Huizinga, họ có thể “đập tan thế giới chơi”, “phát lộ tính chất tương đối và dễ vỡ”, “lấy đi ảo ảnh”, “đe dọa sự tồn tại của cộng đồng chơi” của văn hóa chính thống.[30] Những kẻ phá đám phải đối mặt với những hình thức trừng phạt mà sự kiện nhóm Mở Miệng buộc phải dừng buổi giao lưu thơ ca tại viện Goethe là một thí dụ. Báo chí chính thông có những bài viết công kích họ như là hiện tượng văn hóa độc hại. Tường lửa được dựng lên để ngăn bạn đọc trong nước có thể dễ dàng truy cập một số trang web văn chương. Năm 2013, Đỗ Thị Thoan, tác giả luận văn cao học về nhóm Mở Miệng, bị giới học thuật và phê bình chính thống lên án vì dám nghiên cứu một hiện tượng cấm kỵ: tác giả bị tước bỏ học vị thạc sĩ, buộc phải thôi việc ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sự kiện này đã bóc trần về sự tồn tại của tự do học thuật trong môi trường đại học ở Việt Nam.[31]

 

  1. Biện hộ cho kẻ những phá đám: Kiến tạo truyền thống và định hướng tương lai cho thơ ca bên lề

Bên cạnh việc mở ra những không gian carnival để quy tụ các nhà văn ngoại biên công bố và truyền bá tác phẩm của mình, các tạp chí văn chương ý thức được việc củng cố cộng đồng của mình thông qua các hoạt động công bố tư liệu, dịch thuật và đặc biệt là phê bình văn học. Nhờ đó, một truyền thống khác ngoài truyền thống của dòng chính, đồng thời một định hướng khác thay cho slogan “Vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” (slogan của báo Văn nghệ, tờ báo chính thức của Hội nhà văn Việt Nam) đã được kiến tạo cho những thực hành thơ ca trên mạng này.

Một đóng góp rất lớn của các tạp chí văn chương mạng giai đoạn này là việc giới thiệu các sáng tác văn học từng nằm trong vùng cấm xuất bản hoặc khó tiếp cận với công chúng do điều kiện in ấn và phạm vi truyền bá. Trong thời gian hoạt động của mình, talawas đã kiên trì giới thiệu những ấn phẩm thơ ca từng bị gạt ra bên lề văn học sử bởi tính chất dị biệt về thi pháp, tính cá nhân trong giọng điệu, tính khiêu khích về thẩm mỹ từ sáng tác của Xuân Thu Nhã Tập – một trong những hiện tượng thơ ca sớm nhất mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại đến Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm – một nhà thơ trong phong trào Nhân văn giai phẩm, Ác mộng của Hoàng Hưng – tập thơ được sáng tác trong tù của Hoàng Hưng, một gương mặt gây tranh cãi nhất của thơ Việt cuối những năm 1980 đầu 1990… Nhưng nỗ lực đáng kể hơn là việc trang web này đã tìm cách phục dựng lại những tư liệu liên quan đến phong trào Nhân văn giai phẩm và các tác phẩm quan trọng của văn học miền Nam trước 1975. Internet đã góp phần làm nổi lên những sự hiện diện mà văn học sử chính thống muốn xóa bỏ. Tiền Vệ cũng tích cực trong công tác tư liệu này khi những người chủ trương giới thiệu những bài thơ văn xuôi của Bùi Giáng, thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên – những gương mặt quan trọng nhất của thơ ca miền Nam trước 1975. Năm 2003, cũng chính trên website này, lần đầu tiên công chúng được tiếp cận với những bản thảo chưa từng được công bố của Trần Dần giai đoạn hậu Nhân văn giai phẩm. Những thể nghiệm của Trần Dần về thơ âm thanh, thơ hình họa cho thấy một ý thức cách tân quyết liệt của nhà thơ được coi là “thủ lĩnh trong bóng tối” này. Ở những thể nghiệm táo bạo nhất, thơ Trần Dần không chỉ là sự cắt đứt với dòng mạch của truyền thống lãng mạn hay hiện thực xã hội chủ nghĩa mà còn tiệm cận với mỹ học của nghệ thuật ý niệm như bình luận của Như Huy về tác phẩm Mùa sạch.[32] Tất cả những nỗ lực phục dựng tư liệu này có thể cho phép ta nhìn ra mối liên hệ ngầm giữa những thực hành thơ ca đương đại với quá khứ. Theo đó, thơ ca trên mạng, dù nổi loạn, khiêu khích thế nào đi nữa, vẫn có một truyền thống của nó. Đó là truyền thống của một thứ mỹ học dyonisian, phóng túng và phản kháng lại mọi sự áp đặt đối với tự do biểu đạt dù ở trong những hoàn cảnh chính trị xã hội ngặt nghèo thế nào đi nữa. Một thứ mỹ học thơ ca như vậy là một thứ mỹ học bên lề, nhưng lại luôn năng động vì nó không chỉ thách thức những giá trị và tiêu chuẩn về thơ ca đã yên vị mà còn luôn muốn tự phủ định mình. Nói như Trần Dần: “Viết như xóa ngay cái mình vừa đưa ra… Viết? giết một cái gì? Đầu tiên là quan niệm viết? rồi luôn đó, một vài cái khác – trong ngoài mình?”[33]

Dịch thuật cũng là một hoạt động được thúc đẩy trên các tạp chí văn chương mạng. Có một quan sát khá thú vị về mối liên hệ giữa dịch thuật và cách tân thơ ca trong văn học Việt Nam hiện đại: nếu như các gương mặt quan trọng của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Thu Hương đều không hoạt động trong vai trò dịch giả (trừ trường hợp Phạm Thị Hoài) thì ngược lại, những đại diện cho xu hướng đổi mới trong thơ hiện đại đều tạo dấu ấn trong hoạt động dịch thuật. Trần Dần, Dương Tường, Hoàng Hưng đều là những dịch giả uy tín. Ở thời đại văn học mạng, nhiều cây bút năng động nhất cũng đồng thời là những người tích cực giới thiệu những sáng tạo thơ ca nhân loại thông qua kênh dịch: Hoàng Ngọc –Tuấn, Đinh Linh, Lê Đình Nhất Lang, Phan Quỳnh Trâm… Thực tế này gợi cho ta suy nghĩ gì? Có thể bởi thơ vốn cắm rễ sâu vào ngôn ngữ – yếu tố kết tinh truyền thống văn hóa bền chắc nhất, do đó, những quán tính của ngôn ngữ trong thơ thường mạnh. Dịch thuật tạo ra sự cọ xát với ngôn ngữ của kẻ khác và chỉ qua sự cọ xát này, những quán tính trong từ vựng, cú pháp và sâu xa hơn nữa, trong mỹ cảm ngôn ngữ mới có sự rung chấn mạnh, nhờ đó, ngôn ngữ thơ đổi mới chính mình được. Một nỗ lực về dịch thuật mà phải đến sự ra đời của trang Tiền Vệ, công chúng mới có thể tiệm cận được rộng rãi là di sản dịch thuật thơ ca của Diễm Châu (1937-2006). Từng có thời gian hoạt động văn học tại Sài Gòn từ trước 1975 trong vai trò tổng thư ký tạp chí văn chương Trình Bày, đến năm 1983 ông định cư tại Pháp và miệt mài sáng tác cũng như dịch thuật thơ ca. Trước khi di sản dịch thuật của ông được đưa lên website Tiền Vệ, những người yêu thơ chỉ biết đến các bản dịch thơ của ông được in với số lượng rất ít ỏi. Nhìn vào di sản này, có thể thấy sự phi thường của Diễm Châu khi đưa vào tiếng Việt những hiện tượng thơ ca quan trọng bậc nhất của thế giới: từ các thi sĩ siêu thực Pháp đến các nhà thơ Mỹ Latin như Jorge Luis Borges, Roberto Juarroz, José Carlos Becerra, Luis Cernuda… từ các thi sĩ Đông Âu như Vladmir Holan, Vasko Popa, Lucian Blaga… đến những tiếng nói dị biệt của các nhà thơ châu Phi… Tiếp xúc với bức tranh phong phú đó của thơ ca nhân loại, ta có thể nhận ra thơ luôn tiềm tàng những khả thể khác. Dịch thuật mở ra một ý niệm mới về truyền thống của thơ ca: thơ không chỉ thuộc về truyền thống của ngôn ngữ dân tộc, nó còn thuộc về truyền thống tiên phong, truyền thống đấu tranh cho tiếng nói cá nhân, cho tự do tư tưởng mà thơ ca thế giới vẫn luôn bền bỉ nuôi dưỡng.

Phê bình văn học chính là hoạt động quan trọng nhất để biện hộ cho cuộc nổi loạn ngôn từ của thơ ca mà các tạp chí văn chương mạng dung dưỡng. Như đã nói ở trên, các tạp chí văn chương mạng đã xuất hiện đúng lúc như một sự tiếp sức cho những thảo luận về thơ trẻ những năm 2000 khi sự đa dạng của các quan điểm, sự phức tạp về những chủ đề tranh cãi trở nên khó quản lý đối với truyền thông chính thống. Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn là những thực hành thơ ca trên mạng ở thời điểm này đã có những nhà phê bình riêng của mình: Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn, Inra Sara… Tinh thần chung của phê bình trên mạng cũng mang tính gây hấn như bản thân các sáng tác. Biểu hiện đầu tiên của tinh thần ấy là giải điển phạm mà bài phê bình gây tranh cãi của Nguyễn Hưng Quốc – “Thơ con cóc: Một bài thơ hay” là thí dụ điển hình.[34] Bài thơ dân gian được xem là vô nghĩa và là trực quan về thơ dở này, theo diễn dịch của Nguyễn Hưng Quốc, bỗng trở nên có vấn đề. Cái dở hay cái hay của thơ, theo đó, là những quan niệm được thiết chế hóa trong những ngữ cảnh văn hóa nhất định. Việc coi chúng là những gì phổ quát, phi thời gian trên thực tế để nhằm duy trì một dạng mỹ cảm, một khuôn mẫu về thơ, một đặc quyền về văn hóa. Giải ngữ cảnh quan niệm về cái hay, cái dở này có thể giải phóng thơ ra khỏi những trói buộc ấy và trao cho nó những khả năng và phẩm chất khác. Trong trường hợp này, bài thơ con cóc cho thấy đối tượng của thơ không chỉ là cái đẹp mà nó có thể là cái dở, cái tầm thường, cái xấu xí, thơ có thể trở nên tiết chế cảm xúc, giảm thiểu chất duy tình, thoát khỏi sự níu kéo dẳng dai của chủ nghĩa lãng mạn. Bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc thực ra được xuất bản lần đầu vào năm 1996. Sau gần 10 năm, nó được đưa lại lên mạng đúng lúc những thực hành thơ trên mạng gây ra những tranh luận sôi nổi. Chúng vấp phải những phê bình tiêu cực mà theo đó, chúng không thể được gọi là thơ bởi sự tầm phào, vô nghĩa và tục tĩu. Bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, cùng với loạt tiểu luận khác của ông về cái tục, về sự giễu nhại, về sự khiêu khích tầm đón nhận của người đọc công bố trên website Tiền Vệ có ý nghĩa như sự biện hộ đúng lúc cho cuộc nổi loạn này của thơ Việt. Nếu như các thực hành thơ mạng hiện giờ là những thực hành phản thơ, phi thơ thì bản thân chúng cũng có sự kết nối với một truyền thống khác, luôn luôn bị ngoại biên hóa – truyền thống của những thứ bị coi là phản thơ, phi thơ. Nhưng như Anna Akhmatova từng viết: “Nếu anh biết rằng câu thơ mọc lên từ loại rác nào, thì anh không khỏi xấu hổ”[35],  chính những thứ vốn bị xem là tầm thường, dung tục ấy lại có khả năng khơi nguồn cho thơ ca và nghệ thuật mới. Phê bình của Nguyễn Hưng Quốc có sự cộng hưởng mạnh mẽ với tinh thần không ngần ngại khi làm việc với những chất liệu và ngôn ngữ phản thơ của các nhà thơ. Nói như lời của Đinh Linh, anh luôn bị cuốn hút về phía “ngôn ngữ chợ búa, du đãng, những bài thơ tiền vệ, chữ lóng, ngôn ngữ dùng sai bởi con nít, những kẻ nói tiếng Việt không rành…”[36]

Nguyễn Hưng Quốc đã đứng từ lập trường hậu hiện đại để giải điển phạm, từ đó khai quật một truyền thống ngầm cho các thực hành phản thơ trên mạng. Nhưng không chỉ vậy, ông và Hoàng Ngọc – Tuấn ngay từ những ngày đầu lập nên trang Tiền Vệ đã có tham vọng cổ súy để chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một định hướng khác, nhiều tiềm năng, thúc đẩy văn học Việt ngữ cả ở trong nước lẫn hải ngoại đang rơi vào tình trạng trì trệ. Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một chuyên đề trên trang Tiền Vệ, nơi không chỉ đăng tải các sáng tác Việt ngữ mà ban biên tập xếp vào khuynh hướng hậu hiện đại mà còn dịch nhiều hiện tượng văn chương hậu hiện đại quan trọng, thí dụ các nhà thơ Mỹ John Yau, Elaine Equi, Maxine Chernoff,  Paul Violi, Diane di Prima… Bên cạnh đó, các tiểu luận về nghệ thuật hậu hiện đại cũng thường xuyên được chuyển ngữ và có lẽ gây ảnh hưởng hơn cả chính là những bài phê bình văn học của Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc- Tuấn, Inra Sara… Có thể nói, cho dù họ không phải là những người đầu tiên giới thiệu chủ nghĩa hậu hiện đại vào trong đời sống học thuật và sáng tác nghệ thuật Việt Nam nhưng phải đến họ và hoạt động phê bình trên không gian mạng của họ, nó mới thật sự trở thành hiện tượng nghệ thuật có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn. Có thể nói trong cảnh quan văn hóa Việt Nam ở thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, chủ nghĩa hậu hiện đại là chủ đề sôi nổi, gây tranh cãi nhiều nhất trên cả phạm vi học thuật lẫn sáng tác.

 

Ở thời điểm này, nhìn lại sự du nhập của chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam, có thể thấy những hoạt động của các tạp chí văn chương mạng, trong đó đáng kể là hoạt động phê bình, mang tính chiến lược. Thứ nhất, chủ nghĩa hậu hiện đại xác nhận giá trị và quyền năng của cái ngoại biên, do đó, sẽ hợp lý khi dựa vào nó để củng cố địa vị và sức tác động của các tạp chí văn chương mạng vốn dĩ đã bị ngoại biên hóa đến hai lần trong tương quan với văn hóa chính mạch của quốc gia nơi họ cư trú và với văn hóa chính thống trong nước chịu sự kiểm soát của nhà nước. Sự lan tỏa của chủ nghĩa hậu hiện đại trong cả đời sống học thuật lẫn thực tiễn sáng tác là một bằng chứng cho thấy cái ngoại biên có thể làm lung lay cái trung tâm như thế nào. Thứ hai, các nhà phê bình hoàn toàn ý thức được sự chất vấn về tính thích ứng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong ngữ cảnh Việt Nam khi trên thực tế, bản thân chủ nghĩa hiện đại trong văn học Việt Nam còn chưa có cơ hội phát triển thành một trào lưu đúng nghĩa. Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, bởi thế, cần mang một diện mạo được dự phóng theo kiểu khác. Đây là đề nghị của Nguyễn Hưng Quốc:

Nói cách khác, chủ nghĩa hậu hiện đại Việt Nam, nếu có, chỉ là một kết hợp cùng lúc giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, trong đó, các yếu tố mang tính hậu hiện đại được đẩy lên thành những yếu tố chủ đạo. Nó là hiện đại khi cố gắng cắt bỏ tính chất nghiệp dư, tính chất quy phạm và tính chất giáo điều của chủ nghĩa cổ điển. Nó cũng là hiện đại khi cổ xuý cho tính chất duy lý, tính chất đặc tuyển và tính chất cá nhân chủ nghĩa trong văn học. Nó là hậu hiện đại khi cố gắng vượt qua tất cả những giá trị hiện đại chủ nghĩa vừa nêu và khi tổng hợp mọi thành tựu nghệ thuật trên nền tảng một hệ mỹ học mới. Đó là lý do chính khiến tôi thích dùng chữ chủ nghĩa h(ậu h)iện đại: trong cách viết ấy, chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại hoà quyện vào nhau, trùng lấp lên nhau. Tôi cho đó là lý tưởng cao nhất và thực tế nhất mà trong tình hình hiện nay giới cầm bút Việt Nam có thể vươn tới.[37]

Đó là một thứ chủ nghĩa hậu hiện đại mang tính nguyên hợp – một thuật ngữ mà Nguyễn Hưng Quốc đề xuất. Tính nguyên hợp này, theo ông, khác với đặc trưng của folklore dân gian ở “tính tự giác trong ý thức sáng tạo”; ở “khả năng dung chứa, tích hợp nhiều thể loại, nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều hệ mỹ học, khuynh hướng và giọng điệu khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau”; ở “thái độ châm biếm khi thực hiện những kết hợp này như thể đang chơi một thứ trò chơi ngôn ngữ không gắn với một niềm tin tất định nào”.[38] Nguyễn Hưng Quốc nhấn mạnh: “trong môi trường văn hoá Việt Nam, để có được một thái độ như vậy, người ta nhất thiết phải là những kẻ avant-garde.”[39] Đó có lẽ là lý do tại sao ông và Hoàng Ngọc – Tuấn đã chọn từ này để đặt tên cho tạp chí văn chương điện tử của mình.

