Tag Archives: cảm ơn

Còn thấy mặt người

Bài đã đăng trên báo Phụ Nữ TP. Hồ Chí Minh. Post lại như bài cuối cùng của một năm đã cố gắng nhiều hơn trong viết lách.

http://nhac.vui.vn/con-thay-mat-nguoi-khanh-ly-m63211c80p955a3542.html

*

Humans NY

Mỗi ngày, khi vào facebook của mình, tôi vẫn thường dành thời gian để lướt qua trang “Humans of New York” (Người New York). Tôi là một trong số chín triệu người đăng ký theo dõi blog ảnh này trên facebook. Được lập nên bởi Brandon Staton, “Humans of New York” đã được nhận rất nhiều giải thưởng, danh hiệu trong lĩnh vực truyền thông. Ảnh hưởng của nó lớn đến mức đã hình thành cả một trào lưu blog ảnh tương tự. Năm 2013, tạp chí Time đã bình chọn Brandon Staton là một trong số 30 người dưới độ tuổi 30 đang làm thay đổi thế giới.

Vậy blog ảnh của Brandon Staton, người nghệ sĩ nhiếp ảnh sinh năm 1984 và mới chỉ bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp nhiếp ảnh từ năm 2010, sau khi mất việc trong lĩnh vực kinh doanh trái phiếu, lại có sức lan tỏa lớn lao như thế? Những bức ảnh đăng trên blog này đều chỉ chụp những con người bình thường, vô danh ở những khoảnh khắc rất đời thường, không gắn với những biến cố, những “lịch sử” lớn nào. Đi kèm với chúng là những mẩu chuyện ngắn, những tâm sự, những đối thoại nhiều khi ngẫu hứng, vơ vẩn. Tại sao chúng lại có khả năng truyền cảm hứng cho nhiều người đến vậy?

Tôi nghĩ mình chưa đủ khả năng để phân tích những bức ảnh trên trang “The Humans of New York” từ góc độ kỹ thuật. Nhưng tôi thường dừng lại khá lâu trước chân dung của những người vô danh xa lạ ấy, không phải vì họ đẹp, họ lập dị, họ phi thường. Mà vì ánh mắt của họ, thần thái của họ, cử chỉ của họ… dường như luôn gợi ra một câu chuyện nào đó sâu xa hơn những phần ngoại hiện. Và ngay cả những tâm sự, những mẩu đối thoại của các nhân vật có lẽ cũng là những lát cắt tự sự, cô đọng những cảm xúc, suy tưởng có khi từng đeo đẳng, từng ám ảnh họ rất lâu. Thậm chí đôi khi chúng gói ghém một triết lý nào đó được biểu đạt bằng một thứ ngôn ngữ đời thường.

Một ông già trên đường phố Odessa, Ukraine – một đất nước đang là điểm nóng thời sự trên bản đồ chính trị thế giới, ăn vận giản dị, dáng vẻ không có điểm gì đặc biệt ngoại trừ sự minh mẫn toát lên từ ánh mắt. Sẽ rất ít người biết rằng ông già ấy chính là một giáo sư chuyên ngành sinh vật biển. Hơn 64 năm làm việc trong lĩnh vực này, khi được hỏi “Điều gì làm ông ngạc nhiên nhất khi gần như đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu đại dương?”, vị giáo sư già chỉ trả lời rất ngắn gọn: “Nó thật bao la”. Câu trả lời ấy, với tôi, đơn giản, nhẹ nhõm nhưng đồng thời cũng sâu sắc như một triết lý thực sự. Nó cho thấy vẻ đẹp của trí tuệ không nằm ở sự kiêu ngạo, đắc thắng mà ở sự khiêm tốn chân thành bởi ý thức được tính hữu hạn của nhận thức khi đối diện với cái mênh mông biển cả, ở khả năng ngạc nhiên mà vị giáo sư vẫn không ngừng nuôi dưỡng cho mình. Chẳng phải tri thức mà chính sự khiêm tốn và sự ngạc nhiên ấy mới là điều mà ông truyền cảm hứng mạnh mẽ nhất.

