Category Archives: Truyện

Salman Rushdie – Hãy hỏi chính mình “Cuốn sách nào ta thật sự yêu?”

Salman Rushdie (1947) là nhà văn gốc Ấn Độ, hiện sống và viết tại Mỹ. Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết gây được tiếng vang, trong đó nổi tiếng nhất là Những đứa con của nửa đêm, được ngợi ca là tiểu thuyết xuất sắc nhất mà giải Booker của Anh từng trao. Rushdie đồng thời cũng là tác giả của những tác phẩm viết cho thiếu nhi, trong đó cuốn Haroun và Biển truyện đã từng được dịch sang tiếng Việt. Bài luận này của ông giúp ta có thể hiểu thêm về thi pháp tiểu thuyết của ông.

Scheherazade telling stories in “The Arabian Nights,” 1892.
Scheherazade telling stories in “The Arabian Nights,” 1892.Credit…

*

Trước khi sách xuất hiện, đã có những truyện kể. Ban đầu, những truyện kể không được viết xuống. Chúng đôi khi còn được ca ngâm. Trẻ em khi sinh ra, trước lúc có thể nói, cha mẹ đã hát cho chúng nghe những bài hát, chẳng hạn, bài hát về một quả trứng từ trên tường rơi xuống, hay một cậu bé và cô bé leo lên một quả đồi và rồi trượt ngã. Khi những đứa trẻ lớn hơn, chúng đòi các câu chuyện cũng thường xuyên như đòi thức ăn vậy.

Trẻ con say mê những câu chuyện này và muốn được nghe chúng hết lần này đến lần khác. Sau này, khi lớn hơn nữa, chúng tìm thấy những câu chuyện trong sách. Và những câu chuyện khác mà trước đó chúng chưa từng được nghe, về một cô bé rơi vào hang thỏ, hay một con gấu già khờ khạo và một con lợn con dễ hốt hoảng cùng một con lừa lúc nào cũng rầu rĩ, hay một trạm thu phí có ma, hoặc một nơi chốn nào đó nơi chỉ có bọn “quỷ sứ giặc non”. Niềm ham thích những truyện kể đã đánh thức một điều gì đó ở bọn trẻ, điều sẽ nuôi dưỡng chúng suốt cả cuộc đời: đó là trí tưởng tượng ở chúng.

Trẻ em dựng lên những câu chuyện mỗi ngày, chúng đột nhập các lâu đài, xâm chiếm các quốc gia, giong buồm trên những đại dương xanh thẳm và hằng đêm, giấc mơ của chúng đầy những con rồng kỳ vĩ. Nhưng rồi chúng đều lớn lên và những câu chuyện dần rơi rụng khỏi tâm trí của chúng, những câu chuyện được gói ghém lại trong những thùng đồ nơi gác mái, và những người từng là trẻ con cảm thấy khó khăn hơn để kể lại và tiếp nhận những chuyện kể. Đáng buồn hơn là họ càng thấy khó khăn hơn để yêu những câu chuyện ấy.

Tôi tin những cuốn sách và chuyện kể mà chúng ta yêu thích đã làm nên con người chúng ta, hay, để nói một cách chừng mực hơn, những câu chuyện ta yêu đã trở thành một phần cách chúng ta hiểu về các sự vật hiện tượng, đưa ra những phán xét và lựa chọn trong cuộc sống hàng ngày. Một cuốn sách có thể ngừng nói với chúng ta khi chúng ta nhiều tuổi hơn và cảm xúc của chúng ta dành cho nó sẽ phai nhạt. Hoặc khi đời sống chúng ta định hình và nhận thức của chúng ta hy vọng có thể dày dặn hơn, phong phú hơn, chúng ta bỗng nhiên thấm thía hơn về một cuốn sách mà trước đó chúng ta đã gạt bỏ; chúng ta bỗng nhiên nghe thấy âm nhạc của nó, bị cuốn hút bởi bài ca của nó.

Hồi sinh viên, lần đầu tôi đọc Cái trống thiếc – tiểu thuyết vĩ đại của Günter Grass, tôi đã không thể nào đọc trọn nó được. Nó nằm mòn mỏi trên giá sách tròn mười năm trước khi tôi thử đọc nó lần thứ hai. Kể từ ấy, nó đã trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết mà tôi yêu thích nhất mọi thời đại: một trong những cuốn sách mà tôi có thể tự tin nói mình yêu nó. Đây là một câu hỏi lý thú người ta nên đặt cho bản thân: Cuốn sách nào bạn thật sự yêu thích? Hãy thử suy nghĩ. Câu trả lời sẽ nói với bạn rất nhiều, rằng hiện tại bạn là ai.

*

Tôi lớn lên tại Bombay, Ấn Độ, một thành phố giờ đây đã không còn là nơi như nó đã từng và thậm chí còn đổi tên thành một cái tên nghe thuận tai hơn, Mumbai, vào một thời kỳ cũng không giống với hiện tại, đến nỗi có cảm giác đó là một thời đại đã xa xôi, thậm chí huyễn tưởng. Ở thành phố Bombay xa xôi ấy, những câu chuyện và những cuốn sách từ phương Tây chạm đến tôi dường như là những điều kỳ diệu thật sự.

Câu chuyện “Bà chúa tuyết” của Hans Christian Andersen, với mảnh gương thần diệu có thể rơi vào tim và biến trái tim họ thành băng giá, thậm chí còn kinh sợ hơn đối với một cậu nhóc xứ nhiệt đới, nơi chỉ thấy băng đóng lại trong tủ lạnh. “Bộ quần áo mới của Hoàng đế” đem đến khoái cảm đặc biệt cho một cậu bé lớn lên ngay sau khi Đế quốc Anh chấm dứt sự cai trị thuộc địa.

Có lẽ những câu chuyện về những xứ sở nào khác luôn giống như truyện cổ tích. Song đối với tôi, những câu chuyện thần kỳ thực sự lại gần với một ngôi nhà hơn, và tôi luôn nghĩ may mắn lớn nhất của mình khi làm nhà văn là mình đã lớn lên và được đắm chìm trong những câu chuyện ấy.

Một vài câu chuyện trong số đó ban đầu vốn mang ý nghĩa tôn giáo nhưng bởi tôi lớn lên trong một gia đình không theo tôn giáo, tôi có thể tiếp nhận chúng như những câu chuyện đẹp đẽ đơn thuần. Khi tôi lần đầu nghe kể câu chuyện từ pho sử thi vĩ đại Mahabharata về việc thần Indra đã khuấy trộn cả dải Ngân hà như thế nào, thần đã dùng đỉnh núi Mandara tưởng tượng làm cây đũa để khuấy ra sao, buộc biển sữa khổng lồ của bầu trời phải nhỏ xuống thứ rượu tiên của nó, “amrita” – thứ đem lại sự trường sinh bất tử, tôi bắt đầu nhìn những vì sao theo một cách mới.

Vào thuở thơ ấu dường như đã vời vợi xa ấy, trước khi tình trạng ô nhiễm ánh sáng làm cho phần lớn các vì sao hóa vô hình đối với những cư dân thành phối, tôi, một cậu bé ngồi giữa khu vườn ở Bombay vẫn còn thể ngước lên bầu trời đêm và lắng nghe âm nhạc của vũ trụ, nhìn những vệt Ngân hà lấp lánh chi chít với một niềm vui thầm lặng. Tôi tưởng tượng mỗi vì sao đang nhỏ giọt rượu tiên. Có lẽ nếu mình há miệng, một giọng có thể rơi xuống trúng miệng mình và rồi, tôi cũng sẽ thành bất tử.

Đó là vẻ đẹp của câu chuyện thần thoại và hậu duệ của nó, nghệ thuật hư cấu: người ta vừa biết câu chuyện ấy là một tác phẩm của tưởng tượng, nghĩa là nó không thật, lại vừa tin nó chứa đựng sự thật sâu xa. Ranh giới giữa cái kỳ ảo và cái thực, ở những khoảnh khắc như thế đã không tồn tại nữa.

Gia đình chúng tôi không theo đạo Hindu, nhưng chúng tôi nghĩ rằng những câu chuyện vĩ đại của đạo Hindu cũng gần gũi với mình. Vào ngày lễ hội thường niên Ganpati, khi đám đông hoành tráng mang theo những hình nộm thần đầu voi Ganesh đến bở biển Chowpatty để nhúng thần xuống biển, tôi có cảm giác Ganesh cũng thuộc về mình, Người giống như biểu tượng một niềm vui tập thể và hiện thân cho sự thống nhất của thành phố hơn là một thành viên trong điện thần của một tôn giáo đầy “tính cạnh tranh”.

Khi tôi biết tình yêu văn chương của Ganesh lớn lao đến nỗi Người ngồi bên cạnh nhà hiền triết Vyasa, người đọc coi là Homer của Ấn Độ, ghi lại câu chuyện Mahabharata, cảm giác ông thuộc về tôi còn trở nên sâu sắc hơn nữa; và sau này, khi viết cuốn tiểu thuyết về một cậu bé tên Saleem với cái mũi to bất thường, thì theo một cách rất tự nhiên, tôi đã gắn người kể chuyện trong Những đứa con của nửa đêm với vị thần giàu tình yêu với văn chương bậc nhất này, người cũng có cái mũi khổng lồ, cho dù Saleem xuất thân từ một gia đình theo đạo Hồi. Sự nhòa mờ ranh giới giữa các văn hóa tôn giáo ở thành phố Bombay xưa cũ, nơi tinh thần thế tục đích thực là trạng thái văn hóa phổ biến, giờ đây lại là một đặc điểm nữa đối lập Ấn Độ của quá khứ với Ấn Độ của hôm nay, một xã hội cay đắng hơn, ngột ngạt, nhiều sự kiểm duyệt và nhiều bè phái.

Phải thú thật ảnh hưởng của những truyện kể này không phải bao giờ cũng tích cực. Nền chính trị nhiều phe phái của cả đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa Hindu như Đảng Bharatiya Janata đang nắm quyền tại Ấn Độ đã sử dụng những phép tu từ của quá khứ để huyễn tưởng hóa về một cuộc trờ về với “Ram Rajya”, “thời trị vị của đức Rama”, một thời đại hoàng kim giả định của truyền thống Hindu giáo, một thời đại không có sự bất tiện bởi sự có mặt của những tôn giáo khác, từ đó làm cho các vấn đề trở nên phức tạp hơn. Việc chính trị hóa sử thi Ramayana nói riêng và đạo Hindu nói chung, trong bàn tay của những lãnh đạo chính trị mang tư tưởng bè phái vô nguyên tắc, đã trở thành một sự vụ nguy hiểm.

*

Tuy nhiên, tôi muốn trở lại với bản ngã thơ ấu của mình, thuở bị mê hoặc bởi những chuyện kể mà mục đích duy nhất của chúng là gây lôi cuốn. Tôi muốn gác lại những câu chuyện từ những bộ sử thi tôn giáo đồ sộ để nói về kho tàng mênh mông của những chuyện kể phàm tục, xoay quay những mưu mẹo, những sự kỳ bí, đầy hưng phấn, hài hước, quái lạ, siêu thực và rất thường xuyên chứa đựng những yếu tố dục cảm còn chất chứa trong phần còn lại của văn chương phương Đông, vì – hay không chỉ vì, nhưng đúng là bởi vì – chúng cho thấy ta có thể gặt hái bao nhiêu hoan lạc từ văn chương một khi Thượng đế rời khỏi bức tranh này.

Một trong những đặc điểm ấn tượng nhất của những chuyện kể này giờ đây đã được tập hợp lại trong pho truyện Nghìn lẻ một đêm (để lấy một ví dụ tiêu biểu), một thế giới nghệ thuật hầu như vắng bóng hoàn toàn tôn giáo. Nhiều chi tiết liên quan đến nhục cảm, nhiều trò láu cá, nhiều mưu mẹo; nhiều ác quỷ, hồn ma, chim săn mồi khổng lồ; không ít truyện có những cảnh đổ máu; nhưng không có Thượng đế. Đấy là lý do nhà kiểm duyệt Hồi giáo rất ác cảm đối với pho truyện này.

Tại Ai Cập, vào tháng Năm 2010, chỉ bảy tháng trước cuộc nổi dậy chống lại Tổng thống Hosni Mubarak, một nhóm các luật sự Hồi giáo mới nghe phong thanh về ấn bản mới của Alf Laylah wa Laylah (tên nguyên tác của Nghìn lẻ một đêm trong tiếng Ả Rập) đã có hành động khởi kiện yêu cầu ấn bản đó phải bị thu hồi và cuốn sách bị cấm vì nó là “lời kêu gọi cho sự trụy lạc và tội lỗi” bởi nó chứa đựng một số quy chiếu liên quan đến tình dục. May thay, họ đã không thành công, bởi những sự việc lớn hơn bắt đầu xâm chiếm tâm trí của người Ai Cập. Nhưng thực tế là hành động của họ gợi ra nhiều điều phải nghĩ.

Quả thực, cuốn sách có một số chi tiết nói về tình dục và các nhân vật có vẻ bận tâm về chuyện ái ân hơn là thể hiện sự sùng đạo, điều này, như các luật sự lập luận, có thể là một lời kêu gọi cho đời sống trụy lạc, nếu bạn mang một nhãn quan thanh giáo méo mó để nhìn thế giới này. Đối với tôi, điều này lại gợi ra những thứ tuyệt vời và xứng đáng được đáp lại, nhưng bạn có thể hình dung được những người không thích âm nhạc, chuyện trào tiếu và hoan lạc thấy bất ổn như thế nào bởi nó. Điều thú vị hơn là văn bản của thời đại xa xưa này, một tập hợp của những câu chuyện thần diệu này, vẫn còn giữ nguyên văn quyền năng của nó, có thể làm đảo lộn thế giới của những kẻ cuồng tín sau hơn 1200 năm, kể từ khi những câu chuyện này lần đầu xuất hiện.

