Tag Archives: diễn ngôn

Mỹ cảm về thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ

IMG_4301

“Em Hà Nội” của Trần Trung Tín được chụp lại tại triển lãm Bi kịch lạc quan, năm 2013

Những hình ảnh của thành phố có một vị trí quan trọng trong thơ Lưu Quang Vũ. Dù có thể được quy chiếu về một địa danh cụ thể như Hà Nội, Hải Phòng hay chỉ là một không gian phiếm chỉ thì thành phố, với những nơi chốn, địa điểm, biểu tượng của mình như đường phố, quán xá, nhà ga, cửa hiệu… đã được tái trình hiện trong thơ Lưu Quang Vũ với một mỹ cảm đặc biệt. Bài viết này tập trung phân tích mỹ cảm ấy trong những sáng tác của Lưu Quang Vũ ở thập niên 1970. Đó là thời điểm mà chiến tranh lan rộng ra miền Bắc, đặt Hà Nội, Hải Phòng ở trong tình trạng bất an thường trực. Đó cũng là lúc đời sống cá nhân của nhà thơ có nhiều biến động, đổ vỡ; những hình ảnh của thành phố xuất hiện dày đặc trong thơ Lưu Quang Vũ, trở thành sự phóng chiếu những trải nghiệm riêng tư của tác giả, vì thế, chúng có khả năng là chìa khóa để mở cửa vào thế giới nghệ thuật Lưu Quang Vũ ở giai đoạn u uẩn, gai góc nhất nhưng cũng là giai đoạn nhà thơ đến độ chín trong phong cách nghệ thuật của ông.

Thành phố không bao giờ chỉ tồn tại như một đơn vị hành chính hay một địa đanh trên bản đồ mà nó còn giữ một địa vị đặc biệt trong hệ thống biểu tượng của một nền văn hóa. Như một thực thể văn hóa, thành phố có thể được tiếp cận như một diễn ngôn. Theo đó, thành phố được hiểu là kết quả của một quá trình tạo nghĩa thông qua các thực hành văn hóa trong những ngữ cảnh nhất định. Diễn ngôn về thành phố thường được đưa về các đối cực. Hoặc, nó được xem như là hiện thân của quốc gia, thậm chí là sự phóng chiếu, là hình ảnh lý tưởng của quốc gia; hoặc, nó lại là không gian mở ngỏ cho con người cá nhân, nơi con người giải phóng bản thân mình ra khỏi nhiều ràng buộc về cả thể xác lẫn tinh thần. Hoặc, nó là biểu tượng của một sự quy hoạch cảnh quan, tổ chức xã hội theo một trật tự của ý chí con người, đối lập với trật tự của Thượng đế; hoặc, nó là thế giới của những chuyển động, xê dịch không ngừng, của những hỗn độn, bất định, lệch chuẩn cùng với những trải nghiệm bất an trong thế giới tinh thần con người. Vừa công cộng vừa riêng tư, vừa khuôn mẫu vừa nổi loạn, thành phố luôn từ chối là một ký hiệu đơn nghĩa.

Phải đến thời kỳ thuộc địa, ở Việt Nam mới xuất hiện những thành phố mang dáng dấp hiện đại như Hà Nội, Sài Gòn,… Dù chưa phải là những đô thị điển hình, nhưng thành phố thuộc địa quả thật một kiểu kiến trúc mới, một không gian xã hội mới với nhiều khác biệt về diện mạo và tính chất so với làng xã nông nghiệp cổ truyền, thậm chí so với chính kinh đô dưới các triều đại phong kiến. Bài thơ “Sông Lấp” của Trần Tế Xương có thể xem là một trong số tác phẩm văn học sớm nhất ghi lại buổi đầu của quá trình đô thị hóa ở nước ta dưới thời thuộc địa. Tuy chỉ là một bài thơ tứ tuyệt nhưng “Sông Lấp” đã phác thảo được những cải tạo nghiêm trọng về cảnh quan có thể ví như một thực tại “bãi biển hóa nương dâu” diễn ra với tốc độ nhanh chóng, làm cho người dân thuộc địa không khỏi ngỡ ngàng. Thành phố thuộc địa ban đầu là kết quả từ một quá trình cưỡng bức văn hóa, bị nhìn nhận như là một không gian nơi các giá trị truyền thống bị đảo lộn và do đó đáng bị phê phán, song dần dần, theo thời gian, được phát hiện như một không gian rộng rãi hơn so với không gian xã hội truyền thống, nơi mở ra những cơ hội, những điều kiện khả thể mới, có sức hấp dẫn, cám dỗ nhất định. Thay vì cự tuyệt nó, con người đầu thế kỷ XX bắt đầu hướng đến việc thích nghi với thành phố. Những địa điểm, nơi chốn của thành phố – nhiều trong số đó chỉ hình thành dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp – dần trở nên quen thuộc như đường phố, nhà ga, công viên, vườn thú, nhà thờ, trường học… Chúng đi vào các diễn ngôn văn chương nghệ thuật, được khoác cho những ý nghĩa mà chỉ con người hiện đại mới thấy. Chẳng hạn, đường phố được xem là một không gian dân chủ khiến con người hiện đại hào hứng, say mê vì ở đó, con người cá nhân được thoát khỏi nhiều ràng buộc để tự lựa chọn, thậm chí một lựa chọn có vẻ như phi mục đích: “Tôi là khách bộ hành phiêu lãng/Đường trần gian xuôi ngược để rong chơi” (Thế Lữ). Song, đúng như nhận xét của Đỗ Lai Thúy, nó cũng có thể “vô danh hóa con người”, “xóa nhòa cá tính bởi những thoáng chốc và bèo bọt của nó”[1]. Một ông đồ thất thế trên vỉa hè, hiện hữu mà như vô hình trước những bước chân vội vã của người qua đường là hình ảnh gợi xót xa về sự phù du của nhân sinh, nhưng xa hơn, nó có thể còn khơi động nỗi bất an của con người khi sống trong nhịp điệu phố phường.

Cuộc kháng chiến toàn quốc năm 1946 đã tạo ra sự thay đổi trong cách kiến tạo diễn ngôn về thành phố. Thay vì là một không gian mở cửa cho những trải nghiệm cá nhân, giờ đây nó được mô tả như là tiêu điểm của quốc gia, dân tộc. Chỉ cần đọc lại ca từ bài hát “Người Hà Nội” (1947) của Nguyễn Đình Thi – một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất sau ngày toàn quốc kháng chiến, có thể thấy Hà Nội được biểu đạt như một cấu trúc quy tâm: nó là tâm điểm của cả đất nước, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, nơi “Việt Nam yêu dấu ngả soi bóng sông Hồng Hà”.  Các trung tâm trong bức tranh Hà Nội mà Nguyễn Đình Thi vẽ bằng ngôn từ là các nơi chốn, địa điểm, kiến trúc đã trở thành biểu tượng lịch sử ngàn năm: Hồ Gươm, Hồ Tây, Tháp Rùa (sau này, diễn ngôn về thành phố của bộ phận văn chương nghệ thuật cách mạng sẽ dung nạp thêm những biểu tượng của thời đại mới như quảng trường Ba Đình hay nhà máy, công trường, nhà cao tầng – thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng đồng thời cũng hiện thân cho niềm kiêu hãnh của con người khi thiết lập một trật tự mới, tạo ra một cảnh quan mới phi thường bằng ý chí và sức mạnh của mình). Đường phố trong bài hát của Nguyễn Đình Thi vẫn gợi lên không khí của đời sống thị dân: “Hà Nội vui sao/Những cửa đầu ô/…Sống vui phố hè/Bồi hồi chàng trai/Những đôi mắt nào/Quanh co, rộn ràng Đồng Xuân/Xanh tươi bát ngát Tây Hồ/Hàng Đào ríu rít Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Gai…” Song nó đã mang tính chất của con đường toàn dân, của không gian quy tụ hàng hàng lớp lớp con người, nó đông đúc, náo nức kiểu không gian sử thi chứ không còn là con đường dành cho “khách bộ hành phiêu lãng”, đơn độc, lạc loài nơi phố xá. Thành phố trong văn chương cách mạng được bồi đắp nhiều ý nghĩa lịch sử gắn với quốc gia, dân tộc, vì thế, tính chất đô thị của nó, đặc biệt là những khía cạnh móc nối với trải nghiệm cá nhân của con người, bị mờ đi, thậm chí bị xóa bỏ.

Trong thơ Lưu Quang Vũ, cũng có thể nhận thấy một mỹ cảm sử thi về thành phố như thế thể hiện ở một vài sáng tác. Bài “Chưa bao giờ”, viết vào tháng 4 năm 1967, khi Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, là một ví dụ. Kết cấu bài thơ là sắp đặt cận kề hai hình ảnh tương phản nhau của Hà Nội: một Hà Nội với nhịp điệu đời thường hiền hòa, yên ả với những “quầy hợp tác bán rau non”, “hoa ngoại ô” ùa vào phố phường, chuông tàu điện leng keng… và một Hà Nội đã nếm trải bom đạn, nơi “đường phố của ta dàn thành thế trận”, luôn sẵn sàng trong tình trạng chiến đấu với kẻ thù. Hai hình ảnh Hà Nội tương phản ấy, thực chất, lại nâng đỡ cho nhau, làm cho thành phố trong bài thơ bình yên và vững chãi, dịu dàng và hiên ngang, trữ tình và hào hùng. Chùm “Sông Hồng” mang dáng dấp của một trường ca, trong đó, hai khúc ca “Hồi ức của một nghĩa binh già” và “Lời từ giã của Trung đoàn thủ đô” tái tạo lại hai thời khắc lịch sử quan trọng của Hà Nội – thời điểm Hà thành thất thủ trước thực dân Pháp năm 1882 và ngày Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội mùa đông năm 1946, đánh dấu sự bắt đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Lưu Quang Vũ muốn từ lịch sử của thành phố để suy ngẫm về sự thăng trầm của lịch sử dân tộc – một nguồn cảm hứng quan trọng trong thơ ông. Để khắc họa vẻ sử thi của Hà Nội, Lưu Quang Vũ khai thác triệt để thủ pháp lấy toàn cảnh, tức là cố gắng nắm bắt đại cảnh, làm nổi bật những cảnh tượng hoành tráng, bề thế bằng lối liệt kê hay các dạng thức trùng điệp, chú ý tạo điểm nhấn bằng những hình ảnh hùng vĩ, dữ dội: “Hà Nội đêm nay nhắc gọi/ ra đi hôm nay để mãi mãi trở về/ mưa bay lồng lộng bờ đê/Hà Nội nhòe trong nước mắt/Tam Đảo sau lưng sừng sững/Việt Bắc chiến khu bát ngát/Hồng Hà cuồn cuộn réo sôi/chỉ xuống dòng sông đỏ rực/chúng ta thề sẽ trở về”.

Tuy nhiên, đến giai đoạn những năm 1970, thi pháp về thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ có sự thay đổi quan trọng. Màu sắc sử thi hầu như không hiện diện trong cách nhà thơ tạo hình về thành phố. Sự thay đổi này, như đã nói ở trên, có thể một phần do cuộc chiến tranh ngày càng trở nên khốc liệt và một phần khác, do nhiều biến cố trong đời sống cá nhân của nhà thơ dẫn đến những lầm lỡ, phiền toái, rạn nứt. Từ chỗ là một nhà thơ trẻ được chú ý, được ái mộ, Lưu Quang Vũ trở thành một kẻ ngoại biên. Vương Trí Nhàn – một người bạn của Lưu Quang Vũ – đã nói về nhà thơ ở thời điểm ấy: “Báo chí không in thơ Vũ nữa. Vũ rơi vào tình thế cô độc, hầu như lạc lõng giữa dòng người sôi nổi.”[2] Trong cái nhìn của Vương Trí Nhàn, hình ảnh của Lưu Quang Vũ là “hình ảnh của một kẻ long đong giữa cuộc đời vô định.”[3] Thành phố, dù là thành phố thời chiến đi nữa, vẫn cứ còn những ngóc ngách, không gian để kẻ bên lề nương náu, cho phép hắn được dừng lại, ngồi lại để ngắm nhìn, nghiền ngẫm mọi thứ hay để mặc hắn lang thang không mục đích. Sở dĩ thành phố dung nhận một Lưu Quang Vũ bị ngoại biên hóa lúc đó vì xét đến cùng, nó vẫn mang trong mình bản chất của một không gian nới lỏng nhiều ràng buộc nhờ tính chất của một môi trường thị dân còn được bảo lưu ít nhiều.

Diện mạo phản sử thi của thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ có thể thấy ngay ở mảng màu u trầm mà ông sử dụng để miêu tả nó. Thành phố của Lưu Quang Vũ là thành phố nghèo, khu phố nghèo, quán nghèo: “Khu phố nghèo lụp xụp ta qua/ Những cô bé ngã vào đêm tội lỗi/ Những mụ già đen tối/ Ngồi bên hè vá áo mặt âm u” (“Những đêm hoa vàng”); “Biết nói gì nữa em, cô gái hoang/ Của hải cảng tối/ Của tấm chăn nghèo thời chiến tranh phá hoại/ Của nỗi buồn nội chiến” (“Chiều cuối”); “Thành phố đầy bụi bặm/ Những mặt người lì nhẵn chen nhau” (“Có những lúc”), “Thành phố thời anh mười bảy tuổi/ Viển vông, cay đắng, u buồn” (“Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa”)… Đó không còn là hình ảnh của một đời sống đạm bạc nhưng ánh lên một vẻ đẹp bình dị, yên ả, trong sáng mà Lưu Quang Vũ từng khắc họa trong những bài thơ ở giai đoạn trước như “Phố ta”, “Vườn trong phố”… Trái lại, thành phố như một cơ thể đang mang thương tích bởi chiến tranh mà vẫn phải tiếp tục gồng lên để chịu đựng sự khắc nghiệt chưa dừng lại của nó. Thành phố là một thế giới của những con người rệu rã, nhọc nhằn, mệt mỏi. Trong thành phố của Lưu Quang Vũ, ta nhìn thấy những “Em gái mười lăm đã không còn thiếu nữ/ Dưới mái tóc quăn trơ trụi vai gầy” (Những tuổi thơ); “Đám người bán máu xanh gầy/ Co ro chờ ngoài bệnh viện” (Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa); “Lão ăn mày mù thổi sáo/ Điệu gọi hồn âm u” (“Chiều cuối”), “Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường/ Thân tiều tụy ôm mặt cười lặng lẽ” (“Quán cà phê ngoại ô”); ta nghe thấy “Tiếng bán mua tiếng cãi chửi ồn ào/ Những nhà cửa nhỏ nhoi những mặt người bụi bẩn” (“Từ biệt”); “Bà già bán thông phong bóng đèn/ Ca thán về thời buổi khó…Ai cười lên ha hả/ Giễu một người ngã xe” (“Ngã tư tháng Chạp”)… Đó là những hình ảnh, âm thanh mà thành phố trong diễn ngôn sử thi từ chối kết nạp vì chúng có nguy cơ phá vỡ sự cố kết đến mức hoàn tất của nó: một thành phố của những cơ thể khỏe mạnh hiện thân cho những phẩm chất đạo đức và lý tưởng thời đại không thể nghi ngờ… Những hình ảnh, âm thanh của thành phố mà Lưu Quang Vũ ghi lại gợi cảm thương nhưng có lẽ xa hơn thế, chúng hé lộ một thực tại bất an bởi sự rã rời, nứt rạn của nhiều giá trị nền tảng trong đời sống thường nhật. Thơ về thành phố của Lưu Quang Vũ hướng tới những góc khuất của đời sống thường nhật mà diễn ngôn thời chiến thường tìm cách loại trừ bởi tính chất phản anh hùng của chúng. Nói khác đi, thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ là một thành phố ngoại biên (trong tương quan với thành phố sử thi mà văn chương cách mạng xây dựng) được nhìn từ con mắt của một kẻ cũng đang ở vị thế ngoại biên mà ông đã tự họa không ngần ngại: “Tôi xấu xí mù lòa như đứa trẻ mồ côi” (“Có những lúc”); “Rách rưới, bơ phờ, cô độc… Hắn không phải là tấm hình đẹp trong sách/ Hắn chỉ là dãy phố nghèo lấm đất…” (“Người con giai đến phòng em chiều thu”)… Thành phố nghèo, buồn, lầm lụi, tiềm tàng bất an ấy chính là sự phóng chiếu cái tôi của Lưu Quang Vũ.

Một khám phá sâu hơn về thành phố của Lưu Quang Vũ đòi hỏi phải chú ý đến sự tái trình hiện những địa điểm, nơi chốn gắn với nó trong thơ ông. Có thể nói động hướng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ là kết nối những nơi chốn, địa điểm ấy với những trải nghiệm riêng tư và miêu tả chúng trong mỹ cảm thị dân vốn bị kìm nén bởi quá trình cải tạo tư sản bắt đầu từ năm 1954 và sự chi phối của chủ nghĩa tập thể thời chiến. Trước hết, thơ Lưu Quang Vũ đem đến một diện mạo khác cho đường phố. Nếu đường phố trong thơ ca sử thi là không gian trảy hội, quy tụ toàn dân, không gian cho sự diễu hành biểu dương lực lượng thì giờ đây, trong thơ Lưu Quang Vũ, nó là không gian lang thang của người bộ hành cô độc. Con người trong thế giới sử thi không lang thang vì đó là thế giới tất định, hơn nữa, con người ấy luôn đi cùng đội ngũ, đồng hành cùng đoàn thể. Trong khi đó, lang thang là động thái con người xé lẻ khỏi tập thể, vì thế, trở nên đơn độc hay mất định hướng giữa đường phố vắng lặng hay xa lạ: “Tôi chán cả bạn bè/ Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới/ Tôi bỏ ra đi, họ ngồi ở lại/ Tôi đi một mình trong phố vắng ban đêm” (“Có những lúc”); “Người đàn bà mặc áo mưa xám/ Đội mũ nồi đàn ông/ Đi lang thang các thành phố/ Những bờ bể chênh vênh kè đá/ Những nhịp cầu những cửa kính mù sương” (“Thơ viết về một người đàn bà không có tên II), “Đêm nay, tôi chẳng biết lối về/ Phía nào cũng hàng rào trước mặt/ Thế giới có bao nhiêu tường vách/ Ngăn cản con người đến với nhau” (Mấy đoạn thơ…)… Motif lang thang trong thơ Lưu Quang Vũ khác với motif phiêu bạt, giang hồ trong thơ lãng mạn ở chỗ nhân vật trữ tình bị giới hạn trong không gian thành phố thay vì xê dịch tới một xứ sở, nơi chốn xa xôi nào khác: “Muốn lên tàu đi đâu thật xa/ Nhưng nhà ga đã sụp” (“Ngã tư tháng Chạp”). Nỗi bất an trong trải nghiệm lang thang giữa thành phố của Lưu Quang Vũ một phần quan trọng bắt nguồn từ nhận thức của ông về một thế giới đang hoặc dễ dàng bị mất đi ý nghĩa. Đó là thế giới nơi những tên gọi phố phường đã trở thành những ký hiệu rỗng: “Phố Hàng Buồm đã chẳng còn buồm/ Phố Hàng Lược chẳng còn ai bán lược/ Phố Hàng Bạc những người thợ bạc/ Đã chết cùng đêm hội ngày xưa/ Chợ Mơ không còn mơ…” (“Không đề I”), thế giới nơi nhân vật trữ tình nhận ra cái hư vô – thứ mà thời đại Lưu Quang Vũ cấm kỵ nhất – là thứ con người phải giáp mặt: “Không vị thần nào để tin/ Không quỷ ma nào để sợ…/ Không có cả một nỗi buồn để khóc/ Cũng chẳng có chiến lũy nào để chết/ Chúng ta làm gì cho hết buổi chiều nay?” (“Không”). Trong thành phố của Lưu Quang Vũ, mưa trở thành hiện tượng dễ làm con người e ngại bởi nó có khả năng xóa bỏ ý nghĩa của mọi thứ. Đúng như cảm nhận của Vương Trí Nhàn: “Ở anh (tức Lưu Quang Vũ – T.N.H), mưa cho thấy sự trôi qua của thời gian mà con người bất lực, không sao níu kéo nổi. Mưa làm cho hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên lờ mờ, không xác định”[4]: “Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ Xóa nhòa hết những điều em hứa” (“Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa”); “Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà/ Như thác trắng vỡ tan như bạc của trời như bước chân của ký ức/ Em vuốt nước mưa chảy ròng trên mặt/ Ngoảnh đầu nhìn về đâu?…/ Làm sao anh biết được/ Điều ta tìm ẩn hiện nơi đâu/ Mỗi con người một vật thể cô đơn/ Nhìn rõ nhau qua cửa kính trống trơn/ Nhưng không thể nghe nhau không thể nói…” (“Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà”); “Cánh hoa nhòe trong mưa tơi tả/ Như những gương mặt ngày xưa không còn ai nhớ nữa” (“Mặt trời trong nước lạnh”)…

Quán xá là một nơi chốn mang dấu ấn đặc biệt trong thơ Lưu Quang Vũ. Chưa có một khảo cứu nào về ý nghĩa văn hóa của nó trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt nhưng có thể thấy sau những cải tạo về cảnh quan và tổ chức xã hội kể từ 1954, quán xá là không gian hiếm hoi còn lại trong thành phố dành cho những cá thể lẻ bầy, chúng là nơi chốn riêng tư, thậm chí một không gian dân chủ nhỏ hẹp. Trong thơ Lưu Quang Vũ, quán xá là không gian nơi còn giữ được đôi nét phong lưu của đời sống thị dân. Đó là những tiệm cà phê với cửa kính, chiếc máy hát, tranh sơn dầu… Nhìn rộng ra, những địa điểm, nơi chốn và hiện vật của lối sống đô thị vẫn hiện diện, dù ít ỏi, trong thời chiến như rạp phim, nhà hát, những cuốn sách, những ca khúc nước ngoài…có lẽ là những nhân tố mở rộng tâm thức con người, nhen nhóm không chỉ “những giấc mơ êm đềm” mà còn cả “những giấc mơ nổi loạn”, bất chấp sự khắt khe của chủ nghĩa tập thể thời chiến trong việc kiểm soát tinh thần. Không gian còn giữ lại nét phong lưu của đời sống thị dân ấy làm nền để Lưu Quang Vũ khắc họa hình tượng người phụ nữ – đối tượng trữ tình của ông. Hình tượng nữ trong thơ ông toát lên một nét đẹp u uẩn sang trọng nhưng không kiểu cách, gần gũi nhưng vẫn có gì đó khó nắm bắt: “Người đàn bà chơ vơ/ Đi vòng quanh chiếc đĩa hát khổng lồ/ Trong bản nhạc đợi chờ của Gríc/ Gương mặt đẹp chập chờn sau lọ mực/ Khi âm thầm tôi viết những dòng thơ” (“Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên I”); “Trong tiệm cà phê, bài hát về một người đàn bà cầm trái táo/ Người đàn bà mặc áo xanh đi dưới biển lá cây vàng…/ Năm tháng và tuổi trẻ đi qua/ Mắt em buồn hoang vắng…” (“Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà”)…

Thành phố dù cho phép con người cô đơn nương náu nhưng như đã nói, nó vẫn cứ là không gian giới hạn, không làm khuây được những xáo động bất an trong nội tâm nhà thơ. Khát vọng giải thoát giới hạn trong thơ Lưu Quang Vũ được mã hóa thành hệ thống biểu tượng không gian cao rộng đối lập với thành phố theo cả trục ngang (“biển”, “chân trời”) và trục dọc (“bầu trời”, “mây trắng”). Đến lượt mình, các biểu tượng không gian cao rộng ấy lại là sự mã hóa một phạm trù thẩm mỹ mà Lưu Quang Vũ xác lập cho riêng mình – cái vô biên. Ngay cả trong những ngày tháng nhiều dày vò, dằn vặt nhất, sự hướng tới cái vô biên vẫn là một khắc khoải thường trực ở Lưu Quang Vũ: “Bỏ phường phố bỏ dòng sông anh tìm đến biển/ Dù muộn mằn dù tê dại bàn chân/ Trước mắt ta là khoảng vô cùng/ Mặt trời như cốc rượu nhớ mong/ Ta gửi lại muôn đời trên mỏm đá/ Có lẽ nào em lìa anh lần nữa?/ Tàu chạy ngược chiều đêm, em thiếp ngủ/ Bánh sắt ầm ầm bão lốc lao đi/ Tàu lửa bay vụt sáng cánh đồng khuya/ Đất quằn quại, đá nghiến răng vỡ nát/ Đường ray bỏng rung lên đau đớn/ Nhưng con tàu đang chạy tới một vầng trăng.” (“Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa”); “Mười bảy tuổi chúng ta thường tới đó/ Nói rất nhiều về những cửa biển xa” (“Quán cà phê ngoại ô”); “Vượt lên những vách tường chật hẹp/ Một chân trời xanh biếc lúc hoàng hôn?” (“Một thành phố khác một bờ bến khác”). Trong thơ Lưu Quang Vũ từ giữa thập niên 1970 trở đi, nỗi khao khát cái vô biên được thể hiện bằng một giọng điệu bớt khắc khoải hơn, thay vào đó, điềm tĩnh hơn, tin tưởng hơn, như điều mà nhà thơ nhận thức được trong bài “Giấc mơ của anh hề”: “Cái không thể nào tới được/ Đã giục con người/ Vươn đến những điều đạt tới… Đời sống là bờ/ Những giấc mơ là biển/ Bờ không còn nếu chẳng có khơi xa…”.  Cái vô biên là chiều kích khoáng đạt nhất của tâm hồn, tự do nhất của tinh thần, nó không đối lập với thực tại, con người tiệm cận với nó bằng sự chăm chút, trân trọng thực tại: “Không thể ôm cả bầu trời lồng lộng/ Nhưng có thể cầm một chùm quả trên tay/ Có thể trồng thêm một bóng mát cho ngày/ Không tới được một vì sao xa lắc/ Nhưng có thể đến trong mùa cấy gặt/ Làm thuyền trên sông, làm lúa trên đồng/ Làm ngọn lửa hồng, làm tấm gương trong/ Và nhận hết niềm vui trên cõi sống” (“Bài hát ấy vẫn còn là dang dở…”). Có thể nói đến một tâm thức hiện sinh trong thơ Lưu Quang Vũ bao hàm cả sự khủng hoảng niềm tin và nỗi khao khát tự do tinh thần tuyệt đích, mà dù ở cực nào, tâm thức ấy chưa bao giờ biến cái cao cả thành đối tượng để phủ định.