Lại có những bức ảnh khác tự nó giống như một tự sự bỏ ngỏ. Bức ảnh bên dưới là hình ảnh một người đàn ông ở Sài Gòn với câu chuyện đi kèm: “Khi con trai tôi ra đời, đó là thời điểm suốt mấy tháng, tôi không kiếm được một công việc nào. Tôi tìm việc ở mọi nơi. Đầu óc tôi rối bời. Tôi cảm thấy giận dữ với mọi thứ. Khủng hoảng nhất là khi con trai tôi bị chẩn đoán suy dinh dưỡng. Tôi thấy căm ghét bản thân.”

Một câu chuyện thực ra chưa có gì đặc biệt. Tất cả chúng ta có lẽ ít nhất đều một lần phải đối diện với tình huống điển hình này khi cuộc sống đột nhiên trở nên khắc nghiệt, tàn nhẫn, dồn dập các thử thách để đo khả năng chịu đựng, đương đầu của mỗi người. Nhưng gương mặt của người đàn ông, ánh mắt, điếu thuốc trên môi anh còn nói với ta điều gì nữa? Anh đã đi qua giai đoạn chạm đáy tuyệt vọng đó chưa? Hay với riêng tôi là nỗi băn khoăn: Anh đã hết chán ghét chính mình?

Đúng như một ẩn dụ mà người ta thường dùng để nói về thế giới mạng, trên “xa lộ” facebook không bao giờ ngớt sự tấp nập, mỗi một bức ảnh được chia sẻ trên “Humans of New York” có thể nhận được cả hàng trăm bình luận. Chính ở đây, ta có thể nhận thấy sự chuyển động trong ý thức của công dân toàn cầu hôm nay khi va chạm, tiếp xúc với những kẻ KHÁC. Có những câu chuyện của kẻ khác hấp dẫn ta, làm ta bất ngờ, ngỡ ngàng nhận ra một điều gì đó, một kinh nghiệm nào đó về đời sống mà nếu chỉ nhìn theo cái nhìn của đám đông sẽ rất khó thấy. Lại có những câu chuyện của kẻ khác làm người ta băn khoăn, nghi ngại. Tất nhiên, vẫn luôn có những bình luận mang giọng điệu phán xét nhưng thường những bình luận ấy nhận được những phản hồi đề nghị một cái nhìn thận trọng, kỹ lưỡng hơn.

Có lẽ chính ở đây, ta có thể hiểu vì sao blog ảnh của Brandon Staton lại có thể tạo ra sự thay đổi của thế giới? Trong thế giới đương đại nơi mọi thứ đang trượt đi với tốc độ nhanh hơn tất cả tưởng tưởng của những thế kỷ trước, nơi mạng internet có thể xóa nhòa cá nhân, làm mỗi cá nhân tan vào đám đông đang mải mết, những bức ảnh của Brandon tách những nhân vật của mình ra khỏi dòng chảy ào ạt ấy, tách họ ra khỏi những lịch sử lớn đầy náo động của thời cuộc, để làm chính chúng ta, những người xem, cũng trở nên chậm lại, nhìn kỹ hơn gương mặt của kẻ khác. Để nhận ra đăng sau gương mặt, ánh mắt của những con người vô danh ta vốn chẳng thân quen kia, những câu chuyện có thể rất gần với mình, rất cần với mình. Những câu chuyện không để răn dạy gì ai, cũng không mong được phán xét mà chỉ cần được lắng nghe. Không có ai là hời hợt, không số phận nào không hàm chứa những chuyện kể nào đó. Chỉ cần chậm lại một chút, yên tĩnh một chút, để lắng nghe.

Chợt, tôi hiểu tại sao trong những năm tháng cuộc chiến Việt Nam trở nên ác liệt, căng thẳng nhất, Trịnh Công Sơn đã viết những ca từ này như một khao khát nhân bản:

Từng ngày thấy mặt trời
thấy mọi người lòng đã thấy vui
từng đêm tối ngồi chờ đợi
từng đêm tối ngồi chờ đợi
chờ từng sớm mai thấy lại mặt người

Giữ lấy những mặt người để nhìn ngắm. Như có người từng nói với tôi, sự nhìn ngắm là nguồn cội của tình yêu.