Cuốn sách giờ đây chúng ta thường gọi là Những đêm Ả Rập vốn không xuất phát từ thế giới Ả Rập. Cội nguồn của nó có thể là Ấn Độ; kho tàng truyện kể Ấn Độ ưa chuộng những câu chuyện khung, những kiểu truyện lồng trong truyện, những ngụ ngôn về loài vật. Khoảng chừng vào thế kỷ thứ VIII, những câu chuyện này tìm đường để du nhập vào xứ sở Ba Tư, và theo những thông tin ghi chép còn sót lại, tuyển tập này khi ấy được biết đến với cái tên “Hazar Afsaneh”, “một ngàn câu chuyện”.

Một tư liệu xuất hiện vào thế kỷ X ở Baghdad đã nói về tập “Hazar Afsaneh” và nhắc đến khung truyện của nó, về một vị vua tàn ác hàng đêm đều giết một phi tần cho đến khi một trong số những cung phi bất hạnh này tìm cách ngăn chặn lại vụ hành hình đối với mình bằng cách kể cho ông ta nghe những câu chuyện. Đó là nơi lần đầu tiên chúng ta nhìn thấy cái tên “Scheherazade”. Thật buồn khi hiện không còn một bản in nào “Hazar Afsaneh” còn sót lại đến giờ. Cuốn sách này chính là một “mối liên kết đã bị mất mát” của văn học thế giới, là một tuyển tập truyện kể mà qua đó những câu chuyện thần diệu của Ấn Độ đã chu du sang phương Tây, gặp gỡ với ngôn ngữ Ả Rập và biến thành Nghìn lẻ một đêm, một cuốn sách với nhiều phiên bản và không có một văn bản chuẩn nào được hoàn toàn chấp nhận, rồi sau đó, du hành xa hơn nữa về phương Tây, để lần đầu xuất hiện trong bản kể bằng tiếng Pháp của Antoine Galland hồi thế kỷ XVIII, người đã thêm vào một số truyện không có trong bản tiếng Ả Rập như câu chuyện “Aladdin và cây đèn thần” và “Ali Baba và bốn mươi tên cướp”.

Và từ bản kể tiếng Pháp, những câu chuyện này được dịch sang Anh ngữ, rồi từ bản kể Anh ngữ, chúng tiếp tục hành trình của mình đến Hollywood, một xứ sở có ngôn ngữ riêng của nó và sau đó, là sự lan tỏa toàn cầu của những tấm thảm bay cùng Robin Williams trong vai trò của ông thần đèn. (Rất đáng lưu ý là trong Những đêm Ả Rập thực ra không có tấm thảm bay nào hết. Có một truyền thuyết kể rằng vua Solomon sở hữu một tấm thảm có thể thay đổi kích cỡ và đủ rộng để chở cả một đoàn quân trên đó.)

Cuộc di cư vĩ đại của truyện kể đã truyền cảm hứng cho nhiều khu vực văn chương thế giới, lan tỏa vào cả dòng mạch hiện thực kỳ ảo của văn chương Nam Mỹ, đến nỗi đến lượt mình, khi cũng sử dụng một vài thủ pháp của dòng văn học này, tôi có cảm giác về một chu trình khép lại và truyền thống kể chuyện đưa tôi ngược về quê nhà, nơi nó khởi sinh. Nhưng tôi vẫn cứ tiếc cho sự mất mát của tập truyện Hazar Afsaneh mà nếu được tìm thấy lại, nó sẽ hoàn thiện câu chuyện về các câu chuyện và thế nào là một sự kiếm tìm.

Có lẽ việc này sẽ giải quyết một bí ẩn nằm ở trung tâm của truyện khung, hay đúng hơn, ở chính kết thúc của nó và trả lời được cho câu hỏi tôi đã tự đặt cho mình trong suốt mấy năm: Liệu Scheherazade và người em của mình, Dunyazad, sau ngàn lẻ một đêm và hơn thế nữa, sẽ trở thành những sát nhân và giết những gã chồng khát máu của mình?

Thật sự đã có bao nhiêu phụ nữ bị Shahryar, quốc vương của “đảo và bán đảo Trung Hoa và Ấn Độ” và người em của mình, Shah Zaman, người cai trị độc tài xứ Samarkand hoang dã, giết chết? Mọi chuyện bắt đầu khi Shah Zaman nhìn thấy vợ mình trong tay của người đầu bếp trong hoàn cung. Shah Zaman đã băm họ thành từng mảnh và phóng thẳng về nhà anh trai mình, nơi anh ta nhìn thấy chị dâu của mình, hoàng hậu của Shahryar, đang ở trong vườn cùng với 10 thị nữ và 10 nô lệ. Mười người phụ nữ và mười người nô lệ ấy đang yêu chiều, âu yếm lẫn nhau còn hoàng hậu thì gọi người tình của mình từ trên cây trèo xuống.

Hỡi ôi, giống đàn bà dâm đãng và bội phản! Shah Zaman kể với anh trai mình những gì y nhìn thấy, từ đó, các thị nữ, nô lệ và bà hoàng hậu chịu chung số phận. (Tình nhân của hoàng hậu thì dường như đã trốn thoát được).

Vua Shahryar và vua Shah Zaman đã lạnh lùng thực hiện cuộc báo thù của họ đối với đàn bà, giống lăng loàn, bội bạc. Trong suốt ba năm, cứ mỗi đêm, họ cưới một nàng trinh nữ, cưỡng dâm họ rồi sau đó xử tử nàng. Cha của Scheherazade, vị quan cao cấp của triều đình, hay vị tể tướng, buộc phải tự mình thực hiện các vụ hành quyết mà Shahryar yêu cầu.

Vị quan này là một người có học, một người đàn ông giàu tình cảm – người đã nuôi dạy một cô con gái tuyệt vời như Scheherazade. Và cả em gái nàng, Dunyazad, một cô gái tốt, thông minh, dịu dàng.

Điều gì đã diễn ra trong tâm hồn người cha của những cô con gái đẹp đẽ, tử tế như thế mà giờ đây lại phải hành quyết hàng trăm phụ nữ trẻ khác, phải đâm vào cổ họng họ và nhìn máu của họ tuôn lênh láng? Chúng ta không được kể. Chúng ta biết, thần dân của Shahryar bắt đầu căm hận sâu sắc nhà vua và tìm mọi cách để tẩu thoát khỏi kinh thành cùng với những người phụ nữ trong nhà họ, đến nỗi sau ba năm, chẳng còn nàng trinh nữ nào sống trong thành cả. Không còn một trinh nữ nào ngoài Scheherazade và Dunyazad.

Đến khi Scheherazade bước vào câu chuyện, cưới vua Shahryar, cuộc cưỡng hiếp nàng đã hoàn thành, nàng đề nghị em gái mình, Dunyazad, ngồi xuống bên giường tân hôn và xin được kể một câu chuyện, Shahryar và Shah Zaman đã giết chết 2213 người. Chỉ 11 người trong số đó là nam giới.

Shahryar, sau khi cưới Scheherazade và bị giam hãm tâm trí bởi những chuyện kể của nàng, đã ngừng giết phụ nữ. Shah Zaman, người không bị văn chương thuần hóa, vẫn tiếp tục cuộc báo thú của mình. Một nghìn lẻ một đêm sau đó, số người chết đã là 3214 người.

Hãy suy nghĩ về Scheherazade, tên nàng có nghĩa là “sinh ra tại thành phố”, người mà chắc chắn là một cô gái của thành phố lớn, khéo léo, sắc sảo, rồi cũng đến lượt trở nên đa cảm và bi quan, y như những người kể chuyện thị dân đương đại mà người ta có thể muốn gặp. Scheherazade, người giăng bẫy đấng quân vương bằng câu chuyện kể bất tận của nàng. Scheherazade, kể những câu chuyện để bảo toàn đời mình, đặt nghệ thuật hư cấu vào thế đối kháng với cái chết, một pho tượng của Tự do không phải được tạo nên từ kim loại mà bằng ngôn từ. Scheherazade, người đi ngược lại mong muốn của cha mình, khăng khăng đòi vào cung, chấp nhận vào căn phòng chết chóc của nhà vua. Scheherazade, người đặt cho mình một nhiệm vụ anh hùng là cứu những người chị em của mình bằng việc thuần hóa nhà vua. Người có niềm tin, người nhất thiết phải đặt niềm tin vào người đàn ông bên trong một con quỷ bạo tàn và năng lực của chính mình để hồi sinh người đàn ông ấy về với nhân tính đích thực, bằng cách kể cho ông ta nghe những câu chuyện.

Thật là một phụ nữ lạ kỳ! Không khó để hiểu vì sao vua Shahryar lại si mê nàng đến thế. Bởi chắc chắn ông đã thất bại, khi trở thành cha của những đứa con với nàng, ông hiểu rằng, cứ mỗi đêm, mối đe dọa gắn với các vụ hành quyết mà ông ban trở nên trống rỗng, rằng ông không thể yêu cầu quan tể tướng, người cha của nàng, thực hiện việc này. Sự man dã của ông bị cùn mòn đi bởi thiên tài của người phụ nữ, người đã đánh cược đời mình trong một ngàn lẻ một đêm để cứu cuộc đời của những người khác, người tin trí tưởng tượng của mình có thể đối chọi với sự tàn bạo và vượt qua nó không phải bằng sức mạnh mà, thật ngạc nhiên, bằng việc văn minh hóa sự man dã ấy.

Vị vua quả là may mắn! Nhưng (đây là câu hỏi lớn nhất chưa được trả lời về Những đêm Ả Rập),  vì cớ gì mà nàng lại yêu ông ta? Và tại sao Dunyazad, cô em gái lại ngồi bên chân giường tân hôn suốt một ngàn lẻ một đêm, nhìn chị mình bị vị vua khát máu giày vò thân xác và lắng nghe câu chuyện của chị -Dunyazad, người nghe vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng là kẻ nhìn trộm – tại sao nàng lại đồng ý kết hôn với Shah Zaman, gã đàn ông thậm chí còn mang lòng hận thù sâu sắc hơn cả người anh của mình, người bị bỏ bùa bởi các câu chuyện?

Làm thế nào để hiểu những phụ nữ này? Có một sự im lặng trong câu chuyện đòi hỏi cần phải được nói ra. Đây là những gì chúng ta được kể lại: sau khi các câu chuyện kết thúc, Shah Zaman và Dunyazad kết hôn, nhưng Scheherazade ra một điều kiện – Shah Zaman phải rời bỏ vương quốc của mình, đến sống cùng anh trai, để hai chị em nàng không phải sống trong xa cách. Đây là điều Shah Zaman vui mừng chấp thuận và Shahryar đã chỉ định người đến cai quản Samarkand thay cho em trai mình chính là vị tể tướng nay là cha vợ của ông. Khi vị tể tướng đến Samarkand, ông được đón chào nồng hậu bởi người dân nơi đây và tất cả các nhà quý tộc địa phương thì đều cầu mong ông sẽ là người trị vì họ trong thời gian dài. Và đấy là điều đã diễn ra.

Câu hỏi của tôi là, khi tôi tra vấn câu chuyện cổ đại này: Liệu đó có phải là âm mưu của cô con gái và người cha của mình? Có khả năng nào mà Scheherazade và viên quan tể tưởng kia đã ngấm ngầm sắp đặt một kế hoạch bí mật? Bởi, nhờ có chiến lược của Scheherazade mà Shah Zaman không còn là vua xứ Samarkand nữa. Nhờ có chiến lược của Scheherazade, cha nàng không còn là một ông quan trong triều, một viên đao phủ bất đắc dĩ mà là một vị vua với đầy đủ quyền hành, một bậc quân vương được yêu mến và hơn thế, một người minh triết, đại diện cho hòa bình, kế thừa ngôi vị của một kẻ bạo chúa khát máu. Và sau đó, không một lời giải thích nào, Thần Chết xuất hiện cùng một lúc đối với Shahryar và Shah Zaman. Thần Chết, “Kẻ Phá Hủy Niềm Hoan Lạc và Kẻ Hà Khắc Đối Với Xã Hội, Kẻ Tàn Phá Những Nơi Cư Ngụ và Kẻ Kiểm Kê Các Bia Mộ” đã đến với họ, cung điện của họ đổ nát, tan hoang, và họ bị thay thế bởi một bậc quân vương hiền minh hơn, người đó là ai thì chúng ta không được biết.

Nhưng làm thế nào và tại sao Kẻ Phá Hủy Niềm Hoan Lạc lại đến? Làm thế nào mà cả hai anh em lại chết cùng lúc, như văn bản truyện kể đã hàm ý rõ ràng, và tại sao cung điện của họ sau đó lại bị phá nát tan hoang? Ai là người kế vị họ, Người Không Tên và Hiền Minh ấy?

Chúng ta không được kể. Nhưng một lần nữa, hãy tưởng tượng vị tể tướng bao nhiêu năm nuôi trong mình nỗi căm giận khi ông bị buộc phải xuống tay với những phụ nữ vô tội. Hãy tưởng tượng bao nhiêu năm ông đã sống trong sợ hãi, một nghìn lẻ một đêm sợ hãi, khi những đứa con gái của ông, máu thịt của ông, bị khóa kín trong buồng ngủ của Shahryar, số phận của họ treo lơ lửng bởi đường dây của một câu chuyện.