Tinh thần avant-garde có thể nói đã thẩm thấu sâu trong những thực hành thơ ca trên mạng mà ở trên đã phác thảo. Việc các nhà thơ gây sốc khi đưa ra những bài thơ lệch khỏi những hình dung có thể chấp được chính là một biểu hiện của tinh thần tiên phong. Ở đây, có thể dùng định nghĩa của Jean-Francois Lyotard như một biện hộ cho hành vi sáng tạo khiêu khích này: “Nghệ sĩ hay nhà văn hậu hiện đại ở trong vị thế một triết gia: văn bản y viết hay tác phẩm y sáng tạo, về nguyên tắc, không bị chi phối bởi những luật lệ tiền lập và có thể bị phán xét theo những chuẩn mực đã xác định, bằng việc áp những phạm trù sẵn có vào văn bản hay tác phẩm ấy”.[40] Một khi bài thơ được làm ra không nằm trong bất cứ hình mẫu hay khung phân loại nào, nó không chỉ là một bài thơ khác, nó còn có thể là một ý niệm thơ khác: một định nghĩa khác về thơ, một khả thể tồn tại khác về thơ, một đề nghị khác cho cách người đọc tiếp nhận thơ… Có thể gọi những sáng tác của Lê Văn Tài, Tam Lệ, Mở Miệng, Đinh Linh… là dạng thơ ý niệm – một thể loại đặc trưng của thơ trên các tạp chí mạng thời điểm này. Chúng tôi đề xuất thuật ngữ ngữ này trong mối liên hệ với trào lưu nghệ thuật ý niệm bởi những điểm tương đồng quan trọng giữa hai hiện tượng. Thơ ý niệm, qua thực hành của các tác giả nói trên, đều khước từ việc đồng nhất thơ với cái đẹp, các tác giả cũng không gắn mình với truyền thống từ chương mà những nhà cách tân thơ Việt từ khởi nguồn tượng trưng đi theo, họ không chủ trương đem đến cho người đó những khoái thú dễ chịu mà trái lại sẵn sàng khiêu khích những phản ứng mạnh mẽ nơi người đọc. Nhà thơ vừa sử dụng ngôn ngữ đồng thời vừa phê phán ngôn ngữ, qua đó, chất vấn những thiết chế quyền lực náu trong những kết cấu ngữ pháp, trong những lối tu từ và cả trong những nét nghĩa ổn định. Đó là lý do tại sao Đinh Linh lại nghĩ “Viết một bài thơ hoàn toàn vô nghĩa/Không phải là chuyện đùa” bởi “một từ nhỏ nhất/Một quan hệ từ, chẳng hạn,/Con hay cái, cũng đã tích cóp/cả ngàn quan hệ từ ngàn năm.”[41] Đó cũng là lý do Phan Bá Thọ, Bùi Chát tạo ra trò chơi thơ bằng cách làm rỗng nghĩa, trượt nghĩa những từ ngữ, biểu tượng vốn được đặt vào vùng cấm trong văn hóa.

Đương nhiên, chủ trương hậu hiện đại này cũng vấp phải những phản ứng bất đồng bởi một số tác giả cũng muốn đổi mới thơ Việt. Phan Nhiên Hạo thẳng thắn bày tỏ sự ái ngại trước những thể nghiệm mang tính cực đoan của nhóm Mở Miệng không phải chỉ bởi chất liệu bị coi là dung tục được đưa vào thơ thiểu kiểm soát mà còn bởi cách thực hành thủ pháp parody của họ, theo ông, là dễ dãi[42]. Một thảo luận cũng khá căng thẳng diễn ra trên trang talawas được bắt đầu từ bài viết của Nguyễn Trần Khuyên (đăng ngày 7.4.2005) phê bình các sáng tác thơ trên Tiền Vệ, Hợp Lưu, Tạp chí Thơ… Trong bài viết này, Nguyễn Trần Khuyên cho rằng việc lạm dụng hình ảnh làm tình và các bộ phận của phụ nữ trong các sáng tác trên Tiền Vệ (mà theo thống kê của bà là lên đến 70%) là biểu hiện cho một nền văn học xây dựng từ đực và phục vụ cho đực.[43] Tất cả những sáng tác được coi là cách tân này, dưới góc nhìn của bà, chỉ là sự lặp lại một truyền thống bền bỉ hơn hết thảy trong văn hóa Việt Nam – truyền thống duy dương vật – điều này không mới mẻ mà “còn là một bước lùi”, “thiếu kiến thức về nam nữ bình quyền”, dẫn đến “hàng loạt các sáng tác hủ lậu.” Xét cho cùng, chính những bất đồng này lại là một bằng chứng cho thấy tinh thần hậu hiện đại được lan tỏa trên không gian mạng bởi lẽ thứ xa lạ nhất với nó chính là tính đồng phục, đồng nhất. Bản thân mạng luôn mở ngỏ không gian cho những lựa chọn khác: Gió-O sẽ đi sâu hơn vào dòng mạch nữ quyền; Phan Nhiên Hạo sau này lập trang litviet (cập nhật lần đầu vào ngày 29.5.2009), ban đầu như một blog cá nhân và sau đó phát triển trong hình thức gần giống một tạp chí. Trong khoảng 5 năm đầu thế kỷ XXI, các tạp chí văn chương mạng thực sự là khu vực sôi nổi nhất của văn học Việt ngữ.

  1. Sự thoái trào của các tạp chí văn chương mạng và thơ ca tiền vệ

Sự sống động của các tạp chí văn chương mạng rõ ràng là dấu hiệu gây bất an với nhà nước. Những hình thức kiểm soát và trấn áp mà ở trên đã nhắc đến cho thấy những cuộc nổi loạn thơ ca trên mạng đã được diễn dịch như là những biểu hiện bất đồng chính kiến. Bản thân talawas, Tiền Vệ và Da Màu cũng ngày càng quan tâm đến những chủ đề chính trị thời sự trong nước và đấy là lý do các website này trở thành đối tượng cần phải bị cấm đoán bởi các nhà kiểm duyệt trong nước. Năm 2008, talawas đã tạm ngừng hoạt động để rồi chuyển sang phiên bản mới – talawas  blog vào ngày 15-3-2009 nhưng cũng chỉ hoạt động đến tròn một năm. Khi chúng tôi hoàn thành bài viết này, website tiền vệ đã tạm thời không update bài vở hàng ngày. Da Màu và Gió-O vẫn còn duy trì nhưng đã khá lâu không có hiện tượng sáng tác hay phê bình nào gây được sự chú ý dư luận trên các tạp chí này.

Sẽ là cường điệu nếu cho rằng kiểm duyệt trong nước là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự thoái trào của các tạp chí văn chương mạng và cuộc cách mạng thơ ca Việt ngữ. Bên cạnh nguyên nhân chính trị, một nguyên nhân quan trọng khác thực ra chưa bao giờ được phân tích thấu đáo dẫn đến xu thế này này là sự biến động của hệ sinh thái truyền thông ở Việt Nam. Các tạp chí văn chương mạng những năm đầu thế kỷ XXI xây dựng trên nền tảng của các forum, song đến giữa thập niên đầu tiên này, các forum đã trở nên mất sức hấp dẫn khi blog lên ngôi. Ở Việt Nam, bắt đầu từ sự xuất hiện Yahoo 3600, xu hướng cá nhân hóa kênh truyền thông ngày càng diễn ra mạnh, và có lẽ lên đến cao điểm khi Facebook thống trị. Thay vì xuất hiện trên các tạp chí điện tử, một số tác giả giờ lựa chọn trang cá nhân của mình làm nơi tiếp cận công chúng. Một số nền tảng mới khác cũng đang thu hút những người viết ở Việt Nam dù chưa có thống kê nào để đo khả năng cạnh tranh giữa chúng với facebook như Medium, Spiderum, Reddit… Nếu như các tạp chí văn chương điện tử còn cố kết được các tác giả làm thành nhóm, từ đó khả năng gây ảnh hưởng trở nên tập trung hơn thì xu hướng phân tán các kênh truyền thông hiện nay đang làm mất đi tính tập trung ấy. Bên cạnh đó, các kênh truyền thông cá nhân ở thời điểm này cũng dễ bị lôi cuốn vào lợi ích thương mại. Giới xuất bản hiện nay không nhìn thấy văn chương mạng như là sự cạnh tranh với kênh in ấn truyền thống mà có thể hỗ trợ lẫn nhau. Nhiều tác giả lựa chọn xuất bản để nối dài ảnh hưởng mà họ gây dựng được trên mạng và các nhà xuất bản cũng săn tìm những tác giả được quan tâm nhiều trên mạng để in tác phẩm của họ.

Thơ trên mạng cũng không nằm ngoài sức tác động này thị trường và đây là điều rất khác so với những năm đầu thế kỷ XXI khi xu hướng tiền vệ đồng thời là xu hướng không chiều độc giả và không thỏa hiệp với thị trường. Khoảng 2- 3 năm gần đây đã xuất hiện một số hiện tượng các nhà thơ mạng ăn khách như Nguyễn Phong Việt, Nồng Nàn Phố, Lu… [44]Sự nổi lên của những tác giả này phần nào đó tương ứng với sự nổi lên của các hiện tượng thơ instagram Anh ngữ như trường hợp Rupi Kaur hay Lang Leav. Thơ của những tác giả này vẫn đắm trong mỹ cảm lãng mạn và chúng thỏa mãn một nhu cầu của giới trẻ – thích trích dẫn để phục trang cho bản ngã.

Nhưng có phải như thế những cơn chấn động mà thơ mạng tạo ra trong 5 năm đầu thế kỷ XXI là vô nghĩa? Quả thực, người ta đã hoàn toàn có thể nghĩ đến nó lại là một cuộc nổi loạn bất thành, một cuộc cách mạng không đi đến thành tựu nào định hình nếu so với Thơ mới, với nhóm Sáng Tạo. Người ta hoàn toàn có thể thấy nó chỉ tạo ra những hiện trường ngổn ngang, những tranh luận còn bỏ ngỏ. Có thể văn hóa chính thống vẫn bảo vệ thứ thơ ca của mình sau hàng loạt những nỗ lực lung lay dữ dội mà thơ mạng đã tạo ra. Nhưng dù gì đi nữa, thứ thơ ca chính thống ấy đã phải chịu những tổn thương và các hình thức kiểm duyệt hà khắc nhất vẫn sẵn sàng dành cho những ai muốn bàn luận về những kẻ gây tổn thương ấy hay nối tiếp tinh thần phản kháng của họ mà sự kiện luận văn Nhã Thuyên là minh chứng. Bản thân điều này, trên thực tế, chính là một sự hiện diện vắng mặt, một thứ vẫn còn có thể gây ám ảnh, bất an với cái chính thống và do đó, nó xứng đáng cần được mô tả như một sự kiện văn học sử, dù giới nghiên cứu phê bình chính thống luôn tìm cách để không nhắc đến nó khi bàn về thơ Việt Nam đương đại.

_______________________________________________________________________________

[1] Hàn Mặc Tử (1912-1940), tác giả của những tập thơ tiêu biểu Gái quê (1936), Thơ điên (1938), trong đó ở tập thơ sau có nhiều bài mang dấu ấn của thi pháp thơ siêu thực. Về sự gặp gỡ giữa Hàn Mặc Tử và thơ siêu thực, có thể tham khảo bài viết của Phạm Xuân Nguyên,  Đỗ Lai Thúy, Đào Trọng Thức in trong Hàn Mặc Tử – Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.

[2] Trần Dần (1926-1997): Sau 1986, một số tập thơ của ông sáng tác thời tham gia phong trào Nhân văn giai phẩm và hậu nhân văn giải phẩm đã được xuất bản như  Bài thơ Việt Bắc (viết năm 1957, xuất bản năm 1990), Cổng tỉnh (viết năm1959-1960, xuất bản năm 1994), Mùa sạch, (viết năm 1964, xuất bản năm 1998). Tháng 2 năm 2008, công ti truyền thông Nhã Nam và NXB Đà Nẵng đã cho xuất bản tuyển tập Trần Dần – Thơ. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Bộ Thông tin – Truyền thông Việt Nam đã có quyết định đình chỉ lưu hành tập thơ này nhưng không đưa ra lý do minh bạch nào dù trước đó nó đã được cấp phép xuất bản. Ngày 5/3/2008, 134 người là các nhà văn, trí thức, học giả đã lên tiếng đề nghị thu hồi quyết định ngừng phát hành tập thơ này, viết thư ngỏ gửi Quốc hội Việt Nam. Lệnh cấm phát hành sau đó bị dừng lại, tuy nhiên tập thơ này cho đến nay vẫn không có cơ hội được tái bản.

Lê Đạt (1929-2008): Sau 1986, ông được xuất bản chính thức trở lại. Tuy nhiên, tập thơ Bóng chữ xuất bản năm 1994 gồm chủ yếu những bài thơ mà ông âm thầm sáng tác những 1960-1970 là một trong những hiện tượng gây tranh cãi nhiều nhất trong cuộc tranh luận về thơ kéo dài từ năm 1993-1995 trên báo chí văn nghệ chính thống. Trần Mạnh Hảo trong Thơ phản thơ đã gọi thơ Lê Đạt là “thơ ú ớ”.

Hoàng Cầm (1922-2010): Trong thời gian chịu kỷ luật vì vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ông đã sáng tác tập Về Kinh Bắc, một tập thơ đậm màu sắc của chủ nghĩa tượng trưng và thấp thoáng dấu ấn siêu thực. Năm 1982, ông chép tay tập thơ này và gửi cho nhà thơ Hoàng Hưng (1942). Tuy nhiên, cả ông và nhà thơ Hoàng Hưng đều bị bắt vì tập thơ được coi là “tài liệu phản động”. Nhà thơ Hoàng Hưng sau đó bị từ 3 năm vì vụ việc này. Ông đã thuật lại vụ án văn chương này trong bài “Vụ án ‘Về Kinh Bắc’, một sự kiện hậu Nhân văn” đăng trên talawas 18/9/2010: http://www.talawas.org/?p=24264 Chỉ đến 1994, tập thơ này mới được xuất bản chính thức.

Đặng Đình Hưng (1924-1990), nhạc sĩ và nhà thơ. Các tập thơ của ông đều được xuất bản sau khi ông qua đời gồm có Bến lạ (NXB Văn nghệ, TP. HCM, 1991), Ô mai (NXB Văn nghệ, TP.HCM, 1993)

[3] Tạp chí Sáng tạo được thành lập tại Sài Gòn vào tháng 10 năm 1956 dưới sự chủ trương biên tập của Mai Thảo (1927-1998) và chấm dứt hoạt động vào tháng 9 năm 1961. Các cây bút chủ lực của tạp chí này là những gương mặt quan trọng của văn học miền Nam trước 1975 như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế,  Quách Thoại, Trần Thanh Hiệp…

[4] “Nghệ thuật đen” là tên một tiểu luận của Thanh Tâm Tuyền, đăng lần đầu trên tạp chí Sáng tạo, số 3, tháng 9-1960. Đây là một trong những tiểu luận thể hiện rõ nét quan điểm nghệ thuật của ông, theo đó, “nghệ thuật đen” được định nghĩa là  “thứ nghệ thuật bi đát phẫn nộ, thứ nghệ thuật dục tình suồng sã, thứ nghệ thuật vô luân trắng trợn”, “nghệ thuật bị hắt hủi, một nghệ thuật “mọi” của những tên “mọi” trong xã hội…” (p.35)

[5] Trong tiểu luận “Nỗi buồn trong thơ hôm nay” trên tạp chí Sáng tạo, số 31, tháng 9 năm 1959, Thanh Tâm Tuyền đã diễn giải về mỹ học dionysian của Nietzsche, theo đó, nghệ thuật dionysian là “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có, hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận.” (p.3) Thanh Tâm Tuyền đã dựa trên tư tưởng của Nietzsche để xác lập tinh thần của thơ hôm nay: “Chúng tôi trả lại nàng thơ, trả lại nghệ thuật cho các người, cho những thi sĩ thuộc giòng đầu bù tóc rối có nghệ thuật rạng ngời vững vàng như thần Apollon. Chúng tôi cuốn theo cơn cuồng nộ bi thảm của Dionysos của cuộc đời hôm nay.” (p.5)

[6] Trần Mạnh Hảo là một hiện tượng phê bình nổi lên từ giữa thập niên 1990 với hàng loạt các bài phê bình gay gắt nhắm vào các hiện tượng thơ như Lê Đạt, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều cùng các khuynh hướng phê bình ghi nhận thành tựu của thơ ca miền Nam trước 1975. Cuốn Thơ phản thơ (1995, Hà Nội: NXB Văn học) là tập hợp các bài phê bình này được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng cùng năm cho thể loại sách phê bình.

[7] Vietnamet, “Internet Việt Nam: 20 năm phát triển và những bước tiến vượt bậc”, https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/tin-cong-nghe/internet-viet-nam-20-nam-phat-trien-va-nhung-buoc-tien-vuot-bac-412438.html

[8] Về sự ra đời của Diễn đàn văn học nghệ thuật liên mạng, xin tham khảo bài trả lời phỏng vấn của nhà văn Phạm Chi Lan (1961-2009), người khởi xướng, do Thụy Khuê thực hiện “RFI phỏng vấn Phạm Chi Lan, chủ biên tạp chí Văn học nghệ thuật liên mạng” (1996) (đăng lại trên Da Màu 25.09.2009, https://damau.org/9009/rfi-phong-van-pham-chi-lan-chu-bien-tap-chi-van-hoc-nghe-thuat-lien-mang). Tạp chí này dừng hoạt động vào tháng 4-2001.

[9] Nguyễn Quốc Chánh, sinh năm 1958, đã từng xuất bản hai tập thơ tại các NXB chính thống là Đêm mặt trời mọc (NXB Trẻ, 1990) & Khí hậu đồ vật (NXB Trẻ, 1997).

[10] Da Màu, “Chủ trương”, https://damau.org/chu-truong

[11] Về tinh thần của eVăn, xin tham khảo bài trả lời phỏng vấn của Đinh Bá Anh – một trong hai chủ biên đầu tiên của trang web văn cương này, “Cái còn lại là tinh thần thế giới”, (Phạm Thị Hoài phỏng vấn, 1.05.2005), www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4511&rb=07

[12] Phạm Thị Hoài, “Và lý trí khắc nghiệt được thiền trước niềm hoan lạc”,

www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3153&rb=0506

 

 

[13] Những tác giả này đều là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam, được xuất bản chính thức, được trao những giải thưởng chính thống. Ví dụ: Inrasara, nhà thơ Chăm, từng được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1997, 2003, giải thưởng văn học Đông Nam Á năm 2005; Nguyễn Quang Thiều từng được giải thưởng Thơ của Hội nhà văn năm 1993 và hiện còn là Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam; Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư đều là những tác giả văn học được chào đón… Tuy nhiên vào thời điểm từ 2001-2006, có thể thấy sự tham gia tích cực của họ trên các trang web văn chương. Thí dụ, trang Tiền Vệ là nơi có thể tìm thấy nhiều sáng tác của họ mà vào thời điểm ấy, họ đã không lựa chọn các kênh chính thống để công bố đầu tiên.