Sẽ là thiếu sót khi nói về thành phố của Lưu Quang Vũ mà không quan tâm tới gương mặt lịch sử của nó. Những năm 1970, Hà Nội, Hải Phòng – hai thành phố đi vào nhiều nhất trong sáng tác của Lưu Quang Vũ – trực tiếp trở thành mục tiêu của những trận bom lớn mà quân đội Mỹ dội xuống. Sự khốc liệt đó được tái trình hiện theo những cách khác nhau trong văn chương nghệ thuật ở giai đoạn này. Ở dòng chủ lưu, bộ phim Em bé Hà Nội (1974) của đạo diễn Hải Ninh tuy sản xuất sau thời điểm xảy ra vụ thảm sát do bom Mỹ ở phố Khâm Thiên (1972) nhưng có thể xem là một trong những tác phẩm sớm nhất, hơn thế còn mượn phương tiện tuyên truyền hiện đại nhất là điện ảnh, để biểu đạt sự kiện kinh hoàng này. Khung cảnh tang thương của Hà Nội được phóng chiếu trên màn ảnh, dĩ nhiên, trước hết là bằng chứng để tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ. Nhưng sự đau thương mà con người chịu đựng, theo logic của bộ phim nói riêng và của nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung, có thể được bù đắp bởi những chiến công. Âm hưởng anh hùng của những chiến công trở thành âm hưởng chủ đạo trong các tác phẩm xoay quanh sự kiện này. Nhưng có một cách tiếp cận khác về thành phố và chiến tranh thuộc về mạch ngầm của nghệ thuật mà phải đến giai đoạn về sau, khi không khí văn hóa cởi mở hơn, chúng mới được giới thiệu và được khẳng định giá trị như tranh của Trần Trung Tín, thơ Phan Vũ,… Trong hội họa của Trần Trung Tín, thành phố thời chiến là một không gian bóp nghẹt, dồn bức, một thế giới của những nỗi sợ hãi, tuyệt vọng, cay cực của những con người bé nhỏ bị cuốn vào cuộc chiến. Bức “Em Hà Nội” mà Trần Trung Tín vẽ trên giấy báo mà trên đó còn sót lại dòng tít lớn “Những trang sử” là một cách biểu cảm về con người thời chiến hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa vốn thường lãng mạn hóa, phi thường hóa hình tượng: ánh mắt thất thần, câm lặng như không thể hiểu mọi thứ tàn nhẫn đang diễn ra mà vẫn cứ phải chịu đựng.

Gương mặt lịch sử của thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ phần nào gần gũi với những cảm nhận của Trần Trung Tín ở tính chất phản sử thi của nó. Thành phố thời chiến, trước hết, là một quang cảnh điêu tàn, loạn lạc nơi con người thấm thía đến tận cùng nỗi cơ cực, khổ ải: “Gió hú ầm ào qua gạch vỡ/ Người chết vùi thân dưới hố bom/ Kẻ sống vật vờ không chốn ở/ Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường/…/ Máu chảy thành sông thây chất núi/ Bè bạn tan hoang mình rã rời” (“Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn”). Chiến tranh trong cái nhìn của Lưu Quang Vũ như một trò chơi nghiệt ngã, nhẫn tâm, mà càng nhỏ bé, càng bị xoay vần trong trò chơi ấy: “Mọi chuyện thiêng liêng thành nhảm nhí/ Khắp nơi trí trá lọc lừa nhau/ Nước Pháp khôn ngoan nước Nhật giàu/ Nước Mỹ lắm bom mà cực ác/ Nước Nga hiềm khích với nước Tàu/ Nước Việt đói nghèo thân cơ cực/ Đất hẹp trụi trần vạn khổ đau” (“Đêm đông chí…”). “Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn” có thể xem là một bài thơ đậm cảm thức bi kịch: con người không cưỡng lại được cuộc chiến như là định mệnh của mình, đối mặt với định mệnh phi lý ấy, cái khó nhất không phải sự né tránh chết chóc, thương vong mà là làm sao để dẫu bị cuốn vào guồng quay nghiệt ngã của cuộc chiến, vẫn không thể nghiệt ngã như nó, vẫn có thể giữ được cái đẹp đẽ và cao cả của sự làm người.

Thành phố thời chiến trong thơ của Lưu Quang Vũ có khi được hình dung như một thế giới biến loạn, mọi thứ đang rời rã, tha hóa, gợi liên tưởng đến cảm quan mạt thế. Bài “Móng tay trên đá” tưởng tượng về thành phố như một bộ lạc tàn lụi: “Người đàn bà trong thành phố không tên/ Tay lực lưỡng một ái tình hung tợn/ Những con tàu không lái buồm chí hướng/ Những cụ già như bao tải tả tơi/ …/ Ông luật sư ăn mày cửa chợ/ Phật Thích ca đẩy xe bán cá/ Cãi nhau với bác hàng thùng…/ Vị tộc trưởng kêu to: ngừng bắn/ Hãy chuyển sang trận đánh hoà bình/ Quân lính buông súng rút dao găm/ Giết nhau trong im lặng”. Cảm quan mạt thế thể hiện đậm nét nhất chính là trong chùm các bài thơ xoay quanh sự kiện Hà Nội chịu những trận ném bom kinh hoàng của Mỹ năm 1972. Bài thơ “Khâm Thiên” có thể ví như một bài thơ điện ảnh với những câu thơ tương ứng với nhiều cỡ cảnh khác nhau, khi toàn cảnh – “phố Khâm Thiên ầm ầm đổ sụp/ tiếng người la khủng khiếp đêm dài”, “phố đông đúc thành bãi bằng đổ nát/ không nhận ra những vỉa hè quen”, khi cận cảnh – “mặt giập vỡ ngực trần thủng hoác/ những đống tóc gân đầu mình lẫn lộn”, khi xoáy vào những cảnh ai oán tang tóc – “quan tài trẻ thơ như những chiếc hòm con”, “những bó hương châm nát cả bầu trời”, “báo đậy mặt, ruồi đậu bàn chân xám”, khi lia vào những gương mặt người, mỗi gương mặt lại biểu hiện những tình trạng sang chấn khác nhau – “bé ngẩng đầu ngơ ngác/ bên xác anh xác chị xác mẹ xác cha”, “bà cụ phát điên vật mình ôm mặt”, “tôi đi như mù lòa/ đỡ em gái đập đầu ngã ngất”…  Thảm kịch mà Lưu Quang Vũ chứng kiến trên thành phố của mình là sự lên ngôi của cái phi nhân đang vươn rộng toàn cầu bất chấp “trái đất phóng bao tàu vũ trụ”, bất chấp “không nơi nào không nói đến tình thương”. “Khâm Thiên” của Lưu Quang Vũ từng được ví như một Guernica bằng ngôn từ, cho dù ngay trong bài thơ này, ông cho rằng những gì mà Picasso thể hiện trong kiệt tác của mình cũng không kinh hoàng, thê thảm bằng những gì mà người dân thành phố của ông đang phải chịu đựng. Ám ảnh tận thế của bài thơ không phải chỉ được gợi lên từ những hình ảnh chết chóc, lụi tàn mà còn từ nỗi ngao ngán, mỉa mai đến tột cùng của nhân vật trữ tình khi thấy những biểu tượng hùng mạnh nhất của nền văn minh hiện đại lại là những thứ có khả năng thảm sát con người lớn nhất, những nhân vật quyền lực nhất trên bàn cờ chính trị, hay nói lên những mỹ từ về thế giới, lại là những người ra những quyết định phi nhân tàn bạo nhất.

Có thể nói sự kiện Hà Nội bị ném bom đã thôi thúc cái tôi trữ tình công dân ở Lưu Quang Vũ lên tiếng. Đặt bên cạnh Phan Vũ, người viết khúc cầu hồn cho Hà Nội bằng trường ca “Em ơi! Hà Nội phố” (1972), gợi lại những gì còn lại sau khi thành phố trải qua thảm họa – những thứ tưởng như rất đỗi nhỏ bé, mơ hồ, mong manh hóa ra lại là những gì bền vững nhất, không bom đạn nào hủy hoại nổi, Lưu Quang Vũ có một cách ứng xử nghệ thuật khác trong chùm thơ Hà Nội 1972. Ngôn ngữ của ông là thứ ngôn ngữ của phim tài liệu ký sự về cuộc chiến – hình ảnh bộn bề tựa như từ hiện thực trực tiếp bước vào thơ ca. Điểm nhấn trong cách tạo hình ở chùm thơ là những náo động dữ dội mang màu sắc tận thế: “Dưới vầng trăng tê dại nỗi kinh hoàng/ Bom xé trời, mắt đất chao nghiêng/ Vụt mở hoác những vực sâu khủng khiếp” (“Ghi vội một đêm 1972); “còi báo động ngày đêm gầm thét/ như tiếng rú con bò khổng lồ/ trên nóc nhà bị kẻ nào chọc tiết/ thành phố nửa đêm chạy giắc/ trăng đỏ ngầu trong tiếng ve sôi” (“Hồ sơ mùa hạ 1972”). Hà Nội trong trường ca của Phan Vũ vẫn còn nén cái đau vào cái đẹp, như thể đó là phương cách để thành phố hồi sinh. Trong thơ Lưu Quang Vũ, cái đau của thành phố được phô bày trần trụi qua bút pháp tốc ký, không nén, không ẩn vào đâu cả. Như chính lời của nhà thơ, người muốn lãnh vai trò chứng nhân cho tấn thảm kịch này mà đối với ông, không ai, kể cả ông, có thể cho mình vô can trước những nỗi đau tột cùng mà con người phải chịu đựng: “kẻ làm chứng trung thành/ trước phiên tòa lịch sử/ giữa tột cùng đau khổ/ đâu dám ngồi trau chuốt mỗi câu thơ” (“Khâm Thiên”). Mặt bên kia của cảm quan mạt thế chính là nỗi mong đợi khả năng phục sinh. Trong những ngày tháng tận cùng khổ đau ấy, thứ con người không thể để mình bị thao túng là nỗi sợ hãi: “Thành phố thân yêu không nhỏ bé như em/ Để anh ôm trong vòm tay che chở…/ Và chúng ta không có quyền được sợ/ Nếu nỗi đau làm ngực anh buốt giá/ Nếu những cánh tay buông thõng rã rời/ Giấc ngủ trẻ thơ giấc ngủ ngày mai/ Sẽ lấy gì sưởi ấm?” (“Ghi vội một đêm 1972”).  Trẻ thơ, trong những bài thơ về chiến tranh của Lưu Quang Vũ, là những người dễ bị tổn thương nhất, nỗi đau đớn mà trẻ thơ phải gánh chịu bởi bom đạn là bằng chứng cho sự phi nhân của chiến tranh. Song trẻ thơ lại cũng là biểu tượng của sự khởi nguyên, là tín hiệu của sự phục sinh ngay từ hiện tại đổ nát: “lũ trẻ hò hét om sòm/ thân trần trụi trên mặt đường nóng bỏng/ chúng thả những con diều trắng/ lên vô biên thăm thẳm của trời hè” (“Hồ sơ mùa hạ 1972”).

Có thể nói, trong thơ Lưu Quang Vũ, thành phố được kiến tạo với cấu trúc riêng: nó là thành phố ngoại biên trong tương quan với thành phố sử thi, thành phố ấy là quỹ tích của những không gian điểm có tính chất bên lề khác, nơi mỹ cảm thị dân được bảo lưu và đó cũng là một cơ thể mang thương tích chiến tranh – một cơ thể chịu nạn để chuẩn bị cho một sự phục sinh khác. Thành phố ấy vẫn sở hữu trong nó những bí mật bởi nó là sự mã hóa thế giới tinh thần của Lưu Quang Vũ ở giai đoạn phức tạp nhất, khi ông không giấu giếm những hoài nghi, không thôi chất vấn thế giới, không ngừng day dứt với chính mình. Bởi thế, nó vẫn còn mời gọi những khám phá từ những cách đọc khác.

Trần Ngọc Hiếu

Bài đã in trong  Lưu Quang Vũ – Những đối thoại nghệ thuật, Viện Văn học – Đại học Duy Tân & NXB Đà Nẵng, 2018, trang 246-258.

—————————————-

[1] Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2012, trang 44.

[2] Vương Trí Nhàn, “Lưu Quang Vũ và một mảng đời mảng thơ thường bị lãng quên” in trong Cây bút đời người (Chân dung văn học), NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002, trang 34.

[3] Vương Trí Nhàn, tlđd, trang 34.

[4] Vương Trí Nhàn, tlđd, trang 35.

Sara Mills – Các cấu trúc của diễn ngôn

Bài dịch dưới đây là toàn bộ chương 3 “Discursive Structures” trích từ cuốn Discourse (Routledge, 2004, trang 52-77) của Sara Mills. Bản dịch được thực hiện cách đây khá lâu, nhưng chưa từng công bố ở đâu, chỉ biết là trong số khá nhiều các luận văn trong ngành văn học có sử dụng quan điểm về diễn ngôn của Foucault có dẫn lại những gì tôi đã dịch.

Nhân dịp có người bạn hỏi về bản dịch này, tôi nghĩ có lẽ cũng nên công bố luôn, để cho blog khỏi trống, nhưng quan trọng hơn, là có thể nhờ sự góp ý của mọi người, bản dịch sẽ hoàn thiện hơn, nhận thức của tôi sẽ thấu đáo hơn. Vì hiểu Foucault và thuật ngữ ông không hề đơn giản. Bản dịch, cũng như cách hiểu của tôi, hẳn còn nhiều chỗ chưa thông đạt.

*

foucault-balcony

Chương 3

CÁC CẤU TRÚC DIỄN NGÔN

 

Cách phân tích theo quan điểm cấu trúc luận chủ yếu tập trung vào việc vạch ra các quy luật chi phối sự tạo lập các văn bản và hệ thống biểu nghĩa; những lý thuyết gia như Roland Barthes và Michel Foucault đều không chỉ quan tâm đến các cấu trúc có thể tìm thấy được trong các tạo tác văn hóa như văn bản mà còn chú ý đến những cấu trúc lớn hơn có thể phát hiện được trong bản thân diễn ngôn. Một trong những nhận định quan trọng được Michel Foucault trình bày trong cuốn Khảo cổ học tri thức (1972) là: diễn ngôn không đơn thuần là sự quy tụ các phát ngôn, được nhóm lại xung quanh một đề tài hay chủ đề, cũng không phải là một tập hợp các phát ngôn bắt nguồn từ một bối cảnh mang tính thiết chế cụ thể; diễn ngôn là tập hợp các phát ngôn hay nhận định chịu quy định nghiêm ngặt với các quy luật nội tại đặc thù của bản thân diễn ngôn. Diễn ngôn cũng cần phải được xem là tập hợp các phát biểu, nhận định được quy định bởi quan hệ giữa nó với các diễn ngôn khác. Như Julian Henriques đã diễn giải:

Các quy luật này không chỉ là các quy luật nằm bên trong diễn ngôn mà còn bao hàm các quy luật về sự kết hợp với các diễn ngôn khác; quy luật về sự sai khác giữa các loại diễn ngôn (ví dụ, diễn ngôn khoa học tương phản với diễn ngôn văn chương, v.v…); quy luật về sự tạo lập các nhận định khả hữu. Các quy luật này định ra cái có thể nói ra. Song… chúng không hàm ẩn một sự đóng kín. Tính hệ thống của một diễn ngôn bao hàm cả sự ăn khớp hệ thống của nó với các diễn ngôn khác. Trên thực tế, các diễn ngôn phân định cái có thể được nói ra trong khi cung cấp không gian – các khái niệm, ẩn dụ, mô thức, sự đồng dạng, để tạo ra những nhận định mới bên trong bất kỳ diễn ngôn đặc thù nào… mọi diễn ngôn đều là hệ quả của một thực hành tạo lập mà cùng lúc, vừa mang tính vật chất, tính diễn ngôn và tính phức hợp, luôn luôn nằm nội tiếp với các thực hành khác của việc tạo lập diễn ngôn. Diễn ngôn nào cũng đều là một phức hợp diễn ngôn; chúng bị khóa lại trong một mạng lưới rối rắm của các thực hành, và chúng ta luôn phải ghi nhớ rằng mọi diễn ngôn, xét về mặt định nghĩa, vừa mang tính chất ngôn ngữ vừa mang tính vật chất.

(Henriques, trích lại trong Kendall và Wickham, 1999:41)

Trong chương này, tôi sẽ bàn về cái “mạng lưới của các thực hành” này – những yếu tố cấu thành bản thân diễn ngôn – cái thành tố trừu tượng hơn mà các diễn ngôn cụ thể được tạo lập bên trong nó. Diễn ngôn như một tổng thể bao hàm các diễn ngôn bị quy định. Các quy luật và cấu trúc của diễn ngôn không khởi phát từ các nhân tố kinh tế, văn hóa theo cách hiểu thông thường, mặc dù có thể chúng được nhào nặn bởi những nhân tố này; đúng hơn, chúng là một đặc điểm của bản thân diễn ngôn và được định hình bởi những cơ chế nội tại của diễn ngôn và những mối quan hệ giữa các diễn ngôn. Cả Barthes và Foucault trong các công trình về sau của mình đều rời bỏ giả thuyết ban đầu này song việc giữ lại quan điểm về diễn ngôn như là cái chịu chi phối bởi luật lệ và được cấu trúc từ bên trong vẫn có ý nghĩa quan trọng (Moss, 1998). Do đó, nghiên cứu diễn ngôn không đơn giản chỉ là việc phân tích các phát ngôn và nhận định; nó còn là sự quan tâm đến các cấu trúc và quy luật của diễn ngôn. Các cấu trúc và quy luật này là trọng tâm của chương sách. Foucault đã gọi kiểu phân tích các cấu trúc diễn ngôn này là “khảo cổ”. Theo ông, khảo cổ:

“không hàm ý nói đến việc truy tìm một khởi nguyên; nó cũng không liên quan đến sự khai quật địa chất. Nó biểu thị chủ đề bao trùm một sự miêu tả mà sự miêu tả ấy tra vấn những gì đã được nói ra về sự tồn tại của chúng, về chức năng bộc lộ vận hành bên trong chúng, về sự kiến tạo diễn ngôn, về thư khố chung mà chúng thuộc về. Khảo cổ mô tả các diễn ngôn như là các thực hành được xác định rõ trong thành phần của thư khố.” (Foucault,1972:31).

Cách phân tích khảo cổ học theo như mô tả trên đây, nghe qua, có vẻ như rất khó ứng dụng; trên thực tế, Foucault chỉ muốn nhấn mạnh rằng phân tích các cấu trúc của diễn ngôn chủ yếu không phải để bóc trần sự thật hay nguồn gốc của một nhận định, mà đúng hơn là để khám phá các cơ chế có tính chất bệ đỡ cho phép cái gì có thể được nói ra và đặt nó đúng vị trí. Các cơ chế bệ đỡ này vừa nằm bên trong bản thân diễn ngôn, vừa là cái bên ngoài diễn ngôn, có nghĩa là, chúng mang tính chất xã hội-văn hóa. Vì thế, trong trích dẫn ở trên, Foucault chú ý đến việc đặt các nhận định vào trong các khung diễn ngôn của chúng; do vậy, các nhận định không tồn tại cô lập vì có một tập hợp các cấu trúc khiến cho những nhận định trên trở nên có nghĩa và trao cho chúng quyền uy.

Trước khi bắt đầu mô tả các cấu trúc diễn ngôn, cần thiết phải mô tả quan hệ giữa diễn ngôn và cái thực. Trọng tâm tác phẩm Khảo cố học tri thức của Foucault chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa các văn bản và diễn ngôn với cái thực và sự kiến tạo cái thực bởi các cấu trúc diễn ngôn. Một cách hiểu phổ biến cho rằng cái thực được mô tả như là một tập hợp các kiến tạo được hình thành qua diễn ngôn. Nhưng chính Foucault chưa bao giờ đưa ra định nghĩa như vậy về cái thực; theo ông, chúng ta chỉ có thể tiếp cận với các cấu trúc diễn ngôn xác định những hình dung của chúng ta về cái thực. John Frow bình luận: “Tính diễn ngôn là một thực tại được kiến tạo về mặt xã hội, vừa kiến tạo nên cái thực lẫn cái tượng trưng và cả sự phân biệt giữa chúng. Tính diễn ngôn quy định cấu trúc cho cái thực nhưng đồng thời chính lúc đó, nó lại là một sản phẩm và một khoảnh khắc của các cấu trúc của cái thực.” (Frow, 1985:200). Đã có rất nhiều những tranh cãi khá vô bổ về việc liệu Foucault thực ra có phủ nhận sự hiện hữu của cái thực hay không khi ông nhấn mạnh vào quyền năng kiến tạo của diễn ngôn; đặc biệt các nhà sử học đã phê phán ông gay gắt vì đã phủ nhận sự tồn tại của các sự kiện lịch sử (xem Taylor, 1986 để nắm bắt tổng quan lịch sử vấn đề). Tuy nhiên, có lẽ hữu ích hơn khi xem xét quan điểm của Foucault về mối quan hệ giữa diễn ngôn và cái thực theo chiều hướng mà Laclau và Mouffe đã vạch ra:

Việc mọi khách thể đều được cấu tạo như là khách thể của diễn ngôn không liên quan gì đến việc liệu có một thế giới nằm bên ngoài tư tưởng không, cũng như không liên quan gì đến sự đối lập giữa chủ nghĩa hiện thực/chủ nghĩa lý tưởng. Một trận động đất hay một viên gạch rơi là một sự kiện chắc chắn hiện hữu, nghĩa là, nó xảy ra ở đây và bây giờ, độc lập với ý chí của tôi. Song đặc trưng của chúng được kiến tạo dưới dạng là “các hiện tượng tự nhiên” hay là “sự biểu lộ cơn giận dữ của Thượng Đế” lại phụ thuộc vào sự cấu trúc hóa một trường diễn ngôn. Cái bị phủ nhận ở đây không phải là những khách thể tồn tại bên ngoài tư tưởng như thế, mà đúng hơn là một xác quyết khác, rằng chúng có thể tự kiến tạo chính chúng như là các khách thể, nằm bên ngoài bất kỳ một điều kiện diễn ngôn nào cho sự xuất hiện.