Một người sẽ chờ đợi bao lâu để báo thù? Ông ta sẽ chờ đợi lâu hơn một ngàn lẻ một đêm? Đây là giả thuyết của tôi: vị tể tướng ấy, giờ là người trị vì xứ Samarkand, chính là vị vua hiền minh đã quay trở về quê hương để cai quản vương quốc của Shahryar. Và hai vị vua chết cùng lúc hoặc là bởi bàn tay của các bà vợ hoặc do vị tể tướng năm nào đoạt mạng. Chỉ là giả thuyết thôi. Câu trả lời có lẽ nằm trong cuốn sách vĩ đại giờ đã không còn nữa. Cũng có thể không phải như thế. Chúng ta chỉ có thể… băn khoăn.

Dù thế nào, tổng số cuối cùng những người chết là 3216. 13 người chết là nam giới.

*

Những câu chuyện làm tôi yêu văn chương ngay từ đâu là những chuyện kể đầy ắp những điều bất khả đẹp đẽ, những điều không có thực, nhưng chính vì không có thực mà nó nói được sự thật, thường còn đẹp đẽ hơn, đáng nhớ hơn những câu chuyện dựa vào sự thực. Những câu chuyện dường như cũng không chỉ xảy ra một lần. Chúng có thể xảy ra ngay lúc này. Hôm qua, hôm nay hay ngày mốt.

Những truyện ngụ ngôn loài vật – bao gồm cả những ngụ ngôn về con cá chết biết nói – là một trong những thể loại có sức sống dai dẳng nhất trong kho điển phạm phương Tây, và những truyện hay nhất trong số đó lại không giống với ngụ ngôn Aesop chẳng hạn, chúng dường như chẳng màng gì đến đạo lý. Không tìm cách rao giảng về sự khiêm hạ, tính nhún nhường, đức trung dung, lòng thật thà hay những phép kiêng khem. Nó không đảm bảo cho sự chiến thắng của đức hạnh. Hệ quả là, chúng gần gũi một cách đáng ngạc nhiên với các tự sự hiện đại. Những gã tồi đôi khi lại chiến thắng.

Một tuyển tập truyện ngụ ngôn cổ đại được biết đến ở Ấn Độ với tên gọi Panchatantra xoay quanh hai con chó sói biết nói: Karataka được xem là nhân vật tốt hơn, khá hơn con còn lại, Damanaka, một con chó lắm mưu mô. Mở đầu truyện, hai con chó phải hầu hạ vua sư tử, nhưng Damanaka vốn không ưa tình bạn của sư tử với một con vật được xem là cận thần trong triều đại sư tử – con bò, vì thế nó tìm cách lừa vua sư tử để sư tử tin rằng con bò kia chính là kẻ thù. Sư tử giết con thú vô tội trong khi hai con chó sói chứng kiến. Hết truyện.

Nhiều câu chuyện nhỏ mang tính luân lý của Aesop nói về chiến thắng của con rùa chậm chạp nhưng bền bỉ trước con thỏ tốc độ nhưng kiêu mạn, kể về sự ngu ngốc của việc kêu rống lên “có chó sói” khi chẳng có con soi nào cả, hay sự dại dột khi trót giết con ngỗng đẻ trứng vàng. Những câu chuyện ấy dường như quá đỗi trẻ con khi đặt bên cạnh câu chuyện man dại gợi nhớ đến phong cách phim của Quentin Tarantino này. Đã quá thừa mứa những phiên bản sáo mòn về một phương Đông thanh bình, huyền bí.

Bản thân là một người di dân, lúc nào tôi cũng bị hấp dẫn bởi sự di cư của các truyện kể và những truyện kể về chó sói này đã chu du sang Những đêm Ả Rập cả trong bản kể tiếng Ả Rập lẫn tiếng Ba Tư, trong đó, tên của hai con chó sói đã biến thành Kalila và Dimna. Chúng cũng bước vào văn chương Hebrew và Latin và cuối cùng, trở thành “Những ngụ ngôn của Bidpai” trong bản tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên, không như những truyện kể trong Những đêm Ả Rập, tập truyện này đã phai nhạt trong ý thức độc giả hiện đại, có lẽ bởi nó không quan tâm đến việc đưa đến những cái kết có hậu, điều khiến chúng ít sức hấp dẫn đối với Hãng Walt Disney.

Tuy nhiên, sức mạnh của chúng thì vẫn còn đó; tôi tin sức mạnh ấy vẫn còn bởi với tất cả những con quái vật và những phép màu nhiệm mà chúng chuyên chở, đó là những câu chuyện hoàn toàn chân thực về bản chất người (kể cả khi chúng được thể hiện trong hình tượng các loại vật được nhân hóa). Tất cả đời sống nhân sinh là đây, can đảm và đớn hèn, vinh dự và tủi nhục, thật thà và quỷ quái. Những câu chuyện này đặt ra những câu hỏi lớn nhất và dai dẳng nhất của văn chương: Những người bình thường chúng ta phản ứng như thế nào khi những cái phi thường, bất thường xảy đến trong đời sống của mình? Và chúng trả lời: Đôi khi chúng ta không phản ứng tốt lắm, nhưng cũng có đôi khi, ta tìm thấy nguồn lực ngay bên trong bản thân mà ta không biết mình sở hữu nó, và rồi ta vươn dậy, đối mặt với thách thức, chúng ta vượt qua được con quái vật, Beowulf giết Grendel và bà mẹ còn đáng sợ của Grendel, Cô bé quàng khăn đỏ giết chết con sói, Người Đẹp tìm thấy tình yêu bên trong con quái vật để rồi từ đó chàng không còn là quái vật nữa. Đó chính là phép màu nhiệm bình thường, phép màu nhiệm của con người, sự kỳ diệu đích thực của những câu chuyện kỳ ảo.

Những câu chuyện kỳ ảo đã nói với tôi rằng những cách tiếp cận đối với nghệ thuật kể chuyện rất đa dạng, những khả thể của nghệ thuật kể chuyện gần như vô hạn và chúng vui tươi. Cái kỳ ảo đã luôn là một cách bổ sung những chiều kích khác cho thực tại, những chiều thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy thay vì ba chiều thông thường; nó là một cách làm phong phú hơn và mãnh liệt hơn kinh nghiệm của chúng ta về cái thực, thay vì thoát ly khỏi nó để rơi vào trong lãnh địa huyễn tưởng của những siêu anh hùng-ma cà rồng.

Chỉ bằng việc cởi trói cho tính hư cấu của hư cấu, tính sáng tạo của tưởng tượng, bài ca mộng tưởng của giấc mơ trong chúng ta, chúng ta mới có thể hy vọng tiếp cận được cái mới và sáng tạo hư cấu, để nhấn mạnh một lần nữa, có thể thú vị hơn thực tế.

Cái thần kỳ không phải là thứ ngây thơ, cũng không phải là thứ mang tính thoát ly. Vương quốc của cái thần kỳ không phải nơi tị nạn, nó cũng không nhất thiết là một nơi chốn hấp dẫn, đáng yêu. Nó có thể – trên thực tế, nó thường là – một nơi chết chóc, bóc lột, đầy rẫy sự tàn ác và sợ hãi. Thuyền trưởng Cook muốn giết Peter Phan. Phù thủy trong Rừng Đen muốn ăn thịt Hansel và Gretel. Con chó sói thực ra đã ăn thịt bà của cô bé quàng khăn đỏ. Albus Dumbledore bị giết, và Chúa Nhẫn còn lên kế hoạch biến toàn bộ xứ Trung Địa thành nô lệ.

Chúng ta biết, khi nghe những câu chuyện này, rằng kể cả khi chúng “phi thực”, bởi những tấm thảm thì không thể bay và các bà phù thủy trong những ngôi nhà bánh mì gừng không tồn tại, thì chúng vẫn cứ “thực”, vì chúng nói về những điều có thực: tình yêu, niềm thù hận, nỗi sợ hãi, sức mạnh, lòng dũng cảm, sự hèn nhát, cái chết. Chỉ đơn giản là chúng đến với cái thực theo một con đường khác. Chúng rất thực, kể cả khi chúng ta biết rằng chúng không thực. Sự thật là thứ người ta đạt đến không chỉ bằng mỗi cách mô phỏng đơn thuần. Một hình ảnh có thể được nắm bắt bằng máy ảnh hay nhát cọ. Một bức tranh vẽ đêm đầy sao không kém chân thực hơn một bức ảnh chụp cảnh tượng ấy; nếu không muốn nói, khi người vẽ bức tranh ấy là Van Gogh, nó còn chân thực hơn nhiều, kẻ cả khi nó có vẻ ít “hiện thực” hơn.

Văn chương kỳ ảo – những câu chuyện thần diệu, những ngụ ngôn, truyện kể dân gian, tiểu thuyết hiện thực kỳ ảo – luôn hiện thân cho những sự thật sâu xa về loài người, những đặc điểm đẹp đẽ nhất thường gán cho con người và cả những định kiến sâu sắc nhất. Những câu chuyện kỳ ảo nói với chúng ta những sự thật về chính mình vốn thường không dễ chấp nhận; nó phơi bày sự mù quáng, khám phá những ẩn ức, đem những nỗi sợ hãi thẳm sâu trong ta ra ánh sáng. Những câu chuyện như thế, nói chung, không đơn giản để giải trí cho trẻ em và nhiều truyện trong đó vốn dĩ không chủ định dành cho trẻ. Thủy thủ Sinbad và Aladdin không phải là nhân vật của phim Disney khi họ bắt đầu hành trình của mình.

Tuy nhiên, đây lại là thời kỳ văn học thiếu nhi và dành cho tuổi mới lớn phát triển phong phú, Từ xứ sở được trong truyện tranh Ở nơi quỷ sứ giặc non của Maurice Sendak đến thế giới phi hiện thực hậu tôn giáo của Philip Pullman, từ xứ sở Narnia, nơi chúng ta chạm tới qua tủ quần áo, đến thế giới lạ lùng mà chúng ta đi đến qua trạm thu phí có ma, từ Hogwarts đến Trung Địa, vương quốc của cái kỳ ảo vẫn sống động và đầy sức hấp dẫn. Và trong nhiều cuộc phiêu lưu này, những đứa trẻ trở thành anh hùng thường để cứu vãn thế giới của người lớn; đó là những đứa trẻ mà chúng ta từng là, những đứa trẻ vẫn đang ở ngay trong chúng ta, những đứa trẻ hiểu về xứ sở kỳ diệu, hiểu sự thật về các câu chuyện, chúng cứu rỗi người lớn, những người đã lãng quên những sự thật này.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Salman Rushdie, “Ask Yourself Which Books You Truly Love”, https://www.nytimes.com/2021/05/24/opinion/sunday/salman-rushdie-world-literature.html

QUÁN GIÓ – CUỐN TIỂU THUYẾT TRẮC ẨN VÀ CAN ĐẢM

hoa xoan

Cúi xuống, cúi xuống, hãy chỉ nên cúi xuống…[1]

Quán gió được Ngọc Giao hoàn thành vào mùa thu năm 1948. Có một số lý do để cuốn tiểu thuyết này hãy còn ít được biết đến, và vì thế, còn chưa được chưa nhìn nhận đúng về giá trị, trong đó, hẳn phải nói đến bối cảnh ra đời của nó. Quán gió được viết bởi một nhà văn hồi cư, nó thuộc về một không gian văn học vẫn thường được định danh là “văn học trong vùng bị tạm chiếm”. Mảng văn học ấy, cho đến giờ, vẫn còn bị bỏ khuyết: chưa có nhiều nỗ lực phục dựng tư liệu, mô tả lại diện mạo cũng như đánh giá thỏa đáng về nó trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

Nhưng lý do sâu xa hơn khiến cuốn sách nằm lại trong bóng tối khá lâu có lẽ chính là bởi tinh thần tiểu thuyết của nó. Tinh thần tiểu thuyết, thay vì tiếp cận đời sống theo lập trường giai cấp, theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa, lại cúi xuống số phận cá nhân của con người, lại muốn từ góc nhìn đời tư để nghĩ và cảm về cuộc đời. Cũng chính bởi vậy, tinh thần của tiểu thuyết lại gần hơn cả với tinh thần nhân bản. Quán gió của Ngọc Giao ghi lại bức tranh hiện thực li loạn của thời chiến với những phận người nổi trôi, lênh đênh, không biết bám víu vào đâu. Mảng hiện thực ấy của chiến tranh phần nào đã cũng đã đi vào một số tác phẩm thơ ca, âm nhạc thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp: trong “Đôi mắt người Sơn Tây” của Quang Dũng, trong “Về miền Trung”, “Quê nghèo”, “Bà mẹ Gio Linh”… của Phạm Duy. Tính chất của tiểu thuyết cho phép Ngọc Giao đi xa hơn những nét chấm phá, để miêu tả cận cảnh với niềm thông cảm sâu sắc những nỗi khốn khổ, điêu linh của những con người bé nhỏ thời loạn: từ cái lạnh buốt căm căm của mùa đông xứ Bắc đến cảnh mưu sinh cơ cực, lầm lụi trên đất tản cư; từ cảm giác lắt lay, bơ vơ của những con người trên đường chạy loạn đến nỗi bất an, hoang mang khi sống giữa thời bạo lực khôn lường… Chiến tranh, cho dù thế nào, vẫn luôn là một tình thế khắc nghiệt mà con người buộc phải chịu đựng; không những thế, sự chịu đựng ấy còn bị khuất lấp, bị biến thành vô hình để rồi không được nhận ra trong lịch sử. Giá trị của cuốn tiểu thuyết này, trước hết, chính là ở chỗ nó cố gắng nhìn thấu những gì mà lịch sử thường dễ làm mờ.