[14] Robert R. Wilson (1986), “ Play, Transgression and Carnival: Bakhtin and  Derrida on Scriptor Ludens”, Mosaic, Vol.19, No.1, p78-9.

[15] Linh Dinh, “Let Them Eat Pixels”, http://poeticinvention.blogspot.com/2006/11/let-them-eat-pixels.html, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc-Tuấn tại: https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=5306

[16] Bùi Chát (2003), Lời đề từ tập thơ Xáo chộn chong ngày, Sài Gòn: NXB Giấy Vụn, bản điện tử đăng tại:

www.talachu.org/tho.php?bai=19

 

[17] Đinh Linh, “Về thơ”, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=F243269EE2F05CCA1487BABD1E305FC8?action=viewArtwork&artworkId=1322

[18] Lý Đợi, “Thơ và chúng tôi không làm thơ”, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1589&rb=0306www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1590&rb=0101

[19] Nguyễn Quốc Chánh, trích Của căn cước ẩn dụ, 11.2001, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=922&rb=0101

[20] Nguyễn Quốc Chánh, “Những ý rời” trong Ê! Tao đây, www.talachu.org/tho.php?bai=29

[21] Inra Sara, “Sáo trộn với Bùi Trát (giới thiệu tập thơ Xáo chộn chong ngày của Bùi Chát), https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1493

[22] Hồ Xuân Hương, nhà thơ Việt Nam sống ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Được xem là một tiếng nói nữ độc đáo trong văn học trung đại, thơ Hồ Xuân Hương táo bạo khi đưa vào trong thơ ngôn ngữ của thân thể và dục cảm, tôn vinh vẻ đẹp và những ham muốn trần thế của con người, đối lập với truyền thống đạo lý nghiêm ngặt của Nho giáo.

[23] Nguyễn Quốc Chánh, “Đụ vỡ sọ”, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3468

[24] Nguyễn Hưng Quốc (2013), Văn học Việt Nam tại Úc: Chính trị và thi pháp của lưu vong, California: NXB Văn Mới, p.252-3,  259-262.

[25] Bùi Chát, “Sáng thế truyển khẩu cương mục toát yếu”, in trong Thơ 47 – Tuyển tập nhiều tác giả (2007, Sài Gòn: NXB Giấy Vụn).

[26] Julia Kristeva (1980), Desire in Language: A Semiotic Approach to Literature and Art, Oxford: Blackwell, p.65

[27] Dương Tường, 36 bài tình (in chung với Lê Đạt, NXB Trẻ, 1989), Hoàng Hưng, Ngựa biển (NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1988) & Người đi tìm mặt (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994).

[28] Bùi Chát (2007), Xin lỗi, chịu hổng nổi. Sài Gòn: NXB Giấy Vụn.

[29] Đây là hai tập thơ do các tác giả trong nhóm Mở Miệng chủ biên và tự xuất bản. Bùi Chát – thành viên trụ cột của nhóm Mở Miệng – đã lập nên nhà xuất bản Giấy Vụn  từ năm 2001. Đây là một nhà xuất bản ngầm, không xin phép của nhà nước và ban đầu xuất bản các cuốn sách samizdat của mình dưới hình thức photocopy. Khi internet lên ngôi, bên cạnh việc tiếp tục in ấn và xuất bản các ấn phẩm của mình dưới dạng giấy, họ cũng đời thời sử dụng kênh internet để công bố tác phẩm của mình và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp cận của công chúng. Năm 2011, tại Argentina, Bùi Chát đã được hiệp hội Các Nhà xuất bản Quốc tế (The International Publishers Association) trao giải Tự do Xuất bản. Đương nhiên, nhóm Mở Miệng và Nhà xuất bản Giấy Vụn luôn nằm trong tầm theo dõi của an ninh Việt Nam. Một bằng chứng cho điều này là việc Bùi Chát bị an ninh câu lưu ngay khi anh vừa từ Argentina về nước sau khi nhận giải thưởng nói trên. Về vụ việc này, có thể tham khảo: https://www.ifex.org/vietnam/2011/05/04/bui_chat_freed/

[30] Johan Huzinga (1955), Homo Ludens: A Study of the Play Element in Culture, Boston:Beacon Press, p.11.

[31] Đỗ Thị Thoan được biết đến với bút danh Nhã Thuyên (sinh năm 1986) là một nhà thơ và một cây bút phê bình. Năm 2010, cô bảo vệ luận văn thạc sĩ Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa tại khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận văn của cô được đánh giá xuất sắc và sau đó cô công tác tại đây với tư cách giảng viên tập sự. Tuy nhiên, từ tháng 5 năm 2013, luận văn của cô bị xét lại và bị quy kết là luận văn nguy hiểm, “phản văn hóa”, “phản khoa học”, “mượn danh khoa học để làm chính trị”, “gây tác hại không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn, chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường Cô bị buộc thôi việc và bị tước bằng thạc sĩ vào năm 2014. Người hướng dẫn của cô, PGS. Nguyễn Thị Bình, cũng bị nhà trường dừng kéo dài hợp đồng lao động. Vụ việc này cũng đã dấy lên nhiều ý kiến bảo vệ Nhã Thuyên và giáo sư hướng dẫn nói riêng và quyền tự do học thuật trong môi trường đại học ở Việt Nam nói chung. Nhưng cuối cùng, những tiếng nói này đều không nhận được sự hồi đáp từ Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam. Thông tin khái quát về vụ này đã được ghi lại trên Wikipedia tiếng Việt: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_Nh%C3%A3_Thuy%C3%AAn.

[32] Như Huy, “Tác phẩm Mùa sạch qua góc nhìn của nghệ thuật khái niệm”, được đăng lần đầu trên website Tiền Vệ, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=770, sau được đưa vào cuốn Trần Dần – Thơ (2008), Vũ Văn Kha biên soạn, Nhã Nam & NXB Đà Nẵng, trang 161-167.

[33] Trần Dần, “Sổ bụi, 1982”, https://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=726  và “Sổ bụi 1988 – Thơ mini”, https://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=748

 

[34] Nguyễn Hưng Quốc (1996), Thơ, v.v & v.v, California: Văn nghệ.

[35] Anna Akhmatova (1992), trích từ “Creation” in trong Selected Poems, bản dịch tiếng Anh của Richard McKane, Bloodaxe Books, trang 139.

[36] Đinh Linh & Lý Đợi: “Đinh Linh trò chuyện với Lý Đợi: ‘Tôi chỉ là đĩ đực của ngôn ngữ và sự thật…!’”, https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1906

 

[37] Nguyễn Hưng Quốc, “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam”, https://tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=327

[38] Tlđd

[39] Tlđd

[40] Jean –Francois Lyotard (1993), “An Answer to the Question, What is Postmodern?” in trong The Postmodern Explained, Correspondence 1982-1985, Mineapolis & London: University of Minnesota Press, p.15

[41] Đinh Linh, “Một bài thơ hoàn toàn vô nghĩa”, https://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=DBD2651853819F612329DAA26AE7AA35?action=viewArtwork&artworkId=3855

 

[42] Phan Nhiên Hạo, “Thơ trẻ không nhất thiết là một làn gió thối”, 29.12.2003 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=922&rb=0101 và “Mới- Cũ trong thơ và hậu hiện đại”, 21.5.2004,

www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1634&rb=0101

 

[43] Nguyễn Trần Khuyên, “Một nền văn học xây dựng từ Đực và phục vụ cho Đực”, 07.04.2005, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4231&rb=0102

[44] Trần Ngọc Hiếu (2017), “Phục trang bản ngã trong văn học mạng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9.

Nghĩ cùng, nghĩ tiếp, nghĩ khác với Nhã Thuyên

Any human power can be resisted and changed by human beings. Resistance and change often begin in art, and very often in our art, the art of words.

(Bất cứ quyền lực nào của con người cũng đều có thể bị con người kháng cự và thay đổi. Sự kháng cự và thay đổi thường bắt đầu trong nghệ thuật, và rất thường xuyên trong nghệ thuật của chúng ta, nghệ thuật ngôn từ.)

  • Ursula K.Le Guin

the-great-war

1. Nhan đề của tập tiểu luận này gồm những kết hợp từ bất thường, hầu như chưa bắt gặp trong tiếng Việt. Không hẳn phép chơi chữ ấy là một thủ pháp mà Nhã Thuyên khai thác để thơ hóa ngôn ngữ của thể loại tiểu luận ngay từ tên cuốn sách. Nhã Thuyên có nhu cầu phát kiến những lối diễn đạt thoạt nghe có phần nghịch nhĩ hay phóng túng khi biểu đạt những suy tưởng và cảm nhận của mình về những chuyển động trong mạch ngầm đời sống văn chương Việt Nam đương đại, và xa hơn, của chính xã hội Việt Nam ở giai đoạn này. Chị muốn tránh những vùng từ vựng đã sẵn có, những thuật ngữ đã được thiết định để mô tả những chuyển động ấy bởi những thứ có vẻ như “rất tiện dùng” đều có thể không tương hợp với trải nghiệm cá nhân của chị khi quan sát, nắm bắt chúng. Thứ mà Nhã Thuyên nhấn mạnh ngay trong lời mở của tập tiểu luận chính là tính cá nhân, sự riêng tư của mình trong góc nhìn, trong đánh giá và dự cảm. Sự kiên định là phẩm chất đáng ghi nhận đầu tiên của cuốn sách này: người viết vừa ý thức được trách nhiệm của bản thân như một kẻ can dự vào đời sống dưới ngầm của thơ ca, bên lề của xã hội đương đại lại vừa định vị bản thân trong khoảng gián cách cần thiết với đối tượng của mình; các trang viết bởi thế tha thiết, nhiệt thành nhưng đồng thời cũng điềm tĩnh, thẳng thắn, thậm chí sòng phẳng.

2. Lựa chọn và bảo vệ cái nhìn cá nhân luôn đòi hỏi can đảm, nhất là trong bối cảnh xã hội Việt Nam, nơi quyền tự do biểu đạt hãy còn gặp nhiều thử thách. Tác giả tập tiểu luận này khiêm nhường trong cách xác định trường nhìn của mình: không tham vọng bao quát toàn cảnh, lắng nghe được mọi vọng âm, từ góc nhìn của một cá nhân, những gì được trình bày ở đây chỉ như những chấm phá về một thực tại (trong nhiều thực tại) cần nhiều cách tiếp cận đa dạng hơn nữa. Cuốn sách là một tiểu tự sự của Nhã Thuyên về thơ ca, về xã hội Việt Nam đương đại. Song cũng chính từ cách tiếp cận đời sống qua lăng kính tiểu tự sự này, tập tiểu luận lại có thể nhìn ra những xê dịch, nứt rạn, những mầm mống manh nha nơi sâu khuất của thực tại. Từ đó, cuốn sách có thể thử thách nhiều hình dung về văn học và xã hội Việt Nam vốn đã bị đóng khung.

Chẳng hạn, thế nào là văn học Việt Nam? Trong cuốn sách này, Nhã Thuyên cho thấy cần phải hiểu ý niệm này trong tính đa nguyên. Sự xuất hiện của internet đã làm lung lay một định nghĩa về văn học dân tộc đóng khung trong biên giới địa lý, làm mờ đi sự phân biệt giữa “văn học trong nước”- “văn học hải ngoại”, để hình thành nên một ý niệm dường như có sức dung chứa lớn hơn – “văn học Việt ngữ”. Nhưng “văn học Việt ngữ”, qua những gì mà ta có thể rút ra từ tập tiểu luận này, lại cần phải được hiểu như là một thực thể đa ngữ, nơi có nhiều tiếng nói vang lên, nhiều thứ tiếng Việt mang trong mình những ký ức, những lịch sử khác nhau.

Một quan sát nữa mà Nhã Thuyên trình bày, cho thấy cần thiết phải xem “văn học Việt Nam” như một thực thể tồn tại ở dạng số nhiều chính là sự hiện diện những bộ phận ngoại biên, hầu như cho đến giờ vẫn chưa được chú ý nhận diện trong những mô tả văn học sử đang giới thiệu ở các giảng đường đại học tại Việt Nam. Ngoại biên ở đây là không gian của những tiếng nói thiểu số, những lựa chọn ngược dòng chính, hay cách nói của Nhã Thuyên, những hiện diện [tự-] vắng. Đó là tiếng nói của thơ nữ, những hiện tượng samizdat thời đại số, hay một gương mặt gần như không được phép nhắc đến trong những phê bình thơ ca đương đại theo dòng chính thống – Nguyễn Quốc Chánh. Nhìn vào những hiện tượng ngoại biên này, tập tiểu luận cho thấy một Việt Nam đương đại có thể được hình dung rất khác so với những tái trình hiện đã trở thành clichés, thí dụ: đất nước của chiến tranh, đất nước nơi ý thức hệ cộng sản vẫn thống lĩnh, đất nước – một điểm du lịch exotique… Việt Nam đương đại, từ góc nhìn cá nhân của Nhã Thuyên, cần được hình dung sinh động hơn, phức tạp hơn, bớt định kiến hơn: nó có những câu chuyện của riêng mình nhưng đồng thời cũng nằm trong câu chuyện chung về tự do biểu đạt và những cuộc đấu tranh tìm tiếng nói của con người ở nhiều nơi trên thế giới, như câu chuyện nữ quyền hay văn hóa trẻ. Thơ, đối với Nhã Thuyên, là một không gian để nhận diện những tiếng nói cần được cất lên, đòi được lắng nghe, nếu quan niệm tính đối thoại trong văn hóa là một phẩm chất phải được tôn trọng.

3. Thơ vốn dĩ thường phải chấp nhận địa vị ngoại biên. Từ thời Plato, thi sĩ vốn đã là cái gai trong mắt của triết gia muốn thiết kế mô hình nước cộng hòa lý tưởng. Ngay ở thời lãng mạn, tưởng như thơ ca chiếm lĩnh vai trò quan trọng trong diễn cảnh văn hóa, thì hình ảnh nhà thơ cũng chỉ được định nghĩa như là “nhà lập pháp không được thừa nhận của thế giới” (Percy Bysshe Shelley). Các nhà thơ bên lề ở Việt Nam mà Nhã Thuyên đọc có lẽ tương thích với hình dung của George Oppen về thiên chức của thi sĩ: “Thi sĩ là những kẻ lập pháp của thế giới không được thừa nhận.” Trong tập tiểu luận này, có hơn một thế giới ở trong tình trạng ấy: thế giới của những kẻ bị các đại tự sự nén chặt lại tiếng nói của mình. Thơ, khi ấy, dường như là cách duy nhất để cất tiếng, là thứ mà những kẻ bên lề có thể tin vịn vào nó để đứng – mượn ý của Phùng Quán.

Tập tiểu luận của Nhã Thuyên, trước hết, đã trình bày một hiện trường ngổn ngang mà dòng thơ ca bên lề tạo ra chủ yếu trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, khi cảnh quan văn hóa Việt Nam có những biến động quan trọng, mà hệ quả lớn nhất là xu hướng giải trung tâm diễn ra trên các bình diện đời sống – điều Nhã Thuyên ghi nhận như một cơ hội hơn là một mất mát. Năng lượng của dòng thơ ca bên lề ấy tập trung vào những hành động có thể thâu tóm trong những từ dễ gợi liên tưởng đến trạng thái hưng phấn cách mạng: “khiêu khích”, “nổi loạn”, “phản kháng”, “khước từ”… Nói một cách hình ảnh hơn, để dùng lại một ý thơ của Đinh Linh, công cuộc “cải tạo vành tai tiếng Việt” này, về cơ bản, là nỗ lực phủ định mọi quy phạm, mọi điển phạm, mọi mặc định vốn đã được chấp nhận về thơ. Cứ như những gì mà Nhã Thuyên mô tả trong cuốn tiểu luận này, hoàn toàn có thể nói, kể từ sau Thơ Mới khởi đầu những năm 1930, sau những tuyên ngôn và cách tân nhóm Sáng Tạo ở miền Nam cuối những năm 1950, sau những tìm tòi âm thầm của các nhà thơ trong phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm mà phải đợi gần 40 năm sau mới được giới thiệu chính thức trở lại, mới có một cơn bão điên cuồng như vậy nổi lên trong cõi thơ Việt. Rác rưởi tràn vào thơ, tục tĩu nạp trong thơ, cái vô nghĩa trở thành nơi thơ muốn đi đến. Đùa cợt, bông lơn, báng bổ… hoàn toàn có thể là cách cất giọng của thơ.

Có thể là may, mà cũng là không may, tùy góc nhìn, khi cơn bão ấy, như mọi cơn bão, rồi cũng lắng xuống. Nhưng hiện trường tổn thất mà cơn bão ấy gây ra vẫn cứ là thứ không được đo lường | không đo lường được bởi hầu hết phê bình văn học theo dòng chính ở Việt Nam đến tận gần một thập niên sau đó. Mô tả nó là cảnh báo khả năng bị lung lay của những gì kiên cố nhất, quyền lực nhất được duy trì bằng những cấm kỵ hay luật lệ. Phơi bày nó đồng nghĩa với việc thừa nhận thơ có thể không là những gì người ta muốn gán, muốn định danh, muốn quy ước, từ đó, chấp nhận rằng thơ luôn tự do hơn những gì đã được quan niệm. Và nói về nó cũng có nghĩa là nhìn thấy những khả năng khác mọc lên từ những chỗ mà cơn bão kia bứt rễ, nhìn thấy sự sinh mới nảy nở trên nền những gì bị hủy diệt. Năng lượng của nó không bị cạn kiệt mà ít nhiều còn chuyển hóa phần nào sang nhiều hiện tượng thuộc văn hóa indie/ underground vẫn tiếp tục xuất hiện, lan tỏa trong đời sống Việt Nam đương đại.