Shu Cai – Ba bài thơ

Bạn Nhã Thuyên tặng tôi tập thơ của ba nhà thơ Trung Hoa đương đại- Yi Sha, Shu Cai và Yang Xie, bản dịch tiếng Anh của Ouyang Yu. Những bài thơ của Shu Cai (1965) đem đến cho tôi nhiều xúc cảm ngay từ bài thơ đầu tiên của tập – “Nature”. Tôi cảm nhận được sự chân thành trong giọng điệu tự sự và nhiều suy nghiệm của nhà thơ dẫu tôi phải đọc thơ ông qua một ngôn ngữ trung gian. Tôi cảm ơn Nhã Thuyên vì đã tặng tôi sự chân thành quý giá mà ta tìm thấy được qua thi ca như thế. Đôi khi, tôi vỡ lẽ được ý nghĩa, sự cần thiết của thi ca qua những khoảnh khắc bất ngờ của đời sống, rằng ta cần thơ để nhìn thấy được sự hiền lành của đời sống này.

Đã lâu rồi, tôi không dịch thơ. Tôi đang bị mất cảm giác viết lách mấy hôm nay. Và tôi ngồi dịch thơ Shu Cai, để tự chữa cho mình bệnh mất cảm giác ấy. Có lẽ tôi đã đỡ hơn rồi.

757px-Van_Gogh_-_Starry_Night_-_Google_Art_Project

*

Tự nhiên

 

Đậu ván đã chín

Nhưng chẳng ai đến hái

Cơn gió đang say

Ai ở đó dìu nó?

Mọi thứ trong tự nhiên

Đến và đi tự nhiên

 

Một bông hồng

đâu cần

phải cảm ơn

Hạt mưa

Hay cơn nắng

*

Mẹ

Đêm nay, một đôi mắt trên trời

Âu yếm, chân thành, nhiều buồn bã

Đêm nay, đôi mắt ấy nói với tôi: Con trai ơi,

Cứ khóc đi, khóc đi và hãy mạnh mẽ!

 

Một hồi lâu, tôi nhìn đôi mắt ấy

Đôi mắt giống như cả vòm trời

Không phải giọt sương, không phải trái nho

Mà như cả vòm trời-đôi mắt ấy

 

Nước mắt cứ rơi, làm tôi lấp lánh

Bầu trời đêm tháng Năm làm tôi lấp lánh

Mọi thứ xa xôi quá

Nhưng nỗi xa xôi ấy là điều tôi sẽ chẳng thể nào quên trong suốt phần còn lại đời mình

 

Dù ở đâu đi nữa,

Dù ở đâu,

đôi mắt ấy vẫn là cả vòm trời ấy

Để mỗi ngày,

tôi đứng dưới vòm trời

Tôi đều thấy

ánh sáng từ Mẹ chạm vào tôi lấp lánh

*

Tột cùng Thu

Mùa thu thanh lặng thế

Tựa một kẻ suy tư

Mệt mỏi bởi nghĩ suy nhưng vẫn cứ miệt mài ngẫm ngợi

lặng lẽ và đớn đau

 

Mùa thu sạch sẽ thế

Như một con cừu đứng cuối bãi cỏ

lười biếng

và tinh khôi

đến nỗi bầu trời như nghiêng xuống nó

 

Những chiếc lá xao xác rơi, xao xác

Điệu cầu hồn thoát ra từ cây ghi ta

vỡ. Đối với đời sống, những tư tưởng

là một nỗi tội nghiệp khác

 

May mắn thay, khi mùa vào thu

Trời giống như một cơ thể sống

Mang trong mình chiếc linh hồn nhỏ nhoi

 

Mùa thu luôn làm tôi nhớ đến một điều gì đó, một điều gì cần phải nói

Những cái cây run rẩy, chúng cứ nghĩ có thể níu lại cái gì đó

Trong khi mỗi ngày qua

Chúng lại trụi trơ hơn

 

Mùa thu như một chiếc gương, cầm trên tay,

Tôi soi ngắm chính mình và thầm thì,

tôi cầu nguyện cho những linh hồn vô hình

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Poems of Yi Sha, Shu Cai, Yang Xie, Ouyang Yu dịch sang tiếng Anh và giới thiệu,  Vagabond Press- Asia Pacific Series, 2013.