Hiện thực li loạn thời chiến chinh trong cuốn tiểu thuyết này chủ yếu được nhìn từ điểm nhìn của Trâm. Từ điểm nhìn của cô gái trực tiếp chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ập xuống gia đình và đời mình trong cơn biến động của thời cuộc, một góc khác của lịch sử hiện ra với sắc thái u uẩn, với những nỗi niềm tê tái mà con người phải cố gắng nén chặt lại để sống. Ở cái thời người ta tin có thể nhân danh những điều vĩ đại, lớn lao để cải biến thế giới, vào do đó có quyền phá hủy hết tất cả, xóa sạch những gì được cho là quá khứ, cái cá nhân, riêng tư của con người trở thành đối tượng phải chịu đựng nhiều trấn áp hơn cả. Trâm ái ngại cái nhìn của người dân nơi tản cư khi cô mặc áo dài trắng đi chợ đến nỗi chua chát “bây giờ nhất định là phải nhúng bùn đi hết. cho có vẻ là mình đã biết đời, biết thân”. Trâm sợ hãi khi thấy Khải – người anh trai cùng mẹ khác cha với mình, người của cách mạng – muốn mẹ con cô phải ghê tởm chính xuất thân của mình, căm hận người chồng, người cha của mình như một kẻ thù của nhân dân, giấu giếm, vứt bỏ tất cả những kỷ vật thuộc về một quá khứ bị xem là xấu xa, đồi bại. Trâm xa lạ trước viễn cảnh về xã hội lý tưởng mà người anh đi theo cách mạng của cô vẽ ra. Đó là một viễn cảnh được hình dung bởi một kẻ có cái nhìn đơn giản về con người nhưng lại thừa cao ngạo về sức mạnh và ý chí để biến cải thế giới: “… theo anh thì cách mạng phải đạp đổ tất cả chứ gì. Rất phải và rất đẹp. Nhưng cách mạng đã như cơn nước lũ, người ta vui say quá để không cần nhận thấy rằng: giúp cho cách mạng thành công, đã có bao nhiêu máu, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu hơi thở thoi thóp, bao nhiêu tấm lòng giẫy dụa chịu chìm khuất, chịu nhục nhã, chịu khinh bỉ… No ấm chưa chắc hẳn là hạnh phúc con người. Còn bảo rằng con người thỏa mãn thì em nghĩ con người không bao giờ thỏa mãn. Tại sao lại nghĩ rằng dăm ba bàn tay yếu sẽ có thể kiêu căng xây dựng một thiên đường…” Qua cảm nhận của nhân vật, có thể thấy Ngọc Giao đã rất sớm nhận ra nguy cơ lớn của những tham vọng cải tạo, lập lại trật tự cho thế giới nhưng lại xa rời những giá trị nhân bản nền tảng, những lý tưởng cách mạng bắt đầu bằng sự khơi dậy hận thù. Sự trắc ẩn với số phận cá nhân con người đã khiến Ngọc Giao nhạy cảm và sâu xa hơn trong cái nhìn về thời cuộc. Dù có thể chính khả năng thấu thị này là điều khiến văn chương và cuộc đời của ông ít được chia sẻ và hiểu đúng trong một thời gian dài.

Những điều Trâm nói bị người anh của mình chặn lại vì cho rằng đó là “chuyện đàn bà”, là những suy nghĩ  không cần đếm xỉa.  Trong Quán gió, Trâm và mẹ cô – bà Hường không chỉ phải chịu đựng những nhọc nhằn, khổ ải của thời loạn, mà quan trọng hơn, họ còn bị đè nặng bởi những trấn áp kiểu gia trưởng từ những người đàn ông trong gia đình mình. Thời cuộc có biến chuyển thế nào thì những trấn áp gia trưởng ấy vẫn không gì lung lay, xê dịch. Trên phương diện này, cuốn tiểu thuyết của Ngọc Giao đã khơi gợi nỗi băn khoăn về lý tưởng xã hội mà những người cách mạng như Khải tin tưởng và đang thực thi. Đó có hẳn là một thứ lý tưởng không tì vết khi người ta muốn cải tạo mọi thứ theo nó, bất chấp phương tiện, chỉ trừ việc xóa bỏ những độc đoán gia trưởng đối với phụ nữ? Sự khơi gợi băn khoăn này tự nó đã thể hiện sự can đảm của nhà tiểu thuyết, người luôn muốn chất vấn những đại tự sự.

Trâm và mẹ cô coi những tội nợ của cha, chồng, anh em trai của mình như một thứ nghiệp chướng mà mình phải chịu. Cả hai người phụ nữ đều cảm thấy hình ảnh của Kiều trong cuộc đời mình, thấy sự cay đắng của kiếp hồng nhan, sự tủi cực khi rơi vào tình cảnh thất thế, lưu lạc. Nhưng sẽ là một cách đọc đơn giản nếu chỉ thấy cuốn tiểu thuyết này khắc họa sự chịu đựng, cam phận, nhẫn nhục của người phụ nữ, đặc biệt là nhân vật Trâm. Trâm không phải là người chỉ biết nín nhịn, quy hàng định mệnh, mặc đời đẩy đưa; cô muốn kháng cự lại những gì được bày đặt ra như là số phận dành cho mình. Hành động của Trâm ở đoạn kết cuốn tiểu thuyết khi cô muốn cầm súng để giết Tiến, người mà anh trai cô đã ép cô kết hôn, cũng là người đã xử bắn cha cô như một kẻ thù của cách mạng và đặc biệt việc cô chủ động phá bỏ cái thai trong bụng mình có thể được xem như là những hành động mang tính kháng cự số phận. Một cách đọc theo phê bình nữ quyền có thể tìm thấy vấn đề của mình ở hành động phá thai của nhân vật: Trâm đã chấp nhận phạm tội để dứt bỏ những mối oan nghiệt mà những người đàn ông đã gây ra đối với mình hay bản thân cảm giác có tội cho thấy cô vẫn chưa thoát ra khỏi những trấn áp của đạo đức gia trưởng? Trâm kháng cự nhưng không thắng được số phận. Song điều chủ yếu làm nên giá trị của con người nói chung vốn không hẳn nằm ở sự vượt thắng số phận mà chính là ở nỗ lực khước từ việc khuất phục nó ngay từ đầu.

Đến đoạn kết của cuốn tiểu thuyết, Trâm muốn trở về với mẹ, về với cái quán gió tiêu điều, mong manh. Quán hàng bé nhỏ, nghèo nàn, hút gió ấy không chỉ là biểu trưng cho những cảnh đời bấp bênh, tạm bợ trong buổi loạn li; nó còn là biểu trưng cho những nỗi thống khổ vô hình con người phải chịu đựng mà phải “cúi xuống” thật gần, thật thấp, chứ không thể từ trên cao để thấu cảm. Tính chất cảm thương của Quán gió có thể xem là sự nối tiếp truyền thống nhân đạo kiểu Đỗ Phủ, Nguyễn Du, những người coi văn chương là tiếng kêu đứt ruột về nỗi đau con người, nhất là trong những cơn biến loạn. Nhưng thứ văn chương “cúi xuống” những con người nhỏ bé, lẻ loi, cất lên tiếng nói cho họ giữa những náo động lịch sử, thực chất, là thứ văn chương mạnh mẽ bậc nhất. Quán gió làm người  đọc một lần nữa nhận ra văn chương luôn có thể bổ khuyết những gì mà lịch sử đã không nói. Nó, vì thế, thực sự là một cuốn tiểu thuyết trắc ẩn và can đảm.

TRẦN NGỌC HIẾU

[1] Trích bài tựa Quán gió, bản in của Nhà xuất bản Ngày mai, 1949.

Bài viết được sử dụng làm lời giới thiệu tiểu thuyết Quán Gió của Ngọc Giao, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn, 2017.

 

 