4. Những vấn đề mà Nhã Thuyên chia sẻ quan điểm trong cuốn sách này, trên thực tế, hoàn toàn là những chủ đề học thuật quan trọng khi nghiên cứu những chuyển biến của văn học và xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XXI, dù bản thân tác giả đã lựa chọn một lối viết làm mờ đi tối đa tính kinh viện cùng lúc tô đậm nhiều hơn những trải nghiệm cá nhân. Nhưng hoàn toàn có thể nhìn ra những khía cạnh cần thảo luận sâu hơn nữa từ những phát hiện của Nhã Thuyên. Chẳng hạn, nghiên cứu về mối quan hệ giữa không gian công và các hoạt động sáng tạo của nghệ sĩ trong lịch sử Việt Nam hiện đại là cả một đề tài lớn còn bỏ ngỏ. Một cái nhìn so sánh để thấy sự tiếp nối và không tiếp nối giữa những thực hành thơ ca ngoại biên được mô tả trong tập tiểu luận này với những cuộc cách mạng, hay những tham vọng cách mạng, thi ca ở thời hiện đại, từ Thơ Mới, qua Sáng Tạo, Nhân Văn – Giai Phẩm, qua những hiện tượng gây tranh luận ở thập niên cuối thế kỷ XX cũng có thể đã là vấn đề thảo luận hứa hẹn sự cọ xát của nhiều quan điểm. Xa hơn nữa, hoàn toàn có thể đặt những hiện tượng thơ ca ngoại biên này trong mối liên hệ với những thực hành thơ ca gắn với văn hóa đại chúng, không tách rời những đòi hỏi dân chủ và tự do biểu đạt ở nhiều nơi trên thế giới, để thấy thơ ca, dù có thể gắn với những truyền thống ngôn ngữ và văn hóa khác nhau, nhưng đều đang phải đối mặt với những thách thức và nhà thơ vẫn đang nỗ lực bảo vệ cho những “thế giới không được thừa nhận” – một công việc đòi hỏi ở hắn một tinh thần Don Quixote. Tập tiểu luận này cũng có thể bổ sung vào lịch sử của hiện tượng samizdat – một hiện tượng hóa ra vẫn chưa hề chỉ là di sản của quá khứ – ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Hứa hẹn rõ nhất mà cuốn sách này thể hiện là lời mời gọi ta nghĩ tiếp và nghĩ khác những gì tác giả đã trình bày. Theo nghĩa này, tập tiểu luận mang một tinh thần dân chủ đáng trân trọng.

5. Quá trình thành hình cuốn tiểu luận này, tự nó, đã là một tự sự xứng đáng được kể lại, dù Nhã Thuyên đã không nhắc đến ở đây những trải nghiệm qua những thử thách cực kỳ nghiệt ngã để bảo vệ cái nhìn cá nhân của mình. Có thể bản thân tác giả cũng không muốn tôi nhắc lại ở đây những gì chị phải chịu đựng khi theo đuổi dự án này trong sáu năm qua, bắt đầu từ một đề tài nghiên cứu mà chị thực hiện ở trường đại học, cũng là nơi đầu tiên chị lĩnh nhận những công kích trấn áp tự do học thuật. Nhưng “bất| |tuẫn” – đó không chỉ là đặc trưng tinh thần ở các hiện tượng thơ ca mà Nhã Thuyên quan sát; nó còn là thái độ ứng xử của chị sau những hệ lụy vẫn còn dai dẳng ấy. Cuốn sách không thỏa mãn những người chờ đợi đọc nó như một scandal văn chương, thậm chí trong dự đoán của tôi, nó có thể làm nản lòng những ai muốn khai thác hình ảnh tác giả như một biểu tượng phản kháng. Nhã Thuyên từ chối trở thành tiếng nói đại diện cho bất kỳ ai: dù viết về những hiện tượng thơ ca từng gây khiêu khích, từng dám thách thức, nhưng cả cuốn sách là một tiếng nói trầm, nhỏ, bình tĩnh đồng thời cũng rất thẳng thắn, quả cảm. Tôi cảm nhận được sự nhẫn nại trong lao động câu chữ của Nhã Thuyên để duy trì giọng điệu ấy xuyên suốt cuốn sách.

Xét đến cùng, văn chương trước hết không nhất thiết phải là nơi xác nhận lịch sử; nó là nơi xác nhận sự tồn tại của cá nhân qua tiếng nói riêng của mình. Tiếng nói của Nhã Thuyên trong tập tiểu luận này có sức vang vọng đến đâu, có thể nhận được những hồi đáp nào? Tôi không dám quyết ở đây. Nhưng khi vẫn còn một tiếng nói như thế được cất lên có nghĩa là những gì ồn ã nhất vẫn không át đi được một cá nhân tự do. Con người tự do thường bướng bỉnh, thường khước từ nhiều kỳ vọng từ bên ngoài trao cho mình, và hành động theo những thôi thúc tự thân. Con người ấy có thể làm chúng ta không chấp nhận dễ dàng ngay được, nhưng nếu nhẫn nại hơn để lắng nghe hắn, ta sẽ thấy chỉ có những người như thế mới kể được những câu chuyện khác về thế giới này. Như những câu chuyện về Việt Nam mà tôi tin nhiều người sẽ ngạc nhiên khi đọc cuốn sách: một Việt Nam rất riêng tư của Nhã Thuyên, một Việt Nam rộng hơn định danh địa lý, một Việt Nam nhìn từ những “phản thơ ca”, một Việt Nam của những bất an và những khát vọng, của những bế tắc và những rạn vỡ… Nhưng đó là một Việt Nam mà những chuyển động hiện tại của nó đồng thời cũng là nhịp điệu tâm thức của con người đương đại nói chung.

Trần Ngọc Hiếu

(Lời giới thiệu cho tập tiểu luận (chưa xuất bản) bất\ \tuẫn: những hiện diện [tự-] vắng trong thơ Việt của Nhã Thuyên. Bài viết đăng tải trên blog này với sự đồng ý của tác giả Nhã Thuyên)

MỘT HÀNH TRÌNH NỘI TÂM

(Đọc “Thiện, Ác và Smartphone” của Đặng Hoàng Giang, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn Hà Nội, 2017)

thien-ac-smartphone

Nhân vật bảo mẫu trong bài báo này cũng chính là nhân vật hiện diện trực tiếp ở những trang cuối cùng cuốn sách mới nhất của Đặng Hoàng Giang. Cuộc trò chuyện giữa Đặng Hoàng Giang và một cô gái từng là tâm điểm của làn sóng căm ghét của cư dân mạng cách đây mấy năm, bị coi là “ác thú” khi có những hành động bạo hành đối với trẻ nhỏ chính là những trang viết tác động mạnh nhất đến nhận thức của tôi khi đọc cuốn sách này. Tôi đã có một hình dung khác về Đặng Hoàng Giang: với anh, viết tiểu luận không chỉ là một cách anh khẳng định vai trò của một nhà hoạt động xã hội. Cuốn sách này, trong suy nghĩ của tôi, là một hành trình nội tâm của một người trí thức: đi từ hoang mang, lo âu, cố gắng dùng lý trí để phân tích, vạch ra dự án, giải pháp, nhưng cuối cùng chỉ thực sự yên tâm là niềm tin mình nuôi dưỡng có cơ sở. Đặng Hoàng Giang, từ cuốn tiểu luận thứ nhất, vẫn là người nghiêng về niềm tin vào những cá nhân, vào những sự thay đổi từ dưới lên. Anh có sự lạc quan, nhưng hơn hết, có sự kiên nhẫn – phẩm chất mà tôi tin những người muốn cải cách xã hội ở thời điểm này cần phải có trước hết.

*

1.Thiện, Ác và Smartphone là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” – cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi. Điểm khác biệt dễ thấy ở tác phẩm mới này là thay vì xoay quanh nhiều chủ đề đa dạng, nhiều sự kiện thời sự, Đặng Hoàng Giang chủ yếu tập trung vào một hiện tượng: hành vi làm nhục công cộng trong thời đại số. Song không dừng ở việc mô tả bề mặt, mong muốn lý giải đến ngọn ngành của vấn đề khiến tác giả phải phát triển vấn đề xa hơn và sâu hơn, từ đó mở rộng sang nhiều khía cạnh khác: thiện và ác, trừng phạt và tha thứ, cái công cộng và cái riêng tư, tự do và trách nhiệm… Đó đều là những khía cạnh mà nếu không cho phép mình hời hợt, càng suy nghĩ, con người ta lại càng thấy ranh giới giữa những phạm trù tưởng như đối lập này thực ra rất bất định. Những lằn ranh bất định ấy vừa thách thức mà cũng lại vừa cám dỗ đối với tư duy vì chỉ có thể từ đó, những tư tưởng mới mới có thể nảy sinh. Đặng Hoàng Giang hiểu được những cám dỗ này, nhưng hơn hết, có lẽ anh hiểu những thử thách đặt ra cho mình khi theo đuổi chủ đề của cuốn sách. Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề, móc nối hiện tượng mình đang bàn luận với những cách tiếp cận của triết học, tâm lý học, đạo đức, xã hội học… để có thể có thêm nhiều góc nhìn tham chiếu, tiểu luận của Đặng Hoàng Giang có xu hướng mang tính khảo cứu. Một danh mục gần 200 tư liệu tham khảo ở cuối sách nhắc chúng ta nhớ rằng trước khi xuất hiện trong tư cách của một cây bút tiểu luận sắc sảo, Đặng Hoàng Giang là một nhà khoa học.

2. Xu hướng gắn tiểu luận với tính khảo cứu là đặc điểm nổi bật ngay từ cuốn sách đầu tiên của Đặng Hoàng Giang. Nhưng điều làm tôi phải suy nghĩ nhiều hơn về Thiện Ác và Smartphone chính là ở khía cạnh văn học của nó. Đặng Hoàng Giang được biết đến nhiều như một nhà hoạt động xã hội có ảnh hưởng; ngay ở cuốn sách này, vai trò đó của anh được thể hiện rõ nét, đặc biệt ở đề xuất mà tôi tin sẽ nhận được nhiều chia sẻ từ công chúng về “Dự án trắc ẩn” được trình bày trong phần kết. Song chính từ những trang cuối cùng của cuốn sách này, tôi đã có một hình dung khác về người viết. Đặng Hoàng Giang viết cuốn sách với đúng với tâm thế của người theo đuổi thể loại tiểu luận, theo đó: “Viết tiểu luận tức là nỗ lực, thử nghiệm, cố gắng đạt đến một điều gì đó mà không chắc mình có thành công không… Có một điều gì đó thật can đảm ở hành động của người viết tiểu luận: anh ta lao vào cái chưa biết, không những không có tấm bản đồ nào trong tay mà còn không chắc chắn có điều gì giá trị có thể tìm thấy được hay chăng…”[1]

Trên thực tế, cuốn sách đã bắt đầu từ sự băn khoăn, thậm chí có thể nói là hoang mang của tác giả về cơn bão căm ghét, thịnh nộ của đám đông đôi khi lại kịch phát dữ dội nhắm vào một vài đối tượng bị xem là làm ô uế danh dự cộng đồng hay xâm phạm vào giá trị mà một nhóm, một bộ phận xã hội coi như chuẩn mực. Những cơn bão ấy được hình thành qua lớp ngôn từ bạo lực và nhờ sự hiện đại của công nghệ, sức công phá của chúng lại càng nhanh và mạnh, để lại những tổn thương lớn song ít được chú ý đến. Và điều đáng nói là có vẻ chúng được xem như hiện thân của công lý đám đông, chúng thực thi sức mạnh ở nơi pháp luật chưa chạm đến. Đặng Hoàng Giang không giấu việc anh từng là người phải hứng chịu cơn bão căm ghét ấy. Vị thế nạn nhân cho phép anh có thể nhìn những trường hợp mà anh quan tâm từ điểm nhìn của người trong cuộc để có thể thấu cảm được các nhân vật của mình. Nhưng để khảo cứu hiện tượng, anh cũng đủ điềm tĩnh để tách mình ra, cố gắng phân tích, lý giải hiện tượng từ nhiều góc độ khác nhau và giữ độ lý tính cần thiết.

3. Nhưng thực ra những nhân vật mà cuốn sách này lấy làm xuất phát điểm là ai? Một cặp anh em có điều kiện kinh tế khá giả đã ăn trộm kính tại một cửa hàng ở Thụy Sĩ trong chuyến đi du lịch của mình; một cô bảo mẫu có những hành vi bạo hành với trẻ nhỏ để bắt chúng ăn; một ngôi sao hạng A trong showbiz bị xem là người thứ ba phá nát gia đình của người khác. Những nhân vật với những hành vi rất khó cảm thông này có hẳn là “chất liệu” tốt để khơi dậy những suy tư trí thức? Người đọc ở thời điểm này hẳn sẽ thiện cảm hơn với người trí thức ưu tư về thời cuộc, cất tiếng nói cho những số phận cơ hàn, những mảnh đời nhọc nhằn, phải chịu nhiều bất công, thiệt thòi từ đời sống mưu sinh đến đời sống tinh thần. Trong khi đó, những nhân vật của Đặng Hoàng Giang dường như chỉ phải chịu đựng những tấn công từ thế giới mạng: mạng là ảo, trên mạng mọi thứ có dấy lên rất nhanh và tan đi cũng rất nhanh – người ta thường nghĩ vậy. Những suy tư của Đặng Hoàng Giang, vì thế, rất có thể bị xem là suy tư của “trí thức salon”: chúng “cảnh vẻ”, “cải lương”, “ít thực tế”.

Song cũng chính ở đây, Đặng Hoàng Giang đã thực thi cái quyền có vẻ như thường ít được coi là quyền – “quyền riêng tư”. Đây cũng chính là một nội dung được bàn luận đến trong cuốn sách này và đối với trường hợp của anh, quyền riêng tư là quyền được theo đuổi suy nghĩ cá nhân một cách độc lập. Lựa chọn của anh, trên thực tế, thách thức định kiến vẫn thường xuyên được nuôi trong suy nghĩ của nhiều người, trong đó không trừ giới trí thức, rằng có những nhóm người này đáng được quan tâm hơn những đối tượng khác. Mọi con người đều bình đẳng như nhau, mọi sự bất công và tổn thương trong đời sống đều đáng được lắng nghe, thấu cảm và cần phải đấu tranh để giảm thiểu chúng. Ngay cả những kẻ “khó ưa”, đáng bị kết án này, họ cũng có phần “con người” cần được hiểu, được bao dung. Câu tục ngữ quen thuộc “Sông có khúc, người có lúc” được dùng làm đề từ cuốn sách này cho thấy Đặng Hoàng Giang muốn tiếp cận các nhân vật của mình từ một cảm quan tương đối luận. Và anh không lý thuyết chay: những cuộc trò chuyện của anh với cặp anh em ăn trộm kính hay cô bảo mẫu từng bị lên án vì bạo hành trẻ em thực ra sẽ  khó có thể xảy ra nếu chúng chỉ bắt đầu từ tâm lý tò mò. Đó vừa là những cuộc trò chuyện để hiểu người khác, mà cũng là để hiểu về chính bản thân, hiểu về những khả năng và nguy cơ của con người nói chung.

Nếu để hiểu con người, nhất là những kẻ đã bị đám đông nhất trí tẩy chay, lòng trắc ẩn trở thành phẩm chất cần thiết thì để phân tích cơ chế và đặc biệt là môi trường nuôi dưỡng cho cơn bão căm ghét, biện hộ cho việc làm nhục công cộng lại cần đến một lý trí đủ lạnh. Những phân tích của Đặng Hoàng Giang về cơ chế ghi nhớ của thế giới mạng, tính chất mặt nạ của mạng xã hội cho phép con người ta thoái thác trách nhiệm trong những tương tác trên không gian vốn bị xem là “ảo” này… có sức thuyết phục. Nhưng điều có thể đánh động nhận thức của người đọc qua những phân tích ấy là sự đồng dạng giữa cơ chế của những cơn bão căm ghét và hành vi sỉ nhục công cộng diễn ra trên mạng với những hành vi xúc phạm nhân phẩm con người trong các thiết chế xã hội cũ. Những vết thích mà cư dân mạng khắc lên những kẻ bị coi là tội nhân, theo Đặng Hoàng Giang, không lu mờ nhanh như người ta vẫn tưởng, bởi cùng với đó là những tổn thương, những hệ lụy khó lường. Sự đồng dạng mà Đặng Hoàng Giang chỉ ra ở đây không khỏi làm tôi nghĩ đến một hiện tượng khác, rộng hơn đã được anh cảnh báo trong cuốn sách trước – sự trở lại của tư duy phong kiến. Với sự xuất hiện của những dân phòng mạng, những hình thức đấu tố, xét xử công cộng và hình thức gắn nhãn cho những cá nhân nào đó, không gian mạng rất có thể đã bị thu hẹp dần chiều kích tự do của nó. Và nguy cơ thấy ngay được của điều này chính là sự nghèo nàn của cảnh quan văn hóa, sự thoái hóa của nhu cầu tự do biểu đạt.

Tất nhiên, ở đây, một đòi hỏi cao hơn sẽ muốn tác giả cuốn sách không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra cơ chế của tâm lý đám đông trong hành vi sỉ nhục công cộng hay sự tương đồng về tính chất kỹ thuật của việc thực hiện hành vi này ở thời đại số với những hình phạt thời phong kiến. Sự cô đơn của đám đông, nhu cầu góp mình vào công lý của đám đông… những căn nguyên ấy đều đã cuốn sách phân tích một cách có lý.  Nhưng đằng sau những cơn cuồng nộ của đám đông mà đối tượng mà họ kết án còn là một tâm lý bất an. Trạng thái bất an ấy chắc hẳn có căn nguyên sâu hơn từ sự khủng hoảng niềm tin, sự hồ nghi vào công lý xã hội trong đời sống, từ đó, mới dẫn đến sự trỗi dậy và lớn mạnh của “chủ nghĩa tự xử” mà Đặng Hoàng Giang đã nói đến trong cuốn sách. Thiết nghĩ, cũng chính vì sự khủng hoảng, hồ nghi này, “chủ nghĩa tự xử” từ cơn thịnh nộ của đám đông lại được biện hộ hơn là bị chất vấn.

4. Nếu hành vi sỉ nhục công cộng và cơn bão căm ghét biến ngôn từ thành bạo lực thì để hạn chế nó, xây dựng một môi trường xã hội nhân văn hơn, cũng có thể bắt đầu từ ngôn từ. Đặng Hoàng Giang đã chia sẻ những kinh nghiệm cho việc này qua những phần viết về nghệ thuật phê bình người khác, về sự lắng nghe để thấu cảm. Không quay lưng, ẩn mình trước những vấn đề bức xúc của xã hội, những hiện tượng đáng báo động trong đời sống, những nguy cơ nghiêm trọng mà con người đang phải đối mặt, Đặng Hoàng Giang không phải là con người dành thời gian chỉ để bi phẫn. Anh nuôi niềm tin vào những đổi thay theo chiều hướng tích cực và niềm tin ấy có cơ sở. Có thể minh chứng cho điều này bằng những trang khép lại của cuốn sách – những trang văn đẹp nhất, đối với tôi, ghi lại cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa tác giả và Nguyễn Lê Thiên Lý, cô bảo mẫu bạo hành trẻ em đã có thời là đối tượng của sự sỉ nhục công cộng.