(Laclau và Mouffe, 1985: 108).

Như thế, không phải Foucault phủ nhận sự tồn tại của cái thực; ngược lại, ông khẳng định cái mà chúng ta xem là có ý nghĩa và cách chúng ta diễn dịch các khách thể, sự kiện, đặt chúng bên trong các hệ thống của ý nghĩa phụ thuộc vào các cấu trúc của diễn ngôn. Các cấu trúc diễn ngôn đó, theo Foucault, khiến các khách thể, sự kiện hiện diện trước chúng ta như là cái thực, mang tính vật chất và có ý nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm về tính vật chất của các cấu trúc diễn ngôn đã nhận được nhiều phản biện từ các lý thuyết gia, trong đó đáng kể nhất là Terry Lovell, khi bà phê bình chính quan điểm mang tính chất tiền định này: ‘các ký hiệu không thể được phép nuốt trọn tất cả những cái quy chiếu của mình trong một chuỗi biểu nghĩa bất tận mà ở đó, một ký hiệu luôn trỏ một ký hiệu khác và chu trình này không bao giờ bị phá vỡ bởi sự xâm nhập của cái mà ký hiệu quy chiếu đến’ (Lovell 1980:16). Tuy nhiên, mặc dù Foucault cho rằng các diễn ngôn cấu trúc nên cảm quan của chúng ta về thực tại nhưng ông không xem những hệ thống này là trừu tượng và đóng kín. Ông quan tâm đến cách mà các diễn ngôn cho ta biết phạm vi cho phép chúng ta suy nghĩ và hành động của chúng ta chỉ trong một số giới hạn nhất định ở mỗi tình thế lịch sử. Do đó, tuy xem cái thực là cái được kiến tạo nhờ những áp lực của diễn ngôn nhưng ông cũng ý thức rất rõ về tác động của cái ‘thực tại’ này đối với suy nghĩ và hành vi của con người.

Theo Foucault thì sự tri nhận của chúng ta về các khách thể được hình thành bên trong những giới hạn của những sự cưỡng chế diễn ngôn: diễn ngôn được xác định bởi “sự phân định một trường khách thể, sự xác lập một vị thế hợp pháp đối với tác nhân của tri thức, và sự cố kết các quy tắc đối với việc phát triển các khái niệm hay lý thuyết” (Foucault, 1977a: 199). Ta hãy phân tích chi tiết hơn ba nhân tố được xác nhận trong trích dẫn trên. Điều đầu tiên cần lưu ý là, theo Foucault, diễn ngôn gây ra một sự thu hẹp trường nhìn của con người, để loại trừ một phạm vi rộng các hiện tượng không được coi là thực hay đáng chú ý, thậm chí hiện hữu; do đó, việc định ra một trường khách thể là bước đầu tiên nhằm thiết lập một loạt các thực hành diễn ngôn. Sau đó, để một diễn ngôn hay một khách thể được kích hoạt, được xem như hiện hữu, kẻ nhận thức phải xác lập được quyền cho mình được lên tiếng. Do đó, đường vào diễn ngôn được xem là không thể tách rời với vấn đề quyền uy và tính hợp pháp. Cuối cùng, mỗi một hành động, bằng cách nào đó, vạch ra những cách sử dụng khả dĩ mà nhận định đó có thể tạo nên (mặc dù dĩ nhiên những hành động này không nhất thiết là cái đã xảy ra với nhận định đó). Mỗi một nhận định lại dẫn đến một nhận định khác và, theo nghĩa nào đó, nó đã phải gắn vào trong mình những giới hạn của những cách thức khả hữu mà theo đó, những phát ngôn tương lai có thể hình thành. Diễn ngôn, theo Foucault, cấu thành nên những khách thể cho chúng ta. Một trong những trích dẫn nổi tiếng nhất của Foucault về sự cấu thành khách thể là: “Chúng ta không được tưởng tượng rằng thế giới hướng về chúng ta với một khuôn mặt có thể đọc ra dễ dàng và chúng ta chỉ có việc giải mã nó mà thôi. Thế giới không phải là kẻ đồng lõa với tri thức của chúng ta; không có một thượng đế tiền diễn ngôn nào bày đặt ra thế giới theo cách có lợi cho ta.” (Foucault, 1981:67). Có nghĩa là, không có một trật tự nội tại nào của thế giới ngoài cái trật tự mà ta áp đặt lên thế giới thông qua sự miêu tả bằng ngôn ngữ về nó. Một ví dụ về sự cấu thành khách thể thông qua diễn ngôn là những thay đổi về ranh giới được vạch ra giữa động vật và thực vật qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở thế kỷ XIX, vi khuẩn được xếp vào loại “động vật” trong khi bây giờ chúng được xem là một loại riêng. Một vài sinh vật được đẩy từ loại này sang loại khác, ví dụ như tảo, rêu, nấm, tảo cát và các vi sinh vật khác. Trên thực tế, các loài “thực vật” và “động vật” liên tục được định nghĩa lại bởi việc sinh thể nào được đặt vào trong từng loại – một hệ thống phân loại xuất hiện sau, mang tính diễn ngôn hơn là được xác định bởi bản chất “thực” của các loài thực vật và động vật. Các loài thực vật, động vật có chung nhiều thành tố song việc chúng ta tách chúng làm hai nhóm cho thấy ta tập trung vào sự khác biệt giữa hai loài hơn là những đặc điểm chung giữa chúng. Sự thay đổi ranh giới giữa chúng thể hiện rõ rằng không có một thứ ranh giới tự nhiên, có sẵn giữa đời sống thực vật và động vật, mà vì con người thấy cần thiết phải vạch ra ranh giới này. Có thể sẽ hữu ích hơn khi xem sự khác biệt giữa động vật và thực vật như là tập hợp những điểm dị biệt giữa những sinh vật đồng loại hay như một thể liên tục nhưng trong phương thức tư duy phổ biến về vấn đề này, người ta thấy cần thiết phải tách bạch thực vật và động vật làm hai loài riêng biệt. Có thể liên hệ điều này với việc chúng ta đã không còn ở thế kỷ XIX, thời mà đầu óc của con người còn có khả năng bách khoa để đảm nhận những công việc đa ngành; thay vào đó, ở thời hiện tại, thực vật học và động vật học được xem là hai bộ môn khoa học độc lập, thuộc các khoa độc lập ở trường đại học, mỗi môn có phương pháp luận riêng cũng như mối quan tâm riêng.

Thêm một ví dụ nữa cho thấy cách mà những ranh giới mang tính diễn ngôn đã cấu trúc nên cái mà chúng ta nghĩ là những phân loại thực tế là bảng phân loại thực vật của Linnaeus. Khi các nhà thực vật học thế kỷ XIX đến các xứ ngoại quốc để tìm hiểu các loài thực vật, họ mang theo mình một hệ thống phân loại vốn được Linnaeus xây dựng để phân loại các loài thực vật ở châu Âu. Như Mary Louise Pratt đã chỉ ra, điều này nghĩa là các loài cây cỏ được người châu Âu “khám phá” ở Ấn Độ và châu Phi được phân loại theo một hệ thống phân loại của châu Âu có tham vọng trở thành một hệ thống mang tính phổ quát toàn cầu (Pratt, 1992). Các loài thực vật bị trừu xuất khỏi những hệ thống phân loại mà người dân bản địa đã xây dựng để mô tả các đặc điểm, công dụng và môi trường sống của chúng, và chúng trở thành bộ phận của một dự phóng lớn hơn của chủ nghĩa thực dân, nhằm thể hiện sức mạnh “văn minh” của thế lực này. Các loài thực vật đã không còn được nhìn theo hệ thống phân loại nguyên khởi, vốn thường liên hệ với công dụng y học, giá trị dinh dưỡng, mối quan hệ của chúng với những thành tố khác trong một hệ sinh thái và vị trí của chúng bên trong một hệ thống mang tính vũ trụ quan và tượng trưng; đúng hơn, chúng được nhìn nhận tách rời khỏi ngữ cảnh, chỉ xét theo sự tương đồng hoặc không tương đồng về mặt hình thái (cấu trúc thực vật) với các chủng loại thực vật ở châu Âu. Khi những chủng loại thực vật được người châu Âu “phát hiện” thì tên của chúng bị thay đổi, từ tên bản địa sang những sự phân loại xuất phát từ hệ thống của Linnaeus (tức là căn cứ theo sự tương đồng với những cái tên Latin trước đó) và thường thì chúng được đặt tên theo người châu Âu đã “phát hiện” ra chúng. Như thế, chính thứ tri thức dĩ Âu vi tâm mang tính toàn cầu này không đơn giản chỉ đặt tên lại cho vài loài cây cỏ mà nó còn tẩy xóa những tri thức bản địa và chuyển tri thức về các loài thực vật ở những đất nước ngoài châu Âu thành tri thức thực dân (Mills, 1994b).

Diễn ngôn không đơn thuần kiến tạo các khách thể vật chất như những nhóm thực vật cụ thể; diễn ngôn còn kiến tạo cả một số sự kiện và các chuỗi sự kiện thành các tự sự được một nền văn hóa cụ thể nào đó nhìn nhận như là chuyện có thực hay là những sự kiện quan trọng. Ví dụ, trong các nền văn hóa châu Âu, việc sẩy thai chỉ đơn thuần là việc một cái thai bị hỏng, chứ không hẳn là cái chết của một ấu nhi. Vì thế, không có các cấu trúc được nghi thức hóa (như lễ tang chẳng hạn) trong đó, những người bị sẩy thai có thể giải quyết sự mất mát của mình. Thông qua diễn ngôn, sẩy thai được kiến tạo như một sự kiện đã không xảy ra chứ không phải có tư cách của một sự kiện có thực. Theo cách tương tự, những quan hệ không dẫn đến việc đôi lứa chung sống với nhau hoặc đi đến kết hôn được nhiều người xem không phải là chuyện gì nghiêm trọng. Do đó, chỉ một tự sự mang tính chất răn đe trong địa hạt diễn ngôn về tình yêu lãng mạn mà thôi: có nhiều con đường để mỗi cá nhân xây dựng quan hệ của mình với người khác, nhưng chuỗi tự sự đặc biệt này, vốn thường kết thúc bằng một cảnh hôn nhân nào đó, đã loại trừ một số kiểu quan hệ khi không tính đó là là những quan hệ thực (Mills và White, 1999).

Khi coi các khách thể và ý niệm được con người và các thiết chế tạo nên và chính điều này đã kiến tạo nên thực tại cho chúng ta, quan điểm của Foucault đã bị phê phán vì có vẻ như ông cho rằng chẳng có gì là phi diễn ngôn và nằm ngoài diễn ngôn. Nhưng Foucault không phủ nhận rằng có một thực tại tồn tại trước con người, ông cũng không phủ nhận tính vật chất của các sự kiện và kinh nghiệm như một số người phê bình ông quy kết; vấn đề chỉ là cách duy nhất mà chúng ta có thể lĩnh hội thực tại là thông qua diễn ngôn và các cấu trúc của diễn ngôn. Trong quá trình lĩnh hội, chúng ta phân loại và diễn dịch kinh nghiệm và các sự kiện theo những cấu trúc mà chúng ta có sẵn và trong quá trình diễn dịch, chúng ta cấp cho những cấu trúc này một sự kiên cố khiến người ta thường khó nghĩ được điều gì bên ngoài chúng. Foucault không xem những cấu trúc này đơn thuần là phát kiến của những thiết chế hoặc những nhóm quyền lực như một số nhà tư tưởng Marxist khi họ xác lập quan niệm về hệ tư tưởng, ông cũng không cho rằng chúng chỉ là cái mang tính trừu tượng và võ đoán. Đúng hơn, ông nghĩ rằng có một thứ hợp lực giữa áp lực của thiết chế và văn hóa, cùng với cấu trúc nội tại của diễn ngôn, đưa chúng ta diễn dịch cái thực thông qua những cấu trúc đã được hình dung từ trước.

Phân tích của Roland Barthes về các cấu trúc diễn ngôn trong Những phiến đoạn: Diễn ngôn của một tình nhân (1990), có thể xem như một sự bổ túc cho công trình của Foucault, hiểu theo nghĩa, ông cũng quan tâm mô tả những cấu trúc mà bên trong những cấu trúc này, những cá nhân đang yêu phó mặc cho những phép diễn đạt, tâm trạng, cảm xúc, cử chỉ, giọng điệu mà diễn ngôn của tình nhân bày ra cho họ. Barthes coi tất cả những yếu tố được cấu trúc hóa này cấu thành nên cái mà ông gọi là “những phiến đoạn”, từ đó tạo thành diễn ngôn như một chỉnh thể. Ông viết:

“trong bất kỳ một mối tình nào, những hình tượng xuất hiện trước người tình không theo một trật tự nào cả, vì mỗi lần xuất hiện, chúng lại phụ thuộc vào một sự cố (nội tại hoặc ngoại tại?)… chủ thể yêu đương dựa vào một nguồn dự trữ (hay một bộ từ điển từ đồng nghĩa?) những hình tượng… những hình tượng phi ngữ đoạn, phi tự sự.” (Barthes, 1990:6-7).

Giọng điệu băn khoăn của Barthes trong trích dẫn trên điển hình cho sự phân tích của ông đối với các cấu trúc diễn ngôn nói chung – ông muốn phân tích cách mà các hình tượng này quy định những xúc cảm và kinh nghiệm mà người đang yêu trải nghiệm trong khi không cần phải bận tâm lý giải hay khám phá nguồn gốc những hình tượng này. Do đó, ông mang đến cho độc giả một danh sách những phiến đoạn được sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái mà ông cho rằng, chúng kiến tạo nên diễn ngôn của tình nhân; những hình tượng này trải ra trên một phạm vi rộng, từ miêu tả những trạng thái như đợi chờ, lừa dối, vắng mặt đến những phân tích về đặc trưng ngôn ngữ của những người đang yêu. Đó là phép thử những giới hạn của cá nhân bên trong diễn ngôn hơn là một nỗ lực nhằm sơ đồ hóa “ngữ pháp” diễn ngôn của người đang yêu. Có thể thấy rõ ông chọn phân tích phân tích diễn ngôn của người đang yêu vì nó ngay lập tức và đồng thời là thứ kinh nghiệm mang tính chất cá nhân sâu sắc nhất đối với hầu hết mọi người và cũng là thứ được cấu trúc hóa cao độ về mặt diễn ngôn. Có lẽ, sự nước đôi này có liên hệ với thực tế rằng đó là thứ kinh nghiệm kiểm tra quyền năng biểu hiện của con người nhiều hơn cả: Barthes cho rằng dường như nó giống như là chỗ “tận cùng của ngôn ngữ”, nơi mà trên thực tế, người ta có thể lặp đi lặp lại không ngừng ‘Anh yêu em vì anh yêu em’ (ibid.: 21). Thể nghiệm mô tả những cấu trúc diễn ngôn của tình ái của Barthes mang những ngụ ý sâu rộng hơn đối với việc phân tích diễn ngôn nói chung. Phiến đoạn, như một bộ phận cấu thành diễn ngôn, rõ ràng là một cách gợi ý để vạch ra những cấu trúc này.

Tuy nhiên, để tìm hiểu chi tiết hơn một số những thành tố của diễn ngôn, tôi sẽ trở lại với Foucault, vì tác phẩm của ông có lẽ mang “tính ngữ pháp” (grammatical) rõ hơn và theo nghĩa nào đó, dễ ứng dụng hơn đối với những ngữ cảnh khác. Tôi sẽ khảo sát những cấu trúc mà Foucault cho rằng chúng mang tính nội tại đối với diễn ngôn, nổi bật hơn cả là tri thức hệ (episteme), nhận định (statement), diễn ngôn (discourse) và thư khố (archive). Các đường biên và giới hạn là rất quan trọng trong việc vận hành những phạm trù và cấu trúc này, và do đó, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu những cách thức mà theo đó, cấu trúc quan trọng nhất của diễn ngôn đảm nhiệm chức năng loại trừ hơn là những bộ phận cấu thành. Từ đó, tôi sẽ xem xét cách mà các diễn ngôn nhất định được lưu thông và duy trì sự tồn tại của mình trên thực tế.

 

TRI THỨC HỆ (EPISTEME)

Xem thế giới khách thể được kiến tạo bởi các thiết chế trong các nhóm xã hội, đặc biệt là thông qua ngôn ngữ, là điểm chung của rất nhiều những lý thuyết gia và các nhà ngôn ngữ học hậu cấu trúc. Song Foucault có lẽ là lý thuyết gia duy nhất đặc biệt chú trọng xem xét sự biến đổi theo thời gian của những hệ thống diễn ngôn này và những biến đổi mà điều này, đến lượt nó, gây ra đối với cảm quan của những nền văn hóa đó về thực tại. Trong Khảo cổ học tri thức (1972), Foucault đã cố gắng phác dựng những biến đổi này một cách hệ thống, từ đó, xác định những giới hạn diễn ngôn của một tri thức hệ, tức, một tập hợp các cấu trúc diễn ngôn nói chung mà bên trong tập hợp này, một nền văn hóa xác lập nên những ý niệm của nó1. Các nhóm diễn ngôn hình thành nên các cấu trúc của một khung tri thức và như Macdonnell phát biểu, một tri thức hệ có thể được hiểu như là nền tảng của tư tưởng mà trên đó, tại một thời điểm cụ thể, một số nhận định này – mà không phải những nhận định khác – được coi là tri thức (Macdonnell, 1986: 87). Những nhóm đơn vị diễn ngôn này không tạo thành một thế giới quan, vì điều này xác nhận một sự mạch lạc, nhất quán của các ý niệm. Như thế, chúng ta có thể bàn về “thế giới quan lãng mạn” hay “thế giới quan thời Elizabeth”, tức nền tảng triết học và văn hóa của một nhóm người cụ thể. Thay vào đó, một tri thức hệ lại bao hàm tổng cộng các cấu trúc diễn ngôn hình thành như là kết quả từ sự tương tác của nhiều loại diễn ngôn đang lưu thông và được ủy quyền (authorised) ở một thời điểm xác định. Do vậy, một tri thức hệ bao hàm các phương pháp luận mà một nền văn hóa mặc nhiên dựa vào đó để có thể tư duy về một số chủ đề nhất định. Foucault cho thấy, trong mỗi thời kỳ, thường có một xu thế cấu trúc suy nghĩ của con người về một chủ đề nào đó, theo một cách đặc thù nào đó và vạch ra những quy cách (procedures) cũng như những điểm tựa cho tư duy. Chẳng hạn, ở thời Victoria, tư tưởng khoa học được đặc trưng bởi khuynh hướng tạo ra những bảng biểu chi tiết, gọi tên và hệ thống hóa những chất liệu có vẻ như không đồng chất thành những hệ thống phân loại rất nghiêm ngặt. Có thể lấy bảng phân loại trong cuốn Các tộc người(1873-9) của Brown làm ví dụ:

Bảng liệt kê tên các dạng người lai ở Peru do Tschudi lập nên minh hoạ cho tính chất lai tạp của cộng đồng người châu Mỹ gốc Tây Ban Nha ở Peru

 

Cha mẹ Con
Cha da trắng và mẹ da đen Multato
Cha da trăng và mẹ da đỏ Mestiza
Cha da đỏ và mẹ da đen Chino
Cha da trắng và mẹ mulatto Cuateron
Cha da trằng và mẹ chino Creole (da nâu nhạt)
Cha da trắng và mẹ chino Chino-blanco
Cha da trắng và mẹ cuateron Quintero
Cha da trắng và mẹ quinteron Trắng

… Và cứ như thế, còn thêm 32 dạng người lai nữa giữa da trắng, da đỏ và da đen.

Đối với những người sống ở thời Victoria, cách tư duy về thế giới như vậy có vẻ như hết sức “bình thường” để mô tả sự khác biệt chủng tộc, trong khi chúng ta lại thấy cách tư duy trên dường như là “bất bình thường” bởi sự chi tiết thái quá và tính hệ thống quá nghiêm ngặt của chúng. Chúng ta như bị làm cho tha hóa bởi ở đây, con người bị phân loại theo cùng một cách mà người ta tiến hành để phân loại chó mèo, căn cứ theo dòng lai và sự thuần khiết của nòi giống. Như Young đã chỉ ra, hệ thống phân loại sự cấy ghép trong thực vật và lai giống trong động vật được chuyển sang để mô tả người dân bản xứ (Young, 1995). Nhưng chúng ta cũng xa lạ với việc lập ra những sơ đồ phần tử cấu thành một lĩnh vực tri thức quá tỉ mỉ như thế vì hình thức tư duy này bây giờ đã bị vượt qua bởi những cách thức khác để tổ chức tri thức và thông tin. Tư tưởng phương Tây cuối thế kỷ XX đã không còn mặc nhiên cho rằng con người có thể nắm bắt bản chất của một vấn đề, trong trường hợp này là sự khác biệt chủng tộc, chỉ bằng cách tích lũy một khối lượng dữ liệu lớn liên quan đến vấn đề đó và tổ chức những dữ liệu này thành những dưới hình thức những bảng biểu.

Foucault cho rằng có những sự đứt gãy tri thức hệ, nghĩa là, ở những thời điểm nào đó trong một nền văn hóa, có những sự phát triển gián đoạn trong các cấu trúc diễn ngôn, khiến cho đối với người ở thời Victoria, sự biểu hiện thực tại bằng hình thức bảng biểu có vẻ như là hoàn toàn bình thường, trong khi đến thế kỷ XX, phương pháp biểu hiện này bắt đầu có vẻ bất bình thường. Một ví dụ xa hơn mà Foucault đưa ra để minh họa là ý nghĩa được gán cho các sự kiện trong mối quan hệ với một trật tự thần thánh. Ở châu Âu thời hiện đại sơ kỳ, mọi sự kiện đều được diễn dịch theo một hệ thống tư tưởng kết nối trần thế với một trật tự siêu nhiên hoặc tôn giáo. Do đó, cái mà bây giờ được xếp vào nhóm các hiện tượng tự nhiên, như một cơn bão lớn chẳng hạn, vào thời đó, sẽ được phân loại theo ý nghĩa của nó trong cái hệ thống tượng trưng lớn hơn này, có thể là một điềm gỡ hoặc một dấu hiệu thể hiện sự tức giận của thần thánh. Các sự kiện thụ nghĩa từ vị trí của chúng trong hệ thống vũ trụ này, trong khi đó, ở châu Âu thế kỷ 21, không một ý nghĩa siêu nhiên rộng hơn nào được gắn cho những trận bão nữa. Các yếu tố cấu thành hình thức đặc thù này của tri thức đã thay đổi; và trong khi thông thường chúng ta nghĩ rằng nhận thức này do sự tiến bộ trong khoa học và tư tưởng thế tục đem đến thì Foucault lại cho rằng chính các hệ thống tri thức của cấu thành nên các tri thức hệ hiện thời của chúng ta rồi cũng sẽ trở nên giả tạo và xa lạ với các thế hệ tương lai. Xem xét các hệ tri thức thịnh hành trong các thời đại và các nền văn hóa quá khứ dễ dàng hơn vì cơ chế tư duy trong nền văn hóa đương thời đã được “bình thường hóa”.