Viết trước ngày bảo vệ luận án

Rồi thì cuối cùng cũng đến ngày đánh dấu đích đến của một hành trình hơn mười năm. Cái đích ấy không hẳn là thứ tôi đã nhắm đến ngay từ đầu, khi mới tốt nghiệp trường đại học. Cái đích ấy, nhiều lúc trên hành trình của mình, tôi cũng thấy nó thật phù phiếm. Lại cũng có lúc thấy nó xa đến độ tưởng như mình chỉ muốn bỏ cuộc. Cái đích ấy khi gần đến, bỗng nhiên tôi lại ngập ngừng. Và giờ đây, cảm giác của tôi đúng hơn là sự lo lắng: tôi mơ hồ nhận ra bên kia cái đích ấy là một sự trống rỗng, làm sao có thể lấp đầy?

Trong hơn mười năm, khi tôi vẫn xác định học hành là công việc chính yếu của mình, thế giới của sách vở với những thử thách của tư duy mà tôi phải đối diện có ý nghĩa như một nơi trú ẩn. Nó giúp tôi cảm thấy không cô độc, đúng hơn, là bình tâm trong sự cô độc. Nó giúp tôi có thể chống đỡ lại trước những câu hỏi đời thường nhiều khi như là sự xoáy móc nghiệt ngã. Nó biện hộ cho tôi rằng tôi đang “hái hoa trên trời”, cho dù nhiều khi thảng thốt, khi “đâu biết rằng mẹ tôi đang khóc dưới xa kia”. Khoảnh khắc giật mình ấy chính là lúc tôi cảm giác hơn bao giờ hình như mình đang rất ích kỷ và hình như mình cũng đang làm một điều gì đó có phần vô nghĩa. Những lúc như thế, tôi đã nghĩ đến một sự buông xuôi… Nhưng cũng có lẽ phần ích kỷ trong tôi vẫn mạnh hơn, để khiến tôi tiếp tục đi.

Nhưng thế giới của sách vở cũng đem đến cho tôi những trải nghiệm rộng mở, nó khiến đời sống của tôi không khép kín như bản thân tôi vẫn nghĩ. Tôi hay có cái thú thử đứng lại tại một thời điểm để nhìn lại những gì mình thu nhận được sau một chặng đường. Như chính là lúc này. Có thể là một cách diễn đạt có phần màu mè, nhưng nó làm tôi thấy thích thú, rằng hơn mười năm ấy, tôi đã có trải nghiệm giống như nhân vật trong loại tiểu thuyết bildungsroman, dấn vào một cuộc phiêu lưu, đối mặt với những thử thách, khó khăn, gặp gỡ được những bạn đồng hành, và để rồi đến cuối cuộc hành trình, cái kết quả mà nó nhận được là một sự thay đổi trong nhận thức, sự trưởng thành trong cách nghĩ và tình cảm. Lời cảm ơn viết trước ngày bảo vệ luận án này tôi xin dành cho những người đồng hành ấy.