Sau thời gian chịu cải tạo, cô gái ấy đã trở lại đời thường. Và dường như mọi thứ diễn ra bất ngờ với đám đông đã từng tạo nên vết thích cho cô, bất ngờ với cả hình dung của tác giả. Lý đang sống một cuộc sống yên ổn, người yêu của cô đã đợi cô ra tù để làm lễ cưới. Cô gái không quên những việc đã làm, cô không thanh minh cho mình, cô nhìn thẳng vào mắt của tác giả, cô hiểu vì sao người ta đã từng đả kích, căm phẫn mình. Đặng Hoàng Giang không dành nhiều lời bình luận. Anh cố gắng quan sát, lắng nghe. Trong những gì anh nhìn thấy, trong câu chuyện của Lý kể, anh chú ý đến vai trò của người cha xứ, người đã im lặng nghe Lý xưng tội sau khi ra tù, đến hình ảnh của tượng Chúa trong phòng khách của nhà Lý. Các chi tiết đều chỉ là những nét chấm phá nhưng gợi ra rất nhiều điều: về những khía cạnh sâu xa vừa đáng cảm thông, vừa đáng trân trọng ở một con người từng bị xã hội lên án là mất hết tính người, về khả năng chấp nhận, tha thứ, không phải chỉ của luật pháp, mà quan trọng hơn của những con người trong giáo xứ, về điểm tựa để những mầm thiện nơi con người có thể bám trụ… Thiện, Ác, và Smartphone, vì thế, có thể xem như một hành trình nội tâm của Đặng Hoàng Giang: bắt đầu tự sự giật mình trước cái ác công nhiên của đám đông, từ nỗi ái ngại trước khả năng cái ác trở thành bình thường, thậm chí được biện hộ trong thời đại số để kết lại bằng một niềm tin vào việc nuôi dưỡng sự tử tế, lòng vị tha và thấu cảm. Đó không phải là một niềm tin được cường điệu để khiến cuốn sách trở thành một cẩm nang bài học cuộc sống. Tôi muốn gọi đó là một niềm tin điềm tĩnh khi nhận ra vẫn có những giá trị bền vững ở con người và cuộc đời. Đương nhiên, cùng với niềm tin, còn rất nhiều việc phải làm.  Nhưng hoàn toàn có thể làm được. Bởi vậy, tôi nghĩ “Dự án trắc ẩn” – một đề nghị tâm huyết của Đặng Hoàng Giang ở cuốn sách này – hoàn toàn khả thi.

TRẦN NGỌC HIẾU

[1] Phillip Lopate,  “The Art of Personal Essay” in trong The Art of Personal Essay: An Anthology from the Classical Era to the Present, New York & London: Anchor Books, Doubleday, 1994, trang XLII.

Phan Hải-Đăng – Trận đại hồng thủy của thơ Việt mới

The Deluge exhibited 1840 by Francis Danby 1793-1861

 

Hắn bị nhấn chìm và cuối cùng tìm lại được mình trong cơn hồng thủy

Nguyễn Quốc Chánh

1.

Trong clip thâu âm Nguyễn Quốc Chánh đọc thơ của mình, thực sự, ta có thể nghe những âm thanh của một thành phố: tiếng vù vù của những chiếc xe máy lướt trên đại lộ, tiếng còi sốt ruột của những chiếc taxi đang cố gắng luồn lách qua đoạn đường ùn tắc, một giọng nói mạnh mẽ, dứt khoát vang lên giữa đám đông vừa kết tụ lại đồng thời vừa tản mát ra như một đám mây đơn lẻ. Đối với tôi, đấy chính là âm thanh của thành phố Hồ Chí Minh. Độ rỗng của căn phòng nhiều tiếng vang nơi thâu âm bài thơ có thể được cảm nhận rất rõ ngay từ giữa dòng thơ thứ ba ở bài thơ đầu tiên trong tập thơ được xuất bản dưới hình thức samizdat của Chánh – Ê,Tao Đây (2005):

“Sài Gòn bị thủng, cái xác chưa chôn, thủ đô lún mỗi ngày vài phân, chính trị cũng nên cổ phần… Ký sinh vào thuật giả kim là đám chữ ruồi bu… Bí mật quốc gia là những bữa tiệc trên vận may của hoa anh túc, làm người nghĩa là nhục, làm người Việt nghĩa là siêu nhục… Một người rao trên mạng: cần một đối tác tình dục có ý tưởng và hành vi tiên phong.”

Chánh giữ nguyên những gì mà nhiều nhà thơ khác có thể sẽ gạch bỏ; ông không kiểm duyệt những đối nghịch của bản thân cũng như những tấn công của thế giới bên ngoài. Những bài thơ của ông cho ta một cảm nhận gần gũi hơn về không khí của đường phố — những gặp gỡ và va chạm tình cờ, những tiếng động bất trắc, ngôn ngữ chảy trôi,

làm ăn nhanh và tham nhũng còn lẹ hơn, từ khước và vụn vỡ. Dù được ghi lại một cách tình cờ hay có chủ ý đi nữa, âm cảnh của đô thị đã trở thành một bè đệm ăn ý với ngôn từ tuôn ra từ miệng nhà thơ, giúp nắm bắt được điều gì đó của điều kiện khí quyển một trận Đại Hồng Thủy [The Deluge] – cũng là tên một tuyển tập thơ Việt mới. Bài thơ đã được đọc trong một căn phòng nào đó ở thành phố Hồ Chí Minh, được đưa lên mạng, email đến Talawas, một tạp chí điện tử đặt tại Berlin, rồi được tải xuống máy tính của tôi dưới dạng một file âm thanh, tôi nghe giọng nói ấy chảy vào căn phòng của mình tại Gainesville, Florida. Tôi hình dung Chánh — mà cũng có thể là bất kỳ nhà thơ nào góp mặt trong tuyển tập này — đang đọc thật lớn bài thơ trước một công chúng tưởng tượng rải rác khắp thành phố và phát tán trên toàn cầu, mỗi từ là một sự khẳng định và nhắc nhở của nhà thơ đối với chính thể: “Ê, Tao đây!” – và tôi sẽ không bỏ đi.

Một tinh thần nổi loạn biểu hiện ở tất cả các nhà thơ và các bài thơ trong tuyển tập này. Bạn có thể nghe thấy điều đó trong bài thơ mở đầu cuốn sách, “Phục Sinh”, khi Thanh Tâm Tuyền gọi tên mình trong cô độc: “Tôi buồn khóc như buồn nôn/ ngoài phố/ nắng thủy tinh /Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ.” Bạn nhìn thấy điều đó qua sự mô tả trạng thái hủy hoại của xã hội và tinh thần trong những bài thơ chiến tranh của Trần Dạ Từ cũng như qua sự phơi bày nỗi vỡ mộng của cá nhân và tập thể trong những bài thơ hậu chiến của Trần Vàng Sao. Bạn cảm nhận được điều đó ở ý thức kết hợp tự do các truyền thống thi pháp khác nhau trong thơ Phan Nhiên Hạo. Bạn ngửi thấy điều đó bốc mùi lên trong thơ của nhóm Mở Miệng với Bùi Chát, Lý Đợi. Theo những cách thức riêng, 28 nhà thơ quy tụ trong tuyển tập này đã từ chối làm và nói những gì đã được chấp nhận, dù đó là về thân thể hay về xã hội mà họ đang sống, về các truyền thống văn chương và lịch sử văn hóa mà họ kế thừa, hay về thời hiện tại mà họ đang cư ngụ. Những cách thức phóng túng này gắn liền với những hình thức mới của tư duy và cảm xúc được thể nghiệm trong thơ của họ: từ nhịp điệu biến thiên linh hoạt trong các bài thơ văn xuôi đến sự cô đọng ở những bài thơ ngắn, từ những hình ảnh tưởng tượng tán loạn của chủ nghĩa siêu thực đến những mô tả đời thường chi tiết của chủ nghĩa hiện thực xã hội, từ ngôn ngữ đời thường mang tính tốc độ cao đến ngôn ngữ trong trạng thái lên đồng, thoát khỏi ý thức thông thường. Lần đầu tiên được tập hợp lại trong một tuyển tập, những nhà thơ này, những bài thơ này cùng chia sẻ một thứ ngôn ngữ, một thể loại, và một lịch sử phức tạp. Được đánh dấu bằng sự thay đổi về âm điệu, cú pháp, giọng, dòng thơ Việt mới này có thể xem như một thứ phong vũ biểu phản ánh những biến động bất thường, không kiểm soát được của khí hậu văn hóa và văn chương Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX. Tuyển tập bao gồm 12 nhà thơ hiện đang sống và sáng tác tại Việt Nam và phần còn lại, một con số tương đương, là các tác giả hải ngoại. Gần một nửa số những tác giả này đại diện cho một thế hệ đã trải qua chiến tranh Việt Nam hoặc như một công dân, hoặc như người đã tham chiến; nửa còn lại là những tác giả hoặc trưởng thành hoặc được sinh ra khi chiến tranh đã kết thúc. Thế nhưng bất chấp sự phân chia ấy, tuyển tập này mang đến một hình ảnh độc đáo về những tiếng nói tiên phong của thơ ca Việt Nam trong quá khứ và ở thời hiện tại trên toàn thế giới. Đó là hình ảnh về một trận đại hồng thủy đã được đợi chờ từ lâu, một trận đại hồng thủy cần thiết được tạo nên bởi những tiếng nói bất đồng chính kiến và lưu vong.

2.

Cho đến khi những tiếng nói khác đánh thức

ta hoặc ta sẽ chết chìm

–George Oppen

Bạn sẽ không tìm thấy sách nhiều nhà thơ góp mặt trong tuyển tập này ở các hiệu sách tại Việt Nam song đó lại không phải là điều gì quá bất ngờ đối với những ai đã quen với bản chất của việc sáng tác và xuất bản ở Việt Nam – nơi mà các nhà xuất bản và báo chí tư nhân không tồn tại, nơi việc đọc thơ trước công chúng bị giải tán, văn học hải ngoại không được biết đến hay bị công kích, nơi mà bạn có thể viết cái gì cũng được, miễn là đừng đụng vào chính trị.

Trong chuyến trở về Việt Nam gần đây, tôi đã dạo qua gian thơ và văn học tại tất cả hiệu sách mà tôi có dịp đến thăm ở thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng và cố gắng ghi lại trong đầu những tác giả, tác phẩm nào được bày trên kệ sách. Ở mọi hiệu sách, dù lớn hay nhỏ, cũ hay mới, ta đều có thể tìm thấy những tập thơ mỏng, dạng bỏ túi tuyển chọn các bài thơ của các nhà thơ phổ biến như Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Xuân Quỳnh, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Vũ Hoàng Chương. Cũng bày bán nhiều là những tập thơ được đóng bìa bóng loáng, rất hấp dẫn của một số nhà thơ cách mạng như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, mỗi tập lại có thêm phần tiểu sử nhà văn và các bài phê bình liên quan. Đối với một số ít học sinh trung học và sinh viên văn khoa, cũng có một số sách phê bình tham khảo về thơ ca và các nhà thơ Việt Nam hiện đại dành cho họ với giá phải chăng.

Thú vị hơn, tôi tìm thấy những ấn bản tái bản cuốn Thi Nhân Việt Nam, 1932-1941 của Hoài Thanh, một tuyển tập quan trọng tập hợp các nhà thơ có ảnh hưởng những năm 1930. Được xuất bản vào năm 1942, với những lời giới thiệu có tính phê bình và chú giải của Hoài Thanh, cuốn sách đã giới thiệu một số nhà thơ gắn bó với phong trào Thơ Mới, trong đó có Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Thế Lữ và Chế Lan Viên. Những nhà thơ này, cũng với nhiều tác giả khác, ở thời điểm ấy, đã bắt đầu ly khai với những hình thức và truyền thống thơ ca kế thừa từ Trung Hoa. Chịu ảnh hưởng bởi các nhà Lãng Mạn và Tượng Trưng Pháp vốn được dạy trong nhà trường thuộc địa và được dịch sang tiếng Việt, lại có được bệ đỡ từ chữ quốc ngữ nay đã được sử dụng phổ biến, họ đã tiếp biến những tư tưởng phương Tây để hiện đại hóa văn học, văn hóa và xã hội Việt Nam. Không còn bị ràng buộc nghiêm ngặt với những giá trị của xã hội thống trị bởi Nho giáo, Thơ Mới hướng vào nội tâm để biểu đạt những kinh nghiệm cá nhân về yêu đương, đau khổ, mất mát bằng một hình thức trữ tình nhịp nhàng, dễ nhớ. Phổ cập và dễ đọc, đấy chính là thứ thơ mà giới trẻ Việt Nam có thể thuộc lòng, đua nhau chép vào sổ tay và được phổ thành những bài hát. Thế nhưng khi Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ, nhiều nhà thơ trước đây từng gắn bó với phong trào Thơ Mới, trong đó Xuân Diệu và Chế Lan Viên là hai gương mặt điển hình nhất, đã phủ nhận cái mà họ gọi là cái tôi phản cách mạng, suy đồi và tư sản của mình đồng thời gắn mình với cuộc đấu tranh cách mạng bằng việc chấp nhận sáng tác theo những khuôn mẫu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Không phải tất cả đều chịu bước đều trong hàng. Khó tìm thấy hơn là các nhà thơ gắn với phong trào chịu nhiều dập vùi nhưng có sức ảnh hưởng — phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, gồm một nhóm những nghệ sĩ và trí thức có tinh thần phê phán ở miền Bắc trong những năm 1950. Họ đòi hỏi được tự do nhiều hơn trong chính trị và hoạt động sáng tạo; họ phê bình sự lạm quyền của Đảng Cộng Sản. Tại một hiệu sách cũ tốt, tôi tìm thấy những ấn bản cũ nát của tuyển thơ và văn xuôi Hoàng Cầm, một thành viên chủ chốt của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Tháng 3-2007, Hoàng Cầm là một trong số bốn tác giả gắn với nhóm bất đồng chính kiến này — ba tác giả kia là Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán — được trao tặng giải thưởng văn chương cao nhất của Việt Nam, năm mươi năm sau khi họ bị quản chế, thoá mạ, và kỷ luật bởi Đảng vì quan điềm chính trị đối nghịch thể hiện trong thơ và các sáng tác văn xuôi.

Về thơ Việt Nam đương đại, tôi chỉ nhìn thấy lác đác một vài tập thơ chọn lọc của Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh và Nguyễn Quang Thiều. Về thơ dịch, tôi rất bất ngờ khi tìm được một tập thơ tuyển của Bertolt Brecht mà ở Mỹ, việc tìm được một tập thơ nào của ông được dịch sang tiếng Anh gần như là bất khả. Cũng tại hiệu sách ở Đà Nẵng, nơi tôi đã tìm thấy bộ tuyển tập Hoàng Cầm, tôi cũng tình cờ bắt gặp tập Giọng Nói Mơ Hồ của Nguyễn Hữu Hồng Minh trên kệ sách giảm giá nhưng không tìm thấy sách của những tác giả khác có trong tuyển tập này — như Thanh Thảo, Phùng Cung, Nguyễn Quốc Chánh và Phan Huyền Thư, trong số những cái tên khác — những tác giả theo tôi biết, đã ít nhất từng có một đầu sách được xuất bản ở Việt Nam. Hầu như không có dấu vết nào về nền thơ ca miền Nam trước 1975 vốn từng có đời sống rất sống động, ngoại trừ một truờng hợp lạ lùng. Ở hầu như tất cả các hiệu sách đều có bày bán những tập thơ được tái bản của Bùi Giáng, một thi sĩ sống kiếp lang thang, nổi tiếng với những bài thơ chẳng theo khuôn khổ nào và những bản dịch như thể là sáng tác. Ông có lẽ là nhà thơ Việt Nam gần nhất với kiểu nhà thơ Beatnik. Cha tôi, người vốn từ lâu đã ngưỡng mộ thơ Bùi Giáng, lại chỉ xem sự tái bản này như một thứ thời thượng văn chương. Dẫu vậy, ông vẫn gom về cả một chồng những tập thơ tái bản này để bổ sung cho thư viện của cá nhân ông tại nhà.

3.

Tiếng kêu là kinh cầu

Những thế kỷ chờ đợi

–Thanh Tâm Tuyền

Sài Gòn Thất Thủ, Giải Phóng Miền Nam, Thống Nhất Đất Nước — đối với những người khác nhau, ngày 30 tháng Tư 1975 gợi ra những ý nghĩa khác nhau. Đối với nhiều nhà văn miền Nam Việt Nam trước đây, ngày đó không chỉ gợi lên hình ảnh về sự sụp đổ của một xứ sở mà còn là của một nền văn học. Sài Gòn chính thức bị đổi tên thành thành phố Hồ Chính Minh, các đại lộ, đường phố cũng được đặt lại tên để tưởng nhớ những hình tượng, sự kiện và khẩu hiệu cách mạng. Và lịch sử văn học Việt Nam cuối cùng cũng được tháo gỡ, được viết lại một cách hệ thống hoặc bị xóa bỏ thẳng thừng; sách vở bị cấm, bị tịch thu, bị thiêu hủy; các nhà văn bị treo bút, bị kiểm duyệt và bị bắt giam. Nhà văn và nhà phê bình Võ Phiến nhớ lại: “Ngày thứ Hai ấy, ngày 26 tháng Năm 1975, tại một trại tị nạn ở Guam. Trong bản tin buổi sáng trên radio, chúng tôi biết rằng việc bán những ấn phẩm xuất bản dưới thời chế độ cũ bị xem là bất hợp pháp và từ thứ Năm tuần trước, tất cả các hiệu sách ở Sài Gòn đã buộc phải đóng cửa. Chúng tôi, những nhà văn tị nạn, đã lắc đầu: trong khi chúng tôi mới chỉ đi được nửa đường đến miền đất mới thì tại quê nhà, những cuốn sách của chúng tôi đã đi đến thời khắc cuối cùng của chúng.”