Quan điểm về sự gián đoạn của diễn ngôn cho phép Foucaut phản bác lại ý niệm về sự tiến bộ của các nền văn hóa văn hóa; thay vì nhìn lịch sử châu Âu như một tiến trình đi từ mông muội đến những chân lý lớn hơn, trên con đường đến hiện tại, các giai đoạn trước chỉ có thể được nhìn trong mối quan hệ với với một thứ hiện tại tiến bộ hơn, ông cho rằng thực ra chỉ nên đơn giản nhìn lịch sử tri thức như một loạt những dao động từ hệ thống phân loại và biểu hiện này sang hệ thống và biểu hiện khác. Theo nghĩa đó, tư tưởng của Foucault phân biệt với những mô tả lịch sử của cả trường phái thủ cựu và trường phái Marxist, vì ý niệm trung tâm của cả hai trường phái này đều là sự tiến bộ và cải thiện: đối với các nhà thủ cựu, những tri thức khoa học lớn hơn tất yếu sẽ đem đến những tiến bộ cho loài người; đối với các nhà Marxist, thay đổi cách mạng dẫn đến sự cải thiện hoàn cảnh của giai cấp lao động (Cliff, 1984). Đây có lẽ là chỗ mà Foucault gây được nhiều ảnh hưởng nhiều nhất đến tư tưởng hậu hiện đại, vì quan điểm không tưởng về lịch sử này lồng trong rất nhiều trong các hình thức của tư tưởng. Khi Catherine Belsey giải thích việc bà từ bỏ lập trường nữ quyền luận marxist sang cái mà bà gọi là lập trường nữ quyền luận duy vật, bà đã viện đến những thuật ngữ của Foucault: nhận thấy sự không ổn của việc vạch ra những dự phóng không tưởng và những mục tiêu rõ ràng mà nữ quyền luận có thể đạt được, sự thiếu nhất trí về những mục tiêu mà nó hướng tới, Belsey đi đến chỗ cho rằng mô hình đại tự sự về lịch sử – một bộ phận thiết yếu của tư tưởng Marxist dứt khoát phải bị gạt bỏ (Belsey). Khi xem xét vấn đề quyền phụ nữ đã đạt những bước tiến nào trong hai mươi năm qua, bà nhận thấy cũng cần phải lưu ý đến một số khu vực mà ở đó, quyền phụ nữ đã bị tha hóa. Mô hình về tiến trình liền mạch của các sự kiện hướng về một thứ tương lai được cải thiện hơn đã không chấp nhận sự tha hóa như thế. Mô hình lịch sử gián đoạn của Foucault chỉ đơn giản lập sơ đồ những thay đổi xuất hiện bên trong cơ chế tư duy.

NHẬN ĐỊNH (THE STATEMENT)

Tri thức hệ được tạo dựng từ một loạt các nhận định, nhóm lại thành các diễn ngôn và các khung diễn ngôn khác nhau. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét nhận định, với tư cách là đơn vị đầu tiên hình thành nên khối diễn ngôn (block of a discourse). Dreyfus và Rabinow nhận xét: “Nhận định không phải là một phát ngôn hay một mệnh đề, không phải một thực thể tâm lý hay logic, cũng không phải một sự kiện hay một hình thức lý tưởng” (Dreyfus và Rabinow, 1982:45). Một nhận định không phải là một phát ngôn, hiểu theo nghĩa một câu trên thực tế có thể là vài nhận định khác nhau, phụ thuộc vào ngữ cảnh diễn ngôn mà nó xuất hiện. Foucaut trình bày:

“Ở một cấp độ nhất định của vi lịch sử, người ta có thể nghĩ rằng một khẳng định như “các loài tiến hóa” hình thành nên cùng một nhận định ở cả Darwin và Simpson; ở cấp độ lớn hơn, và nghĩ đến những trường sử dụng bị giới hạn hơn, (‘chủ nghĩa Tân Darwin đối lập với bản thân hệ thống của Darwin), chúng ta thấy trước mình là những nhận định khác nhau. Sự bất biến của nhận định, sự bảo tồn bản sắc của nó nhờ tính độc nhất của sự kiện phát ngôn, sự nhân bội của nó nhờ bản sắc của các hinh thức được kiến tạo bởi hoạt đồng của trường sử dụng mà nó được định vị trong đó.” (Foucault, 1972: 4)

Dreyfus và Rabinow rằng trên thực tế một vài diễn ngôn có thể tạo nên một nhận định duy nhất, giống như khi một tiếp viên hàng không đưa ra cùng một thông báo bằng mấy thứ tiếng khác nhau. Hai tác giả nói tiếp:

“Tấm bản đồ có thể là nhận định nếu như chúng thể hiện một khu vực địa lý, và thậm chí một hình vẽ sơ đồ bàn phím máy tính cũng có thể là một nhận định nếu như chúng xuất hiện trong một cuốn sách hướng dẫn sử dụng như một minh họa cho thấy các chữ cái được sắp xếp theo chuẩn trên bàn phím như thế nào.”

(Dreyfus và Rabinow, 1982:45)

Các nhận định dường như có một sự tương đồng đặc biệt với hành động ngôn từ mà John Searle (1979) và John Austin (1962) đã mô tả, mặc dù so với Foucault, các lý thuyết gia về hành động ngôn từ dành nhiều quan tâm hơn đến lực của phát ngôn, cách một phát ngôn được hiểu và phát huy hiệu lực2. Đối với ông, nhận định là phát ngôn có một lực thiết chế nào đó và do đó, được hiệu lực hóa bằng một hình thức quyền uy nào đó – những phát ngôn đó, theo ông, sẽ được coi là những phát ngôn “đúng đắn”. Ông diễn giải: “Người ta bao giờ cũng có thể nói sự thật trong sự trống không (in a void); tuy nhiên người ta chỉ có thể được coi là đúng đắn nếu tuân theo những luật lệ của một thứ “cảnh sát” diễn ngôn nào đó – yếu tố luôn được tái kích hoạt mỗi khi ai đó nói cái gì” (Foucault, 1972: 224). Những phát ngôn và văn bản mang hình thức khẳng định sự thật nào đó (truth-claim) (và vậy thì có bao nhiêu phát ngôn và văn bản không mang hình thức này?) và được phê chuẩn như là tri thức thì có thể được xem là nhận định. Theo nghĩa nào đó, nhận định có thể được xem như là những hành đông ngôn từ “nghiêm trọng” (serious) (Dreyfus và Rabinow, 1982:48). Sự phân tích theo phương pháp khảo cổ của Foucault chú ý đến các hệ thống bệ đỡ chi phối việc tạo lập và tổ chức các nhận định này, và, điều này có lẽ quan trọng hơn, đó là các hệ thống mà nhờ chúng, những phát ngôn khác không được tính là đúng đắn và do đó, không được coi là nhận định.

DIỄN NGÔN/CÁC DIỄN NGÔN

Như tôi đã cố gắng làm rõ trong chương này, trong các tác phẩm của mình, Foucault đã đưa ra một sự phân biệt quan trọng giữa diễn ngôn nói chung – tập hợp những luật lệ và quy cách cho việc tạo ra diễn ngôn cụ thể với các diễn ngôn (discourses) hay nhóm các nhận định. Các diễn ngôn là tập hợp các nhận định được phê chuẩn, mang một thứ lực đuợc định chế hóa nào đó, điều đó có nghĩa là chúng có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mà cá nhân hành động và suy nghĩ. Cái tạo nên biên giới của một diễn ngôn rất không rõ ràng. Tuy nhiên, ta có thể nói rằng các diễn ngôn là các nhóm nhật định có một thứ lực giống nhau- chúng được nhóm lại với nhau bởi một áp lực định chế nào đó, bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo một cách gần giống nhau. Do đó, thí dụ, diễn ngôn về nữ tính thuộc tầng lớp trung lưu ở thế kỷ XIX bao hàm một loạt những nhận định đồng chất (chẳng hạn, những phát ngôn, văn bản, điệu bộ, hành vi được chấp nhận như là sự mô tả bản chất người phụ nữ thời Victoria: khiêm cung, giàu trắc ẩn, vị tha) và tạo nên những giới hạn mà người phụ nữ trung lưu có thể hiện thực hóa cảm quan của chính họ về bản sắc. Có những diễn ngôn khác thách thức tri thức này (chẳng hạn, các diễn ngôn của chủ nghĩa nữ quyền) nhưng diễn ngôn về tính nữ này là thứ tri thức đã được phê chuẩn bởi các thiết chế trong thời đại Victoria – nhà Thờ, hệ thống giáo dục, v.v… Thứ tri thức này cùng tác hoạt với các thiết chế đó để đặt ra ranh giới của những hình thức khả hữu về tính nữ của tầng lớp trung lưu. Chính sự quan tâm đến những yếu tố cấu thành các diễn ngôn đã nhận được nhiều sự chú ý phê phán hơn cả và có lẽ cũng là điều hữu ích đối với các lý thuyết gia, như tôi sẽ trình bày trong chương 4 và 5 về lý thuyết nữ quyền và hậu thực dân. Bản thân Foucault dành ít quan tâm hơn đối với bản thân các nhận định mà lưu ý nhiều hơn đến cách mà chúng hòa kết lại thành các diễn ngôn hoặc khối diễn ngôn (discursive formations) và hình thành được một uy lực nào đó từ sự nhóm tụ lại như thế.

THƯ KHỐ (THE ARCHIVE)

Một cấu trúc diễn ngôn nữa được Focault bàn luận là thư khố. Foucault diễn giải thuật ngữ “thư khố” như sau:

“Tôi cho rằng tập hợp các luật lệ ở một thời kỳ nhất định và trong một xã hội xác định có thể được định nghĩa là: 1) các giới hạn và hình thức của khả năng diễn đạt (expressibility); 2) các giới hạn và hình thức của sự bảo tồn (conservation); 3) các giới hạn và hình thức của ký ức (memory); và 4) các hình thức và giới hạn của sự phục hoạt (reactivation).” (Foucault, 1978: 14-15)

Theo đó, ý niệm về thư khố có thể xem như song hành với ý niệm về tri thức hệ (episteme), và có lẽ, có thể được hiểu rõ hơn cả thông qua phân tích của Foucault trong một tiểu luận sau này – “Trật tự của diễn ngôn”, mà tôi sẽ trình bày dưới đây. Thư khố có thể được hiểu là tập hợp những cơ chế diễn ngôn làm nhiệm vụ giới hạn cái có thể được nói ra, trong hình thức nào và cái gì được xem là đảng để biết và nhớ. Tính giới hạn hay loại trừ bên trong diễn ngôn này là cái tôi mà bây giờ tôi muốn bàn kỹ hơn, vì nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để hiểu những thành tố cấu thành cấu trúc diễn ngôn.

SỰ LOẠI TRỪ BÊN TRONG DIỄN NGÔN

Cũng như khi cố định nghĩa cách mà cấu trúc diễn ngôn vạch ra cái chúng ta có thể nói và xem là tri thức hợp pháp, luận văn “Trật tự của diễn ngôn” của Foucault (1981) bàn về những khó khăn khi phải đưa một bản ngã nào đó vào trong một diễn ngôn. “Trật tự của diễn ngôn” ban đầu là một bài thuyết trình tại trường College de France danh giá, nơi Foucault phải thỉnh giảng mỗi năm một lần. Foucault bình luận:

“Tôi tin là rất nhiều người có cùng một ham muốn được giải thoát khỏi sự ép buộc để bắt đầu đầu, một ham muốn tương tự là được đứng ở bên kia diễn ngôn, ngay từ ban đầu, không phải đắn đo từ bên ngoài rằng nó có gì lạ lùng, đáng sợ, thậm chí có khả năng gây hại hay không. Trước mong mỏi phổ biến này, phản ứng của thiết chế lại mang tính chất mỉa mai, vì nó thường long trọng hóa sự bắt đầu, bao lấy sự bắt đầu bằng một không gian gây chú ý và im lặng, áp đặt những hình thức mang tính nghi thức lên sự bắt đầu, như thể làm thế, sự bắt đầu sẽ được nhận diện dễ dàng hơn từ xa.”

(Foucault, 1981:51)

Một bài giảng tại một nơi trang trọng như vậy thường được bắt đầu bằng lời giới thiệu về tiếng tăm của diễn giả, điều này trao cho diễn giả uy tín và quyền phát ngôn, quyền được coi cái mình nói ra là cái đáng nghe, và quyền bắt tất cả những tiếng nói phải im lặng. Nhưng cái mà Foucault cố gắng khu biệt ở đây là: ngay cả khi đường vào diễn ngôn (entry into discourse) được nghi thức hóa theo cách này đi nữa, thì nó cũng không hoàn toàn thắng được cách mà diễn ngôn tránh những cố gắng nhằm điều tiết nó. Trong “Trật tự của diễn ngôn”, Foucault đã nói đến việc các thiết chế điều tiết diễn ngôn để ngăn chặn một số nguy hiểm của nó. Ông mô tả phương thức loại trừ diễn ra bên trong diễn ngôn nhằm giới hạn cái có thể được nói ra và được coi là tri thức. Phương thức loại trừ thứ nhất là “cấm đoán”/”kiêng kỵ” (prohibition/taboo): có những chủ đề rất khó để bàn luận trong các xã hội phương Tây như cái chết hay tình dục. Trong văn hóa Anh, nhiều người thường kiêng tránh ngay cả người bạn thân nhất nếu như chồng hay vợ của người bạn đó qua đời, bởi sự khó khăn để nói về cái chết được hình dung từ trước và sự thiếu từ trong tiếng Anh để thể hiện cảm xúc của con người mà không phải vay mượn, thiếu tự nhiên hoặc trở nên hình thức quá. Ở các nền văn hóa khác, và ở nước Anh trong quá khứ, cái chết là chủ đề được nói đến thoải mái và có cả một loạt những “yếu tố” làm điểm tựa như các thực hành vật chất, nghi lễ, tạo tác, khiến việc nói đến cái chết là điều có thể. Ở một số nền văn hóa, chẳng hạn như Mexico, diễn ngôn về cái chết rất dồi dào, phong phú. Và thực ra, ở nước Anh thời Victoria, có cả một “lực lượng” những nhận định, tạo tác (artefacts) và thực hành mà giờ đây có thể bị coi là bệnh hoạn hoặc sến, nhưng nó lại cho phép bàn luận thoải mái, thẳng thắn về cái chết và tang lễ.

Ở nước Anh thời Victoria, cũng rất khó để nói công khai về sex và đây vẫn còn là vấn đề phải kiêng dè; vào thời đó, những các chủ đề tình dục tuyệt nhiên bị tránh trong xã hội văn minh (polite) và các nhóm pha trộn (mixed groups). Một số nền văn hóa mà người Anh va chạm trong thời kỳ thực dân có quan điểm rất khác về tình dục, chẳng hạn, ở Ấn Đô, như Macmillan có lưu ý:

Một số đền đài có những chạm khắc khá tục tĩu (hay gợi dục (erotic), tùy quan điểm của bạn). Các quý bà châu Âu đi ngắm cảnh đều được đám tùy tùng cẩn thẩn ngăn để không phải thấy những hình ảnh ấy; các sách hướng dẫn du lịch phổ biến ở thế kỷ XIX đều khuyên là nên bo tiền những người hướng dẫn địa phương ở một số ngôi đền tai tiếng để họ không làm mình phải trông thấy những cảnh tượng gây sốc. (Macmillan, 1988:105).

Đối với những chủ thể này, không có nhân tố bên trong nào khiến họ cảm thấy khó khăn khi nói về tình dục, nhưng đối với nền văn hóa Anh, nhất là ở thời Victoria, rõ ràng đây là những chủ đề rất khó nói, cũng như chỉ đến gần đây, ở phương Tây, người ta mới có thể dễ dàng nói chuyện về tình dục và tính dục (Bhattacharya, 2002). Đó đơn giản chỉ là một giới hạn diễn ngôn và thiết chế trở thành thói quen trong những nền văn hóa cụ thể ở những thời kỳ nhất định. Khi một chủ đề bị cấm, tình trạng đó bắt đầu trở thành hiển nhiên.

Phương thức loại trừ thứ hai, để giới hạn những gì có thể nói ra được, tập trung xung quanh diễn ngôn của những người bị xem là điên khùng và do đó, lời họ nói ra là phi lý. Foucault phản biện rằng ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, lời nói của người điên hoặc được coi là sự thấu thị thần linh, hoặc bị xem là hoàn tòan vô nghĩa (1989 [1961]). Ở nước Anh thế kỷ XX, ngôn ngữ của những kẻ tâm thần phân liệt chẳng hạn không hề được công nhận, vì thế khi những người có vẻ điên nói, họ không được để ý đến; nếu họ yêu cầu những cách đối xử đặc biệt mà những người có quyền uy trong xã hội không ủng hộ thì họ sẽ bị quên lãng. Điều đó xác nhận mong muốn và quan điểm của những người “lý trí” (rational) như các bác sĩ hay những người làm công tác xã hội có trọng lượng hơn.

Sự loại trừ thứ ba xác định cái gì có thể được xem là một nhận định và do đó, trở thành bộ phận của một khung diễn ngôn. Sự loại trừ này được thực hiện trên cơ sở phân định tri thức nào được quan niệm là đúng và tri thức nào là sai. Foucault đã phác lại lịch sử của sự phân định này; ông cho thấy, ở thế kỷ VI, đối với người Hy Lạp, nội dung của một nhận định không hề đảm bảo cho việc nó được coi là đúng; thay vào đó, chính hoàn cảnh phát ngôn mới lại là cái quan trọng nhất: “đến một ngày, sự thật buộc phải rời khỏi cái hành vi phát ngôn hiệu nghiệm được nghi thức hóa và được coi là đúng đắn, để hướng về chính bản thân phát ngôn, ý nghĩa, hình thức, đối tượng cũng như mối liên hệ của nó với cái quy chiếu” (Foucault, 1981: 54). Foucault đã gọi sự quá độ này là sự vận động theo “ý chí đoạt sự thật”, cái ý chí “áp đặt lên chủ thể nhận thức, và bằng một thứ cảm quan có trước tất cả các kinh nghiệm, một lập trường, một cái nhìn, một chức năng nào đó (thấy hơn là đọc, xác nhận hơn là bình luận) (Foucault, 1981:55).

Tác phẩm của Lennard Davis có thể lấy làm mình họa cho sự thay đổi diễn ra trong các nền văn hóa phương Tây. Ông đã cho thấy trong thế kỷ XVIII, có một bước quá độ từ một quan niệm rất lỏng lẻo về ranh giới giữa sự thật – hư cấu, đúng – sai đến một nỗi ám ảnh về việc phải rạch ròi, tuân theo luật lệ rõ ràng (Davis, 1983). Khởi đầu từ việc làm ra các bản tin, tức các văn bản nhằm mục đích trình bày chính xác, cập nhật những sự kiện đáng chú ý hơn là các sự kiện mang một ý nghĩa luân lý, tượng trưng hay tôn giáo dẫn đến việc có một nhu cầu khẩn thiết tạo ra sự phân định giữa sự thật và sai lầm ở không gian công (public domain) – sự phân định này được ủng hộ và thực hiện nhờ sự can thiệp của chính phủ, thông qua việc ban hành luật cầm phỉ báng và thuế tem (stamp duties) đối với một số hình thức xuất bản. Điều này tạo ra một hiệu ứng sâu rộng đối với việc viết các văn bản nói chung, và cũng chính vào thời điểm này, sự phân biệt giữa tiểu thuyết và những miêu tả “thực tế” (factual) bắt đầu rõ rệt. Foucault chứng minh rằng ý chí đoạt sự thật này được ủng hộ bởi một loạt thiết chế: các tổ chức giáo dục, nhà xuất bản, cơ quan pháp luật, thư viện, v.v… đến mức nó không để cho ta có thể hồ nghi nỗi ám bởi sự thật và thực tế này. Chúng ta công nhận đó là sự phân biệt cần thiết chỉ dẫn tư duy của chúng ta. Foucault chứng minh rằng chính điều này đã khiến văn học thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ám ảnh với “tính giống như thật” (vraisemblance), cái được viết ra chỉ là bản sao của một thực tại bên ngoài. Đối với nhiều người, sự tái hiện “chân thực” (true) là điều hoàn toàn có thể và tìm kiếm “sự thật/chân lý” (truth) dường như trở thành một mục tiêu tất yếu của nghiên cứu hàn lâm. Mặc dù chúng ta thường trải nghiệm cái ý chí đọat sự thật này như một sự “phong phú, màu mở, một thế lực phổ quát tinh vi và quỷ quyệt ( a gentle and insidiously universal force)”, “chúng ta lại không nhận thức được… cái cơ chế phi thường (prodigious machinery) được thiết kế để loại trừ (Foucault, 1981:56). Sự loại trừ, về bản chất, thật nghịch lý, lại là một trong những cách quan trọng nhất để tạo ra diễn ngôn.

CHU TRÌNH CỦA CÁC DIỄN NGÔN

Bên cạnh các phương thức loại trừ, Foucault còn lưu ý sự kiến tạo các diễn ngôn cũng có những cơ chế bên trong và bên ngoài, để duy trì sự tồn tại của các diễn ngôn. Một trong những cơ chế lưu thông của diễn ngôn là bình luận. Những diễn ngôn nhận được sự bình luận của các diễn ngôn khác được coi là những diễn ngôn có hiệu lực và giá trị:

“chúng ta có thể ngờ vực rằng trong mọi xã hội, với một sự kiên định cao độ (consistency), có một sự thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia giữa các diễn ngôn: giữa những diễn ngôn được nói trong những trao đổi ngày thường và biến mất ngay khi chúng vừa được nói ra và những diễn ngôn làm nảy sinh một số hành động ngôn từ mới sử dụng chúng, biến đổi chúng hay nói về chúng, nói tóm lại, đó là những diễn ngôn, vượt qua công thức của chúng, được nói không ngừng, chúng vẫn đang được nói và sẽ còn được nói liên tục.” (ibid.: 57)

Có thể xem Kinh Thánh là một văn bản thuộc loại này, một văn bản mà đã có và tiếp tục còn có những lời bình luận về chúng; theo một nghĩa nào đó, những bình luận này duy trì sự tồn tại của Kinh Thánh, đảm bảo cho việc nó được lưu thông như một thứ tri thức hợp thức. Sự bình luận gán cho văn bản sự giàu có, sự đầy đặn và sự vĩnh cửu. Nhưng đó không phải là một hành động hoàn toàn vô ngã:

“Vai trò của sự bình luận… rốt cục, là để nói ra cái được hình thành âm thầm “bên ngoài” văn bản. Bằng một nghịch lý mà nó luôn muốn loại bỏ nhưng không bao giờ thoát khỏi, bình luận bao giờ cũng phải tiếng nói đầu tiên về cái mà trớ trêu thay thực ra đã được nói rồi và phải lặp đi lặp lại không biết mệt cái thực ra lại chưa từng được nói.” (ibid.: 58)

Điều này gợi nhớ đến một trong những hình thái chiến lược được các nhà phê bình văn học quy phạm hơn khi họ cố gắng tạo nên cái gọi là ý nghĩa “đúng” của một văn bản văn chương. Các nhà phê bình mới chẳng hạn, cảm thấy họ phải đưa ra được một cách diễn giải văn bản văn chương mới, tốt hơn, toàn diện hơn, trong khi lại cho rằng ý nghĩa này đã nằm sẵn trong văn bản, chờ đợi được khám phá bởi một độc giả có kỹ năng đặc biệt hay một nhà phê bình. Theo quan điểm của Foucault, quá trình “phát hiện” ý nghĩa “thực sự” của văn bản đơn thuần là một thực hành mang tính ảo tưởng để đảm bảo cho chu trình của văn bản được vận hành.