1. Trước hết là bạn bè, với những sự trợ giúp quý báu cả về tri thức lẫn tình cảm. Trong số những người đã giúp đỡ tôi với lòng tốt không điều kiện này, có những người tôi còn chưa từng được gặp mặt ngoài đời. Chính các bạn đã làm tôi có được sự tự tin trong quá trình làm luận án:

Lời cảm ơn đầu tiên tôi muốn gửi tới Diệu Linh, người bạn đã học cùng lớp với tôi từ những năm cấp 3 cho đến suốt bốn năm đại học. Bạn là người không chỉ giúp tôi có được những tài liệu rất khó kiếm, đặc biệt là chuyên luận của Robert R.Wilson để tôi triển khai luận án mà còn là người mà tôi đã tìm được sự chia sẻ nhiều nhất những khó khăn, những sự mỏi mệt, khủng hoảng dù chính bạn, đấy cũng là thời điểm mọi thứ đều không hề dễ dàng. Tôi có được niềm tin vào điều mình nghĩ, điều mình làm, không cần câu chấp những cách ứng xử kiểu bầy đàn, nhỏ nhen của môi trường xung quanh mình, một phần lớn, là từ những sự động viên của bạn.

Tôi muốn nói lời cảm ơn đến ba người bạn mà những chia sẻ về tài liệu, tri thức của họ cực kỳ có giá trị đối với tôi, không chỉ trong quá trình thực hiện luận án này. Đó là anh Nguyễn Nguyên Phước, người bạn đầu tiên mà tôi quen biết qua blog. Anh là người đầu tiên để lại comment trên blog của tôi từ thời còn Yahoo 360. Những tài liệu mà anh đã tìm kiếm và photo cho tôi đã giúp tôi tìm được những gợi dẫn cực kỳ cần thiết vào những lúc tôi loay hoay nhất trong việc giải quyết những giả thiết của luận án. Đó là Nguyễn An Khương, người mà tôi chưa từng tiếp xúc ở ngoài đời. Không biết Khương có còn nhớ điều này, rằng bạn chính là người đầu tiên giới thiệu cho tôi biết về trang gigapedia, mà nhờ có nó, gần như trong thời gian làm luận án, tôi đã được làm việc trong một môi trường tư liệu tham khảo còn phong phú và cập nhật hơn cả thư viện quốc gia. Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên nhận được email của Khương cũng gần vào khoảng thời gian này trong ngày. Khương đã nhiệt tình download giùm tôi những bài báo tôi cần sau khi đọc được một comment của tôi trên blog của người khác. Sự hào hiệp của Khương, của những người như Khương, giờ nhớ lại, tôi vẫn thấy cảm động. Nếu tôi nhớ không nhầm thì hình như đã có dịp Khương ra HN và liên lạc với tôi nhưng không được. Tôi vẫn còn giữ cuốn sách “Miên man tùy bút” của Lý Lan, khi đó, muốn để tặng bạn nhưng rồi cũng lỡ dịp. Nhưng tôi tin rồi sẽ có ngày được gặp bạn. Đó là anh Phạm Quốc Lộc, một người bạn luôn hào hứng, nhiệt tình. Anh là người đầu tiên nói với tôi về giải cấu trúc, về translation studies, về nghiên cứu văn hóa. Những trò chuyện của anh là một dẫn nhập hữu ích để tôi tìm hiểu sâu hơn những vấn đề này. Cả ba người bạn, mà nhờ mạng, tôi có dịp được quen biết này, tôi đều xem là những cơ duyên may mắn trên con đường học hành của mình.

Tôi phải thừa nhận một điều: cái mà tôi được nhiều nhất trong quá trình làm luận án tiến sĩ này là được làm việc trong với lượng tài liệu tham khảo dồi dào, về cơ bản, thư mục mà tôi tham khảo có thể so được với các luận án trên thế giới đi cùng theo hướng nghiên cứu. Sự thuận lợi này một phần lớn là nhờ những người bạn của tôi: Đó là Nguyễn Phúc Anh, Lê Nguyên Long với những chia sẻ password để tiếp cận các cơ sở dữ liệu; là những tài liệu sách vở mà những bạn bè khác như Nguyễn Thanh Phượng, Ngô Vĩnh Long, Hồ Thị Hòa, Phạm Thị Hoài đã nhiệt tình tìm kiếm từ nước ngoài và gửi về. Bên cạnh đó, là những chia sẻ về ý tưởng, những góp ý, trao đổi của Ngô Thanh, Nhã Thuyên, Hà Thanh. Đôi khi từ những cuộc chát, từ những trao đổi nhiêu khi tưởng chừng vu vơ mà từ đó tôi lại lóe lên những suy nghĩ bất ngờ về vấn đề mình đang nghiên cứu. Xin cảm ơn các anh Hoàng Ngọc-Tuấn, Như Huy, Trần Nguyễn Anh, bạn Tôm Ngu… Và như thế để nói rằng, luận án của tôi in dấu ấn của rất nhiều bạn bè.