Đại Hồng Thủy đã cố gắng giới thiệu lại một số nhà thơ quan trọng sáng tác tại miền Nam trước đây, trong thập niên 1960 và 70. Họ thuộc về một thế hệ mất mát mà những tác phẩm của họ hoàn toàn vắng bóng ở Việt Nam, nơi mà những phiên bản chính thống của văn học dân tộc đã xóa bỏ di sản văn chương miền Nam 1954 – 1975. Rất thích đáng khi tuyển tập này bắt đầu bằng Thanh Tâm Tuyền, một trong những nhà thơ quan trọng sáng tác tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Năm 1956, ông đã góp phần sáng lập tạp chí Sáng Tạo, một tạp chí văn chương có ảnh hưởng lớn. Là nhân vật trung tâm của nền văn chương Sài Gòn giàu năng lượng sáng tạo và tư duy, ông kêu gọi các nhà thơ rũ bỏ những hình thức vần điệu và nội dung lãng mạn vốn thống trị nền thơ ca, đồng thời kháng cự lại mệnh lệnh thơ ca phục vụ chính trị. Thay vào đó, ông lý thuyết hóa và thể nghiệm hình thức thơ tự do với sự kết nối “nhịp điệu của hình ảnh” và “nhịp điệu của tư tưởng” để diễn tả nhịp điệu như thể điện giật của ý thức mà bài thơ, có lẽ là nổi tiếng nhất của ông, “Phục Sinh”, thể hiện rất rõ nét:

“tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật”

Sạch trong, mạnh mẽ, và trần trụi, không một vần nào lãng phí ở đây. Cho dù những bài thơ có thể khóc than cho sự xa lạ đô thị, âm điệu của chúng vút vao trong ngợi ca và ngây ngất. Trong bài thơ này và ở một số tác phẩm khác, ta có thể nhận thấy cội nguồn ảnh hưởng sáng tạo và cảm hứng của Thanh Tâm Tuyền bao gồm triết học Hiện Sinh, Phật Giáo, chủ nghĩa Siêu Thực Pháp và nhạc jazz Mỹ. Tài hoa của ông nằm ở khả năng chuyển hướng những dòng chảy luân phiên này đến một đơn điểm sáng tạo, gây choáng váng , thường là với những hình thức mang tính dự cảm của tiếp nhận và ý thức. Với tuyên ngôn “Nhân danh/ Tình yêu tự do con người” — bộ ba hợp thành xác tín thơ ca, Thanh Tâm Tuyền đạt được sự đầy đặn và phong phú của một nhãn quan thơ hiếm có.

Giống như nhiều nhà thơ khác trong tuyển tập, Thanh Tâm Tuyền vừa là người tham gia chiến tranh vừa là chứng nhân của cuộc chiến. Ông có hai khoảng thời gian phục vụ cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa: khoảng thứ nhất từ 1962-1966, sau đó từ 1968 đến tận khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975. Trong bài thơ “Nhịp ba”, ông viết tặng người bạn đã qua đời của mình: “Ngực anh thủng lỗ đạn tròn/Lưỡi lê thấu phổi/Tim còn nhảy đập/Nhịp ba nhịp ba nhịp ba…” Ở bên kia chiến tuyến, Trần Vàng Sao và Thanh Thảo đều có những vần thơ đầy hoài nghi về sự tàn bạo và nỗi buồn của chiến tranh. Thanh Thảo, người đã từng làm việc cho Đài Phát Thanh Quân Đội của miền Bắc, nổi tiếng với bài thơ dài về những nỗi khắc nghiệt của chiến tranh, “Một Người Lính Nói Về Thế Hệ Mình.” Bóng ma của chiến tranh cũng ám ảnh trong những bài thơ viết vào những năm 1980-1990 của Trần Vàng Sao, người từng tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng năm 1965. Trong bài thơ “Đêm”, một buổi tối của năm 1990 bỗng trở thành không gian trưng bày một danh mục bất tận những chấn thương cá nhân và tập thể:

“1975

Đêm xuống đường mit tinh biểu tình

Xe tăng lựu đạn kẽm gai concertina

Mặt nạ và chó săn

 

Đêm chiến tranh thức canh người chết

Đêm B52 lộn mửa chất độc hóa học

Đêm 1968

Đêm mật vụ”

 Một trong những tiếng nói phản ứng mạnh mẽ và sáng tạo nhất của thơ ca đối với chiến tranh, trong cả thơ ca tiếng Việt và tiếng Anh, là sáng tác của Trần Dạ Từ. Những bài thơ như “Tặng Vật Tỏ Tình,” “Đồ Chơi Của Những Đứa Trẻ Tương Lai,” ”Chiến Tranh Rời” — tất cả đều được viết từ giữa thập niên 1960 thiết nghĩ có thể xem như những đóng góp quan trọng vào thư khố, thật không may, hết sức mênh mông của dòng thơ ca nhân chứng thế kỷ XX:

“Tặng cho em một xe plat tích
Xe plat tích nổ giữa phố đông
Giữa phố đông nổ tung xương thịt
Đó là hội hè của ta, em hiểu gì không

Tặng cho em cuộc chiến hung tàn”

Sự bùng nổ, chói gắt trong những dòng thơ mang tiết tấu chậm rãi đã được Đinh Linh chuyển tải trọn vẹn trong bản dịch tiếng Anh của mình; nỗi ám ảnh ở những vần thơ như được nhân lên khi ta nhận thấy tất cả những sự khủng khiếp ấy đang tái diễn ở những khu vực đang xảy ra chiến tranh hiện thời. Và trên hết, hậu quả khủng khiếp nhất là sự tàn phá về xã hội mà chiến tranh để lại cho tương lai, được diễn tả một cách khá trần trụi trong bài “Đồ Chơi Của Những Đứa Trẻ Tương Lai,” một bài thơ mượn giọng kể chuyện cho trẻ em (“Một viên đạn mù và điếc nằm vùi giữa cánh đồng/Mơ màng qua hàng thập kỷ máu xương/ Rồi một buổi sáng/ở một tương lai hối hả vội vàng/lũ trẻ trở lại cánh đồng”) để xin lỗi vì sự tha hóa các giá trị đạo đức của thế hệ mẹ cha, vì di sản bị chôn vùi của cuộc chiến mà họ đã để lại. Như là tiếng nói của một nhà thơ bất đồng chính kiến trong suốt thời gian cuộc chiến xảy ra ở miền Nam, nơi máu đã đổ xuống nhiều nhất, thơ Trần Dạ Từ đã ghi lại cái giá mà con người phải trả cho cuộc chiến phi nhân từ một quan điểm hầu như cũng bị lãng quên ở Việt Nam và ở Mỹ, với một bút pháp lôi cuốn hiếm thấy.

Những nhà thơ như Thanh Tâm Tuyền và Trần Dạ Từ chỉ là hai đại diện của nền thơ ca miền Nam cho đến giờ này vẫn bị nhấn chìm trong ký ức văn học sử. Với dự phóng muốn khôi phục lại di sản của nền thi ca này, tuyển tập này hy vọng mở đường để từ đó, những gương mặt khác của dàn đồng ca này như Bùi Giáng, Mai Thảo, Nhã Ca, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Tô Thùy Yên, Vũ Hoàng Chương… sẽ được giới thiệu trong các tuyển tập trong tương lai.

4.

Các anh, những người nhô lên trên làn sóng dữ
Nơi chúng tôi có thể bị ngụp chìm
Hãy nghĩ kĩ khi các anh nhắc đến
Những yếu hèn của lớp chúng tôi
Trong những buổi tháng năm sầu thảm
Các anh đều ở đó mà ra[1]
(Bertolt Brech)

Bản dịch tiếng Việt “Gửi Những Người Sinh Sau” của Brecht có lẽ đã tìm thấy đối tượng tiếp nhận thích đáng nhất là thế hệ các nhà thơ Việt Nam thời hậu chiến. Sau 1975, Việt Nam bước ra khỏi cuộc chiến để rồi bị nhấn chìm vào những khoảng tối của thời bình, với những cuộc chiến tại Cambodia, cuộc chiến chống Trung Quốc, với những chính sách đẩy đất nước đến sự khốn quẫn và đói ăn, với một nền kinh tế trì trệ càng bị bóp nghẹt hơn bởi cấm vận thương mại của Mỹ, một bộ phận người dân bị đưa vào các trại cải tạo, tham nhũng lan tràn trong bộ phận các quan chức của Đảng, làn sóng dân chúng chạy ra hải ngoại. Gần một nửa tác giả trong tuyển tập này hoặc đã trưởng thành, hoặc sinh ra trong thời hậu chiến: Nguyễn Quốc Chánh (sinh năm 1958), Phan Nhiên Hạo (1967), Nguyễn Hữu Hồng Minh (1971), Phan Huyền Thư (1972), Văn Cầm Hải (1972), Phan Bá Thọ (1972). Miên Đáng (1974), Ái Vân Quốc (1975), Hoàng Dạ Thi (1978), Lý Đợi (1978), và Lynh Bacardi (1981).

Ở những bài thơ trong tuyển tập này, có thể thấy giác quan của các tác giả thuộc thế hệ hậu chiến như phải căng ra để chịu đựng sự khắc nghiệt của thời đại, thay vì nhạy cảm với ánh sáng, con mắt thơ của họ phải điều chỉnh lại để nắm bắt những sắc thái khác nhau của bóng tối. Điều này ít nhất lý giải sự nổi bật của mô tip “đêm” cũng như logic mờ hóa các ranh giới của nó trong nhiều bài thơ của họ. Sự lặp lại của hình ảnh “đêm” tạo nhịp cho sự ngẫu hứng của tư duy và dòng cảm xúc trong chùm thơ bốn bài đậm chất siêu thực và tâm linh, u uẩn cảm thức lưu vong của Phan Nhiên Hạo (“Tự Do Đêm,” “Bình Minh Của Đêm,” “Buổi Tối, Cá và Charlie Parker,”  “Buổi Tối Miền Nam”). Đó là hình ảnh đêm sông Hương lững lờ trong thơ Phan Huyền Thư: “Đêm trườn dần vào sông Hương” với những nàng kỹ nữ phiên bản hiện đại, giải lãng mạn hóa, chèo đò bán thân giữa lòng cố đô Huế. Là “dòng đêm bằng phẳng” trong những bài thơ mộng du, với ngôn từ được tổ chức theo cấu trúc xoáy của Văn Cầm Hải mà “Dốc Bão” là một ví dụ tiêu biểu: “ngõ mưa chậm trả lời/tìm mồi bão/chiếc tổ đô thị/nhiều ngã phố ùa ra đình công.” Với Thanh Thảo, nhà thơ, như ông viết trong bài thơ chiêm nghiệm về thiên niên kỷ, “Khúc chậm  2000” là “những kẻ kiếm tìm trong đêm/một công việc một hy vọng một chốn nương thân/ một khoảng trống /đêm hứa hẹn tất cả”

Hoàng Dạ Thi là thuộc lứa đầu tiên của thế hệ nhà thơ sinh sau chiến tranh. Thi bắt đầu làm thơ bằng những bài “nói thơ” mang tính trò chơi và sớm bộc lộ thiên tư khi cô mới ở độ tuổi lên năm lên ba, được mẹ của cô, một nhà thơ có tiếng, Lâm Thị Mỹ Dạ chép lại. Đây là bài thơ bốn câu của cô trong bài “Những Chiếc Cúc Sao”: “Bầu trời như mái nhà/Bầu trời như cái áo/Có nhiều hạt cúc sao.”  Đơn giản, ngây ngô và thậm chí phảng phất một chút hơi hướng siêu thực trong cách thiết lập tam đoạn luận, bài thơ thể hiện rõ nét trong sáng và sự tưởng tưởng bay bổng của tuổi thơ. Bầu trời trong thơ của Thi hầu như không có nét gì giống với bầu trời của mẹ cô trong bài thơ “Khoảng Trời Hố Bom” – bài thơ tưởng niệm một người nữ đồng chí thanh niên xung phong đã chết trận: “Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em/Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ/Ðất nước mình nhân hậu/Có nước trời xoa dịu vết thương đau…” Không bị va đập bởi những ký ức chiến tranh, những bài thơ của Hoàng Dạ Thi dường như ít nói về thế giới tưởng tượng của tuổi thơ cô hơn là những giấc mơ mà thế hệ trước đã bị tước mất, hay nói khác đi, đó là những ảo ảnh về sự ngây thơ.

Cũng là một người sinh sau 1975, có cha mẹ và họ hàng đều là những người trải qua chiến tranh vừa trong tư cách của người tham chiến vừa như là những người dân bình thường, tôi băn khoăn không hiểu những bài thơ của Hoàng Dạ Thi khi trưởng thành như thế nào, cô có kế thừa những khoảng trời đầy bóng đen của mẹ mình không, nếu có, sự kế thừa ấy diễn ra như thế nào? Nỗi khó khăn của thế hệ thứ hai, Eva Hoffman viết, nằm ở chỗ “cái chúng ta thừa kế không phải là kinh nghiệm, mà là những cái bóng.” Những cái bóng, như chúng ta đều biết, sở hữu đồng thời sự thân thuộc lẫn sự lạ lẫm một cách bất bình thường, chúng vừa gần gũi vừa xa cách. Bóng hiện hữu ở những lời được nói ra và không được nói ra trong giao tiếp trong gia đình, ở cái nhìn như ma ám trên những tấm hình cũ thuộc về một thời đại khác, một xứ sở khác; ở sự phún trào mãnh liệt của những xúc cảm bấy lâu vẫn âm ỉ; ở những mảnh vỡ của những câu chuyện còn bí ẩn hơn cả hiện thực: đối với chúng ta, những kẻ sinh sau, cuộc chiến vẫn tiếp diễn giống như một vì sao vỡ vụn ra thành những đám tinh vân, nó phát ra một thứ ánh sáng ma ám xuyên qua khoảng cách thế hệ và lịch sử, truyền đi những thông điệp đã bị mã hóa xuyên qua cả một khoảng im lặng trải dài mênh mông.

Đối với Nguyễn Hữu Hồng Minh, “Lỗ Thủng Của Lịch Sử” chính là toàn bộ hình ảnh của xã hội Việt Nam hậu chiến. Bài thơ cùng tên đầy khiêu khích của anh vứt bỏ mọi câu nệ phân biệt giữa cái công cộng và cái riêng tư khi nhà thơ đưa người đọc vào một cuộc hành trình lớn trên quê hương thông qua chính thân thể của mình. Bài thơ mở đầu bằng những dòng như thế này:

“Nhiều khi hắn thấy dương vật hắn đang ở Sàigòn,

Đầu hắn ở Hà Nội

Và tay chân thì rơi rụng đâu đó ở Sóc Trăng

Buổi sáng ở miền Trung, trưa ở miền Nam,

Chiều ở miền Bắc, tối ở miền Tây”

Điều rốt cục mà Nguyễn Hữu Hồng Minh tìm thấy không phải là sự tiến bộ, tiến triển mà là sự trì đọng và thoái hóa; không còn đâu những nhà cách mạng, những hành động anh hùng, mà chỉ còn lại những kẻ tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc và sự phong dật của tình dục. Tính chính trị của thân thể trong thơ của anh trở thành một thứ chính trị thiên về chủ nghĩa duy ngã, mang màu sắc tính dục rõ nét, dữ dội và không ngại ngần tục tĩu. Nguyễn Hữu Hồng Minh cũng cho thấy giữa cái hiện tại hỗn loạn của xã hội Việt Nam hậu chiến và sự thiếu vắng tri thức lịch sử chân thực có mối quan hệ mật thiết, trong đó, yếu tố sau được xem là nguyên nhân dẫn đến hành động của nhân vật trữ tình: “Hắn cắt mọi dấu khoanh đời giấu vào tác phẩm.”

Với Nguyễn Quốc Chánh, người cũng viết những bài thơ mang tâm thế phủ định và đối kháng với xã hội Việt Nam hậu chiến, thơ là lời than khóc cho những người chết không được tưởng niệm:“Tôi mang một nghĩa địa trong người.” Với Phan Nhiên Hạo, điều này có nghĩa là con người bị đeo đẳng bởi “những viên đạn ký ức”. Có lẽ không có nhà thơ nào thuộc thế hệ hậu chiến lại tự đặt mình đối diện với một di sản khó khăn, phức tạp của chiến tranh một cách dai dẳng, khắc nghiệt và khiêu khích như Phan Nhiên Hạo.Ngồi tư thế này để có bức hình đẹp”— một giọng nói cất lên lửng lơ giữa quá khứ và hiện tại trong “Tấm Ảnh Những Năm 60.” Soi vào định mệnh của một mối quan hệ bị quên lãng trong một tấm ảnh gia đình cũ, Hạo đã kiến tạo một bức chân dung bị phân mảnh về khoảng thời gian đã mất và những cuộc đời đã bị phí hoài thông qua một chủ thể không xác quyết của lời nói và những hình ảnh gợi nỗi bất an.

“Trong tấm hình đồng hồ của ông chỉ 10 giờ 5 phút,

đó phải là một buổi sáng đẹp trời

người thanh niên trịnh trọng ngồi trước máy ảnh.

Khi đèn flash lóe lên

từ ống kính đen ngòm chiến tranh đã kịp nhìn thấy

một con người trẻ tuổi để tiêu hoang.”

Câu thơ kết của Hạo dường như không kết lại, và càng không mang một giọng điệu an ủi vỗ về. Khơi lại những vết thương của quá khứ, thơ của Hạo thường đem đến ấn tượng về sự thống nhất của tư duy và cảm xúc, song nó từ chối sự điều hòa, nó bất định và mơ hồ trong sự chuyển kênh hình ảnh và ẩn dụ, trong sự ngắt dòng, phá cú pháp, trong sự sắp đặt cận kề những yếu tố thực và siêu thực. Nhân danh những sự thật khó khăn và những lịch sử bị trấn áp, kìm nén, Hạo, cũng như nhiều nhà thơ khác trong tuyển tập, dứt khoát khước từ thứ dầu cù là và những chỉ khâu của hòa giải. Với một thứ thơ ca đa dạng về hình thức tạo sự chú ý, khơi gợi liên tưởng và cảm xúc, thế hệ nhà thơ hậu chiến đã thăm dò cái được coi là sự kế thừa, cạnh tranh và thường xuyên đối lập với những phiên bản của quá khứ, để thoát thai một tương lai từ sự kế thừa kia.

5.