Costica Bradatan – Điện ảnh như một thực hành triết học

Rashomon_913
Hãy hình dung cảnh tượng này: một người đàn ông – một samurai – bị giết trong một khu rừng nhỏ. Tất cả những người liên quan, lần lượt từng người, được đưa đến công đường. Người tiều phu kể lại nỗi hãi hùng xâm chiếm anh ta khi bắt gặp cái xác chết. Nhà sư làm chứng rằng ông đã nhìn thấy người đàn ông này trước đó và có thể nhận dạng được hung thủ. Sau đó, hung thủ, Tajomaru được giải đến pháp đình. Hắn thừa nhận đã trói vị samurai kia, công khai quyến rũ vợ của anh ta và sau đó giết chết vị samurai trong một trận đấu kiếm.
Một vài độc giả có thể đã nhận ra được cốt truyện. Đây chính là bộ phim Rashomon (1950) của đạo diễn Akira Kurosawa, một kiệt tác điện ảnh chiêu đãi người xem bằng một bữa tiệc độc đáo: suy tư hiện hình trên màn ảnh, tư tưởng triết học được biểu đạt không phải bằng bất cứ lập luận được cấu trúc chặt chẽ nào, cũng không phải được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu, mà qua một nghệ thuật kể chuyện tuyệt vời, những hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ và ngôn ngữ điện ảnh mang tính đột phá.
Rồi đến lượt vợ của vị samurai ra khai báo. Theo câu chuyện của cô, cô bị Tajomaru cưỡng hiếp, sau đó hắn rời đi mà không hết giết chồng của cô. Sau vụ bị cưỡng hiếp, cô cởi trói cho chồng mình, rồ mệt lả ngủ thiếp, khi tỉnh thì thấy chồng đã chết bên cạnh mình, anh ta đã tự tử.
Câu hỏi mang tính triết học nằm ở trung tâm bộ phim của Kurosawa đã được nêu ra rất rõ ràng: giả sử chúng ta không thực sự biết và nói chuyện gì đang diễn ra? Nếu bất cứ tường thuật nào mà chúng ta tạo ra về thế giới quanh mình đều tự nó là một thế giới, và tường thuật của mỗi cá nhân đều rất khác với kẻ khác, không có cách nào để xác quyết mô tả nào mới thực sự đúng với tình thế, chuyện gì sẽ xảy ra?
Ly kỳ hơn thế, sau đó chúng ta lại nghe thấy, qua một bà thầy cúng, một phiên bản của vị samurai đã chết cất lời kể lại sự việc: sau khi Tajomaru ngủ với người vợ, tên cướp đó cầu xin cô ta bỏ đi cùng với mình. Người vợ chấp nhận với điều kiện hắn phải giết chết vị samurai – chồng của cô ta. Song Tajomaru bất ngờ đứng về phía người chồng của cô ta. Bằng cách nào đó, người vợ tìm được cách trốn thoát, tên cướp cởi trói cho vị samurai và bỏ đi, vị samurai ấy sau đó đã tự tử.
Các nhân vật của Kurosawa nhìn về cùng một thế giới, tuy nhiên, bởi những lý do đạo đức và nhận thức, những tường thuật của họ về cái mà họ thấy, tự chúng, đều là những thế giới, khiến cho việc biết thế giới thực sự như thế nào là điều bất khả. Thông điệp cuối cùng của bộ phim là chúng ta, về cơ bản, không thể nào “kể được sự thật”.
Câu chuyện chúng ta nghe được tiếp sau đó lại là một phiên bản khác, phiên bản của người tiều phu. Ông ta đã chứng kiến toàn bộ sự việc nhưng không khai tại chốn công đường. Dưới cổng Rashomon, ông tường thuật lại những gì mình thấy sau khi vụ xử tại công đường kết thúc,: sau khi Tajomaru ngủ với người vợ, hắn cầu xin nàng làm vợ hắn. Không có một chút cảm xúc nào lộ ra, cô cởi trói cho người chồng của mình và đề nghị anh ta đấu với tên cướp. Vị samura giao đấu với Tajomaru trong một trận đọ kiếm và anh ta đã bị giết.
Đây là lời kể mới nhất nhưng chúng ta vẫn không thể nói nó có đúng hay không. Nếu có nhiều người hơn liên quan đến sự việc, hẳn chúng ta sẽ còn được nghe nhiều lời tường thuật khác nữa, mỗi câu chuyện lại khác với câu chuyện vừa được kể trước đó. Về phương diện triết học, điều này không có gì mới: kể từ Nietzsche, người giải cấu trúc ý niệm sự thật như là một biểu hiện của “ý chí quyền lực”, đến Richard Rorty, người quan niệm sự thật là thứ “được làm ra hơn là được tìm thấy”, đến thời đại của chúng ta, thời đại nhìn mọi thứ đều là “kiến tạo xã hội”, chúng ta đã quen với một thế giới dường như đã không còn cần biết sự thật nằm ở đâu. Với thông điệp gây hoang mang cho nhận thức con người như thế, bộ phim của Kurosawa đã tham dự vào một cuộc đối thoại đã và vẫn đang diễn ra trong lịch sử triết học phương Tây suốt một thời gian.
Tuy nhiên, bạn có thể thắc mắc, một nhà làm phim phải làm những gì để có thể tham dự vào những đối thoại triết học? Theo một hướng nghiên cứuvề vấn đề này tuy vẫn còn mang tính ngoại biên, nhưng ngày càng có sức ảnh hưởng, Kurosawa làm đúng những gì mà bất kỳ nhà làm phim tốt nào cũng thực hiện: kích thích người xem chuyển hóa những gì mình nhìn thấy trên màn hình, cùng suy tư những câu hỏi lớn về thân phận con người, theo đuổi những mục đích triết học thông qua phương tiện của điện ảnh. Từ Gilles Deleuze và Stanley Cavell đến Stephan Mulhall và Robert Sinnerbrink, một luận điểm đã được khẳng định: điện ảnh có thể là triết học. Thực vậy, điện ảnh có thể phục vụ triết học không phải chỉ trong vai trò lệ thuộc – thí dụ, bằng việc cung cấp “thí dụ minh họa” cho những vấn đề triết học trong các giờ học – mà trong tính tự thân của nó, với phương tiện riêng của nó, và theo một phương thức không thể quy giản về những phương pháp của triết học truyền thống. Dĩ nhiên, không phải mọi bộ phim đều mang phẩm chất triết học rõ rệt, song một vài tác phẩm điện ảnh đạt đến phẩm chất ấy và thế là đã đủ. Như Mulhall đã nói trong cuốn On Film (Về phim, 2010): “Những bộ phim như thế không phải là nguyên liệu thô của triết học, không phải là thứ trang sức cho nó; chúng là những thực hành triết học, triết học trong hành động – làm phim chính là làm triết học.”
Triết gia sẽ chẳng là gì nếu không phải là người thích tranh cãi bằng lý lẽ, vì thế, dễ hiểu vì sao “mệnh đề lớn” – điện ảnh như là triết học – sẽ bị chất vấn mạnh mẽ. Phim làm sao có thể là triết học? Hướng phê phán chính sẽ bắt bẻ như thế, vì phim không làm việc bằng những luận điểm, lý lẽ, như triết học vẫn luôn làm vậy. Phim làm việc với những hình ảnh, cảm xúc, và những thứ tương tự. Nói cách khác, các nhà làm phim không thể là triết gia vì cách làm việc của họ không tương ứng với một cách hiểu về triết học, theo đó, nhiệm vụ của nó, rốt cuộc, là đưa ra các luận điểm và lường trước các phản đề để phản biện. Tuy nhiên, với định nghĩa này, một số lượng đáng kể các triết gia cũng không phải là triết gia: không có chỗ trong triết học dành cho Heraclitus hay Diogenes, cũng không có chỗ cho Khổng Tử hay Nietzsche.
Bất kể liệu phim có thỏa mãn những định nghĩa mang tính kỹ thuật về triết học hay không thì thực tế, chúng vẫn có thể tác động lên ta với một hiệu ứng tương tự như những tác phẩm triết học lớn, kinh điển: chúng lay động và thức tỉnh chúng ta, phả một đời sống mới vào tâm trí chúng ta, mở ra những cách thức mới để nhìn bản thân và thế giới xung quanh mình. Có một sự thuần khiết của cái nhìn, sự sâu sắc của nhãn quan, một phẩm chất minh triết trong trong các tác phẩm của Andrei Tarkovsky, Ingmar Bergmann và Kurosawa, hoàn toàn ngang tầm với những triết gia lớn.
Tuy nhiên, quan trọng hơn cả, trong khi các triết gia mang một thứ ám ảnh không lành mạnh về lý tính, các nhà làm phim có thể dạy lại để họ hiểu thế nào là con người: họ mang đến những câu chuyện về những sự hỗn độn trong đời sống con người, về việc chúng ta có thể trở nên khó lường, phức tạp và cực kỳ phi lý như thế nào. Chúng ta bị thúc đẩy bởi cảm xúc, bởi đam mê cũng nhiều không kém lý trí; chúng ta sử dụng tưởng tượng huyền thoại cũng nhiều như tư duy lập luận. Và có lẽ triết học, vì chính lợi ích của nó, nên mở rộng những định nghĩa về nó, và khiêm nhường hơn trong mối quan hệ với những lĩnh vực khác. Từ điện ảnh chẳng hạn, nó có thể học được nhiều điều hữu ích – sự ấm áp của con người, sự lên tiếng trước những vấn đề xã hội khẩn thiết, cách nói trực tiếp với trái tim con người – những thứ vôn không dồi dào trong các văn bản triết học.
Bộ phim Rashomon của Kurosawa đã làm đúng như vậy. Nó không chỉ nêu bật một ý niệm cũ, rằng sự thật là thứ được con người làm ra, mà còn kịch tính hóa, đẩy vấn đề đến một độ căng theo một cách mà chỉ mình triết học sẽ không làm nổi. Thông qua câu chuyện, qua phong cách điện ảnh, qua diễn xuất, dàn cảnh, v.v…, chúng ta sẽ trải nghiệm cảm giác về sự không thể nắm bắt được cái thực như thế nào: những câu chuyện xung đột nhau được kể lại qua thủ pháp hồi cố, bản thân điều này khơi dậy những vấn đề quan trọng về mối quan hệ giữa sự thật với ký ức và sự quên lãng, sự ghi nhớ và nhầm lẫn trong ghi nhớ. Sự nhớ và sự kể diễn ra trong lúc một cơn mưa ào ạt đổ xuống như trút nước, như thể mọi sự trên thế gian này – hiện thực, sự thật, bản ngã chúng ta – đều hóa lỏng; bối cảnh của màn hồi tưởng là một nơi hoang phế, một ngôi đền đang mục nát, như một biểu tượng ngầm nhắc, nếu cần, rằng “Thượng đế đã chết”, hay ít nhất, Người hoàn toàn im lặng. Tại công đường, chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy mặt của vị quan xét xử mà chỉ có mặt của những người được đưa đến để trình bày những lời khai va đập nhau gay gắt: họ đang nói với chúng ta – chúng ta chính là quan tòa, chúng ta phải nắm bắt mọi thứ; rồi có những cảnh quay hướng trực tiếp về phía mặt trời, tạo ra một cảm giác kéo dài về sự mù lòa và mất phương hướng. Tất cả những điều này chỉ đào sâu thêm ấn tượng bao trùm rằng cái chúng ta chứng kiến – sự kết thúc của khả năng nói sự thật ở chúng ta – là một bi kịch mang tầm vóc vũ trụ. Những lời than của nhà sư trong phim nghe thật ám ảnh:
Chiến tranh, động đất, gió mưa, hỏa hoạn, đói kém, bệnh dịch. Hết năm này qua năm khác, tất cả chẳng là gì cả ngoài những thảm họa. Đêm nào cũng có những tên cướp đột nhập. Ta đã chứng kiến bao nhiêu người bị giết không khác nào sâu bọ, nhưng ta chưa từng được nghe một câu chuyện nào hãi hùng như thế này. Phải. Quá đỗi hãi hùng. Cuối cùng có lẽ ta cũng đánh mất niềm tin vào tâm hồn con người. Và điều ấy còn tệ hại hơn cả trộm cướp, bệnh dịch, đói kém, hỏa hoạn hay chiến tranh.
Dĩ nhiên, tất cả chỉ là “một bộ phim”. Thêm nữa, cũng có nhiều thứ để giỡn vui quanh ý niệm sự thật là sự thêu dệt của con người, rằng mọi thứ có thể được kiến tạo nên không ngừng và cũng bị giải kiến tạo không ngừng. Cũng vui mà, phải vậy không? Nhưng chưa hết. Sự quả báo có thể đã đến sớm hơn mong đợi của chúng ta. Vì khi những kẻ nằm quyền muốn chúng ta chấp nhận những sự dối trá không phải là sự dối trá mà là những “thực tế khác”, chúng ta biết khung quy chiếu không còn là Rorty hay Nietzsche nữa mà là tiểu thuyết 1984 của George Orwell (1949). Và đó không phải là một tác phẩm hư cấu mà chúng ta đọc; nó là cái thế giới chúng ta bắt đầu sống trong đó.
Ít nhất chúng ta thấy nó đang đến. Sau cùng thì Rashomon đã đưa ra cho chúng ta nhiều cảnh báo.
Hải Ngọc dịch
Nguồn: Costica Bradantan, “Philosophy has a lot to lear from film”, https://aeon.co/ideas/philosophers-…

Yoko Ogawa – Nhật ký thai kỳ

Making-Peace-2008-oil-on-canvas-48x40

29 tháng 12 ( Thứ Hai): Hôm nay, chị tôi đến bệnh viện M. Vì chị hầu như chưa gặp một bác sĩ nào khác ngoài bác sĩ Nikaido nên cuộc hẹn làm chị thấy căng thẳng. Chị cứ trì hoãn việc này mãi, khi thì lo lắng về chuyện chọn trang phục, lúc lại băn khoăn không biết nên nói như thế nào với bác sĩ, cho đến ngày cuối cùng trong năm phòng khám bệnh viện làm việc. Sáng hôm nay, chị vẫn còn chưa yên tâm.

“Không biết chị phải cho họ xem biểu đồ thân nhiệt của bao nhiêu tháng nhỉ?” Chị lơ đãng ngước lên khỏi bàn ăn sáng nhưng không hề có động tác gì cho thấy chị muốn đứng dậy.

“Tại sao chị không mang tất cả đi?” Tôi hỏi lại.

“Nhưng như thế thì phải mang biểu đồ của cả hai năm ư?” Chị lên giọng, đồng thời vừa khuấy chiếc thìa trong hũ sữa chua. “Hai mươi tư cái biểu đồ. Trong khi đó, chỉ có mấy ngày là liên quan đến cái bầu. Chị nghĩ mình chỉ đưa cho họ xem biểu đồ của tháng này mà thôi.”

“Vậy suốt hai năm, ngày nào chị cũng đo thân nhiệt để làm gì?”

“Chị không thể nào chịu nổi khi nghĩ rằng có một vị bác sĩ nào đó cứ mân mó những bảng biểu đồ ấy trước mắt mình, cứ như thể ông ta muốn săm soi mọi chi tiết để xem chị đã có bầu như thế nào vậy.” Chị chăm chú nhìn sữa chua dính vào thìa của mình. Những giọt sữa trở nên lờ nhờ, sánh và trắng, rồi rơi trở lại xuống hũ.

“Chị cứ quan trọng hoá vấn đề,” tôi vừa nói vừa đậy hũ sữa chua lại, đem cất vào tủ lạnh. “Chúng chỉ là mấy cái biểu đồ thôi mà.”

Cuối cùng thì chị quyết định đem đến bác sĩ tất cả các biểu đồ nhưng viêc này làm chị phải mất thời gian một chút. Tôi không hiểu sao chị tôi ngày nào cũng cẩn thận đo thân nhiệt vậy mà lại cẩu thả đối với chính những bảng biểu đồ ấy. Những tờ giấy vẽ biểu đồ, đáng ra phải được cất giữ trong phòng ngủ của chị, lại lạc sang tận giá để tạp chí hay bàn điện thoại. Thỉnh thoảng, tôi lại bắt gặp chúng khi lật giở một tờ báo hay lúc gọi điện. Bây giờ tôi mới nhận ra có một cảm giác lạ lùng khi mình tìm thấy những mẩu giấy có đường viền răng cưa này. Những lần ấy tôi thường thầm phỏng đoán: “Hẳn là chị đã đến kỳ rụng trứng” hoặc “ Thân nhiệt bình quân tháng này của chị xuống thấp.”

Chị tôi chọn bệnh viện M vì những lý do tình cảm. Tôi muốn đưa chị đến một bệnh viện nào đó lớn hơn, trang thiết bị tốt hơn nhưng chị tôi đã quyết định chọn bệnh viện này. Chị bảo: “Từ hồi còn nhỏ, chị đã nghĩ rằng sau này nếu có con, nhất định chị sẽ sinh ở đó.”

Bệnh viện M là một bệnh viện phụ sản nhỏ của tư nhân ở gần nhà chúng tôi từ thời ông nội. Khi chị em tôi còn nhỏ, chúng tôi thường lén vào trong vườn bệnh viện chơi. Nhìn từ phía trước, khu nhà gỗ ba tầng của bệnh viện trông thật âm u với những bức tường rêu, một tấm biển đã mờ mất một nửa và những cửa sổ bạc hơi sương. Nhưng nếu đi từ vườn ra phía sau lại thấy khu nhà này sáng sủa, nhiều nắng. Không hiểu sao sự tương phản ấy lại cuốn hút chị em tôi.

Phía sau khu nhà bệnh viện có một bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận mà chị em tôi đều thích lăn mình trên đó. Khi tôi lăn mình, những hình ảnh vụt thoáng của bãi cỏ xanh và bầu trời lấp loáng luân chuyển nhau trong mắt tôi rồi nhòa thành một màu ngọc lam nhạt. Trong khoảnh khắc, bầu trời, ngọn gió, mặt đất chợt nhẹ tênh và tôi có cảm giác như đang bềnh bồng trong không gian vậy. Khoảnh khắc đó, với tôi, thật đáng yêu.

Nhưng trò chơi lý thú của hai chị em tôi là khám phá xem chuyện gì đang diễn ra bên trong bệnh viện. Trèo lên những chiếc thùng vốn đựng bông gạc nay đã bỏ không, chúng tôi dòm qua cửa sổ vào phòng khám.

“Chị em mình sẽ gặp rắc rối đấy nếu như người ta bắt được,” tôi nói. Tôi luôn nhát hơn chị mình.

“Yên tâm đi, họ không làm gì đâu. Bọn mình chỉ là trẻ con thôi mà.” Chị vừa nói vừa lẳng lặng lấy gấu áo dụi vào cửa kính để lau đi những chỗ mờ do hơi thở của chúng tôi đọng lại. Áp mặt vào cửa sổ, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi sơn trắng còn mới bên trong. Cái mùi ấy, như một chỗ nhức đau nằm sâu trong óc, vẫn làm tôi nhớ đến cái bệnh viện này sau bao nhiêu năm tháng.

Căn phòng luôn không có người vào giữa trưa, trước khi giờ khám buổi chiều bắt đầu và chúng tôi có thể ngắm nhìn nó thoải mái. Một hàng chai lọ được đặt trên một cái khay hình ô van gợi một điều gì đó rất bí ẩn. Chúng không có nắp đậy hay dán tem niêm phong, chỉ có những chiếc nút thủy tinh mà tôi vô cùng muốn được nhấc chúng ra. Những chiếc chai đã ố màu của những dung dịch chứa trong chúng: nâu, tía hoặc đỏ sẫm và khi nắng hắt qua chúng, những chất lỏng ấy dường như long lanh.