Cái quá trình đảm bảo cho chu trình của văn bản được vận hành bằng sự bình luận về nó đặc biệt quan trọng khi chúng ta xem xét hoạt động phê bình văn chương trong phạm vi nhà trường các cấp. Phê bình, đối với các lý thuyết gia, không đơn thuần chỉ là một hành vi nghiên cứu mà như các lý thuyết gia nữ quyền đã chỉ ra, nó tạo ra một hiệu ứng mà dựa vào đó, văn bản nào được đánh giá là có đáng xuất bản hay không, văn bản nào đáng được tái bản. Các nhà nghiên cứu văn học nhận thức rằng người ta khẳng định địa vị của mình bằng sự làm việc với những văn bản văn chương đã được thẩm định: đó là những văn bản được xem là điển phạm mẫu mực và/ hoặc những công trình lý thuyết phức tạp. Chính bởi khuynh hướng làm việc với những văn bản điển phạm mà những văn bản bị loại khỏi điển phạm được coi là không đáng phân tích. Vì thế, các nhà phê bình nữ quyền luận những năm 1960 không chỉ gặp khó khăn trong việc tiếp cận những văn bản đầu tiên của phụ nữ mà còn trong việc hợp thức hóa một nghiên cứu như thế (Showalter, 1977). Các văn bản phi điển phạm thường không được tái bản và do đó, sinh viên hay nhà nghiên cứu khó có điều kiện tiếp xúc, các giảng viên thì bất đắc dĩ lắm mới đưa chúng vào thư mục sách cần đọc. Do đó, bình luận đóng vai trò không phải chỉ như một đảm bảo để những văn bản nào đó sẽ luôn được in ra, luôn được giảng dạy trong các thiết chế giáo dục, luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm đến, nó còn khiến cho việc phân tích những văn bản hầu như không mấy ai viết về chúng rất khó được hợp thức.

Sự điều chỉnh nội tại thứ hai của diễn ngôn là ý niệm về nguyên tắc hàn lâm (academic discipline): đây là một nhóm diễn ngôn thuộc một trật tự lớn hơn xác định cái gì có thể được nói và được coi như là thực tế hay chân thực trong một phạm vi nào đó. Do đó, mỗi một nguyên tắc sẽ xác định phương pháp, những hình thức mệnh đề và lập luận, phạm vi đối tượng nào sẽ được coi là đúng. Tập hợp các cấu trúc này cho phép cấu tạo nên những mệnh đề mới nhưng chỉ trong những giới hạn diễn ngôn nhất định. Foucault cho rằng những cấu trúc diễn ngôn loại trừ nhiều mệnh đề hơn là chấp nhận chúng. Thậm chí, nếu công trình nghiên cứu của người nào đó thực sự chính xác và sâu sắc nhưng lại không tương hợp với hình thức và nội dung của những nguyên tắc cụ thể thì nó có thể bị coi thường hoặc chỉ được coi là thứ tri thức phi hàn lâm hay bình dân. Những nguyên tắc cho phép người ta “nói trong sự thật” (speak ‘in the true’), tức là nói trong phạm vi những gì được coi là “đúng” theo nguyên tắc đó, song chúng cũng loại trừ những tri thức khác có thể cũng khả dĩ. Chẳng hạn, nếu một nhà khảo cổ viết một bài báo khoa học thì trọng tâm của bài báo, do đặc trưng cấu trúc của lĩnh vực, tất yếu phải phải tập trung vào xã hội và sự biến đổi của xã hội người; song những dữ kiện mà các nhà khảo cổ khai phá được dễ bị xem là hệ quả của sự biến đổi môi trường hơn do hành vi con người. Nếu một nhà khảo cổ đứng trước một địa điểm có dấu hiệu của sự xói mòn đất hay hỏa hoạn thì anh ta thường có xu hướng diễn giải những dấu vết này như là chứng tích hoạt động của con người: con người trồng trọt khiến đất đai trở nên xói mòn; con người dùng lửa để phát quang một vùng nhiều cây cối. Nếu một nhà địa vật lý cũng bắt gặp những dấu hiệu đó tại một địa điểm thì họ có xu hướng nhìn chúng như bằng chứng của tác động môi trường: sông làm xói mòn đất, nơi này chịu một trận hỏa hoạn tự phát. Do đó, nguyên tắc của từng lĩnh vực sẽ xác định dữ liệu được phân loại thế nào. Cấu trúc của mỗi lĩnh vực không chỉ đơn thuần khu biệt một số loại tri thức, xếp chúng vào từng phạm vi cụ thể mà còn xây dựng phương pháp phân tích đặc trưng cho từng lĩnh vực và các trường đại học phân các khoa theo từng lĩnh vực, dẫn đến chỗ các triết gia, các nhà tâm lý, ngữ học và ký hiệu học, những người đều có cùng một đối tượng nghiên cứu – ngôn ngữ – có lẽ hầu hết không biết về công việc của nhau.

Foucault trong “Trật tự của diễn ngôn”, cuối cùng tập trung vào sự loãng khí (rarefaction) của diễn ngôn như một sự kiềm tỏa diễn ngôn từ bên trong. Sự loãng khí ở đây, theo diễn giải của ông, là một thực tế đáng ngạc nhiên, rằng mặc dù diễn ngôn –cái mà bất kỳ ai cũng có thể tạo ra – trên lý thuyết, là vô hạn, nhưng trên thực tế, chúng lại rõ ràng mang tính chất lặp lại và vẫn còn giữ những ranh giới ít nhiều đã được thỏa thuận trong xã hội. Về lý thuyết, ai cũng có thể nói lên bất cứ điều gì mà mình muốn nhưng thứ nhất, khi lựa chọn chủ đề nói chuyện và từ ngữ, ta đều bị hạn chế bởi những quy tắc xã hội và cá nhân; thứ hai, ta cũng bị hạn chế nhiều xét từ sự kiến tạo những nhu cầu và ham muốn của mình. Do đó, cái mà ta cảm thấy mình muốn nói lại tương đối khả đoán và nằm trong tập hợp những tham số bị giới hạn. Có thể liên tưởng thực tế này với hệ thống mốt: chỉ có một số lượng hạn chế những kiểu trang phục, mẫu vải, màu sắc bày ra trong các cửa hàng để chúng ta mua. Chúng ta cấu trúc mong muốn của mình về hình ảnh bản thân trong những biên giới sẵn có. Những lựa chọn của chúng ta về trang phục tuy nhiên lại có vẻ như mang tính cá nhân. Foucault có lẽ sẽ cho rằng những giới hạn này được tạo nên bởi những giới hạn diễn ngôn; chúng ta nói và hành động bên trong những ranh giới mà các diễn ngôn vạch ra cho chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta phải mặc quần trừ phi việc không mặc quần được xác lập như là cái có thể chấp nhận được và khả dĩ trên phương diện diễn ngôn. Một sự phân tích ý hệ về ngành công nghiệp thời trang sẽ tập trung vào những hứng thú mà sự giới hạn những khả năng biểu hiện này có thể đem đến, và chắc chắn Foucault thấy rõ những giới hạn diễn ngôn là những giới hạn đã được phê chuẩn bởi một thiết chế nào đó. Tuy nhiên, ông quan tâm đến những hiệu ứng đối với sự biểu đạt mà những giới hạn trên tạo ra hơn là những hứng thú mà chúng đem đến.

Diễn ngôn bị giới hạn bởi những nghi thức có chức năng khống chế số người có thể nói ra một số kiểu phát ngôn nhất định: ví dụ, ở Anh, chỉ có linh mục hay hộ tịch viên mới có thể cho phép một đôi nam nữ kết hôn hợp pháp; chỉ có quốc vương mới có thể khai mạc kỳ họp nghị viện. Nếu một người vốn không được phê chuẩn để phát ngôn những lời đó thì lời anh ta nói ra chắng có giá trị; do đó, một diễn viên “kết hôn” với ai đó trên sân khấu thì không phải là sự kết hôn hợp pháp. Foucault đặt ra câu hỏi: “Rốt cục, một hệ thống giáo dục là gì nếu không phải là một sự nghi thức hóa lời nói, xác nhận và cố định hóa vai trò của chủ thể nói, một sự thiết lập một nhóm giáo điều có khả năng phát tán, một sự phân bố và chiếm dụng diễn ngôn với quyền năng và các tri thức của nó?” (Foucault, 1981:64). Do đó, thay vì xem hệ thống giáo dục như một thiết chế khai sáng, nơi sự tư do truy cầu sự thật được khuyến khích, Foucault lại thấy nó chỉ như một hình thức điều tiết diễn ngôn mà thôi. Trong các thiết chế giáo dục, quyền nói nhiều khi bị khống chế nghiêm ngặt (ví dụ, trong một bài giảng, chỉ có diễn giả được nói mà thôi, tất cả những lời nói khác sẽ bị coi là lạc đề trừ phi được diễn giả chấp thuận) và cũng có những thứ luật rất chặt để xét xem cái gì có thể được coi là tri thức ( những cố gắng biểu đạt các ý tưởng không quy chiếu đến tri thức quá khứ, và không được thể hiện theo những quy ước về hình thức của các bài báo hay luận văn, nhìn chung đều bị phê phán và xem như là những sự thất bại).

Ngược lại, những hình thức tri thức tuân thủ chính xác theo những luật tắc của diễn ngôn thì sẽ được công nhận. Ví dụ cho điều này là một bài báo khoa học “lỡm” gần đây đã tạo ra scandal: sau khi bài báo được xuất bản, người ta mới hay đó chỉ là một bài viết “chơi khăm”. Bài báo có tên: “Vượt qua những ranh giới: hướng đến một thông diễn học biến dạng về trọng lượng lượng tử”, do Alan Sokal, một nhà vật lý người Mỹ, làm việc tại Đại học New York, viết. Bài viết được gửi cho tạp chí nghiên cứu văn hóa Social Text như là một sự chơi xỏ. Sokal muốn chứng minh sự trống rỗng của nghiên cứu văn hóa bằng việc đăng một bài báo mà thực chất là vô nghĩa, nhưng bài báo đã tuân thủ chính xác cách trích dẫn các lý thuyết gia “đúng đắn” (correct) và đưa ra những lập luận “xác đáng” để vừa khuôn với khuynh hướng chính thống của nghiên cứu văn hóa. Bài báo được chấp nhận vì như Peter Jones nói: “Nó dùng biệt ngữ. Đó là tất cả những gì đáng kể. Đánh giá các luận điểm không phải là cái đáng để quan tâm.” (Jones, 1996: 16). Rõ ràng đây là một cách nói cường điệu nhưng thực sự bài báo đuợc đăng là vì nó tuân theo những nguyên tắc diễn ngôn thịnh hành trong lĩnh vực đó.

Những phân tích diễn ngôn của Foucault trong “Trật tự của diễn ngôn” đạt đến tính chất thấu thị là vì ông tập trung vào sự cưỡng chế (constraint) – cách mà chúng ta hoạt động bên trong những giới hạn diễn ngôn – hơn là xác nhận rằng con người được tự do biểu đạt bất cứ cái gì mà mình muốn. Việc tập trung vào sự kiềm chế này có thể xem như là một sự phủ định cố hữu nhưng trong công trình sau này của ông, “Lịch sử tính dục”, mà ở chương trước đã đề cập đến, cảm thức về sự cưỡng chế này có thể được xem như là một sự giới hạn, mà còn là sự năng sản. Kiến thức chỉ có thể được tạo ra thông qua quá trình kiếm chế này.

Quan niệm của Foucault về tác giả cũng rất quan trọng đối với việc phân tích các cấu trúc của diễn ngôn, vì tác giả đã thôi không còn là kẻ duyệt ý nghĩa của văn bản nữa mà trở thành một hình thức tổ chức một nhóm văn bản. Tác giả không còn là “một cá nhân cất lời, người nói hay viết một văn bản, mà… là một nguyên tắc để nhóm lại các diễn ngôn, được quan niệm như sự thống nhất và cội nguồn của ý nghĩa” (Foucault, 1981: 58). Các nhà phê bình thường sử dụng ý niệm về tác giả để áp đặt một cảm thức về trật tự và những mối bận tâm hết sức hạn hẹp (a set of restricted concerns) lên hàng loạt các văn bản hầu như có rất ít điểm chung. Cả Barthes và Foucault đều nói đến cái chết của tác giả, gợi mở một sự thay đổi động hướng từ chỗ quan tâm đến bản thân tác giả đến chỗ chú ý đến vai trò của độc giả trong việc tạo ra sự diễn dịch một văn bản, theo Barthes và đến vai trò của cái được gọi là “tác giả – chức năng” (author –function), theo Foucault (Foucault, 1980b; Barthes, 1986). Tác giả – chức năng là nguyên tắc tổ chức để nhóm các tác văn bản riêng rẽ vốn thường không có điểm chung nào lại. Như thế, sự nghiệp văn học của Jane Austen chẳng hạn, được cấp cho một sự mạch lạc và được nhìn nhận như một quá trình ngày càng hoàn thiện từ tiểu thuyết đầu tay đến những tác phẩm sau này và các tính ngữ như “còn non” (immature) hay “đạt đến độ chín” (mature) được dùng để mô tả tiến trình này. Tương tự, các tác phẩm của Shakespeare được tập họp lại và được bàn bạc trên cơ sở những đặc điểm chung về phong cách, cho dù vấn đề quyền tác giả của một số vở kịch và bài thơ vẫn còn thuộc diện nghi vấn. Thứ tự sự về quá trình tiến triển này và ý niệm về tác phẩm là điều mà Foucault nghi ngờ, ông đặt ra câu hỏi rằng thực ra, đây có phải là cái trật tự mà chúng ta áp đặt lên văn bản, theo những giả định của chúng ta dựa trên thông tin về tiểu sử tác giả? Sự phê phán của Focault đối với khái niệm tác giả trong các văn bản văn chương là hết sức sâu sắc, vì nó cho phép chúng ta thoát khỏi cách phân tích văn bản dựa vào cuộc đời nhà văn, cái mà Foucault cho rằng thực chất là một loạt những văn bản khác nữa.

Foucault lưu ý việc một số diễn ngôn có tác giả trong khi đối với một số khác, khái niệm quyền tác giả lại gần như không cần phải đặt ra: một tài liệu pháp lý không có tác giả bởi lẽ quyền tác giả của nó bắt nguồn từ thiết chế, chính phủ phê duyệt nó hơn là từ cá nhân làm nhiệm vụ soạn thảo và biên tập. Một văn bản quảng cáo không có tác giả vì nó được xem là một thứ văn bản nhất thời và được sáng tạo bởi một nhóm người hơn là một cá nhân đơn lẻ. Nhưng văn bản văn chương có lẽ là điển hình cho loại văn bản có tác giả, cho dù vấn đề chủ sở hữu sáng tạo của nó rất phức tạp, vì hơn bất cứ loại văn bản nào khác, văn bản văn chương được hình thành như là phản ứng đối với những kiếm chế (constraints) của những văn bản khác. Bản thân chúng cũng nằm trong sự cưỡng chế này. Văn bản văn chương là thứ mang tính liên văn bản rõ nét nhất, nó quy chiếu đến những văn bản khác bằng sự dụng điển, bằng những cấu trúc hình thức ( giọng trần thuật, cốt truyện, nhân vật, v.v…), thế nhưng đó lại là những văn bản mà ở đó, sự độc sáng của cá nhân tác giả được xem là điều quan trọng nhất. Những quan điểm của chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX về người nghệ sĩ sáng tạo đã thấm nhuần vào cảm quan của chúng ta về quyền năng của tác giả. Như Diane Macdonnell nhận định:

“Khái niệm tác giả như một nguồn cội sáng tạo tư do ý nghĩa của một cuốn sách bắt nguồn từ những hình thức mang tính pháp lý và giáo dục của diễn ngôn chủ nghĩa nhân văn tự do nảy sinh vào cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX; đó không phải là một khái niệm tồn tại bên trong các diễn ngôn vừa mới phát triển gần đây.” (Macdonnell, 1986:3).

Foucault hoài nghi ý niệm về sự sáng tạo, ông cho rằng người ta hiếm khi nói được cái gì hoàn toàn mới, thậm chí khi một ý tưởng mới được trình chánh thì nó cũng được hình thành bên trong sự cưỡng chế của những gì đã được tư duy trước đó; thêm nữa, khi một ý tưởng mới phát triển thì vấn đề quyền sở hữu cũng lại là điều khiến Foucault băn khoăn: có rất nhiều nhân tố khác ngoài trí tuệ của con người tham gia vào quá trình hình thành một ý tưởng. Do vậy, một sự phân tích theo kiểu Foucault sẽ tập trung vào hoàn cảnh tiếp nhận những ý tưởng mới và có lẽ sẽ cố gắng phân tích những ý tưởng và phát kiến không được một xã hội nào đó phê duyệt và xem như có thể chấp nhận được trong thẩm quyền của nó.

Một ví dụ làm sáng tỏ điều này là tranh cãi ở phương Tây trong trường kỳ lịch sử về việc làm thế nào để có thể làm ra một bộ lịch chính xác, hoàn toàn ăn khớp và đánh dấu được các giai đoạn của các mùa và nhiều lễ hội khác nhau của đạo Thiên chúa như lễ Giáng Sinh và nhất là lễ Phục Sinh (Duncan, 1999). Mặc dù rõ ràng con người thời xưa ai cũng thấy bộ lịch không trùng khớp với các mùa, vì ngày hạ chí đôi khi lại rơi vào mùa thu, nhưng khi nhà khoa học kiêm tu sĩ Roger Bacon vào năm 1272 đề xuất với Giáo hoàng Clement về việc phải thay đổi lịch, vì ông đã tìm ra được một cách chính xác hơn để đo chuyển động của trái đất trong tương quan với mặt trời và mặt trăng, ông đã bị kết án vì đã có những “ý nghĩ lập dị đáng ngờ” (Duncan, 1999:8). Vì những bằng chứng thiên văn học của Bacon không ăn khớp với giáo điều của nhà thờ ở thời điểm đó, ông bị tống vào tù và bị cấm giảng dạy. Phải đến tận thế kỷ XVIII, lịch mới được cải tiến theo hướng mà Bacon đã đề xuất.

Foucault không cho rằng không hề có sự sáng tạo cá nhân nào. Thay vào đó, ông cho rằng cá nhân nào cũng có tiềm năng sáng tạo bên trong sự cưỡng chế của diễn ngôn vốn cho phép tạo ra các ý tưởng và văn bản. Phần lớn chúng ta đều để cho năng lực sáng tạo của mình bị thui chột ngay từ khi còn nhỏ bởi những áp lực của xã hội bắt chúng ta phải thỏa hiệp thông qua hệ thống giáo dục. Có lẽ ông muốn chất vấn cái giả định cho rằng xã hội chia thành một nhóm rất nhỏ gồm các thiên tài như Einstein, Shakespeare và da Vinci và bộ phận còn lại là những người không có khả năng tư duy sáng tạo (tư duy thách thức những giới hạn của sự cưỡng chế diễn ngôn).

Tất cả những cơ chế cấu trúc, cưỡng chế và truyền lưu thông tin đều có một hệ quả gần giống nhau: chúng dẫn đến việc tạo lập diễn ngôn, nhưng chỉ một số kiểu diễn ngôn mà thôi. Theo nghĩa nào đó, chúng khẳng định rằng: cái gì có thể nói được và cái gì có thể được xem là tri thức là rất hạn chế, chúng chỉ có thể xuất hiện bên trong những ranh giới được phân định rất rõ và đã được nhận thức. Điều này bảo đảm rằng tri thức ở một thời điểm cụ thể đều có một sự đồng nhất nhất định. Như thế không có nghĩa là mọi cả nhân ở một thời đại nào đó đều có cùng một thế giới quan đặc trưng; ở đây chỉ muốn nói rằng tất cả những phát ngôn và văn bản được chấp thuận đều được tạo ra bên trong những cưỡng chế diễn ngôn giống nhau.

KẾT LUẬN

Điều mà ta có thể rút ra từ các công trình về cấu trúc diễn ngôn ở giai đoạn đi theo cấu trúc luận của cả Barthes và Foucault là diễn ngôn được tạo nên bởi một tập hợp những quy định bất thành văn. Những luật tắc đối với việc tạo lập diễn ngôn dường như không nhất thiết phải được một cá nhân hay một nhóm nào đó soạn ra, cũng không phải được tạo ra vì lợi ích của một nhóm cụ thể nào, mặc dù trên thực tế, chúng có thể phục vụ cho những lợi ích đó. Đối với nhiều người, sự tùy tiện của các cấu trúc diễn ngôn là ở sự rối rắm của chúng; chúng ta có cảm giác suy nghĩ và phát ngôn của chúng ta không đơn giản nảy sinh từ ý chí hay trí tuệ của mỗi cá nhân; thay vào đó, chúng ta nhận thấy cái mình có thể biểu đạt và cái mà ta nghĩ mình muốn biểu đạt bị cưỡng chế bởi những hệ thống và luật lệ mà trong chừng mực nào đó, nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Đó là những hệ thống mà không phải bao giờ, ta cũng phải nhất thiết nhận thức được về chúng và chỉ có thể thông qua phương pháp khảo cổ mà Foucault và Barthes khởi xướng, ta mới bắt đầu nhận thức được nhưng khung khổ mà bên trong chúng, diễn ngôn được tạo lập và bên trong diễn ngôn này, chúng ta hình thành nên những phát ngôn và ý nghĩ của mình. Lý thuyết hậu cấu trúc và hậu hiện đại đã làm xói mòn phần lớn nền móng của chủ nghĩa cấu trúc, đặt ra nghi vấn về sự tồn tại của các cấu trúc nói chung. Tuy nhiên, công trình ở thời kỳ đầu của Barthes và Foucault có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy chúng ta tư duy sâu hơn về nguồn gốc của chính cái cơ cấu mà suy nghĩ của chúng ta nằm trọn trong đó.

CHÚ THÍCH

  1. Episteme có thể được phát âm là ay/pis/te/may nếu muốn cho thấy đây là từ gốc Pháp (épistèmé) nhưng hầu hết mọi người đều phát âm nó trong tiếng Anh là ep/is/teem.
  2. Foucault không bận tâm đến quan niệm dụng học về phát ngôn cá nhân; khác xa Austin hay Searle, vấn đề phát ngôn cá nhân không phải là tiêu điểm chú ý của ông, mà là những luật lệ chi phối việc hình thành phát ngôn nói chung và những giới hạn của cái có thể biểu đạt được (xem Searle, 1979).
  3. Công trình của Norman Fairclough về sự biến đổi trong các cấu trúc diễn ngôn, ở phương diện này, rất lý thú, vì ông đã đưa ra những mô tả chi tiết từ những thay đổi ở mức rất nhỏ đến những tri thức hệ hiện thời (Fairclough, 1992b). Công trình của Jonathan Potter bàn về việc làm thế nào để một sự vật, sự việc nào đó được coi là một sự thực (fact) cũng rất đáng tham khảo.
  4. Vì thế, gần đây, Anh đã xây dựng pháp chế để đẩy mạnh hơn nữa việc chăm lo thuôc thang cho những người bị coi là tâm thần (Bình luận xung quan vấn đền này, xin xem tạp chí Feminist Review, số 68, năm 2001 – số đặc biệt về phụ nữ và sức khỏe tâm thần )

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Sara Mills, Discourse (New Critical Idiom), NY: Routledge 2004, p52-78.