Paris đổi, nỗi buồn vô cớ/Trong lòng tôi vẫn cứ trơ trơ[2]

(Baudelaire)

Khoảng thời gian diễn ra những thay đổi quan trọng nhất tác động đến Việt Nam trong 30 năm qua có lẽ là thời kỳ cới trói thường được gọi là “đổi mới.” Năm 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt đầu ban hành chính sách mở cửa kinh tế, phi tập trung hóa nền kinh tế, đưa kinh tế đất nước quá độ sang một mô hình chịu sự chi phối nhiều hơn của thị trường. Trong lĩnh vực văn hóa, nhà nước nới lỏng hơn sự kiểm soát đối với các nghệ sĩ và nhà văn, cho phép tự do sáng tạo nhiều hơn, thậm chí khuyến khích cả thái độ phê phán xã hội. Khối Vuông Ru-Bích của Thanh Thảo (1985), Đêm Mặt Trời Mọc của Nguyễn Quốc Chánh (1990), Người Chăn Sóng Biển của Văn Cầm Hải (1995) đều xuất hiện trong khoảng thời gian này. Không chịu ràng buộc bởi những giáo điều về mỹ học của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã có nhiều hơn những nhà văn, nhà thơ cảm thấy an tâm và thoải mái để khám phá những hình thức và đề tài một thời từng bị xem là không thích đáng hay bị quy kết là không hợp pháp: sự tham ô của quan chức nhà nước, những hệ lụy xã hội của chiến tranh, sự thoái hóa của những giá trị truyền thống, chủ nghĩa cá nhân…đó là một số đề tài nổi bật. Trên thực tế, phải thừa nhận rằng các nhà thơ hiện đang sống tại Việt Nam đã có thể viết về những đề tài này cũng như những nhiều vấn đề thuộc về đời tư và thế sự với tần số cao hơn, cường độ mãnh liệt hơn và sự táo bạo khó có thể hình dung được trước nếu như không có những tác động văn hóa trong những năm đổi mới.

Song cũng phải thừa nhận rằng “tư nhân trong lĩnh vực văn hóa và truyền thông,” đúng như nhận định đầy hoài nghi của Phạm Thị Hoài, “cho đến nay không có cùng cơ hội như những người chung vốn sản xuất giấy vệ sinh, bột giặt, nước rửa chén, dầu gội đầu, dầu tắm, kem đánh răng và băng phụ nữ” [3]. Hầu hết những sáng tác thời hậu Đổi Mới trong Đại Hồng Thủy đều có hình ảnh về những thứ hàng hóa, sản phẩm, hình ảnh cũng như những ý niệm tràn vào Việt Nam khi xứ sở này đang chuyển biến trong bối cảnh toàn cầu hóa. Dường như đi đến bất cứ chỗ nào ở Việt Nam bây giờ, ta cũng bắt gặp những bảng điện tử sáng loáng, những biểu ngữ sặc sỡ trên các con phố phóng đại những chỉ số về tăng trưởng và phát triển, chủ trương đại đoàn kết dân tộc, cổ động các chính sách để giải quyết các vấn đề, tệ nạn xã hội, và quảng  bá Việt Nam như là điểm đến du lịch của châu Á trong tương lai. Song nhiều nhà thơ góp mặt trong tuyển tập này, thay vì đi theo cảm hứng tôn vinh, lại tập trung vào cảm hứng phê phán những bức tranh thuần khiết vô trùng về xã hội Việt Nam hậu đổi mới. Những bài thơ của họ bung xả tất cả những nỗi ghê tởm, vỡ mộng, lo âu, phụ rẫy và cảm giác chao đảo đầy bất trắc trước một xung động kịch phát đang chực chờ. Nói khác đi, họ đã phát những tín hiệu cấp cứu cho một trạng thái vô thức tập thể khi văn hóa lâm vào thời khắc khủng hoảng.

Một trong những tín hiệu cấp cứu mạnh mẽ nhất được phát đi bởi nhà thơ Sài Gòn Nguyễn Quốc Chánh. Bất chấp những tín hiệu về sự phục hưng của thời kỳ Đổi Mới, những bài thơ của Chánh, như nhan đề cũng như những câu thơ trong một bài thơ, đã chẩn đoán tính trạng “áp thấp” đang ảnh hưởng đến xã hội  Việt Nam: “Tôi nghe tiếng khóc lọt lòng/Có con cá chui ra từ cái hốc đầy máu/Người đàn bà khép đùi và một cái xác được khỏa lấp.” Với những câu thơ như thế, Chánh đã làm phép thử đối với những giới hạn của chính sách cởi mở dành cho văn nghệ sĩ. Kể từ khi xuất hiện trong những năm Đổi Mới, Chánh chưa bao giờ tỏ ra e dè trong thái độ phê phán chế độ, đồng thời không ngần ngại thể nghiệm hình thức thơ. Hệ quả là Chánh và tác phẩm của ông bị vu khống và bị loại thẳng khỏi các tạp chí và các cơ quan xuất bản chính thống của nhà nước. Tương tự nhiều nhà thơ đang sáng tác ở Việt Nam, giờ đây Chánh hầu như chỉ công bố tác phẩm của mình trên các tạp chí văn chương trực tuyến.

Một bầu không khí ngột ngạt như vậy càng củng cố thêm nhận định của Phạm Thị Hoài về tác động của Đổi Mới đối với bức tranh văn học Việt Nam từ giữa những năm 1990 đến nay. Theo Hoài,

“Thời Hậu Đổi Mới quả nhiên là thời của những khoảng trống kì lạ của những thẩm quyền không có mặt, của những toa tầu không có đầu máy và người lái… Uy tín cũ của lí tưởng, ý thức hệ và những giá trị tinh thần rường cột bỏ đi, song khoảng trống để lại bị niêm phong, không nhường cho một uy tín mới vào chiếm chỗ.”[4]

Chính cái “khoảng trống kỳ lạ” này là thứ mà thơ Nguyễn Quốc Chánh muốn gợi lên và diễn tả bằng một hệ thống phức hợp những hình ảnh, ẩn dụ và cú pháp. Không giống như Hoài, Chánh không nhận thấy sự vắng mặt hoàn toàn của những thẩm quyền ở thời hậu chiến, hậu Đổi Mới Việt Nam. Đúng hơn, một phần trong dự phóng thơ của Chánh là phát lộ những nơi chốn mà quyền lực, thẩm quyền đó vẫn còn cư ngụ và ẩn náu — chúng nằm trong thân thể chúng ta, suy nghĩ của chúng ta, trong mối quan hệ giữa ta với người khác và với chính mình như ông đã diễn tả một cách gây hấn trong bài thơ gần đây của ông, có tên “Hậu, Hậu, Nhưng Không Phải Là Hậu”:

“Nhìn thẳng: mặt tao trơ.

Nhìn nghiêng: mặt tao lệch.

Nhìn xuống hoặc lên: mặt tao đều bết.

 Đứng cạnh Miên: tao lộng lẫy vàng.

Đứng cạnh Tây: tao hoang mang xẹp.

Đứng cạnh Tầu: tao khép nép hí.”

 Lúc nào cũng thế, nỗi bức xúc chính trị trong những bài thơ của Chánh được mài sắc bởi năng lực phi thường của ông trong việc phát kiến một thi pháp ngôn từ chọi âm gay gắt với ngôn từ chính thống.

6.

 Tôi đi trên những chiếc cầu bắc giữa hai bờ xa lạ

(Phan Nhiên Hạo)

Ít nhiều mang tính chất của một tuyển tập địa-văn chương, Đại Hồng Thủy đã phác họa bản đồ của dòng thơ ca lưu vong viết bằng tiếng Việt trên toàn cầu. Gần một nửa số nhà thơ trong tuyển tập sống ở những quốc gia khác ngoài Việt Nam. Thanh Tâm Tuyền di cư sang Mỹ năm 1983 sau khi mãn hạn bảy năm tù và cuối cùng định cư tại Minnesota. Sau khi được ra khỏi tù sau 12 năm bị giam giữ, Trần Dạ Từ được chính phủ Thụy Điển chấp nhận cho tị nạn chính trị tại đất nước này vào năm 1989, rồi sau đó, ông cũng định cư tại California cùng với vợ mình, nhà thơ kiêm tiểu thuyết gia Nhã Ca. Giống như vô số người Việt Nam khác, Khế Iêm theo thuyền vượt biên vào năm 1988, sau một năm sống tại một trại tị nạn ở Malaysia, ông đặt chân đến California năm 1989, chính tại nơi đây, ông đã thành lập một tạp chí thơ bằng tiếng Việt có ảnh hưởng. Một số khác sống ở những nơi cách biệt như Dekalb, khu vực xa xôi miền Bắc bang Illinois hay tại những thành phố toàn cầu trên thế giới như London, Tokyo, Paris.

 

Song các nhà thơ hải ngoại có thể đóng góp vào việc tạo nên một nền thơ Việt mới được chăng? Câu hỏi này đã từng được đặt ra với Nguyễn Duy, một nhà thơ có tiếng, đạt nhiều giải thưởng hiện đang sống ở Việt Nam: “Tôi không thể hình dung được một thứ thơ pha trộn — nửa Việt nửa Anh, hay với những thứ tiếng khác.” Duy trả lời. “Nhà thơ Việt Nam ở ngoài nước có thể là một cầu nối giữa thi ca Việt Nam và thi ca thế giới. Đó là một đóng góp phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Nhưng chỉ có những nhà thơ hiện sống trong nước mới có thể quyết định một hướng đi mới cho thơ Việt nam đương đại”[5]. Thế là đủ cho một định nghĩa về nền thơ ca dân tộc. Duy nói về thơ như thể đó là một xứ sở xa xôi, với một nền văn hóa nguyên khối, với những đường biên kiên cố và với chính sách ngoại giao hạn chế. Ông đã không ý thức được sự thất bại của trí tưởng tượng như một nhân tố hiếu động, rằng một huyễn tưởng về một nền thơ Việt thuần khiết dựa trên một huyễn tưởng còn lớn hơn về sự thuần khiết của tiếng Việt. Cả hai đều nhằm duy trì và bảo vệ những mục đích chính trị nhất định, gắn liền với những lợi ích liên quan đến chủ nghĩa dân tộc và văn học dân tộc. Tưởng tượng về một thứ “thơ pha trộn,” xét đến cùng, chính là cách để giải phóng những khẳng định về lãnh thổ và quyền lực được gắn cho một nền thơ Việt được quyết định bởi các nhà thơ trong nước.

Giờ đây, không thể không xét đến vô số những tác giả lưu vong và di cư của thế kỷ XX, không thể phớt lờ những nhà văn Việt Nam có ảnh hưởng lớn hiện đang sống tại hải ngoại (Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Vũ, đấy là mới chỉ nhắc đến một vài cái tên); không thể quên rằng việc sáng tác và tiếp nhận văn chương đương đại ở Việt Nam không còn bị định vị chỉ trong lãnh thổ Việt Nam nữa mà đã lan tỏa từ những nơi như Westminster và Paris, và với sự xuất hiện của internet, văn chương còn được sáng tạo và truyền bá qua những tạp chí văn chương điện tử như Talawas tại Berlin (tên tờ báo, vốn được điều hành bởi Phạm Thị Hoài, là một cái tên lai tạo giữa tiếng Việt và tiếng Đức, có nghĩa “Ta là gì?”) và Tiền Vệ, tại Úc (với tôn chỉ “góp phần xây dựng một khối Thịnh Vượng Chung của văn học nghệ thuật Việt Nam, nơi, bất chấp những dị biệt về địa lý và chính trị, mọi người có thể gặp gỡ nhau trong nỗ lực tìm tòi và thử nghiệm để trả công việc sáng tác trở về đúng nguyên nghĩa của nó: làm ra cái mới”.) Đọc các tác giả trong tuyển tập này, ta có cơ hội làm chứng nhân cho một cuộc xuất hành mới của nền thơ ca tiếng Việt, được khởi động không chỉ bởi các nhà thơ sống trong nước mà còn trên toàn thế giới.

Như trường hợp Phan Nhiên Hạo. Trưởng thành tại Việt Nam sau 1975, Hạo nhập cư vào  Mỹ năm 1991. Sống và làm việc tại Mỹ, anh tiếp tục sáng tác thơ bằng tiếng Việt. Như trong bài “Khai Quật,” anh viết:

“Khi mặt trời lên tôi gom góp được: Những đổ vỡ của một đứa trẻ lớn lên trong chiến tranh, lòng khinh bỉ trước các trò lên đồng, sự cô đơn nhiều năm của một người lưu lạc, kiến thức vừa Tây vừa Việt…”

 Với Hạo, cụm từ “nửa Việt-nửa Anh” không hàm chứa một nguy cơ mà là một mạch  nguồn của chất liệu thi ca mới. Thơ của anh là sự hợp lưu nhiều dòng mạch sáng tạo: sự kết hợp các cắt cảnh của chủ nghĩa siêu thực, ý thức tha nhân của triết học hiện sinh; lối dệt cảm xúc của nhạc jazz và blues, ngôn ngữ trần trụi của lối diễn đạt chủ nghĩa hiện đại Mỹ được kế thừa từ William Carlos William và di sản của các thi sĩ miền Nam Việt Nam như Thanh Tâm Tuyền.

Có thể nhận thấy một sự biện hộ cho dòng thơ lưu vong Việt ở tuyển tập này. Trong “Bài Ca Đêm Tích Lan,” Đỗ Kh., một nhà thơ giang hồ trong thời đại toàn cầu, thông qua hình thức kịch hóa giọng điệu trữ tình, đã khắc họa, với niềm cảm thông sâu sắc, cuộc đời và công việc của những lao động nữ nhập cư: Leo lên tàu bay vào lúc 4 giờ 25 sáng/
Thay gối nhặt chăn và đổ gạt tàn”.
Trong “Người Độc Thoại Với Ngọn Đèn Ở Đường Bolsa,” Trần Tiến Dũng, một nhà thơ sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã tưởng tượng kinh nghiệm bị bứt rễ và trôi dạt trong địa lý và lịch sử, “sợ nơi chốn dung chứa sợ nơi chốn trốn đi” khi ông lần đầu đến thăm những người bạn Việt Nam của ông hiện đang sống tại Mỹ. Ở hai bài thơ, “Tiếng Vọng Từ Rãnh Nước” và “Vết Rạn Trên Tường,” Ái Vân Quốc đã khai thác sự tiết kiệm, cô đọng của dòng thơ và hình ảnh gợi liên tưởng đến những truyền thống thi học của thơ ca cổ điển Trung Hoa và Nhật Bản, tạo nên một hình thức khảo cổ xuyên văn hóa các ẩn dụ, điển tích của Nhật Bản, Việt Nam, Trung Hoa và văn hóa Tây phương. Cũng như Ái Vân Quốc, người đã dịch một số nhà thơ Nhật Bản và Trung Hoa sang tiếng Việt, trong đó có Shuntaro Takinawa, Bắc Đảo và Diệp Huy, một số nhà thơ ở đây cũng đồng thời là những dịch giả tích cực: Nguyễn Đăng Thường đã dịch thơ, kịch, truyện ngắn của Neruda, Cendrars, Prevert, Beckett, Claude Simon, Rimbaud, Stein, Bukowski và nhiều tác giả khác nữa; Phan Nhiên Hạo đã từng dịch một số nhà thơ Mỹ (Robert Lowell, William Carlos Williams) và văn xuôi hư cấu của Đinh Linh; Thanh Thảo đã là đồng dịch giả thơ Boris Pasternak. Trường hợp những nhà thơ này và nhiều tác giả khác đã chứng minh cho khẳng định của Trịnh Thanh Thủy: “Văn bản của người viết hải ngoại có ảnh hưởng chất “đặc thù” của các ngôn ngữ và văn hoá địa phương, nó không những không làm mất đi cái hay của tiếng Việt, mà còn đánh thức tiềm năng sẵn có của tiếng Việt, tạo thêm nhiều chiều kích mới cho ngôn ngữ Việt Nam.”[6]

7.

Tìm một ngày mai hoàn toàn mới

(Lynh Bacardi)

Nhưng không cần phải ra hải ngoại để xem thơ Việt đang được tạo hình như thế nào bởi những ảnh hưởng từ bên ngoài. Trong số những biên bản về đời sống thực tại và trạng thái tinh thần của Việt Nam đương đại mang tính công phá mạnh nhất phải kể đến sáng tác của một nhóm tác giả lấy tên Mở Miệng tại thành phố Hồ Chí Minh — một hiện tượng thơ gây nhiều tranh cãi. Được giới thiệu ở cuối tuyển tập với hai thành viên trụ cột, Bùi Chát và Lý Đợi, nhóm Mở Miệng (cái tên này khi dịch sang tiếng Anh thường bị mờ đi nét nghĩa của một mệnh lệnh vốn hàm ý trong tiếng Việt), thu hút sự chú ý đáng kể bởi một lối viết không chịu vừa khuôn để in ấn. Bất chấp tất cả những giá trị gây sốc được gán cho họ, sự thích đáng của các nhà thơ Mở Miệng không nằm ở những gì mà thơ họ nói về bản thân họ, mà ở những biên bản “không hợp pháp” mà thơ họ ghi lại về “hiện trạng,” như tên một bài thơ của Bùi Chát, của xã hội Việt Nam:

không jì có thể đoạt tôi khỏi những bàn tay

cái nhìn không tương xứng   lăm ngón

jữa con mắt fải và chái

không phải cái mũi     thò nò     xanh

thế jới lày không thể bóp tôi

những hình ảnh cũ thay đổi tôi như mới

Sư thô ráp, cái tục tĩu, bạo lực, các cấm kỵ, tính chất trần thế và hão huyền — tất cả những thứ đó bước vào thơ Bùi Chát và Lý Đợi. Trong con mắt họ, không có gì là nền tảng cả vì tất cả mọi thứ đã hỏng từ gốc. Cự tuyệt những chuẩn mực xã hội và hình thức thẩm mỹ chiếm giữ đặc quyền, chủ nghĩa hư vô của các nhà thơ Mở Miệng giáng đòn vào sự chung sống hỗn độn của giáo điều Cộng Sản, giá trị Nho giáo, chủ nghĩa duy vật tư bản ở Việt Nam đương đại. Cả ba thế lực chính trị, xã hội, kinh tế này trở thành đối tượng châm biếm trong những bài thơ văn xuôi của Lý Đợi: Hai bài thơ trích từ tập “Bảy Biến Tấu Con Nhện” giễu nhại tính chất cưỡng bức của những giáo điều Nho Giáo; bài “Xã Hội 3” lại nhắm vào sự phi lý, mục ruỗng thấm vào mọi bình diện của xã hội Việt Nam trong khi “Lợi Ích Của Thơ” lại là sự phê phán chủ nghĩa vật chất thô thiển đang thống ngự xứ sở này.