Một chiếc ống nghe, mấy cái banh và một máy đo huyết áp nằm trên bàn bác sĩ. Cái ống thanh mảnh, cong cong, cái thiết bị gắn cố định màu xỉn bạc và quả bóp hình trái lê bằng cao su của cái máy đo huyết áp khiến nó trông giống như một con côn trùng lạ lẫm làm tổ giữa những dụng cụ khác.Có một vẻ đẹp kỳ quặc ở những hàng chữ khó hiểu in trên những biểu đồ y học. Một tấm áp phích trên tường có ghi: “Nơi xử lý trường hợp đẻ ngược”. Bức tranh vẽ một phụ nữ gần như nằm sấp, ngực áp xuống sàn nhà. Chị ta mặc một chiếc váy bó chật đến nỗi tưởng như đang trần truồng. Chị ta nằm đấy, trong tấm áp phích đã ngả vàng, mắt nhìn ngây dại về một nơi xa xăm đâu đó. Thế rồi khi tiếng chuông từ một ngôi trường lân cận nào đó vang lên là chúng tôi biết đã đến giờ khám bệnh buổi chiều. Chúng tôi phải rời khỏi nơi này khi nghe thấy tiếng của các y tá trở về sau bữa trưa.

Đôi khi tôi nhìn thấy những người phụ nữ nhìn ra cửa sổ từ tầng ba. Họ dường như mới sinh xong. Họ mặc trên mình tấm áo choàng tắm dày cộm, tóc buộc vổng lên như đuôi ngựa. Không ai trong số họ trang điểm cả. Mấy nhánh tóc của họ lòa xòa bên thái dương và khuôn mặt của họ không một chút biểu cảm. Tôi không hiểu tại sao họ lại không thấy sung sướng hơn khi được nằm ngủ ở tầng trên của một phòng khám đầy những đồ vật thú vị như thế.

Chị tôi trở về trước giờ trưa. Tôi gặp chị ngay ở hành lang trước nhà khi đang chuẩn bị đi làm.

“Họ nói sao?”

“Chị có bầu tháng thứ hai rồi – chính xác là sáu tuần.”

“Họ có thể nói chính xác như vậy ư?”

“Có thể, khi họ xem tất cả các biểu đồ,” chị vừa nói vừa cởi áo khoác, vội vã đi qua tôi. Có vẻ như chị không thật hào hứng với cái tin này. “Bữa tối ăn gì vậy?”

“Súp hải sản,” tôi đáp. “Sò và mực ống đang rẻ mà.”

Chị đổi đề tài nhanh đến nỗi tôi quên hẳn việc phải nói lời chúc với chị. Nhưng rồi sau đó, tôi lại băn khoăn không biết liệu từ “chúc” có thích hợp với đứa trẻ sắp sửa ra đời – kết quả của chị và anh rể – hay không nữa. Tôi tra từ “chúc” trong từ điển: nghĩa của nó là “mong cho ai đó vui vẻ”.

“Chẳng có ý nghĩa gì lắm,” tôi vừa lẩm bẩm vừa dò ngón tay theo những hàng chữ mà bản thân chúng cũng chẳng hứa hẹn điều gì vui vẻ cả.

30 tháng 12 (Thứ Ba), 6 tuần + 1 ngày: Từ hồi còn nhỏ, tôi đã không thích ngày ba mươi tháng mười hai. Bao giờ tôi cũng có thể chịu đựng ngày ba mươi mốt bằng cách tự nhủ mình: cuối cùng thì cũng hết một năm. Nhưng ngày ba mươi, không hiểu sao, cứ luôn rối tung cả lên, không chuyện này thì chuyện khác. Làm bữa cơm truyền thống mừng năm mới, dọn dẹp nhà cửa, đi mua sắm – không việc nào tôi hoàn tất được trọn vẹn.

Khi cha mẹ tôi đau ốm rồi qua đời, người này đi ngay sau người kia thì những việc Tết nhất đối với tôi thậm chí còn sơ sài hơn. Điều này cũng không thay đổi khi anh rể đến ở cùng chúng tôi. Tuy vậy, bữa sáng hôm nay thoải mái hơn một chút so với ngày thường vì tôi không phải đến trường còn văn phòng của anh rể cũng đóng cửa nghỉ tết.

“Khi thiếu ngủ thì ngay cả ánh mặt trời mùa đông cũng làm người ta chói mắt,” anh vừa nói, mắt nheo nheo sau cặp kính, vừa từ từ hạ mình xuống ghế. Nắng từ vườn rọi vào nhà, hắt trên mặt bàn và ba đôi dép đi trong nhà của chúng tôi loang bóng dài trên sàn.

“Hôm qua anh về muộn à?” Tôi hỏi. Hôm qua anh đi liên hoan tất niên của phòng khám nha khoa nơi anh làm việc. Có lẽ tôi đã ngủ khi anh về nhà.

“Anh phải bắt chuyến tàu cuối ngày,” anh rể trả lời. Khi anh nâng tách cà phê của mình lên, một mùi ngòn ngọt thoang thoảng bay ra. Anh cho nhiều kem và đường vào cà phê của mình đến nỗi phòng bếp như có mùi của tiệm bánh ngọt ăn sáng. Tôi vẫn thường tự hỏi làm sao một người chuyên đi làm nẹp răng và răng giả cho thiên hạ lại có thể uống một thứ cà phê ngọt như vậy mà chẳng hề lo gì đến việc bị sâu răng. “Tàu cuối ngày bao giờ cũng tồi tệ hơn giờ cao điểm,” anh nói thêm. “Nó luôn chật cứng và ai cũng say khướt.” Chị tôi lấy dao xắt bơ trát lên miếng bánh mì của mình.

Kể từ buổi gặp bác sĩ phụ khoa hôm qua, việc chị có bầu giờ đây đã rõ ràng nhưng dường như chị chẳng có gì đổi khác. Bình thường, một sự việc nhỏ nhặt nhất như tiệm tóc quen của chị đóng cửa, con mèo giả của nhà hàng xóm chết, vòi dẫn nước chính bị hỏng – cũng đủ làm cho chị thấy bất an và phải chạy đến chỗ bác sĩ Nikaido.

Tôi không hiểu chị tôi đã báo cái tin ấy cho anh rể như thế nào. Tôi thật sự không hiểu họ nói gì khi không có tôi ở bên. Thực ra thì tôi chẳng hiểu gì về các cặp vợ chồng. Đối với tôi, họ như một hiện tượng nào đó ở thể khí không lý giải được – một sự vật không hình dạng, không màu sắc, khó hiểu, bị kẹt trong một chiếc cốc thí nghiệm.

“Món này nhiều hạt tiêu quá,” chị vừa cắm dĩa vào món trứng ốp lết vừa lầm bầm. Bởi chị lúc nào cũng có chuyện để kêu ca về thực phẩm nên tôi cứ vờ như không nghe thấy. Lòng đào trứng rỏ giọt xuống từ đầu dĩa của chị như một dòng máu vàng. Anh rể tôi đang ăn những lát kiwi. Tôi thì không thể chịu nổi trái kiwi – hạt của nó làm tôi liên tưởng đến những con bọ nhỏ màu đen, mà trái kiwi sáng nay lại rất chín và mềm. Những hạt mồ hôi đã tụ lại trên mặt bơ.

Rõ ràng cả hai người đều không tỏ ra lo lắng đem chuyện cái bầu ra bàn nên tôi cũng không nhắc đến nó nữa. Ngoài vườn chim đang hót. Vài gợn mây tan ra phía góc trời xa xa. Tiếng chạm bát đĩa đan xen với tiếng nhai của mọi người.

Không một ai trong chúng tôi ý thức rõ năm cũ đã sắp hết. Không có một cành thông nào để trang trí cửa, cũng không có đỗ đen hay mochi1 trong nhà. “Em nghĩ là ít nhất chúng ta nên dọn dẹp nhà cửa,” tôi nói cứ như chỉ cho riêng mình nghe mà thôi.

“Bây giờ đã có bầu, em không nên làm việc này quá sức,” anh rể vừa nhằn trái kiwi vừa quay sang chị tôi nói. Anh nói một điều hiển nhiên cứ như thể đấy là một chân lý sâu sắc.

8 tháng 1 (Thứ Năm), 7 tuần + 3 ngày:  Chị tôi bắt đầu ốm nghén. Tôi không hiểu vì sao nó lại xuất hiện đột ngột như vậy. Ngay từ đầu, chị đã nói chị sẽ không bị ốm nghén, chị ghét cái tính trạng mỏi mòn ấy. Chị tin chắc những hiện tượng như ngủ nhân tạo hay mất cảm giác chẳng hạn sẽ không có ở chị. Nhưng trưa nay, khi chúng tôi đang ngồi ăn mì ống và pho mát thì bỗng nhiên, chị giơ chiếc thìa của mình lên và trân trân nhìn nó.

“Cái thìa này trông ngộ nhỉ?” chị nói. Tôi thì thấy nó hoàn toàn bình thường.

“Nó có mùi rất kỳ cục,” chị căng lỗ mũi ngửi chiếc thìa và nói.

“Kỳ cục như thế nào?”

“Chị không biết nữa… nó như cát ấy. Khi còn bé, em đã bao giờ ngã vào một hố cát chưa? Như thế đó, khô và ráp.” Chị đặt lại chiếc thìa vào đĩa của mình rồi lau miệng.

“Chị ăn xong rồi à?” Tôi hỏi. Chị gật đầu, rồi vẫn cứ ngồi chống cằm bên bàn. Ấm nước bắt đầu reo trên lò. Chị nhìn tôi nhưng không nói gì nên tôi cứ tiếp tục ăn.

“Chẳng lẽ nước sốt mì không làm em nghĩ đến những loại nước trái cây giúp tiêu hoá hay sao?” Chị thì thào. Chị cúi đầu về phía trước, nhìn tôi chằm chặp, đầu nghiêng về một bên. Tôi gõ chiếc thìa của mình vào đĩa. “Và màu của nó nữa, nhìn có giống mỡ lợn không? Cả những sợi mì cũng lạ. Chúng cứ trôi thun thút vào miệng khiến chị tưởng như mình đang ăn những khúc ruột, những cái ống nhỏ, trơn chứa đầy dịch dạ dày vậy.” Tôi cầm chiếc thìa trên tay, nhìn chị vừa nói vừa ứa nước dãi mà thấy buồn khi chị trở nên như thế này. Chị cứ nói mãi, nói mãi, cho đến khi không còn gì để nói nữa và rồi đứng dậy đi. Món mì ống đã trở thành một cái gì đó bùng nhùng, trắng và lạnh, trên đĩa chị.

28 tháng 1 (Thứ Tư), 10 tuần + 2 ngày: Tình trạng ốm nghén của chị trở nên tồi tệ hơn. Dường như chị tin rằng nó chẳng thể khá lên dần dần, cũng không biến mất hoàn toàn được và điều đó làm chị chán nản. Nài ép thế nào đi nữa, chị cũng không thể ăn được cái gì cả. Tôi gợi ý đủ các món có thể nghĩ ra được nhưng chị đều từ chối. Thậm chí, tôi còn lục tìm tất cả sách nấu ăn trong nhà và cùng chị xem chúng nhưng việc này cũng vô hiệu. Bây giờ tôi mới nhận ra ăn thật sự cũng là một việc không đơn giản.

Tuy nhiên, nếu chị không ăn gì thì ắt sẽ đau bụng vì thế cuối cùng chị cũng bảo chị cần một cái gì đó “để cho vào mồm”. (Chị không thể thốt ra được từ “ăn” nữa.) Chị quyết định chọn một cái bánh sừng bò. Bánh quế hay khoai tây cũng được nhưng một cái bánh sừng bò còn thừa lại sau bữa sáng ló ra từ giỏ bánh mì có lẽ đã lọt vào mắt chị. Chị xé chiếc bánh thành từng mẩu nhỏ, ấn vào miệng, nuốt mà không nhai. Rồi để cho trôi, chị nhấp một ngụm nhỏ nước khoáng, mặt nhăn lại khổ sở khi nuốt mẩu bánh. Chẳng giống như người ta ăn chút nào mà giống như đang thực hiện một nghi thức, nghi lễ thần bí nào đó hơn.

Anh rể tôi mang về nhà mấy bài báo mà anh nghĩ có thể giúp ích: “Làm thế nào mà tôi qua được kỳ ốm nghén” hay “Những ông chồng có thể giúp gì cho các bà vợ đang ốm nghén”. Thật khó tin nhưng cái bầu dường như ảnh hưởng đến cả chuyện ăn uống của anh nữa. Ở bàn ăn, anh chỉ ngồi gẩy thức ăn, hầu như chẳng ăn gì cả. “Anh không thể nào ăn được khi chị đang có cảm giác tiêu cực như thế,”anh thở dài bảo. Có lẽ chị nghĩ anh làm như vậy chỉ cốt để chứng tỏ sự tử tế của mình nhưng tôi để ý thấy lúc xoa lưng cho chị khi chị đang cố nuốt một mẩu bánh, mặt của anh nhợt nhạt khủng khiếp và một tay anh phải bụm miệng lại. Họ ôm lấy nhau rũ rượi như một đôi chim bị thương rồi dìu nhau về phòng ngủ đến tận sáng hôm sau mới thấy mặt.

Tôi thương hại cho anh rể vì anh chẳng có lý do gì để cảm thấy ốm đau như vậy và tức giận bởi những tiếng thở dài, rên rẩm thì thầm của anh. Tự nhiên tôi nghĩ mình sẽ yêu người đàn ông nào có thể chén ngon lành cả một bữa tối kiểu Pháp đủ ba món ngay cả khi anh ta biết rõ tôi đang nằm liệt giường vì ốm nghén.