Karen Thornber – Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Phần cuối)

Phần 1

spring-wild-field-nature

Mặt khác, tuy văn hóa và những vấn đề môi trường là hai phạm trù riêng biệt nhưng chúng không phải là những hiện tượng đơn nhất và toàn cầu hóa phê bình sinh thái cũng là một nhiệm vụ cấp thiết. Chính là vì việc hệ sinh thái bị tàn phá là một hiện tượng toàn cầu nên những cách ứng xử của văn chương đối với tình trạng bị hủy hoại của môi trường thường vượt qua những nền văn hóa sản xuất và có thể xem những cách ứng xử này cùng hình thành nên các mạng lưới các chủ đề và khái niệm liên văn hóa. Xem xét những mạng lưới này sẽ là một phần của thực hành phê bình sinh thái, nếu không muốn nó đó còn là tương lai văn học. Trên thực tế, tôi cho rằng lý tưởng nhất là khi những hệ thống văn chương được nghiên cứu không chỉ trên đường ranh giới văn hóa/dân tộc mà phải còn trong những mạng lưới chủ đề và khái niệm mang tính liên văn hóa. Những mạng lưới quan trọng nhất đều hướng đến những vấn đề có ý nghĩa toàn cầu như đói nghèo, bệnh tật, tình trạng nô lê, chiến tranh và sự tàn phá môi trường. Chú ý đến những mạng lưới này, ta sẽ thấy văn học đã sẵn sàng vượt quá tất cả mọi dạng biên giới: môi trường, chính trị và quản lý, kinh tế, nhân khẩu, văn hóa và xã hội.

Những mạng lưới liên văn hóa là những mạng lưới các văn bản sáng tạo từ nhiều nền văn hóa tập trung vào những chủ đề gần gũi, cho dù tác giả của những văn bản này có chủ động tác động, gây ảnh hưởng đến văn bản của tác giả khác hay không. Werner Sollos đã chú ý đến tầm quan trọng của việc xem xét sự kiên định khi theo đuổi một đề tài:

“Bằng việc biến một đề tài cụ thể thành hằng số, sự kiên định và phạm vi của văn học có thể bắt đầu được phác họa; cùng lúc, nhiều biến số khác được mở ngỏ, mời gọi sự so sánh xuyên các thể loại và thời kỳ văn học… Điều có vẻ như mơ hồ, bí ẩn ở một tác phẩm đơn lẻ có thể được làm rõ khi tham chiếu với những văn bản văn chương và phi văn chương khác; dấu hiệu dường như mang tính cách tân cực đoan ở một văn bản hóa ra lại có thể được chia sẻ rộng rãi bởi những văn bản văn chương ra đời trước đó và những tài liệu khác; cái được ngợi ca như là sự hoàn thiện (hay như các nhà phê bình mới gọi là “sự thống nhất về đề tài”) của một văn bản đơn lẻ lại có thể nhìn nhận công bằng chúng chỉ là sự cấu hình lại những đề tài quen thuộc từ nhiều văn bản khác, có sắc thái hóa thêm ở mức độ nhất định.; những gì được xem là motif xác định trong văn chương của một nhóm sắc tộc có thể lại là đặc điểm được chia sẻ trong văn chương của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều quốc gia khác; cái được nhìn nhận như một “sự lật đổ” một thành tố truyền thống gây sửng sốt và chú ý, tự thân nó, rất có thể lại thuộc về một truyền thống nào đó.” (25-6)

Tương tự, Rob Nixon đã  rất có lý khi đề nghị thay vì tự động phong cho những văn bản văn chương xoay quanh những vấn đề môi trường như quyền sử dụng đất đai, thử vũ khí hạt nhân, ô nhiễm, tràn dầu thành những điển phạm của văn chương viết về môi trường của một dân tộc, chúng ta nên đặt những tác phẩm này trong một ngữ cảnh quốc tế và xem xét chúng từ góc nhìn so sánh. Làm như vậy, chúng ta không chỉ có thể  đa dạng hóa các điển phạm văn chương về môi trường mà còn có thể xác lập lại các hệ hình phổ biến của các điển phạm này. Khảo sát văn chương viết về dầu mỏ, chẳng hạn, có thể cho phép ta khám phá những mối quan hệ giữa các văn bản của nhiều nhà văn khác nhau như các tác giả Mỹ Edna Ferber (1885-1968), Linda Hogan (1947-), Joe Kane (1899-2002) và Upton Sinclair (1878-1968); các nhà văn Nigeria như Ken Saro-Wiwa (1941-1995), John Pepper Clark (1935-) và Tayo Olafioye; và tiểu thuyết gia viết tiếng Arab người Jordan, Abdelrah-man Munif (1933-2004).

Đi xa hơn một bước trong việc tái cấu hình những hệ hình phê bình sinh thái là việc tập trung không phải vào những mạng lưới quốc gia hay thậm chí những mạng lưới được hình thành xung quanh một vấn đề môi trường cụ thể (mạng lưới đề tài) mà thay vào đó, là những mạng lưới được hình thành xung quanh những khái niệm (mạng lưới khái niệm). Thực sự nếu chỉ mở rộng phạm vi ngôn ngữ và địa lý của các văn bản đưa vào phân tích thôi thì chưa đủ. Lĩnh vực này còn cần đến những khái niệm mới, những cách tiếp cận lý thuyết mới, đặc biệt không bị giới hạn trong phạm vi những cư dân, những thời đại cụ thể. Chẳng hạn, trong cuốn Ecocritical Explorations in Literature and Cultural Studies, Patrick Murphy đã kêu gọi phát triển một thứ “lý thuyết phê bình sinh thái xuyên quốc gia”, nghĩa là ông muốn nói đến “một lý thuyết có thể cắt ngang, tức, băng qua những giới hạn của quan điểm và biên giới quốc gia… Tránh rơi vào chủ nghĩa địa phương không có nghĩa là thực hành một thứ chủ nghĩa phổ quát; nó cũng không có nghĩa là bỏ rơi ý niệm rằng phê bình sinh thái, cho dù ở bất cứ hình thức đa dạng nào, là môt thực hành văn chương, văn hóa quan trọng, thích đáng và cần thiết, cần phải được đẩy mạnh trên phạm vi toàn thế giới” (63).

Như tôi có thảo luận trong cuốn sách của mình Ecoambiguity: Environmental Crises and  East Asian Literatures (2012), khái niệm mơ hồ sinh thái (ecoambiguity) – những tương tác phức tạp, đầy mâu thuẫn giữa con người và thế giới tự nhiên – đã cung cấp những khả năng mới, thú vị từ góc nhìn này. Các nhà phê bình sinh thái vẫn chưa có sự chú ý nhiều đến những sự mơ hồ phức tạp mà chúng ta phải gặp phải trong quá trình đối mặt với những vấn đề gây tranh cãi được phát sinh từ sự biến đổi và xuống cấp của hệ sinh thái và những mà thơ văn đã làm nổi bật sự thiếu vắng của những câu trả lời giản đơn, sự khan hiếm của những giải pháp dễ dàng đối với những vấn đề môi trường.

Mọi hành vi của con người đều làm biến đổi môi trường. Một vài biến đổi rất hữu hình và dễ giải thích, một vài biến đổi khác tuy nhìn thấy ngay được nhưng lại bị phớt lờ, bị khước từ, một số chỉ hiển hiện sau những khai quật khảo cổ hay những nghiên cứu khoa học, một số khác thì được coi là những giả thuyết trong khi vô số thứ khác vẫn còn không được biết đến. Mô tả những biến đổi xảy ra đối với môi trường từ lâu đã là một thách thức: thường phải cần đến những khái niệm mới, những thuật ngữ mới. Xác định đúng các tác nhân gây ra biến đổi cũng không dễ dàng hơn. Ngay cả những thủ phạm hiển hiện nhất cũng có thể được bao bọc trong những mạng lưới của của những kẻ chối tội (disclaimers). Tương tự, dự đoán chính xác sự thay đổi lúc nào cũng là việc khó khăn. Điều này thường là vì cái vô nhân (nonhuman) hiện ra hay được tưởng tượng như là một thứ vô tận, những dấu hiệu của tình trạng sắp rỗng kiệt dễ dàng bị thờ ơ hoặc không dễ thấy. Phức tạp hơn nữa là đánh giá thế nào là biến đổi, dù là trong quá khứ, ở hiện tại hay tương lai: biến đổi nào có thể được hiểu như là sự phá hại, sự phá hại nào có thể được bỏ qua, thậm chí nên khuyến khích? Simon Estok đã miêu tả những biến đổi của các hệ sinh thái chịu tác động từ con người như là những hiện tượng phần lớn bắt nguồn từ chứng “sợ sinh thái” (ecophobia), được hiểu như “một nỗi sợ hãi hay căm ghét thế giới tự nhiên vô cớ, phi lý, giống như những chứng sợ hãi/thù ghét vẫn đang hiện hữu rất tinh vi trong đời sống thường nhật cũng như trong văn chương chúng ta như thù ghét người đồng tính (homophobia), phân biệt chủng tộc và giới tính” (Ecocriticism and Shakespeare 4). Chứng sợ môi trường này, Estok viết, thường xuyên “thắng” những thứ được mặc định như là đối lập với nó: “biophilia”, được hiểu như là “sự gắn bó bẩm sinh về mặt cảm xúc giữa con người và các hệ thống hữu cơ”, và hơn thế, “ecophilia”, tình yêu thiên nhiên (“Lý thuyết hóa trong một không gian” 219). Chắc chắn, chính chứng “sợ sinh thái” này có thể giải thích khá nhiều cho ham muốn của con người xuyên suốt lịch sử là kiểm soát, chế ngự được (nhiều phần của) môi trường thiên nhiên và sự can dự của con người vào những vụ tàn phá thiên nhiên ở quy mô rất lớn như chặt phá rừng trên diện rộng và tiêu diệt các loài thú. Tương tự, “ecophilia” dường như lại thúc đẩy sự nâng niu, bảo vệ thiên nhiên cũng như sự điều hòa lại môi trường, bảo tồn nó và trên thực tế, chính nó đã khơi gợi cảm hứng cho bản thân lĩnh vực phê bình sinh thái.

Song như cụm từ mòn sáo “yêu thiên nhiên đến chết” cho thấy, những biến đổi môi trường không nhất thiết là những dấu hiệu dẫn đến nỗi sợ sinh thái hay sự sủng ái sinh thái tuyệt đối. Một định kiến chống lại yếu tố vô nhân giữ con người bên trong một căn hộ thành phố, tương đối tách lìa với tự nhiên chắc chắn sẽ điều chỉnh, biến đổi yếu tố vô nhân trong môi trường ít trực tiếp hơn và ít đáng kể hơn so với một thứ tình yêu thiên nhiên hối thúc người ta lái xe hàng giờ hay đi bộ đường dài hay đi ca – nô. Và ngay cả khi những biến đổi này được thúc đẩy chủ yếu bởi chứng sợ sinh thái hay say mê sinh thái thì tự thân chúng cũng thường dễ được đánh giá hơn. Những sự mơ hồ, không xác định này tràn vào những mối quan hệ và những cách diễn giải về mối quan hệ giữa con người và môi trường cho thấy sự mơ hồ sinh thái có thể còn nổi bật hơn là chỉ riêng nỗi sợ hãi sinh thái hay niềm say mê sinh thái không thôi.

Diễn ngôn văn chương thường xuyên lợi dụng sự mơ hồ sinh thái. Việc văn chương rất thường khi công nhiên bất tuân logic, sự chính xác, nhất quán cho phép nó luôn có khả năng phát hiện một cách sắc sảo những sự mơ hồ nói chung, và những sự mơ hồ bắt nguồn từ những tương tác giữa con người với các hệ sinh thái nói riêng. Đặc biệt hơn, tính đa trị (mutivalence) thuộc về bản chất của văn học cho phép nó làm nổi bật và thương thỏa (negotiate) được với sự mơ hồ vốn từ lâu đã bao trùm những mối tương tác giữa con người và môi trường, bao gồm cả những tương tác liên quan đến những tàn phá mà con người gây ra cho các hệ sinh thái. Sự mơ hồ ở đây xuất hiện chủ yếu không phải như một giá trị đạo đức hay thẩm mỹ mà như là triệu chứng của sự bất định thuộc bình diện nhận thức luận, được giải thích vừa cảm tính, vừa chính xác như một sự khuyết hụt ý thức và/hoặc như một thú nhận ngầm về sự bất lực của nhà văn và các nhân vật văn học.

Sự mơ hồ về môi trường tự biểu hiện ra theo nhiều cách đan bện với nhau, bao gồm cả những thái độ nước đôi đối với thiên nhiên; sự nhập nhằng trong nhận thức về điều kiện thực sự của yếu tố vô nhân trong môi trường, thường là hệ quả từ thông tin mơ hồ; những hành vi mâu thuẫn của con người đối với các hệ sinh thái; những chia rẽ, bất đồng trong thái độ, điều kiện và hành vi dẫn đến việc giảm nhẹ hoặc phó mặc vấn đề về sự xuống cấp của môi trường vô nhân một cách chủ động, cũng như việc làm hại, dù không chủ ý, chính những môi trường mà con người đang bảo vệ. Nghiên cứu của tôi trên hàng trăm tác phẩm văn chương thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau cho thấy những hình thức bị chồng chéo lên nhau của sự mơ hồ sinh thái có thể được xem là đặc điểm cơ bản của những văn bản nghệ thuật bàn về mối quan hệ giữa con người và thế giới vô nhân. Thú vị hơn cả là cách mà những văn bản này diễn đạt những sự hoán vị và ngụ ý về những sự bất đồng, chia rẽ theo trục dọc thời gian và trục ngang không gian vật lý và xã hội – nói khác đi, là cách chúng thương thỏa với những sự mơ hồ trong cái gọi là chủ nghĩa quốc tế sinh thái (ecocosmopolitanism).

Phần lớn văn chương chú ý đến những mối nguy hại đối với các hệ sinh thái, trong đó có nhiều văn bản được khảo sát trong tuyển tập này, đều mang tinh thần thế giới về môi trường, hoặc trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến sự thoái hóa của môi trường sinh thái vượt khỏi một thời gian hay nơi chốn đơn nhất. Việc phân tích cách các văn bản này tự đặt mình trực diện với những mối bận tâm về môi trường thuộc nhiều kiểu và nhiều phạm vi khác nhau, cách chúng cùng lúc vừa mở ra vừa đóng lại trước thế giới rộng lớn hơn có thể có những đóng góp quan trọng cho nhận thức của chúng ta về mối quan hệ giữa cái địa phương, cái vùng miền và cái toàn cầu.

Patrick Hayden đã nói về “công dân môi trường toàn cầu”:

“Công dân môi trường toàn cầu có thể được xem như một thành tố của một quan niệm bao trùm hơn mang tinh thần thế giới về công dân toàn cầu… Ý niệm công dân môi trường toàn cầu nảy sinh từ mối quan tâm đạo đức về những vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế gắn với môi trường và sự phụ thuộc của nhân tính vào nó; ý niệm này cũng hình thành từ một nhận thức về những trách nhiệm toàn cầu của chúng ta về điều kiện sống của con người vì mối liên kết của nhân tính với môi trường. Do đó, công dân môi trường toàn cầu quan tâm đến những điều tốt chung cho cộng đồng nhân loại và có những sự nhấn mạnh cụ thể vào thực tế tất cả chúng ta đều là các công dân vừa thuộc về những môi trường địa phương đồng thời vừa thuộc về một môi trường toàn cầu duy nhất.” (147)

Tương tự, Ursula Heise đã đặt ra thuật ngữ “chủ nghĩa thế giới sinh thái” (ecocosmopolitan) như là:

“Một nỗ lực nhằm hình dung các cá nhân và nhóm như là bộ phận của những “cộng đồng tưởng tượng” trên hành tinh của cả con người và các thành phần vô nhân… Phê bình sinh thái mới chỉ bắt đầu khám phá những phương tiện văn hóa mà nhờ đó những mối ràng buộc đối với thế giới tự nhiên được tạo ra và duy trì và cách mà sự hình dung về những mối ràng buộc này thúc đẩy hay cản trở những hình thức can dự mang tính vùng miền, quốc gia, xuyên quốc gia như thế nào… Mục đích của một dự phóng phê bình mang tinh thần “chủ nghĩa thế giới sinh thái”… là điều tra những phương tiện nào mà các cá nhân, các nhóm trong những ngữ cảnh văn hóa cụ thể nhờ đó có thể hình dung được chính bản thân họ trong hình thức cụ thể tương ứng như là bộ phận của khối sinh quyển toàn cầu, hay nhờ phương tiện nào mà họ có thể làm được như vậy” (Sense of Place, 61-2).

Cách sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa thế giới sinh thái” của tôi có phần giống với  thuật ngữ của Heise, có sự kế thừa cả quan niệm của Hayden về công dân môi trường sinh thái nhưng tôi lại chú ý đến những hình dung của con người về những mối ràng buộc và sự can dự vào thế giới tự nhiên ít hơn là tình trạng của bản thân thế giới tự nhiên, đặc biệt là những phạm vi của sự tàn phá môi trường mà một văn bản có thể nắm bắt, thể hiện được một cách vừa trực tiếp vừa hàm ẩn.

Những nguyên nhân và hình thái của sự xuống cấp sinh thái được thể hiện trong các tác phẩm văn chương hết sức đa dạng: phạm vi các giống loài chịu ảnh hưởng, gồm cả sự hiện hữu hoặc vắng mặt những nỗi đau khổ cao quý của con người; dung lượng văn bản dành để thảo luận trực tiếp về thể trạng hay những tai họa môi trường. Tương tự, văn chương cũng bàn về những sự phá hủy môi trường sinh thái ở những phạm vi không gian và thời gian khác nhau, gồm cả cái được coi là sự phá hại trong hoàn cảnh xác định – những tổn thương ngắn hạn đối với các hệ sinh thái tương đối nhỏ, khu biệt; sự phá hại trên diện rộng không gian – mức độ phá hại bị giới hạn trong phạm vi thời gian song lại ảnh hưởng đến hệ sinh thái lớn hơn hoặc nhiều hệ sinh thái; sự phá hại trên diện rộng thời gian – sự xuống cấp của môi trường diễn ra trong phạm vi thời gian lớn hơn phạm vi không gian; sự phá hại bao trùm – sự xuống cấp của môi trường vừa kéo dài về thời gian, vừa trải rộng trong không gian.

Các văn bản mang tinh thần chủ nghĩa thế giới sinh thái là những văn bản nói đến một cách bao quát về tình trạng môi trường xuống cấp trên một phạm vi mang tính toàn cầu tiềm tàng. Đó là những bài thơ hay những văn bản ngắn thường xuyên nói đến việc loài người hủy hoại mọi thứ từ những vùng rừng nhỏ đến toàn bộ hành tinh. Những biểu hiện phức tạp hơn về chủ nghĩa thế giới sinh thái có thể thấy được trong các tác phẩm văn chương trực diện miêu tả những kiểu và trường hợp đặc thù của tình trạng môi trường bị hủy hoại, bất kể quy mô, nghĩa là nó có thể bao trùm những vấn đề môi trường ở cấp vĩ mô hơn mà cũng có thể ở cấp độ nhỏ hơn. Thí dụ, ngay một bài thơ ngắn chú ý đến một con thú đơn độc ốm yếu cũng có thể nói thẳng ra được sự đau đớn của con thú này là hệ quả của sự phá rừng trên quy mô lớn. Tương tự, một tiểu thuyết dài về biến đổi khí hậu hay sự xóa sổ nhiều giống loài trên trái đất lại cũng có thể mô tả chi tiết về điều kiện của những nơi chốn cụ thể. Những văn bản mang tinh thần thế giới sinh thái khác lại miêu tả những vấn đề ở một không gian mà đó cũng là vấn đề tương tự ở những không gian khác: một tác phẩm nói về một cánh đồng bị ô nhiễm cũng có thể nói lên sự giống nhau giữa sự tàn phá trên mảnh đất này và những mối nguy hại đối với môi trường diễn ra ở một mảnh đất khác cách xa đó. Nhiều văn bản tập trung vào những biến cố xảy ra tại một nơi chốn và thời gian cụ thể vừa song song với những điều kiện ở những nơi chốn và thời gian khác, vừa nói về những trường hợp này như thể đấy là bộ phận của những mô hình lớn hơn của tình trạng suy thoái môi trường hoặc như thể chúng bao hàm trong mình những vấn đề nhỏ hơn.

Mặc dù cách xử lý của văn chương về đề tài mối quan hệ của con người với những môi trường bị phá hại thường phô diễn những mối ràng buộc chặt chẽ mang tính địa phương nhưng nhìn chung diễn ngôn văn chương về đề tài này phần nào đó lại ít mang tính văn hóa, tính dân tộc, hay thậm chí tính vùng miền hơn là về các đề tài khác, trong đó gồm cả sự tôn vinh thiên nhiên. Điều này thực sự không ngạc nhiên vì toàn cầu hóa môi trường là hình thức lâu đời nhất của toàn cầu hóa, còn có trước toàn cầu hóa kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Bên cạnh đó, nhiều nhà văn viết về sự tàn phá môi trường lại có thời gian đáng kể ở nước ngoài và đã chứng kiến sự xuống cấp của môi trường ở nhiều địa điểm, nơi chốn. Nếu như toàn cầu hóa sinh thái được cho rằng có thể làm cho văn chương mở rộng đề tài môi trường một cách thuận lợi thì toàn cầu hóa văn chương cũng có thể làm gia tăng sự chú ý đối với những vấn đề môi trường.

Tinh thần chủ nghĩa thế giới sinh thái phần lớn được thể hiện hàm ẩn, nó khơi dậy những câu hỏi về thực trạng và khả năng của môi trường. Thực trạng của môi trường quy chiếu đến những dấu hiệu khủng hoảng sinh thái mà một văn bản thể hiện trực tiếp hoặc gợi dẫn rõ ràng. Khả năng của môi trường lại biểu thị những tác hại do con người gây nên đối với moi trường dưới dạng những ẩn ý trừu tượng hơn. Đó có thể là một sự hủy hoại môi trường mà nhà văn muốn biểu đạt nhưng theo một cách không hoàn toàn tường minh; sự phán đoán của nhà văn về khả năng của môi trường theo hình thức này có thể dựa trên tri thức của nhà văn, hoặc ít nhất dựa trên những gì mà người ta có thể biết được về trí thức của nhà văn về những vấn đề môi trường. Phổ biến hơn, khả năng của môi trường quy chiếu đến cái có thể diễn dịch hoặc ngoại suy từ một tác phẩm sáng tạo, bất kể điều này có nằm trong chủ ý của tác giả hoặc có liên quan gì những hoàn cảnh xã hội và môi trường đặc thù xung quanh việc hình thành văn bản ấy. Nhiều tác phẩm văn chương tập trung vào những sự tàn phá môi trường trong phạm vi xác định có thể được đọc như sự thu nhỏ của những sự tàn phá trên diện rộng không gian, thời gian hay thậm chí cả sự tàn phá bao trùm. Do đó, trong một vài trường hợp, một bài thơ ngắn về một sinh vật đau ốm, không hàm chứa bất cứ quy chiếu nào đến những con thú khác cũng vẫn có thể được đọc như là cách nói về tình trạng tuyệt vọng của một giống loài hay nhiều giống loài ở nhiều không gian. Tương tự như thế, trong một số trường hợp, một truyện ngắn về những gì mà các sinh vật phải chịu đựng trên một cánh đồng được phun thuốc trừ sâu, với những thay đổi chẳng mấy đáng kể ở tên gọi nơi chốn, nhân vật, tên chủng loại sinh vật, cũng có thể gia tăng nhận thức về tính trạng lâm nguy của các loài động vật ở những không gian khác. Nói tóm lại, các văn bản có thể mang tinh thần thế giới sinh thái mà không cần phải miêu tả trực diện sự xuống cấp của môi trường vượt quá phạm vi thời gian-không gian đơn nhất.