Chủ nghĩa phá hoại trong văn chương có thể là một cách tốt hơn để mô tả những gì mà các nhà thơ trẻ này đang tiến hành — đập vỡ, hủy hoại, xóa bỏ những ý niệm cao quý hơn của chúng ta về hình thức thơ, nội dung, ngôn từ. Từ đó ra đời những bài thơ thế tục theo tiết tấu hip-hop của nhà thơ bên lề đường phố Bùi Chát, những bài thơ cắt dán của Lý Đợi lấy từ báo chí, quảng cáo, các nguồn trên mạng để phê phán xã hội, những bài thơ văn xuôi sẵn sàng đưa nhận thức rẽ ngoặt vào những chỗ bấp bênh nhất. Trong bài thơ “Co và Duỗi,” Lynh Bacardi viết:

 ngoài kia mọi sinh vật mặc áo tang dẫm nhau lên thiên đàng. tôi kệch cỡm toà nhà xây bằng máu trinh. vờ vĩnh rên sảng khoái. nắng trên cao khóc ngập đường. những gã đàn ông thiếu máu khi ngập mang. mưa phì nộn nóng chảy. tôi mang thai những đồng tiền nồng mùi khét. bà mẹ bán dòng chảy giữ dòng văn hoá đàn con…hôm nay những suy tưởng bị bội thực.

Những bài thơ bất tuân mọi phép tắc, chuẩn mực như thế đã bóc trần và, trong chừng mực nào đó, chính sự vô lễ này đã tạo nên những hình thức biểu đạt đa trị về sự mục ruỗng, suy đồi, thoái hóa của môi trường xung quanh họ.

8.

Một thị trấn hình thành từ thời trung cổ nằm trên một ngọn đồi có lẽ không phải là một địa điểm mà người ta thường nghĩ đến khi hình dung về bản đồ thơ Việt đương đại. Nhưng chính tại Certaldo, Italy là nơi lần đầu tôi được gặp Đinh Linh vào tháng 2 năm 2004. Một nhà thơ mà tôi đặc biệt yêu thích. Chính Linh là người đã giới thiệu với tôi nhiều tác giả giờ đây được tập hợp lại trong tuyển tập này. Khi đó tôi đang ở châu Âu theo một học bổng và phát hiện ra Đinh Linh hiện đang sống tại Certado như một khách mời của tổ chức International Parliament of Writers Cities of Asylum Network. Tôi đã bắt tàu từ Paris xuống đó. Chúng tôi quyết định gặp nhau tại Piazza Boccaccio, được đặt theo tên của một cư dân nổi tiếng nhất Certaldo, tác giả cuốn Decameron. Lúc ấy, trời đang mưa. Tôi đứng đợi Linh bên cạnh tượng đài Boccaccio, nép dưới gờ đá chìa ra của tượng đài để trú mưa. Trước mắt tôi là một nhà thờ cổ kính, không có đặc điểm gì nổi bật ngoại trừ những cánh cửa gỗ rất lớn mà thoạt nhìn, tôi có cảm giác không thể nào lay chuyển được chúng cho đến khi tôi nhìn thấy chúng được mở ra, từ bên trong một đoàn người dự một tang lễ chầm chậm đi ra. Đúng lúc ấy, Linh xuất hiện, anh chào hỏi tôi và chỉ cho tôi thấy cảnh đám tang vì e rằng có thể tôi đã không để ý. Chúng tôi không xem cảnh tang lễ được cử hành nữa mà leo lên con dốc đến chỗ Linh đang cư trú ở Via Valdracca 2, ngay bên trong thành của thị trấn cổ. Tôi đã ở đó mười ngày.

Trong những cuộc trò chuyện hàng đêm, Linh thường trở đi trở lại chủ đề về Việt Nam đương đại và thơ Việt. Ngay trước khi sang Ý, Linh đã có hai năm rưỡi sống tại Việt Nam, từ 1999-2001. Tôi lắng nghe anh nói về đời sống văn chương ở thành phố Hồ Chí Minh, về niềm yêu thích và ngưỡng mộ của anh đối với một số nhà thơ ở đó, về nền thơ ca chính thống ở Việt Nam, về sự coi thường của anh đối với vai trò kiềm tỏa của Hội Nhà Văn Việt Nam. Linh đã học lại tiếng Việt và bắt đầu dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh nhiều nhà thơ mà anh đã đọc cũng như đã có dịp tiếp xúc ngoài đời. Theo nhiều nghĩa, Đại Hồng Thủy là một hồ sơ đặc biệt về những trải nghiệm trong đời thực và trong tưởng tượng này.

 

Đôi khi người ta quên rằng một nhóm bảy người phụ nữ và ba người đàn ông tụ tập tại trong một tòa nhà ở miền quê Tuscan, kể cho nhau hàng trăm câu chuyện, để từ đó hình thành nên kiệt tác Decameron của Boccaccio, vốn là những người chạy trốn nạn dịch hạch ở Florence. Sự hài hước và thường mang tính tục tĩu của họ tương phản gay gắt với những mô tả chi tiết một cách khách quan về những hậu quả của Trận Dịch Đen ở phần đầu cuốn sách. Song chính hậu cảnh là trận dịch ấy đã tạo nên điều kiện cần thiết cho những chuyện kể của họ. Thông qua hình thức lánh nạn được gọi là “thơ,” các nhà thơ tập hợp trong tuyển tập này cũng viết trong khi đang chạy trốn thảm họa. Không phải như những nghệ sĩ thoát hiểm, nhưng để phán kháng và đương đầu với với những thực tại bị trấn áp.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Phan Hai-Dang, “A Deluge of New Vietnamese Poetry”. http://www.asymptotejournal.com/special-feature/haidang-phan-on-contemporary-vietnamese-poets/

Chú thích:

[1] Trần Dần dịch

[2] Vũ Đình Liên dịch

[3] Phạm Thị Hoài, “Nhà văn thời hậu Đổi mới,” http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?rb=0401&res=411

[4] Phạm Thị Hoài (đã dẫn)

[5] Dẫn theo Nguyễn Duy, “Thư gửi ban biên tập damau.org,” http://damau.org/archives/11895

[6] Trịnh Thanh Thủy, “Về sự thuần chất của tiếng Việt,” http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=836&Itemid=77

Hướng đến cái ngoại vi văn hóa: khúc ngoặt của lý thuyết văn chương đương đại.

Auguste Rodin6

1. Mở mục lục những tuyển tập giới thiệu lịch sử lý thuyết phê bình văn học được xuất bản gần đây ở Anh- Mỹ, có thể nhận thấy một điểm nhỏ nhưng lại gợi suy nghĩ về động hướng của tư duy lý thuyết văn học đương đại: kể từ sau Giải cấu trúc luận (Deconstruction), tên của các lý thuyết phê bình thường có xu hướng gắn liền với các chủ thể văn hóa như thuyết hậu thực dân (Postcolonialism), thuyết nữ quyền (Feminism), thuyết đồng tính (Queer theory), phê bình chủng tộc và sắc tộc (Racial and Ethnic theory)…Những lý thuyết phê bình này cho đến nay vẫn diễn biến sôi nổi; chúng liên kết với nhau hoặc được cụ thể hóa hơn nữa, tập hợp thành những trào lưu học thuật gây ảnh hưởng. Ví dụ, phê bình nữ quyền liên kết phê bình hậu thực dân dẫn đến sự hình thành của khuynh hướng phê bình nữ quyền-hậu thực dân mà Gayatri Spivak là một đại diện quan trọng; các học giả da đen ở Hoa Kỳ trên nền tảng của phê bình sắc tộc, chủng tộc đã tạo nên cả một dòng lý thuyết Đen (Black Theory). Cũng không hề ngẫu nhiên khi những học giả có quyền năng trong đời sống học thuật đương đại đều là những trường hợp phức tạp về căn tính: đó hoặc có thể là những lý thuyết gia da màu (Gayatri Spivak, Homi Bhabha…) hoặc là phụ nữ (Luce Irigaray, Helène Cixous…) hoặc đồng tính (Judith Butler…)

Sự trỗi dậy của những khuynh hướng lý thuyết văn học này, thứ nhất, cho thấy nghiên cứu – phê bình văn học giờ đây có xu hướng hòa vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa (cultural studies). Nghiên cứu – phê bình văn học không dừng lại ở những cách tiếp cận nội tại, xem tác phẩm văn học như một cấu trúc tự đủ và “nghĩa” của nó được nảy sinh trong cấu trúc ấy. Thay vào đó, nhà nghiên cứu xem tác phẩm như một sinh mệnh vừa có thể bị thao túng bởi môi cảnh và chủ thể văn hóa, vừa có thể tác động trở lại những nhân tố đó. Từ đó, nghĩa của tác phẩm được đọc ra, được bổ sung hoặc bị mất đi. Phê bình cũng không còn thuần túy là hoạt động cảm thụ, đánh giá, nhận định xem tác phẩm văn học hay ở chỗ nào, đẹp như thế nào, thú vị, lôi cuốn ra làm sao. Nói như Maria Damon và Ira Livingston trong lời tựa tuyển tập phê bình Poetry and Cultural Studies (Thơ và nghiên cứu văn hóa): “Nếu ta trì hoãn lại câu hỏi ‘Bài thơ hay như thế nào?’, thì chúng ta phải bắt đầu xác định rõ cái hay đó có tác dụng cho điều gì, cái hay đó là hay đối với ai, bằng cách nào bài thơ phát huy được tác dụng ấy. Khi ấy, ta có thể ước định được ‘chức năng văn hóa’ mà bài thơ thực hiện”[1]. Rất có thể việc mỹ hóa một nội dung nào đó, một yếu tố của nào đó có tác phẩm lại hàm ẩn sâu xa một mưu toan trấn áp, duy trì sự thống trị của bộ phận nắm giữ đặc quyền trong xã hội. Chẳng hạn, những cách diễn giải sự cam chịu, sự hy sinh của người phụ nữ như là biểu hiện của vẻ đẹp thiên tính nữ chính là cách đọc thể hiện sự thống trị của nam giới.

Thứ hai, diễn ngôn của những lý thuyết này, như tên gọi của chúng phản ánh, là diễn ngôn từ phía ngoại vi, từ bộ phân phi chính thống của văn hóa. Có điều nên sòng phẳng ngay tại đây: sự tồn tại của cặp đối lập trung tâm-ngoại biên, chính thống – phi chính thống, chủ lưu –phụ lưu… trong cấu trúc của mọi nền văn hóa là một thực tế không thể phủ nhận. Văn hóa có thể ví như hình ảnh phóng đại của một sân chơi, nó có những giới hạn, những luật lệ, những điều kiện: sẽ có kẻ được vào sân chơi, có kẻ bị gạt ra bên lề, có kẻ tuân thủ luật chơi nhưng cũng có kẻ đang chơi thì phá đám, bất tuân luật chơi, chấp nhận bị gạt khỏi cuộc chơi. Bộ phận bên lề sân chơi chính thống ấy hợp thành khu vực ngoại vi của văn hóa. Họ hình thành nên một cộng đồng, thiết lập nên một sân chơi mới, dù ban đầu bao giờ cũng rất nhỏ hẹp, với những trò chơi khác, luật chơi khác của riêng mình. Những trò chơi ấy, đến lượt mình, có khả năng gây áp lực ngược trở lại đối với sân chơi chính thống, nơi trò chơi đang diễn ra có nguy cơ trở nên nhàm, nặng nề.

Như là diễn ngôn từ phía ngoại vi, các lý thuyết này trước hết là nỗ lực cất lời của những chủ thể mà lâu nay lịch sử của họ bị tước đoạt bởi những kẻ chiến thắng, căn tính của họ được khắc họa bởi thế lực thống trị, màu da, giới tính của họ bị in hằn những định kiến bởi bộ phận chiếm đa số…Đó là những diễn ngôn giải đại tự sự, giải bá quyền văn hóa, chống lại sự đơn nhất, độc đoán của lịch sử, của những chuyện kể mà trong đó, họ chỉ tồn tại như những nhân vật thụ động, không có ngôn ngữ của mình. Hướng đến cái ngoại vi của văn hóa như vậy, công việc nghiên cứu, phê bình văn học thực sự không còn là một hoạt động có tính chất salon, kinh viện. Lý thuyết văn học thể hiện rõ tham vọng can dự, tác động đến ý thức xã hội; nghiên cứu văn học trở thành một sự tự giác của tâm thức, một hành vi dấn thân, hướng đến sự công bằng văn hóa. Trọng lượng của trách nhiệm xã hội và ý thức dấn thân là điều có thể cảm nhận được rất rõ ở nhiều công trình lý thuyết văn học đương đại nhưng lại là điều, thành thực mà nói, đang còn yếu trong nghiên cứu ngữ văn hiện nay ở Việt Nam.

2. Có một sự phản biện đặt ra ở đây: Liệu ngoại vi hóa có phải là diễn ngôn phù hợp với xu thế khoan dung trong toàn cầu hóa văn hóa hiện nay?

Đó là một câu hỏi được đặt ra thích đáng nhưng cũng cần thiết có sự thưa lại. Nguy cơ lớn nhất của các diễn ngôn lý thuyết gắn với những chủ thể văn hóa bị ngoại vi hóa là sa vào bẫy của những đối lập nhị nguyên và do đó, trên thực tế, sẽ không thoát ra được logic của cái trung tâm. Điều này lại dẫn đến những xung đột căng thẳng, những định kiến được tích lũy dày thêm. Bản thân các thuyết nữ quyền, hậu thực dân, đồng tính…không phải không có lúc bị sa vào bẫy của logic nhị nguyên này, nhưng nó đã và đang tiếp tục tự điều chỉnh để tạo ra một quan hệ đối thoại cởi mở hơn giữa các chủ thể văn hóa. Nó muốn trở thành một diễn ngôn “khác” chứ không phải diễn ngôn đối lập. Khoan dung văn hóa là một bức tranh lý tưởng về thế giới trong thời đại toàn cầu hóa nhưng để đi đến trạng thái lý tưởng ấy, các chủ thể ngoại vi cần phải có một không gian để được hiện diện, được lên tiếng và được lắng nghe trong tâm thế cùng hiểu lẫn nhau. Không thể có một thứ khoan dung văn hóa theo kiểu đòi hỏi bộ phận ngoại vi tự xóa bỏ mặc cảm và bộ phận trung tâm lắng nghe tiếng nói của cái ngoại vi bằng tâm thế kẻ cả, ban ơn. bell hooks, một nhà lý thuyết nữ quyền luận và hậu thực dân uy tín, đã xem thứ chủ nghĩa khoan dung văn hóa kẻ cả, theo kiểu bề trên này cũng là đối tượng cần thiết phải được phản tư. Bà mô tả nó như thế này:

Không cần phải nghe giọng nói của chị khi tôi có thể nói về chị tốt hơn chính chị nói về bản thân mình. Không cần phải nghe giọng nói của chị. Chỉ cần kể cho tôi nỗi đau của chị. Tôi muốn biết câu chuyện của chị. Và rồi tôi sẽ kể lại nó cho chị theo một cách thức mới. Tôi sẽ kể lại nó cho chị theo một cách mà câu chuyện ấy sẽ là của tôi, của riêng tôi. Viết lại chị thì đồng thời tôi cũng viết lại bản thân tôi, theo kiểu để làm mới chính tôi. Tôi vẫn là tác giả, tôi có thẩm quyền. Tôi vẫn là kẻ thực dân, chủ thể nói và chị, bây giờ, là trọng tâm của lời nói của tôi.[2]

Một thứ “khoan dung văn hóa” kẻ cả như thế, đúng hơn, cần phải gọi là một mưu toan đồng hóa văn hóa, thay vì một viễn cảnh như con người muốn có – một không gian nơi các giá trị văn hóa đa dạng được tồn tại bình đẳng, cho dù đó có thể chỉ là những bộ phận nhỏ, phụ, thiểu số, nơi những sự khác biệt được nhận diện, được lắng nghe với mục đích hướng đến sự hiểu lẫn nhau, thẩm thấu lẫn nhau. Một viễn cảnh khoan dung văn hóa như thế nhân loại đến giờ vẫn chưa đạt được. Nhưng đó là đích mà các lý thuyết văn chương đương đại hiện giờ cũng đang hướng đến.

3. Hướng đến cái ngoại vi, thiết nghĩ, cũng nên là động hướng cần có của phê bình văn học. Nếu như nhiệm vụ của phê bình văn học là phát hiện, nâng đỡ những cái mới trong sáng tạo thì ta phải thừa nhận một thực tế cái mới nào khi xuất hiện chẳng là một hiện tượng ngoại vi? Rất nhiều những nghệ sĩ sáng tạo quyết liệt bậc nhất là những kẻ chủ động phá đám trò chơi, dạt ra vùng ngoại vi để tạo nên những trò chơi nghệ thuật mới. Không gian ngoại vi ấy cũng là không gian mà phê bình văn học cần bảo vệ bởi lẽ đó là nơi, nói như bell hooks, “đem đến khả năng của một góc nhìn cấp tiến mà từ đó người ta có thể thấy và sáng tạo, tưởng tượng nên những sự phá cách, những thế giới mới”[3]. Những sáng tạo, phá cách, những thế giới mới này tạo nên sự đa dạng, phong phú của cảnh quan văn hóa và viễn cảnh khoan dung văn hóa mà chúng ta muốn nhìn thấy hẳn phải được hình thành trên nền tảng của sự đa dạng, phong phú đó chứ không phải chỉ quanh quẩn vài ba giá trị đơn điệu.

Và cuối cùng, thiết tưởng, phê bình văn học cần hướng đến cái ngoại vi văn hóa bởi lẽ nhà phê bình cũng nên là “người đứng về phe nước mắt” (chữ dùng của nhà thơ Dương Tường)

Trần Ngọc Hiếu


[1] Maria Damon & Ira Livingston [chủ biên], Poetry and Cultural Studies: A Reader, University of Illinois Press, 2009. trang 2.

[2] bell hooks, “Marginality As a Site of Resistance” in Out There: Marginalization and Contemporary Cultures, ed. by Russell Ferguson, Martha Gever, Trinh T. Minh-ha, Cornel West,  The MIT Press 1992, p.341-3. (Tác giả chủ ý không viết hoa tên riêng của mình).

[3] Tlđd