6 tháng 2 (Thứ Sáu), 11 tuần + 4 ngày: Bây giờ tôi ăn một mình. Tôi cứ vừa nhẩn nha ăn vừa ngắm những luống hoa hay một chiếc xẻng bị bỏ quên trong vườn hay những cụm mây nhởn nhơ bay qua. Tôi thích những khoảnh khắc yên tĩnh như thế, thậm chí thỉnh thoảng, tôi còn uống bia hay hút thuốc trong bữa trưa, điều mà chị tôi vốn rất ghét. Tôi không cô đơn. Ăn một mình có lẽ hợp với tôi. Nhưng sáng nay, khi tôi đang rán thịt muối và trứng thì chị tôi hớt hải chạy xuống cầu thang.

“Mùi gì kinh khủng vậy?” Chị vừa giật tóc mình vừa gào lên. “Chẳng nhẽ em không thể không làm một việc gì đó được sao?” Dường như chị sắp bật khóc. Bàn chân trần lộ ra dưới chiếc quần pijama của chị trông thật lạnh giá và trong suốt tựa thủy tinh. Chị tắt bếp mà cứ như thể muốn giật phăng cái núm điều chỉnh ra khỏi bếp lò.

“Chỉ là thịt muối và trứng thôi mà chị,” tôi nói nhỏ.

“Thế thì tại sao cả nhà này lại lợm cái mùi ghê tởm ấy? Nào bơ, nào mỡ, rồi lại trứng, lại thịt lợn – trời ơi, tôi ngộp thở mất!” Chị gục đầu xuống bàn nức nở. Tôi không biết phải làm gì, đành bật quạt thông gió lên và mở cửa sổ ra.

Lần này chị khóc rất thê thiết. Nhìn chị khóc, có cảm giác như đang xem một cảnh trong một vở kịch vậy. Tóc chị xoà xuống mặt, hai bờ vai cứ run lên. Tôi vỗ vỗ lưng chị để an ủi.

“Em phải làm cái gì đó đi!” Chị nói trong tiếng nghẹn ngào. “Khi tỉnh dậy, cả cơ thể chị như bị ám nhiễm bởi cái mùi khắm lặm đó. Nó ở trong miệng chị, trong phổi chị. Dường như nó xâm chiếm toàn bộ cơ thể bên trong chị.”

“Em xin lỗi,” tôi lí nhí. “Em sẽ cẩn thận hơn.”

“Mà không chỉ thịt muối và trứng thôi đâu. Cả chảo rán, bát đĩa, rồi xà bông trong phòng tắm, màn cửa trong buồng ngủ – tất cả đều dậy mùi. Nó lan khắp cái nhà này như một con a míp khổng lồ ngấu nghiến hết tất cả các mùi khác, cứ thế, cứ thế mãi.” Chị ngồi đó sùi sụt, khuôn mặt đẫm nước tì trên bàn còn tôi thì vẫn chỉ biết đứng đấy, đặt tay lên lưng chị, quan sát những ô kẻ ca rô trên bộ pijama của chị. Tiếng mô tơ của quạt thông gió nghe to hơn bình thường.

“Em biết, em biết rồi,” tôi thì thầm. Tôi hít một hơi thở sâu, nhưng chẳng ngửi thấy gì cả. Vẫn là phòng bếp buổi sáng đấy thôi. Những chiếc tách cà phê được xếp ngăn nắp trong tủ ly. Những chiếc khăn lau bát trắng phơi trên giá. Một mảng trời xanh lạnh lẽo hiện qua cửa sổ.

Tôi không biết chị đã khóc trong bao lâu. Có thể chỉ mấy phút thôi nhưng dường như có cảm giác chị đã khóc lâu hơn thế. Nhưng dù thế nào đi nữa thì chị cũng đã khóc cho đến khi không thể khóc được nữa. Rồi chị hắt một hơi thở dài, chậm rãi và ngước nhìn tôi. Hai má và mi mắt chị đầm đìa nhưng nét mặt chị lại bình thản.

“Từ giờ, em sẽ không sử dụng phòng bếp khi chị ở đây,” tôi nói. Chị gật đầu. Thịt muối và trứng của tôi đã trở nên lạnh tanh, nằm yên trong chảo rán.

10 tháng 2 (Thứ Ba), 12 tuần +1 ngày: Đã mười hai tuần rồi nhưng tình trạng ốm nghén của chị vẫn tồi tệ như trước. Nó dính chặt lấy chị như một chiếc áo cánh ướt nhẹp. Đó có thể là lý do khiến hôm nay, chị đến chỗ bác sĩ Nikaido. Thần kinh, hoóc môn, cảm xúc của chị – dường như tất cả đều có vấn đề không ổn. Như mọi lần trước khi đến chỗ bác sĩ, chị lại bỏ hàng giờ để nghĩ xem nên mặc gì. Chị trải hết áo choàng, váy ngắn, áo len, khăn quàng lên trên giường và ngắm nhìn chúng kỹ lưỡng. Chị cũng mất một hồi lâu để trang điểm. Tôi cứ lo tất cả sự cầu kỳ thái quá này của chị sẽ làm cho anh rể nổi ghen mất. Ốm nghén làm cho hông chị thắt lại, gò má hơi hóp đi, răng như đều hơn; trông chị còn xinh hơn trước. Người ngoài khó mà đoán được là chị đang mang bầu.

Tôi đã từng gặp bác sĩ Nikaido một lần, khi ông ta đưa chị tôi về nhà vào một hôm trời bão. Đó là một người đàn ông trung niên, khuôn mặt không có điểm gì đặc biệt và ông ta chẳng để lại trong tôi một ấn tượng nào cả. Thật sự tôi tuyệt nhiên không thể nhớ nổi một đặc điểm nào ở ông, chẳng hạn như dái tai dày hay những ngón tay cứng cáp. Ông ta đứng yên lặng sau lưng chị tôi, mắt cúi xuống. Có thể là lúc ấy vai và tóc ông đều sũng nước mưa nên trông ông rất buồn.

Tôi không biết phương pháp điều trị của ông là gì; chị tôi có nói đến những bài kiểm tra tâm lý và loại thuốc thang nào đó. Từ hồi học trung học, gặp chuyện  gì, chị cũng tìm đến ông, tính đến giờ đã hơn mười năm, không gián đoạn nhưng tôi không hiểu liệu chị có thật sự khá hơn. Những vấn đề về cảm xúc ở chị có lẽ chưa bao giờ yên ổn cả, chúng như cụm rong biển lênh đênh khắp đại dương, chưa bao giờ thấy một bến bờ nào an toàn để dạt vào. Tuy nhiên, chị bảo rằng khi ở văn phòng bác sĩ, chị thấy tốt hơn nhiều.

“Giống như khi người ta gội đầu cho mình ở tiệm vậy,” chị nói. “Có cảm giác mình được ai đó chăm sóc – thật tuyệt vời.” Chị khoan khoái lim dim mắt, mơ màng nghĩ đến ông bác sĩ.

Nhưng tôi thì thấy thật khó có thể tin bác sĩ Nikaido là một bác sĩ tâm lý giỏi. Dáng ông đứng lặng bên cửa trong cái đêm trời nổi bão đó khiến ông trông giống một bệnh nhân sợ hãi hơn là một bác sĩ.

Mặt trời đã lặn và mặt trăng dát vàng đã nhô lên trên nền trời tối nhưng chị tôi vẫn chưa về nhà. “Đáng ra cô ấy không nên ra ngoài khi trời lạnh như thế này,” anh rể than thở. Khi một chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, anh vội chạy ra đón chị. Mắt chị long lanh khi cởi khăn quàng ra và chị có vẻ như đã bình tĩnh hơn nhiều so với buổi sáng. Song cho dù đến bác sĩ Nikaido thường xuyên, tình trạng ốm nghén của chị vẫn tệ như trước.

1 tháng 3 (Chủ Nhật), 14 tuần + 6 ngày: Bỗng tôi nhận ra mình đã chẳng nghĩ gì đến đứa bé cả. Tôi nghĩ đáng lẽ mình phải tò mò xem nó là con trai hay con gái, anh chị tôi sẽ đặt tên cho nó là gì, nên mua loại quần áo trẻ nào. Tôi hình dung người ta thường thích nghĩ đến những chuyện như vậy. Thế nhưng chị tôi và anh rể không bao giờ nói về đứa bé trước mặt tôi. Họ xử sự như thể chẳng có mối liên hệ nào giữa cái bầu với một hài nhi, trên thực tế, đang nằm trong bụng chị. Điều đó có lẽ lý giải vì sao đứa bé ấy không tồn tại một cách cụ thể đối với tôi.

Lúc này, tôi dùng từ “nhiễm sắc thể” để nhắc mình nhớ có một đứa trẻ thật sự đang nằm ở đó. Từ “nhiễm sắc thể” giúp cho tôi có một ý niệm nào đó về hình thức của nó. Tôi đã một lần nhìn thấy hình ảnh về các nhiễm sắc thể trong một tạp chí khoa học. Chúng trông giống như những đôi kén bướm đang xếp hàng. Thân chúng thuôn thuôn, kích cỡ và hình dạng chỉ vừa đủ để có thể lấy ngón tay bấu. Những cặp nhiễm sắc thể này đều khác nhau: có cặp cong cong ở đầu như chiếc ba toong, lại có cặp thẳng đuột và song song, còn có cặp thì quấn vào nhau như một cặp song sinh dính liền thân. Tôi gạt đi trong đầu mình hình ảnh những cặp kén song sinh khi nghĩ đến đứa con của chị.

14 tháng 3 (Thứ Bảy), 16 tuần + 5 ngày: Trông chị không giống người có bầu một chút nào, mặc dù chị đã sang tháng thứ năm. Từ hàng tuần nay, chị chẳng dùng gì ngoài bánh sừng bò cùng nước khoáng và chị đã sụt cân khá nhiều. Ngoài những lần đến bác sĩ Nikaido, cả ngày chị chỉ nằm trên giường như thể đang ốm nặng lắm.

Điều duy nhất mà tôi có thể làm cho chị là tránh tạo ra bất cứ một mùi gì vì thế tôi đã thay tất cả xà bông đang có trong nhà bằng một loại không có hương. Tôi trút tất cả ớt bột, húng tây, xô thơm trên giá để gia vị vào trong một cái hộp thiếc. Tôi mang tất cả đồ trang điểm từ phòng chị sang phòng mình. Và khi chị bắt đầu phàn nàn về mùi của kem đánh răng thì anh rể đi mua về một cái vòi sục răng. Tất nhiên, tôi cố gắng không nấu nướng gì khi chị ở gần. Nhưng nếu cần thiết phải làm một cái gì đó thì tôi mang nồi cơm, lò vi sóng hay máy nghiền cà phê ra ngoài vườn và trải một tấm chiếu xuống đất.

Thật thanh thản khi ăn ngoài trời một mình như thế này, vừa ăn tôi vừa ngước nhìn trời. Thời gian này những buổi tối đã trở nên ấm hơn vì mùa xuân sắp về, không khí cũng đã dịu lại. Tay và chân tôi do tì vào chiếu nên tê đau một chút nhưng mọi thứ khác đều thú vị; bụi bách nhật hồng, hàng gạch viền quanh những luống hoa, những vì sao nhấp nhánh – tất cả đều sắc nét, trong sáng. Ngoại trừ tiếng chó sủa phía xa xa, buổi tối hoàn toàn thanh tĩnh.

Tôi cắm nồi cơm vào một ổ điện nối thêm được kéo ra từ bếp, chẳng mấy chốc, hơi nước đã bốc lên qua lỗ thông hơi và tan vào bóng tối. Một gói nhỏ thịt hầm ăn liền đang chín dần trong lò vi sóng. Thi thoảng, một làn gió nhẹ lướt qua, lay động cây lá, cuốn theo hơi nước bay đi.

Ở ngoài vườn, tôi ăn chậm hơn. Chén, bát bày trên chiếu được tôi xếp ở những góc hơi khác nhau. Tôi rưới nước hầm, cẩn thận để không bị sánh ra ngoài, tự dưng thấy mình như đang chơi đồ hàng vậy. Một ánh sáng mờ mờ được thắp lên bên cửa sổ của phòng chị trên tầng hai. Tôi nghĩ giờ này chắc chị đang cuộn mình trên giường trong sự phủ vây của tất cả những thứ mùi này. Và rồi, tôi há to miệng như muốn cắn cả bóng tối cùng với miếng thịt hầm.

31 tháng 3 (Thứ Ba), 19 tuần + 1 ngày: Hôm nay, tôi dậy sớm vì siêu thị nơi tôi phải đến theo phân công của chỗ làm thêm cách nhà khá xa. Trời đầy sương đến nỗi khi đến nhà ga thì cả hai mí mắt tôi đều lạnh và ướt nhèm.

Công việc này phù hợp với tôi vì mỗi lần nhận nhiệm vụ, tôi lại được sếp điều đến một siêu thị ở một khu vực không mấy quen thuộc trong thành phố và chưa bao giờ tôi phải đến một siêu thị nào tới hai lần. Siêu thị thường được xây trên một khoanh đất nhỏ nằm trước một nhà ga, có vạch sang đường dành cho người đi bộ, có chỗ để xe đạp và một bến xe buýt gần đó. Nhìn người người đi vào cửa hàng, tôi có cảm tưởng như mình đang trong một chuyến tham quan nào vậy.

Ở lối vào dành cho người làm trong siêu thị, tôi chìa thẻ nhân viên của nơi làm thêm ra và viên bảo vệ gật đầu khó chịu..Siêu thị này trông cũng chán khi nhìn ở phía sau với những chiếc hộp, những mảnh vải nhựa ẩm ướt và mấy cọng rau vương vãi trên sàn nhà.  Đèn huỳnh quang thì sáng lờ mờ. Tôi lang thang trong quầy hàng với chiếc túi đựng đầy đồ nghề, tìm một vị trí tốt nhất để thực hiện công việc của mình. Ngày hôm nay, tôi  chọn vị trí ở giữa quầy bán thịt và gian hàng đông lạnh.