Những người bạn ấy còn giúp đỡ tôi rất nhiều, từ những việc nhỏ nhặt, với một sự hào hiệp, nhiệt tình như của người thân trong nhà. Xin cảm ơn chị Hồng Hà, Mai Liên, Trà My các bạn Ngọc Minh, Hải Phương, Diệu Linh, Thanh Tùng, Xuân Hương, Mạnh Hoàng vì tất cả những giúp đỡ của các chị, các bạn. Cảm ơn hai em học sinh của tôi – Văn Linh và Đức Anh – đã giúp đỡ trong việc in ấn, chế bản luận án.

Các bạn đã giúp tôi cảm thấy không đơn độc, cái cảm giác luôn có người song hành ngay cả những khi tôi mỏi mệt nhất. Và với tôi đấy là điều hạnh phúc mà tôi được trải nghiệm trong quá trình làm luận văn này.

2. Tôi luôn cho rằng, con đường học hành của tôi, từ cấp học phổ thông, vẫn là một con đường đẹp đẽ, may mắn. Một trong những điều may mắn nhất là tôi đã luôn được học với những người thầy vừa độ lượng, bao dung, nhưng đồng thời cũng là những người cực kỳ nghiêm túc, không cho phép học trò dễ dãi, tự mãn trong công việc. Và hơn hết, đó là đều là những người có khả năng truyền cảm hứng cho học trò. Và đấy là điều tôi luôn muốn học tập từ các thầy.

Thầy Trần Đình Sử với tôi là một người thầy như thế. Có thể chính thầy cũng không để ý rằng tôi là sinh viên cuối cùng của khoa Văn trường Sư phạm được thầy hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp đại học. Và rồi đã đi theo thầy hơn 10 năm, cho đến bậc học tiến sĩ. Hơn 10 năm ấy, từ một cậu học trò rụt rè, có tâm lý sợ thầy (tâm lý cũng có phần dễ hiểu của những đứa sinh viên trước những giáo sư được xem là đại thụ trong ngành), dường như tôi đã có thể nhìn thấy thầy ở một khoảng cách gần hơn: để đôi khi thấy ngậm ngùi khi bắt gặp hình ảnh một vị giáo sư ngồi viền lại chiếc áo đã sờn cổ, để đôi khi chợt xót xa khi nhìn thấy dáng thầy tất tả trên đường, đôi khi lặng người khi được thầy chia sẻ về cảm giác về sự thiếu hụt của mình khi đối diện với tri thức mới, một sự chân thành cực kỳ hiếm hoi trong mối quan hệ thầy-trò, và để rồi lại thấy xúc động hơn khi vẫn bắt gặp sự háo hức, say sưa và quyết tâm của thầy khi đọc được cái gì mới, khi muốn làm một điều gì có ý nghĩa, muốn tạo ra sự thay đổi bất chấp tuổi tác, bệnh tật. Tôi chưa bao giờ dám hứa với thầy về con đường học thuật của mình khi nhìn thấy con đường của thầy đi cần rất nhiều can đảm, nghị lực và sự say mê.

Tôi biết ơn thầy vì chính thầy đã giúp tôi trở thành một người “mạo hiểm” trong tư duy, trong suy nghĩ cho dù ngoài đời tôi lại là hiện thân của kiểu sống phẳng lặng, cầu an. Cái con người sẵn sàng nổi loạn ấy trng tôi khiến tôi không có cảm giác ngại sự phức tạp, né cái gai góc trong cách lựa chọn và giải quyết vấn đề nghiên cứu. Và xét đến cùng đó cũng là cái được của luận án của tôi khi tinh thần chọn cái an toàn, chọn cái nhàn nhạt mà viết đang là xu hướng phổ biến của các đề tài tiến sĩ văn học bây giờ.