Thường khó xác định liệu phán đoán về những khả năng của môi trường ở  một văn bản có thể đi trước thực trạng của môi trường hay không, nhất là khi-đúng hơn, gần như bao giờ cũng thế -những khả năng là mơ hồ. Thực ra, ngay cả thứ văn học được viết từ tiêu điểm “vùng sinh thái” (bioregionalist) cũng hiếm khi xác định chính xác phạm vi không gian-thời gian của sự xuống cấp môi trường mà nó miêu tả. Song phạm vi của sự khủng hoảng môi trường mà hành tinh của chúng ta đang phải đối mặt đòi hỏi chúng ta cần phải quan sát thật kỹ những khả năng này. Điều này không có nghĩa là phủ nhận những đặc thù của tình trạng môi trường lâm nguy ở những địa điểm cá biệt hay việc cần phải hiểu những hoàn cảnh cụ thể của quá trình sản xuất văn hóa. Trường hợp sau đặc biệt quan trọng trong trường hợp nhà văn tích cực tham gia vào các phong trào môi trường hay chính trị khác, hoặc ở nơi văn bản tập trung vào những mối bận tâm về sinh thái như là hiện tượng cá biệt một nơi chốn. Hơn nữa, nền tảng và hoàn cảnh của chính độc giả cũng có thể ảnh hưởng đến cách mà những khả năng của văn bản được nắm bắt. Tuy nhiên, những nhà phân tích văn chương về đề tài khủng hoảng môi trường phải xem xét nghiêm túc các thực trạng, khả năng, và vô số vị trí ở giữa. Các văn bản văn chương, với tư cách là những sản phẩm văn hóa hữu hình, đứng bên trong, chứ không phải bên ngoài các hệ sinh thái từ quy mô địa phương đến toàn cầu, điều này cho phép chúng có đưa ra những bình luận giàu hàm lượng thông tin về nhiều môi trường khác nhau.

Những quan điểm từ lĩnh vực nghiên cứu văn học thế giới có thể đặc biệt hữu ích đối với nghiên cứu văn học và môi trường. David Damrosch đã định nghĩa văn học thế giới như:

“tất cả các tác phẩm văn chương được lưu hành vượt khỏi phạm vi nền văn hóa nguồn hoặc dưới hình thức bản dịch hoặc bằng ngôn ngữ gốc… một tác phẩm chỉ có đời sống hiệu ứng (effective) như là văn học thế giới khi nào, và ở bất cứ chỗ nào, nó là hiện diện chủ động của một hệ thống văn chương vượt khỏi phạm vi của nền văn hóa nguồn… Văn học thế giới… không phải một tập hợp điển phạm các văn bản mà là một cách đọc: một hình thức tương tác vô tư với thế giới, vượt xa khỏi giới hạn của thời gian và nơi chống của chính mình… điều này giúp chúng ta có thể hiểu được những cách mà theo đó, một tác phẩm văn chương muốn vươn đến xa hơn, hoặc muốn lệch khỏi xuất phát điểm khởi nguồn của nó.” (4,281,300)

Nhiều văn bản đề cập đến tình trạng báo động của môi trường đã được dịch sang ít nhất một thứ tiếng nhưng hầu như chưa có mấy tác phẩn có một sự hiện diện tích cực trong hệ thống văn chương rộng hơn nền văn hóa nguồn. Do vậy, nhìn chung chúng không được diễn giải như là những tác phẩm văn học thế giới. Mặt khác, hầu như tất cả những văn bản này đều nhấn mạnh đến những mối quan tâm không chỉ giới hạn trong những nền văn hóa nguồn và mang tinh thần chủ nghĩ thế giới sinh thái, hoặc trực tiếp hoặc ngầm ẩn. Có thể xem xét lại nhiều giá trị ở những văn bản này bằng cách đọc chúng như là bộ phận của văn học thế giới, nghĩa là xem xét cách chúng có thể vượt khỏi điểm khởi nguồn của mình như thế nào.

Những khủng hoảng sinh sôi trên khắp thế giới đã đặt ra một mệnh lệnh đối với nghiên cứu văn học, đòi hỏi không chỉ mở rộng phạm vi đề tài mà còn cần thiết phải hình thành một ý thức nhạy cảm hơn, sắc bén hơn về trạng thái sinh tồn của hành tinh chúng ta. Một trong những phương tiện hiệu quả nhất để tăng cường ý thức này trong nghiên cứu văn chương là hãy đọc, tiếp cận các văn bản như là những thành tố của văn học thế giới, ngay cả khi đó có thể không phải là văn học thế giới, hiểu theo quy phạm chặt chẽ, nhưng chúng lại tương tác với những vấn đề quan trọng rộng hơn phạm vi của nền văn hóa đơn nhất. (Những) Thế giới mà các văn bản này miêu tả, về mặt địa lý, vật chất, có thể nằm ngoài nơi chốn và thời gian của chúng ta, nhưng mối quan tâm mà chúng hướng đến thì lại rất gần với chính quê hương, xứ sở của ta.

Khái niệm “ý thức hành tinh” (planetary consciousness) một thời gian rất dài được kết nối với chủ nghĩa đế quốc. Bàn về lịch sử tự nhiên ở châu Âu thế kỷ XVIII, Mary Louise Pratt đã gắn “ý thức hành tinh” của thời đại này với sự đổ vỡ (disruption), sự sắp đặt lại trật tự (reordering), chủ nghĩa đế quốc và châu Âu trung tâm luận: “Cách mà người châu Âu thế kỷ XVIII hệ thống hóa thế giới tự nhiên như một dự phóng xây dựng tri thức châu Âu…đã tạo nên một thứ ý thức hành tinh mang tinh thần lấy châu Âu làm trung tâm. Thứ ý thức ấy bao quát bề mặt của trái đất, xác định các loài thực vật, động vật bằng những thuật ngữ gợi liên tưởng thị giác, quy gộp và tập hợp lại các loài này trong một trật tự hữu hạn, có tình chất tổng thể của quá trình hình thành châu Âu.” (30-1, 37). Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, văn hóa, giống loài, vốn ấn định tính chất thượng đẳng của một cộng đồng người hay một nhóm người đặc biệt, chính là cơ sở cho sự kiếm tìm hình thức cho cái “ý thức hành tinh” này. Song nếu như việc nhấn mạnh “ý thức hành tinh”có thể cũng cố những thứ chủ nghĩa địa phương, dân tộc, chủng tộc hay những thứ chủ nghĩa trung tâm luận khác thì nó cũng có thể được sử dụng để đối lập với các định kiến. Như Nelson Maldono Torres đã nhận định: “Chống lại một thứ ‘ý thức hành tinh’ được nhìn theo con mắt của châu Âu đế quốc vốn đã trở thành công cụ cho các cuộc phiêu lưu bành trướng thuộc địa của giai cấp tư sản, Dussel đã khai triển một một quan điểm khác về ‘hành tinh’… Thay vì phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc, quan điểm ‘hành tinh’ này hướng đến việc vượt qua chủ nghĩa châu Âu trung tâm luận” (210). Đây chính xác là là mục đích của một số hình dung đương đại về ý thức hành tinh.

Trong thập niên vừa qua, những nhà phê bình như Gayatri Chakravtorty Spivak và Wai Chee Dimock đã thôi thúc các học giả thuộc cả chuyên ngành văn học so sánh lẫn văn học dân tộc hướng đến một cách tiếp cận mang ý thức hành tinh. Nói một cách đơn giản nhất, với điều này, họ muốn gia tăng phạm vi cũng như nền tảng văn hóa của nghiên cứu văn học. Dimock đề nghị đọc văn học Mỹ như một tập hợp con, chứ dứt khoát không phải như một thực thể có sức ôm chứa, bao trùm lớn nhất, của “một tổng số vô hạn những của những tập hợp (aggregates) lớn hơn được xác định theo độ dài thời gian (durations) và sự mở rộng (extensions) của bản thân con người với tư cách một giống loài, tạo thành một nếp gấp, giữa nhiều nếp gấp khác, trong văn chương Mỹ”. (5, 10-1). Quan điểm mà bà biện hộ có thể dễ dàng áp dụng, có sự điều chỉnh nhất định, với bất kỳ nền văn học nào khác, ở cấp dân tộc hay khu vực, v.v…Spivak đã đưa ra một lập luận có phần gây tranh cãi rằng:

“như là những tính tập thể  được giả định được băng qua các biên giới được bảo vệ của một thứ văn học so sánh, được bổ túc thêm bởi Nghiên cứu vùng, những nền văn học này cố gắng hình dung, tưởng tượng về chính mình như thể chúng là một hành tinh văn học hơn là nền văn học của châu lục (continental), toàn cầu (global) hay thế giới (worldly)… Để thay cho một cách đọc văn học thế giới qua dịch thuật theo kiểu bản đồ hàm ẩn trong đó một sự ngạo mạn… tôi muốn đề nghị một lựa chọn khác, hãy tiếp cận văn học thế giới từ ý thức hành tinh”. (72-3)

Những liên tưởng về hành tinh đã làm phong phú nghiên cứu văn học cũng như chúng làm giàu có hơn hiểu biết của con người nói chung. Những quan niệm gần đây về chủ nghĩa nhân văn hành tinh và ý thức hành tinh nhấn mạnh đến việc cần phải phân tích các diễn ngôn văn chương, cũng như những diễn ngôn sáng tạo khác, về những vấn đề cấp thiết liên quan đến thực trạng hay mới chỉ là nguy cơ tiềm tàng của liên vùng và hành tinh. Paul Gilroy đã nói đến tầm quan trọng của việc “hình thành một thứ chủ nghĩa có khả năng hiểu được tính phổ quát của sự tổn thương ở cấp độ yếu  tố bởi những sai lầm mà chúng ta gây ra cho nhau”, cũng như “một ý thức hành tinh về bi kịch, sự mong manhm ngắn ngủi của sự hiện sinh không thể phân chia được của loài người”. Tương tự, khi thảo luận về giá trị của chấp nhận một hệ hình nghiên cứu mang ý thức hành tinh rõ hơn, Dimock đưa ra vấn đề về tình trạng nô lệ – vấn đề, theo bà, mặc dù thường được nghiên cứu trong phạm vi địa lý và niên biểu nước Mỹ, nhưng đã trở thành một hiện tượng thực sự không nhận ra được khi nó diễn ra bên ngoài những tọa độ không gian-thời gian này.” (Planet and America, 6). Tuy ở đây Dimock nói về việc mở rộng nền tảng chứng cứ cho nghiên cứu lịch sử nhưng phê bình văn học cũng nên đi theo con đường tương tự, nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, chẳng hạn, mạng lưới liên văn hóa của tình trạng nô lệ và sự lạm dụng các quyền con người khác. Một đường hướng phê bình như vậy sẽ phân tích các tác phẩm văn chương như sản phẩm vừa thuộc về thời gian-không gian đặc thù vừa thuộc về những kinh nghiệm mà con người cùng chia sẻ. Nhưng đáng nói là, điều thậm chí quan trọng hơn cả việc tăng cường ý thức hành tinh trong nghiên cứu văn học là việc nhận diện và phân tích những mạng lưới liên văn hóa thương lượng quan hệ giữa con người và môi trường, đặc biệt là những quan hệ liên đới đến sự xuống cấp của hệ sinh thái.

Cách tiếp cận này là cấp thiết vì một số lý do. Thứ nhất, một định hướng như thế phản chiếu chính xác hơn khách thể mà tên gọi của nó bao quát toàn bộ sự sống: “hành tinh”, chứ không phải “hoàn cầu” hay “thế giới”, ngay lập tức vừa chỉ Trái Đất của chúng ta, nói đến cả sự đa dạng và tương tác của các sinh thể sống – nhìn thấy được và không nhìn thấy được, con người và vô nhân, sinh thể và vô sinh thể, cái vĩ mô và cái vi mô ở kích thước và tác động – vốn hình thành, cư trú và chuyển di trên khắp địa cầu này. Thứ hai, như những nhà hoạt động vì công bằng môi trường và các học giả nữ quyền luận sinh thái gần đây cho thấy việc xem xét các tác phẩm văn chương nghệ thuật diễn tả mối tương tác giữa con người và môi trường, trên thực tế, đào sâu sự hiểu biết không chỉ về mối quan hệ này mà còn về mối quan hệ giữa con người với con người. Thứ ba, và cũng quan trọng hơn cả, những nghiên cứu văn chương có thể giúp chúng ta phát triển sâu hơn, nhiều sắc thái hơn những hiểu biết về mối tiếp xúc giữa con người và những yếu tố vô nhân; những hiểu biết này lại có tiềm năng thúc đẩy nhanh hơn những thay đổi văn hóa cần thiết cho việc điều hòa lại những hệ sinh thái bị tàn phá, hạn chế nhiều hơn tình trạng xuống cấp của môi trường và bảo vệ sức khỏe của con người.

Tuy nhiên, cuối cùng việc tăng cường ý thức hành tinh về văn học đi xa hơn việc mở rộng không gian địa lý của nghiên cứu văn học và xa hơn cả việc dịch chuyển đối tượng nghiên cứu từ mối quan hệ giữa con người với con người đến việc bao hàm cả trong đó mối quan hệ giữa con người và môi trường (tức là mạng lưới diễn ngôn về những mối quan hệ giữa con người và cái vô nhân). Nó cũng bao hàm cả việc đánh giá tinh thần chủ nghĩa thế giới sinh thái của những mối tương tác này: xem xét từng tác phẩm văn chương đơn lẻ, ngay cả những tác phẩm dường như chỉ tập trung thể hiện những mối quan tâm môi trường mang tính địa phương, cũng có thể làm tăng thêm ý thức về những hiện tượng văn hóa xuyên quốc gia và xuyên văn hóa. Tương tự, nó cũng đòi hỏi chúng ta đánh gia cách ứng xử của văn chương về những hiện tượng diễn ra trên quy mô rộng có thể gia tăng nhận thức về những mối quan tâm ở phạm vi nhỏ hơn như thế nào.

Khủng hoảng sinh thái xuất hiện khắp nơi trên hành tinh của chúng ta, với phạm vi thời gian và không gian địa lý vướt xa hơn bất cứ một mối quan tâm cấp thiết mang tính toàn cầu nào. Hơn bất kỳ hiện tượng nào khác, khủng hoảng môi trường hối thúc chúng ta phải suy nghĩ lại về sự sống của chúng ta, những trách nhiệm của chúng ta từ hệ quy chiếu hành tinh. Thông qua những phân tích xuyên văn hóa về các tác phẩm văn chương trực diện viết về sự tàn phá môi trường vô nhân, chúng ta có thể có có được những cái nhìn thấu thị mới mẻ vào những thách thức lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt, không cần quan tâm đến sự chuyên biệt hóa nào: đâu là cách tốt nhất để tổng hợp và phân tách những động lực (dynamics) của cái cục bộ, cái toàn cầu và mọi thứ ở giữa; đâu là cách tốt nhất để tổng hợp và phân tách những khoảng khắc trong thời gian của người từ thời gian của hành tinh và mọi thứ ở giữa?

Văn học hiếm khi nào đem đến những phương thuốc phổ biến, nó lại càng ít đưa ra được những chính sách để ngăn ngừa những nguy cơ trong tương lai hay khắc phục sự tàn phá đang diễn ra ở các cảnh quan; trong một số trường hợp, bản thân văn chương thậm chí có thể còn tiếp tay cho những hành vi phá hại môi trường mà nó tỏ ra xót xa. Nhưng việc đề ra các chính sách, ở đây chưa bàn đến việc thực thi, đòi hỏi những thay đổi      trong ý thức – tức là trong hình dung, hiểu biết và kỳ vọng – đó là những thứ mà văn học, nếu được đặt đúng chỗ, có khả năng tác động rất lớn. Chắc chắn, những tụng ca về các kỳ quan thiên nhiên, ngay cả những trường hợp không đề cập gì đến những môi trường bị tổn thương, cũng có khả năng làm lay động người đọc sâu sắc, từ đó, thúc đẩy ý thức về môi trường. Bên cạnh đó, việc tôn vinh thiên nhiên, ngay cả trong những tác phẩm được xuất bản ở những xã hội đang phải chịu đựng tình trạng khủng hoảng môi trường nghiêm trọng cũng không phải là những sản phẩm tất yếu của sự không biết hay của ham muốn có vẻ như tích cực nhằm che giấu những hệ sinh thái bị phá hoại. Thay vào đó, đôi khi chúng là sự phản đối những thay đổi đang xảy ra trong thế giới kinh nghiệm. Tuy nhiên, một cách trực diện hơn, diễn ngôn văn chương về ô nhiễm, khủng hoảng môi trường – dù là phản ánh thực trạng hay tưởng tượng về những viễn cảnh có thể/không thể xảy ra đi nữa, dù được lồng vào bên trong những hình thức ca tụng, tôn vinh tự nhiên hay trở thành trung tâm của một văn bản – đều nhấn mạnh rất rõ ràng những thách thức trực tiếp mà các hệ sinh thái thuộc đủ mọi loại phải đương đầu. Tác phẩm văn chương trực tiếp đề cập đến sự tàn phá môi trường cũng có thể cho thấy những khó khăn trong việc xác định chính xác các nguyên nhân dẫn đến thực trạng này cũng như gợi ý những giải pháp hiệu quả. Và ở những mức độ khác nhau, những tác phẩm này đã đề cập đến một trong những sự mơ hồ lớn nhất của những biến đổi do con người gây ra đối với cảnh quan môi trường: đến mức độ nào thì những biến đổi này thật sự đáng lưu tâm, về mặt đạo đức cũng như về mặt sinh thái, qua không gian và thời gian? Văn chương chú ý phát hiện, miêu tả những hệ sinh thái bị đe dọa để từ đó nêu bật sự cấp thiết của một nhận thức tốt hơn về những sự phức tạp bao trùm, xuyên thấm những mối quan hệ giữa con người và môi trường, bao hàm cả những cố gắng của con ngời nhằm bảo vệ hay khắc phục các yếu tố vô nhân. Thứ văn chương này cũng trực tiếp nói đến những hậu quả khi không thể làm được điều đó. Nguy cơ lớn ở đây không phải là sự mất đi cái tự nhiên hoang dã phủ hào quang được tưởng tưởng tượng mà đáng kể hơn nữa, chính là sự mất mát sự sống thật sự của con người và của cả những yếu tố vô nhân.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: KarenThornber, “Ecocritical and Literary Futures” in East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment), ed. by Simon C. Estok and Won-Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan (2013).

Karen Thornber – Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Phần 1)

Ta hãy bắt đầu từ một dự án khu đô thị là điểm nóng của những mâu thuẫn chính trị xã hội trong thời gian vừa qua – dự án EcoPark ở Văn Giang (Hưng Yên). Tên gọi của dự  án đã hàm ẩn trong đó một môi trường sống lý tưởng, nơi con người hòa hợp với thiên nhiên, hưởng bầu không khí trong lành, thanh bình, xa lánh những ồn ào, bụi bặm của đô thị. Người thực hiện dự án này đã thỏa mãn cái tâm lý muốn được kết nối lại với thiên nhiên của những cư dân đô thị bằng cách bứng cả những cây cổ thụ từ rừng về trồng để tạo ra một không gian xanh thoáng đáng, hiền hòa. Nhưng môt khu đô thị thân thiên với môi trường như thế, thực chất, lại được hình thành trên sự bất công về môi trường (ở đây, tạm thời chưa nói đến viêc tranh cháp đất đai): nó chỉ dành cho một bộ phận người dân có thu nhập cao trong khi đó lại đẩy những người nông dân vốn găn bó vơi ruộng đồng bị cắt lìa với không gian quen thuộc nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của họ; cảnh quan đẹp ơ đây lại được tạo nên từ kết quả sự tàn phá một cảnh quan khác.

Nhìn rộng ra, vấn đề bất công môi trường không phải là một hiện tượng cá biệt, mang tính địa phương. Nó còn là vấn đề mà nhiều nước bị xếp vào nhóm thế giới thứ ba phải chấp nhận để trả giá cho sự phát triển kinh tế. Một hiện tượng như hãng Vedan xả nước thải ô nhiễm, có chứa chất gây ung thư ra sông Thị Vải cho thấy vấn đề môi trường không tồn tại biệt lập mà bao hàm trong/liên đới đến hàng loạt quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa phức tạp diễn ra trên phạm vi toàn cầu.

Cách con người tương tác với môi trường chịu sự chi phối mạnh mẽ của những ý niệm/diễn ngôn về môi trường. Phân tích các diễn ngôn này nằm trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất của phê bình sinh thái – một khuynh hướng lý thuyết phê bình đang phát triển rất năng động hiện nay, đặc biệt ở Anh-Mỹ. Đây là một lý thuyết liên ngành, kết hợp giữa văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh báo về môi trường. Nó có thể không đưa ra được những giải pháp trực tiếp cho những vấn đề môi trường nghiêm trọng hiện nay nhưng bằng cách phân tích các diễn ngôn về thiên nhiên và môi trường, nó có thể tác động đến tâm thức con người, điều chỉnh nhận thức, khắc phục những ngộ nhận về môi trường, để từ đó, có những hành động đúng đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền vững và xa hơn, đồng thời là quan trọng hơn cả, là hình thành một chủ nghĩa nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của thiên nhiên để đối thoại với nó.

Karen Thornber là một học giả mới nổi trong lĩnh vực phê bình sinh thái. Bà đã sang VN thuyết giảng về  lý thuyết này. Công trình của bà Ecoambiguity: Environmental Crises and East Asian Literatures (2012) [Sự mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan)] vừa được Hiệp hội nghiên cứu văn học so sánh Hoa Kỳ trao giải Honorable Mention Wellek Prize 2013.  Đóng góp lớn nhất của công trinh này là Thornber  đã sáng tạo đươc một khái niệm – ecoambiguity-như một khái niệm phản ánh đặc trưng phổ biến của diễn ngôn về môi trường, thiên nhiên trong các nền văn hóa Đông Á, từ đó dẫn đến những ngộ nhận không nhỏ trong ý thức và cách ứng xử đối với môi trường của con người trong khu vực. Những ngộ nhận này, đến lượt chúng, lại dẫn đến những bất công môi trường. Karen Thornber cũng đề nghị  phê bình sinh thái cần thiết phải đi theo hướng tiếp cận so sánh trong bối cảnh các vấn đề  môi trường không phải là vấn đề mang tinh địa phương nữa. Thậm chí, như trong bài viết mà tôi dịch dưới đây, bà còn cho rằng ý thức hành tinh (planet consciousness) cần phải được thấm đẫm vào trong nghiên cứu phê bình sinh thái. Theo tôi hiểu,  ý niệm hành tinh được Karen Thornber đề xuất thay cho những từ xác định không gian địa lý như transnation, globe, world… không phải chỉ vì đó là ý niệm không gian rộng nhất, bao trùm cả sự sống con người và cả sự sống của các thành tố vô nhân (nonhuman) mà còn vì nó đó là ý niệm không gian không bị phân cắt, không bị chiếm dụng để tạo ra những sự bất đối xứng về không gian, từ đó, dẫn đến bất bình đẳng về văn hóa và môi trường.  Chẳng hạn, khái niệm thế giới vẫn đang bị chia thành thế giới những nước phát triển, đang phát triển và chậm phát triển, hay khái niệm toàn cầu hóa vẫ n gợi liên tưởng đến quá trình đồng hóa của những “đế quốc mới” trong thời đại mới.  Bài dịch dưới dây là lời bạt mà Karen Thornber viết cho tuyển tập East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment) [Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập phê bình (Các nền văn học, văn hóa va môi trường)] (2013), trong đó giới thiệu những nhà nghiên cứu trong và ngoài khu vực về  diễn ngôn môi trường, thiên nhiên trong văn chương Đông Á. Rất tiếc không có mặt của một học giả VN nào ở đây và văn chương VN cũng đứng ngoài cuộc thảo luận của các học giả. Nhưng cá nhân tôi cho rằng phê bình sinh thái có thể  tìm thấy ở  văn chương, mỹ thuật, điện ảnh, nghệ thuật đương đại VN nhiều “ca” thú vị để nghiên cứu. Đây cũng là một hướng nghiên cứu mà tôi có ý định thể nghiệm trong tương lại.