Còn có nhiều người thầy nữa mà tôi muốn nói lời tri ân. Đó là thầy Túc, người thầy cấp 3 của tôi, đã ghi trong bài kiểm tra văn cuối cùng của tôi năm lớp 12 một nhận xét rằng chuyện viết lách của tôi (mà chữ thầy dùng, đến giờ, tôi còn nhớ, là “đời viết”) sẽ không dừng ở bài kiểm tra ấy. Là thầy La Khắc Hòa, người với nhiều ý tưởng mang tính kích thích rất cao đối với tư duy của tôi. Là cô Lê Lưu Oanh, thầy Trần Lê Bảo…những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần.

Với các thầy, tôi chỉ muốn nói rằng, được là học trò của các thầy, đấy là một niềm may mắn lớn.

3. Bố mẹ và các chị. Tôi luôn cảm giác mình có lỗi với gia đình. Tôi luôn có cảm giác rằng bố mẹ đã phải chịu đựng quá nhiều vì sự ích kỷ của tôi, vì cái hứng thú riêng hái hoa trên trời của tôi. Có những lúc nhìn ra xung quanh, tôi cảm thấy rõ ràng mình chỉ như ông tiến sĩ giấy, tôi vẫn chưa thể giúp cho bố mẹ, cho các chị nhàn nhã được một ngày nào. Trong hơn 10 năm qua, có những lúc gần như sóng gió ập xuống quá mạnh và liên tục đối với gia đình tôi, nhưng ngay cả khi ấy, bố mẹ và các chị vẫn là những người chống đỡ cho tôi, tôi vẫn là kẻ được an toàn nhất. Hơn 10 năm, gần như không phải làm việc nhà, kiếm tiền cũng không nhiều, tiếng tăm cũng không có, quan hệ cũng không, giờ nói lời cảm ơn gia đình có khác gì một lời nói xin lỗi. Đó là nỗi day dứt tôi còn mang theo.

4.  Nhưng dù gì thì gì, tôi vẫn cho rằng chặng đường mình vừa đi đã cho tôi những trải nghiệm quý giá. Tôi vẫn còn nhớ bằng giờ này năm ngoái, khi đang phải dồn sức viết những chương cuối cùng của luận án, có những ngày gần như tôi làm việc xuyên đêm, khi lực viết cạn cũng là lúc chập 5h sáng. Tôi đã đi bộ, một cách thong dong, đầu trống rỗng một cách nhẹ nhõm, trên con phố. Tôi đã hòa vào dòng người tập dưỡng sinh ở lăng Bác, đôi khi thấy những khoảnh khắc êm đềm, trong trẻo ấy thật vô giá. Đơn độc và bình yên, tôi quan sát mọi người: từ những ông bạn già rủ nhau đi tập thể dục, từ một cặp vợ chồng già lục tục dạy dọn hàng bán nước… Một nhịp sống có gì đó đều đặn, thanh thản, rất bình thường và cũng rất đẹp. Tôi đã lưu giữ những khoảnh khắc ấy như thể nó là một cái được cực kỳ vô hình, rất cá nhân và không gì so sánh được.

Nhưng ngày mai, sau ngày mai thì sẽ ra sao? Tại sao giờ này tôi lại sợ nghĩ đến ngày mai như thế? Chặng đường mới là gì? Có một khoảng trống rỗng vô hình, tôi không muốn nghĩ đến nó nhưng nó vẫn cứ lởn vởn trong đầu. Tôi hình dung rất rõ chiều mai mình sẽ trở về, sẽ ngủ một giấc dài, và sẽ tỉnh dậy trong sự mệt mỏi. Không phải vì những gì đã qua. Mà những gì đang tới.

Và tôi lại hoang mang. Như thể cách đây hơn 10 năm, khi tốt nghiệp trường đại học, mình cũng đã rơi vào trạng thái không trọng lượng như thế.

Phía trước là gì?