Trong tình hình dịch thuật luôn có khả năng sai, nhất là dịch thuật học thuật, việc giới thiêu bản dịch này là một sự liều linh của tôi. Bản dich mới chi là bản thảo và tôi sẽ tiếp tục sửa chữa dần dần.

Cuối cùng, trước khi giới thiệu phần  1 bài dịch, xin giới thiệu link bài thuyết trình của Karen Thornber về phê bình sinh thái và văn chương Đông Á:

*

Những sản phẩm văn hóa của loài người đã thương thỏa với những biến đổi về sinh thái, hiểu theo nghĩa chúng đã phát lộ, diễn dịch lại và nhào nặn những biến đổi này, kể từ thời tiền sử. Những tranh vẽ trong hang động thời kỳ đồ đá cũ có niên đại chắc chắn sớm hơn 30.000 năm trước công nguyên cho thấy nhiều góc nhìn khác nhau về các hoạt động của người nguyên thủy làm môi trường bị biến đổi. Ngôn ngữ con người đóng một vai trò thậm chí còn quan trọng hơn trong hệ sinh thái đang và đã bị biến đổi. Nó đã được sử dụng để chế ngự, mô tả, biện hộ, tôn vinh, kết án, khuyến khích sự cải thiện môi trường,  làm chệch hướng và đồng thời thu hút sự chú ý đối với cách con người ứng xử với môi trường. Các văn bản truyền miệng và văn bản viết trên khắp thế giới từ ngàn năm nay đã không chỉ cố gắng khám phá việc con người bị ảnh hưởng như thế nào bởi môi trường xung quanh mình mà còn cả việc con người đã biến đổi môi trường ở mọi nơi như thế nào và tại sao họ làm vậy. Những quy chiếu trong văn chương về sự kiến tạo, cư ngụ và phá dỡ những môi trường đã được hình thành cũng như liên quan đến việc săn bắn, canh tác, ăn uống đều đem đến cho chúng ta cái nhìn thấu thị về những cảnh quan bị biến đổi. Ngay cả những văn bản không có hình tượng con người thì chúng cũng thường ít nhất đề cập đến sự biến đổi các môi trường do con người gây nên. Về phần mình, văn chương thế giới – được hiểu rộng rãi như là các văn bản sáng tạo được lưu truyền vượt ra khỏi nền văn hóa cội nguồn của chúng – kể từ Sử thi Gilgamesh (thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên) đã mô tả con người như kẻ những kẻ làm thay đổi triệt để môi trường xung quanh mình.

Ngược lại, phải đến những năm 1990, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường vật chất mới trở thành một trào lưu tri thức được xác định rõ ràng. Chắc chắn, bất chấp việc khởi điểm của nó thực sự mới chỉ được tính từ gần đây, phê bình sinh thái (nghiên cứu văn học được định hướng về chủ đề môi trường) đã nhanh chóng phát triển thành một lĩnh vực đa dạng, liên ngành, một hướng nghiên cứu mới hình thành không bị ràng buộc vào bất kỳ một phương pháp đơn lẻ nào hay một giáo điều, một cam kết theo quan điểm môi trường luận nào. Trong cuốn The Cambridge  Introduction to Literature and the Environment (2011), Timothy Clark nhận định rằng “phê bình sinh thái đã tạo được một khu vực hoạt động rất năng động, chưa đánh giá hết được, nơi các vấn đề, các chuyên ngành học thuật và chính trị giao cắt nhau. Sức mạnh tiềm tàng của nó không phải ở chỗ nó chỉ như một nhánh phê bình văn học khác, được đặt bên trong những biên giới thiết chế đã có sẵn mà ở chỗ nó là một cách tiếp cận mang tính khiêu khích cả trong việc phân tích văn học lẫn những vấn đề vừa đồng hiện, vừa che khuất lẫn nhau của khoa học, đạo đức, chính trị và thẩm mỹ” (8). Còn trong cuốn Sense of Place and Sense of Planet (2008), Ursula Heise cho rằng: “Thay vì tập trung vào sự khôi phục cảm quan về nơi chốn, thuyết môi trường luận (bao gồm cả phê bình môi trường) cần thiết phải thúc đẩy một nhận thức về cách mà cả một phạm vi rất đa dạng rộng rãi những nơi chốn và quá trình trong tự nhiên cũng như trong văn hóađã kết nối lẫn nhau, nhào nặn lẫn nhau như thế nào trên khắp thế giới” (21). Những nhận định này đã nhấn mạnh đến một số thay đổi cơ bản mà phê bình sinh thái đã trải qua trong hai thập niên gần đây.

Những nhà phê bình sinh thái đầu tiên, một phần do dựa vào lý thuyết sinh thái học chiều sâu (deep ecology), thường đi theo cách tiếp cận sinh học trung tâm luận (biocentric) hoặc theo quan điểm bảo tồn (preservationist). Cách tiếp cận này chủ yếu tập trung xung quanh những sáng tác về đề tài thiên nhiên, quan tâm đến khả năng của văn chương trong việc tạo nên những khuôn mẫu về các giá trị mà ở đó môi trường là trung tâm (ecocentric values), cũng như chú ý đến những cách miêu tả của văn chương về những mối quan hệ về mặt sinh học, tâm lý học và tâm lý giữa con người và thế giới tự nhiên. Kiểu phê bình sinh thái này quan tâm đến trạng thái gắn với nơi chốn (place-attachment) ở phạm vi địa phương hay vùng miền, như ta có thể thấy được qua các tác phẩm của Wendell Berry (1934-), bao gồm hai cuốn The Unsettling of America (1977) và Standing by Words (1983), và Gary Snyder với những cuốn như The Practice of the Wild (1990) và A Place in Space (1995). Bước sang thế kỷ XXI, phê bình sinh thái bắt đầu hướng theo một quan điểm thiên về tính chất nhân chủng học và đặt bình diện xã hội làm trung tâm; giờ đây giới nghiên cứu lại tập trung vào mảng văn học về thành phố và quá trình công nghiệp hóa cũng như vấn đề công bằng/bất công môi trường cùng những vấn đề xã hội liên đới, đặc biệt trong bối cảnh mà những vấn đề về sắc tộc, về các nhóm thiểu số, cộng đồng bản địa, chủ nghĩa hậu thực dân, cộng đồng lưu vong và chủ nghĩa thế giới trở thành mối quan tâm hàng đầu. Theo đó, nó dịch chuyển mối quan tâm về nơi chốn từ phạm vi địa phương sang phạm xuyên quốc gia hay toàn cầu.

Không có gì ngạc nhiên khi hai khuynh hướng chính này lại có nhiều điểm chung. Cả hai đều bao hàm một sự gắn kết chặt chẽ, bền bỉ với tất cả những hình thức truyền thông biểu hiện, từ các văn bản in đến sự trình diễn thị giác, âm nhạc, điện ảnh cũng như các tài liệu pháp lý và các báo cáo của NGO. Những mối quan tâm khác đang diễn ra bao gồm nghiên cứu tu từ học về môi trường; nữ quyền luận môi trường gắn theo đó là những mô hình khoa học, đặc biệt là từ tiến hóa luận sinh học, sinh thái học và các khoa học thông tin; những khác biệt trong quan niệm về môi trường dựa trên phái tính và di sản văn hóa, thí dụ như truyền thống bản địa; sự tưởng tượng văn chương về các mối quan hệ giữa con người và thú vật.

Tính đến nay, cả hai khuynh hướng phê bình sinh thái này đã tạo được những đột phá quan trọng, trong đó có cả việc chúng đã phát hiện lại tầm quan trọng của những thể loại và thể tài văn chương gần như bị quên lãng như các sáng tác về đề tài thiên nhiên, các tự sự về tình trạng bị nhiễm độc của môi trường và con người, thơ ca và kịch sinh thái (ecopoetry/ ecodrama) – những thể loại/thể tài quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh họ. Phê bình sinh thái cũng diễn dịch lại sự cấu thành các hệ đề tài liên quan đến môi trường như đề tài mục ca, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gắn với môi trường, tư tưởng tận thế gắn với môi trường (ecoapocalypticism). Đồng thời nó cũng phát hiện những nội dung “ngầm” về môi trường trong một loạt các văn bản nghệ thuật. Gần đây nhất, phê bình sinh thái đã chú ý đến những thể loại và hình thức truyền thông đa dạng khác ngoài văn bản viết, gồm cả truyện tranh, phim hoạt hình, mỹ thuật sinh học (bioart), kiến trúc xanh, các nguồn dữ liệu kỹ thuật số – điều này đã làm thay đổi cách các học giả nghĩ về nội dung của phê bình sinh thái.

Ngành nhân văn môi trường (environmental humanities) đã cho thấy rất rõ nhiều khả năng môi trường địa phương, vùng miền và toàn cầu bị đẩy vào tình trạng nguy hiểm bởi chính những can thiệp có vẻ như mang tính nhân văn của con người. Song những thách thức quan trọng vẫn còn đó, cả về mặt văn hóa (tức trên phương diện ngôn ngữ và địa lý) và khái niệm.

Phê bình sinh thái thường được định nghĩa khá rộng. Chẳng hạn, Scott Slovic xem đó là khuynh hướng phê bình “khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trường sinh thái và quan hệ giữa con người – tự nhiên trong bất kỳ văn bản văn chương nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dường như không để ý gì đến thế giới không con người (non-human world)” (27). Các nhà nghiên cứu cho rằng tương lai của phê bình sinh thái được nằm ở việc nó thể hiện được mối quan tâm của văn học về tình trạng của môi trường, đặc biệt là cách văn học tra vấn về vấn đề môi trường như “một thể nghiệm tư tưởng… được phức tạp hóa bởi sự đa bội các diễn ngôn và từ chối nhận lấy những vị trí cố định”.

Nhưng bất kể phép tu từ nói về khả năng dung nạp của phê bình sinh thái, ngay từ những ngày đầu khi lĩnh vực này mới hình thành, các nhà phê bình trên thực tế đã tự giới hạn phạm vi nghiên cứu mình trong văn chương được viết bằng ngôn ngữ của các nước phương Tây, đặc biệt là văn học Mỹ khu vực Anh ngữ nói riêng. Thậm chí ngay cả ở châu Á, những thảo luận về mối quan hệ giữa văn học và môi trường bị tàn phá cũng tập trung một cách bất cân xứng vào văn học phương Tây với những ví dụ chủ yếu được lấy từ văn học của khối Anh ngữ. Những năm gần đây chứng kiến sự sôi động của thuyết môi trường luận và hậu thực dân luận. Những phân tích hàm ý về môi trường ở các văn bản từ các nước châu Phi, châu Mỹ La-tinh (bao gồm cả khu vực Carribean), các đảo Thái Bình Dương, Nam Á, và những so sánh về “sự tưởng tượng môi trường” (environmental imagination) của các nước phát triển ở phía Bắc vốn có nhiều đặc quyền hơn với “thuyết môi trường luận của dân nghèo” ở các nước đang/chậm phát triển thuộc phía Nam toàn cầu cũng đã có đóng góp quan trọng trong việc mở rộng quan điểm về những mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên trên khắp thế giới. Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của những tri thức học thuật này đối với các ngành nhân văn và xa hơn thế. Song chúng vẫn bị loay hoay bởi chính trọng tâm dồn vào văn học phương Tây của mình; chúng thường trở đi trở lại với một vài dẫn chứng quen thuộc, gần như loại trừ các văn bản đến từ những khu vực viết bằng những ngôn ngữ khác. Chúng không hề khảo sát văn học của khu vực Đông Á, một khu vực với lịch sử thuộc địa nhiều chấn thương mặc dù hiếm khi được ngành nghiên cứu hậu thực dân chú ý đến; một khu vực, hơn nữa, là nơi tập trung ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và dân số chiếm ¼ thế giới.

Văn hóa Đông Á từ lâu được gắn với hệ thống những niềm tin chủ trương tôn sùng thiên nhiên, đặc biệt là Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và Shinto cũng như nhiều triết lý và tôn giáo bản địa. Những phương thức tư tưởng này đã khơi gợi ý thức về môi trường của rất nhiều người châu Á cũng như người Mỹ, châu Âu và một phạm vi nhỏ hơn là các trí thức Trung Đông và châu Phi. Những hình dung phổ biến ở trong và ngoài Đông Á thường cho rằng tình trạng môi trường bị xuống cấp ở khu vực này bắt đầu xảy ra từ cuối thế kỷ XIX, khi người dân  Đông Á, dưới áp lực của các quốc gia Tây phương, đã tiếp thu, đồng hóa kỹ thuật và các ngành công nghiệp của họ. Song thực chất, các xã hội Đông Á đã kế thừa cả hàng ngàn năm môi trường bị thoái hóa nghiêm trọng. Rhoades Murphey đã đi rất xa khi tranh luận:

“Tất cả những nền văn hóa châu Á thuộc khu vực ở phía đông Afghanistan và phía nam khu vực thuộc Liên Xô cũ từ lâu đã được biết đến như là những nền văn hóa tôn sùng thiên nhiên… Điều này được xem như đối lập với quan điểm của phương Tây. Thế nhưng những tư liệu ở châu Á lại cho thấy rõ rằng bất chấp những giá trị mà giới tinh hoa trí thức ở đây tuyên xưng, người dân đã làm biến đổi  hoặc phá hủy môi trường châu Á sớm hơn và ở mức độ lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, thậm chí so với cả phương Tây thế kỷ XX.” (“Góc nhìn châu Á” 36).

Murphy có lẽ đã quá lời trong trường hợp này vì những biến đổi môi trường mà người dân Đông Á trước đây gây nên không thể bằng với mức độ mà các xã hội phương Tây thế kỷ XX tạo ra được.

Tuy nhiên, sự không tương hợp giữa những niềm tin và những hành vi ở đây là rất đáng lưu tâm. Như nhà sử học Mark Elvin đã nhận xét về Trung Hoa:

“Trải qua hơn ba ngàn năm, người Trung Hoa đã tạo hình lại đất nước Trung Hoa. Họ phá rừng và thảm thực vật nguyên sinh, đắp những sườn đồi và biến những bậc thung lũng thành những cánh đồng. Họ đã đào, đã xây đập, đã làm chệch dòng chảy của sông hồ. Họ đã săn bắn và thuần hóa những loài động vật và chim muông, dẫn đến chỗ họ tàn phá chính môi trường sống của mình như một hệ quả phụ của việc theo đuổi mục đích cải thiện kinh tế. Đến cuối thời kỳ phong kiến, hầu như chẳng có gì có thể được gọi là ‘tự nhiên’, chưa bị chạm đến bởi quá trình bóc lột và cải hóa này… Một nghịch lý nằm ngay trong chính thái độ của người Trung Hoa đối với phong cảnh. Một mặt, phong cảnh được nhìn nhận như một phần của quyền năng tối thượng thiêng liêng. Minh triết dạy rằng con người cần hòa mình vào nhịp điệu của phong cảnh và cần phải ý thức được sự bất lực của mình trong việc nhào nặn lại nó. Nhưng mặt khác, trên thực tế, phong cảnh lại bị thuần hóa, bị biến dạng và khai thác đến mức hầu như có rất ít sự tương đương trong thế giới tiền hiện đại.” (321,323).

Heiner Roetz đã mở rộng luận điểm này, khẳng định quả quyết rằng ở Trung Hoa thời kỳ cổ -trung đại, “một sự đồng cảm với thiên nhiên, như được biểu hiện trong sách Trang Tử, chỉ là một phản ứng đơn giản chống lại những gì thật sự đang diễn ra”. (85)

Roetz đã phóng đại điểm này. Không phải tất cả những biểu hiện của sự đồng cảm, càng không thể nói những hình thức sùng bái thiên nhiên, thậm chí ngay cả những nghi thức bắt nguồn từ các xã hội làm biến đổi đáng kể môi trường, đều có thể được đọc như là những phản ứng chống lại hoàn cảnh thực tế. Nhưng đa phần đều có thể cung cấp những hình dung khác về những gì đang diễn ra trong môi trường lúc bấy giờ, chứ không chỉ đơn giản là biểu hiện của sự trân trọng, tôn thờ thiên nhiên. Dân Đông Á từ lâu đã có một ý thức sâu sắc về những tổn thất mà con người gây ra đối với môi trường, song  mặc dù đã có những cam kết của các cá nhân, tổ chức, chính phủ nhằm khắc phục những thiệt hại hiện còn và hạn chế những tác hại xa hơn, sự xuống cấp của môi trường trong khu vực, nhìn chung, vẫn cho thấy những dấu hiệu của hệ lụy dai dẳng từ truyền thống đến giờ. Chắc chắn, nhiều vấn đề môi trường nổi cộm nhất ở Đông Á đã được cải thiện hơn trong vài thập niên gần đây, trong đó có vấn đề ô nhiễm không khí và nguồn nước tại đô thị ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Hoa – ở một phạm vi nhỏ hơn. Như khi quy mô dân số và mật độ phân bố thay đổi, phong cách sống biến chuyển, thì tình trạng, hay đúng hơn phạm vi của sự xuống cấp môi trường cũng thay đổi theo. Thí dụ, trong nhiều trường hợp, ô nhiễm chỉ đơn thuần là bị xuất ra, chứ không phải được khắc phục triệt để, điều này tạo nên nhiều hệ sinh thái phủ bóng (shadow ecologies).

Tương tự, văn học châu Á vốn nổi tiếng bởi sự tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên và miêu tả con người trong sự gắn bó sâu sắc với thế giới tự nhiên. Nhưng phân tích văn xuôi hư cấu và thơ ca Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan hàng trăm năm qua lại cho thấy những nền văn học này lại dồi dào diễn ngôn về sự suy thoái của môi trường (ecodegradation) đến mức có thể gây ngạc nhiên cho những độc giả vốn quen với những hình ảnh đã thành ước lệ về sự hài hòa với môi trường sinh thái của người châu Á. Các nghệ sĩ và triết gia Đông Á từ lâu đã lý tưởng hóa sự tương tác giữa con người với môi trường vô nhân xung quanh họ (nonhuman surroundings). Cách thể hiện của họ tạo ra ấn tượng rằng người Đông Á, không như người Mỹ hay người châu Âu, có sự nhạy cảm cố hữu đối với môi trường, rằng họ yêu thiên nhiên và hòa hợp với nó. Tuy nhiên, việc lãng mạn hóa những mối quan hệ giữa con người và môi trường của họ thường là sự thách thức hơn là sự phản ánh cái hiện thực mang tính kinh nghiệm. Quan trọng hơn, phần lớn văn chương, thơ ca Đông Á hiện đại, thậm chí  ngay cả một số sáng tác tiền hiện đại, lại đi vào miêu tả con người tàn phá mọi thứ từ những không gian nhỏ đến toàn bộ lục địa.

Các nhà nghiên cứu  khoa học xã hội và khoa học tự nhiên trong và ngoài khu vực Đông Á đã viết nhiều về những vấn đề môi trường ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thời hiện đại và tiền hiện đại, về nhiều phong trào và tổ chức chống lại sự xuống cấp của hệ sinh thái, về những phản ứng chính thống của địa phương, các vùng lãnh thổ, quốc gia trước tình trạng này. Ngược lại, phần lớn những nghiên cứu theo quan điểm chủ nghĩa nhân văn trong văn chương Đông Á khi thảo luận về mối tương tác giữa con người và thiên nhiên lại chỉ tập trung vào việc thiên nhiên dưới ngòi bút sáng tạo của các nhà văn hiện lên như thế nào, tức là dành sự chú ý đến cách văn chương ca tụng thiên nhiên, miêu tả thiên nhiên như nơi lánh trú, thường mang tính chất tưởng tượng, khỏi xã hội con người; những bức tranh văn chương mô tả sự hòa điệu của con người với thiên nhiên; hay, ở mức độ ít thường xuyên hơn, là hình ảnh con người bị khuất phục bởi những thảm họa như tuyết lở, động đất, lũ lụt. Hầu như chưa có mấy công trình bàn về những cách thương thỏa sáng tạo với những tổn thất về môi trường được thể hiện trong văn chương Đông Á, bất chấp sự hiện diện hàng ngàn năm nay của thực tế này trong văn chương Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, đặc biệt là ở mảng tư liệu văn học thế kỷ XX-đầu thế kỷ XXI của khu vực.

Do những điều kiện môi trường và những phản ứng đối với những điều kiện này có sự khác biệt rất đáng kể giữa các nước trong khu vực, thậm chí ngay giữa những vùng miền khác nhau ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, những suy tư trong văn chương Đông Á về mối quan hệ giữa con người với môi trường, đặc biệt là những mối quan hệ bao hàm sự biến đổi được gây ra đối với thế giới vô nhân, cũng có sự khác biệt rất lớn theo không gian và thời gian. Trong những năm tới, các nhà phê bình sinh thái sẽ cần phải hướng đến nhiều nền văn học hơn. Như tuyển tập này cho thấy, những nền văn học đa dạng ở Đông Á là mảnh đất màu mỡ cho nghiên cứu phê bình sinh thái ở thế kỷ XXI.

Song ngay cả khi phê bình sinh thái không dồn toàn bộ sự chú ý của mình vào các văn bản và cảnh quan trong các ngôn ngữ phương Tây, đặc biệt là Mỹ thì văn chương Đông Á, cũng như những nền văn học phi phương Tây khác, xét đến cùng, không thể được xem xét một cách cô lập. Chắc chắn, lĩnh vực này sẽ được hưởng lợi khi có nhiều học giả hơn quan tâm đến văn chương Đông Á và những văn bản ngoài phương Tây khác. Như Simon Estok đã nêu ngay trong lời giới thiệu, những phản ứng đối với tình trạng khủng hoảng môi trường, thậm chí ở quy mô toàn cầu đi nữa, thường mang tính địa phương như một tất yếu, với những biểu hiện văn hóa khác nhau. Việc khảo sát những ngữ cảnh và nền văn học địa phương này là một nhiệm vụ cấp thiết, không đơn thuần chỉ nhằm lập lại thế cân bằng trước tình trạng nghiên cứu trong lĩnh vực này quá dồn vào sáng tác viết bằng tiếng Anh mà còn để đào sâu hơn nhận thức, hiểu biết của con người về nhiều cảnh quan văn hóa đa dạng trên thế giới. Và tuyển tập này đã đưa ra những ví dụ rất thú vị về sự thực hành phê bình sinh thái trong những ngữ cảnh dân tộc và văn  hóa đặc thù.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: KarenThornber, “Ecocritical and Literary Futures” in East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment), ed. by Simon C. Estok and Won-Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan (2013).