Đầu tiên, tôi chất mấy cái thùng bỏ không lấy từ nhà kho lên để dựng một cái bệ. Sau đó, tôi trải lên nó một tấm khăn trải bàn in hoa và bày ra một cái đĩa. Tôi đặt bánh quy lên đĩa rồi lấy một cái máy đánh kem bằng điện từ trong túi ra và bắt đầu đánh kem.

Cửa hàng vừa mới tân trang nên sàn nhà sạch bóng, mọi thứ dường như đều lấp loá. Tôi chấm chỗ kem vừa đánh lên từng chiếc bánh quy và mời khách hàng khi họ đi ngang qua. Tôi cứ phải luôn miệng nói đi nói lại mấy câu chào hàng chính xác y như những gì được in trong sách hướng dẫn của nơi làm thêm: “Xin mời quý khách nếm thử. Hàng mới ra hôm nay. Còn gì xứng hơn với chiếc bánh yêu thích mà quý khách tự làm ở nhà?” Hiếm khi tôi nói thêm một cái gì khác.

Đủ loại người đi qua chỗ tôi đang đứng – một quý bà đi xăng đan, một chàng thanh niên mặc đồ thể thao, một phụ nữ Philipin với mái tóc quăn. Một vài người lấy một chiếc bánh quy tôi bày trên đĩa và ăn. Có người đi qua nhìn với vẻ nghi ngờ. Lại có người lấy một hộp kem cho vào túi mình mà chẳng nói năng gì. Tôi đều mỉm cười với tất cả. Tiền lương của tôi không liên quan đến số lượng hộp kem mà tôi bán được, do đó, tỏ ra niềm nở với mọi người có lẽ là việc dễ dàng nhất.

Những người đi mua sắm đi qua tôi, trên tay là những chiếc giỏ mua hàng, cứ như thể tất cả đang bập bềnh theo một dòng suối hàng hoá. Bỗng nhiên tôi nhận ra gần như mọi thứ ở đây đều có thể ăn được và điều ấy có vẻ thật hiểm độc. Có một nỗi bất an nào đó khi thấy bao nhiêu con người tụ lại một nơi để tìm kiếm thực phẩm. Và rồi tôi nhớ đến chị mình, nhớ đến ánh mắt buồn bã của chị khi nhìn chằm chằm vào một mẩu bánh ngọt nhỏ xíu, nhớ đến hình ảnh chị muốn bật khóc khi cố nuốt và những vụn bánh trắng vung vãi lung tung trên bàn.

16 tháng 4 (Thứ Năm), 21 tuần + 3 ngày: Hôm nay, lần đầu tiên, chị tôi mặc váy bầu. Bụng của chị trông có vẻ lớn hơn nhưng khi chạm vào đó, tôi lại thấy nó chẳng đổi thay gì hết. Tôi thấy khó có thể tin có một sự sống ở dưới tay mình. Chắc chị phải mất một thời gian khó khăn để quen với chiếc váy. Chị cứ ngồi nghịch vơ vẩn mãi với sợi dây thắt lưng.

Nhưng những cơn ốm nghén của chị đã biến mất, cũng đột ngột như khi nó phát bệnh. Từ lúc những cơn buồn nôn của chị bắt đầu xuất hiện, chị đã hoàn toàn tránh xa phòng bếp, vì thế tôi rất bối rối khi thấy chị lại đứng dựa vào bàn làm bếp sau khi tiễn anh rể đi làm sáng nay.

Bởi chúng tôi không nấu nướng gì nên phòng bếp sạch bong. Tất cả đồ làm bếp đã được cất đi, bàn làm bếp sạch sẽ, khô ráo, máy rửa bát để không. Căn phòng lạnh và trang nghiêm như một phòng trưng bày. Chị nhìn quanh một lát rồi ngồi xuống bên bàn ăn. Bình thường thế nào trên bàn cũng ngổn ngang chai lọ mà chúng tôi đã quên cất đi nhưng hôm nay thì chẳng có cái gì ở đó cả. Chị ngước nhìn tôi như muốn nói điều gì. Đường diềm của chiếc váy luấn quấn gót chân chị.

“Chị có muốn một cái bánh sừng bò không?” Tôi hỏi một cách hết sức thận trọng.

“Làm ơn đừng thốt ra cái từ đáng sợ ấy,” chị nói. Tôi gật đầu ngoan ngoãn. “Những chị muốn một cái gì đó khác,” chị nói tiếp, gần như là thì thào.

“Được thôi,” tôi nói rồi vội chạy đến tủ lạnh, chợt nhận ra lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày trời, chị tôi mới tỏ ra có chút hứng thú về chuyện ăn uống. Nhưng hoàn toàn không có gì trong tủ, chỉ có một ánh sáng trơ trọi soi rọi sự trống rỗng mà thôi. Tôi đóng cửa tủ lại, thở dài rồi đến chạn tìm, nhưng ở đó cũng không có gì nốt.

“Em không có cái gì sao?” Chị nói với giọng lo lắng.

“Để em xem nào,” tôi vừa nói vừa lục lọi hết các túi, các hộp, các bình. “Có một chút bột làm thạch, nửa gói bột mì, mấy cái nấm khô, phẩm đỏ, men bia, va ni còn thừa…” Tôi nhìn thấy hai cái bánh sừng bò còn sót nhưng nhanh chóng để chúng lại.

“Nhưng chị muốn ăn một cái gì đấy,” chị nói như thể đưa ra một quyết định tức thì.

“Từ từ đã. Chắc phải có thứ gì quanh đây chứ!” Tôi lục lại chạn một lần nữa, từng ngăn một. Ở tận dưới đáy, tôi tìm thấy một ít gạo mà một lần chúng tôi đã mua về để làm bánh.  Nhìn vào đát trên hộp thì thấy chỗ gạo này đã để được hơn hai năm rồi và giờ chúng đã khô khốc như nhãn cầu của xác ướp vậy. “Cái này thì thế nào?” Tôi đẩy cái túi về phía chị hỏi. Chị gật đầu.

Nhìn chị ăn một thứ cứng ngắc như vậy mà nét mặt vẫn ngời lên thỏa mãn thấy thật lạ lùng. Răng hàm của chị đảo liên tục, chị vốc hết nắm này đến nắm khác từ túi ra. Dường như toàn bộ tâm trí và cơ thể chị dồn hết vào mỗi việc ăn. Khi ăn đến những hạt gạo cuối cùng, chị nhìn chúng nằm trong lòng tay giây lát, ngắm nghía nó một cách trìu mến trước khi chầm chậm đưa nó vào miệng. Đến lúc ấy, tôi hiểu rằng chị đã qua kỳ ốm nghén.

1 tháng 5 (Thứ Sáu), 23 tuần + 4 ngày: Mười ngày qua, chị tôi đã lấy lại gần năm ký mà chị đã mất trong suốt 14 tuần ốm nghén. Giờ thì lúc nào chị cũng có một cái gì ăn được trong tay khi không ngủ. Nếu không ngồi ở bàn ăn thì hẳn lúc ấy, chị đang cầm một túi bánh ngọt trên tay hay đang đi tìm một cái mở đồ hộp hay mò mẫm ngăn tủ lạnh. Cứ như thể toàn bộ sự sống của chị giờ đây chỉ còn là việc ăn mà thôi. Lúc nào chị cũng ăn, ăn như phản xạ, ăn như thở. Mắt chị trong veo và vô cảm, đôi mắt như bị dán chặt vào một nơi xa xăm nào đó. Cơ miệng của chị cử động rất khỏe như bắp đùi của vận động viên đang chạy nước rút vậy. Nhưng với tôi thì hầu như không có gì thay đổi. Cũng như khi chị ốm, tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ngồi yên và quan sát.

28 tháng 3 (Thứ Năm), 27 tuần + 3 ngày: Chị càng ăn nhiều thì bụng chị lại càng lớn. Nó phồng căng lên ngay từ dưới ngực đến tận phần bụng dưới. Khi để tôi chạm vào nó, tôi giật mình vì thấy nó cứng đến vậy. Và nó không hoàn toàn cân đối; nó hơi lệch về một bên. Cả điều này nữa cũng đáng ngạc nhiên.

“Giờ đang là thời điểm mà các mí mắt bắt đầu tách ra,” chị bảo tôi. “Nếu bào thai này là con trai thì cơ quan sinh dục ngoài của nó đang bắt đầu hạ xuống từ khoang bụng.” Giọng của chị khi miêu tả đứa bé thật lạnh. Và có cái gì đó không ổn trong những từ mà chị dùng – “bào thai”, “cơ quan sinh dục ngoài”, “khoang bụng” – nó có cái gì đó không thích hợp lắm với một bà mẹ đang đợi đến kỳ sinh nở. Nhìn bụng chị, tôi băn khoăn không biết liệu những nhiễm sắc thể trong đó có bình thường hay không, liệu chúng có ngọ nguậy ở đâu đó bên trong chị không.

Có một sự cố nhỏ xảy ra tại siêu thị nơi tôi làm việc hôm nay. Một cậu nhân viên nhà kho trượt chân bởi một cọng rau diếp và làm đổ cả một xe đầy trứng. Việc xảy ra ngay chỗ tôi đang đứng chào hàng nên tôi thấy rất rõ. Vỏ trứng vỡ và lòng trứng vàng nhớp nháp dây ra khắp sàn nhà. Dấu giày vải của cậu nhân viên còn hằn in trên lá rau diếp. Mấy hộp trứng đổ xuống chỗ bày hoa quả, làm cho những trái táo, trái dưa và chuối lấm lem lòng trứng trắng.

Sau sự cố ấy, người quản lý siêu thị cho tôi một túi bưởi lớn mà ông bảo không thể bán đươc nữa. Tôi hớn hở mang những trái bưởi ấy về nhà vì mấy ngày này, nhà tôi dường như lúc nào cũng không đủ thức ăn. Khi trút túi bưởi ra bàn, tôi ngửi thấy chúng hơi có mùi trứng. Đó là những trái bưởi vàng to được nhập từ Mỹ và tôi quyết định chế biến nó thành mứt.

Bổ những quả bưởi này, lấy phần ruột của nó ra là cả một việc nặng nhọc. Chị và anh rể tôi đã đi ra ngoài ăn đồ Trung Hoa. Đêm xuống, căn nhà hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có tiếng dao thỉnh thoảng chạm vào nồi, tiếng một trái bưởi lăn trên bàn hay tiếng ho khẽ của tôi. Ngón tay của tôi dấp dính nước từ trái bưởi. Ánh sáng trong phòng bếp soi rõ cả hàng hạt trong múi bưởi. Những trái bưởi thậm chí trông còn bóng sáng hơn khi lớp đường tôi rắc lên chúng tan đi. Tôi lần lượt cho những tép bưởi xinh xinh hình trăng lưỡi liềm vào trong nồi.

Lớp vỏ dày nằm lăn lóc trên bàn không hiểu sao có cái gì đó rất hài hước. Tôi bỏ lớp cùi đi, xắt vỏ thành những miếng nhỏ trước khi cho vào nồi. Nước bưởi vàng phọt ra khắp nơi, bắn lên lưỡi dao, lên bàn thái thức ăn và vào tay tôi. Cả vỏ bưởi cũng có những đường vân gọn gàng, đều đặn như màng da của con người khi được quan sát dưới kính hiển vi.

Cuối cùng, tôi bật bếp lò lên và ngồi xuống nghỉ ngơi. Tiếng của nồi mứt bưởi sắp chín như bị cuốn đi, chìm vào đêm. Hơi nước chua từ nồi dâng lên. Nhìn trái bưởi đang tan dần, bỗng dưng tôi lại nhớ đến một cuộc hội thảo mà mấy đứa bạn kéo tôi đến dự vài tháng trước. Tên của chương trình hội thảo là: “Nạn ô nhiễm: Trái Đất của chúng ta; Cơ thể của chúng ta.” Không có nhiều người đến dự nhưng những người có mặt ở đây có vẻ là một nhóm bạn thân. Là người bên ngoài, tôi chọn một cái bàn ở góc phòng ngồi xuống và nhìn những hàng dương trong khuôn viên trường qua cửa sổ.

Một phụ nữ gầy gò đeo một cặp kính kiểu cũ thuyết trình về mưa axit rồi sau đó, một vài câu hỏi hóc búa được nêu lên. Tôi vờ như đang tập trung nghe nhưng tay thì sốt ruột lật qua lật lại cuốn sách nhỏ mà người ta đưa cho mình ở lối vào phòng họp. Ở trang đầu tiên có hình một trái bưởi Mỹ với một lời ghi chú được in đậm: “Hãy cảnh giác với trái cây nhập khẩu. Chất chống nấm P.W.H có chứa chất gây ung thư hàm lượng cao và đã cho thấy có thể hủy hoại nhiễm sắc thể của người!” Dòng chữ ấy lúc này lại hiện lên trong đầu tôi khi đang ngồi trong phòng bếp này.

Múi và vỏ bưởi đã tan thành một chất lỏng hiền hòa điểm xuyết những sợi thạch. Tôi vừa tắt bếp lò thì chị tôi và anh rể về đến nhà. Chị đi thẳng vào bếp.

“Mùi gì lạ thế?” chị hỏi rồi ngó vào trong nồi. “ Chà! Mứt bưởi – tuyệt vời quá!” Chị không nói gì tiếp nữa trước khi tìm thấy một chiếc thìa và xúc lên một thìa mứt còn nóng. Vẫn giữ chặt ví trong tay, chị tôi, trong bộ váy bầu mới và đôi khuyên đẹp nhất, cứ thế đứng đưa thìa vào mồm. Anh rể đứng ở cửa nhìn chị.

Chị ăn hết thìa này đến thìa khác. Cái bụng căng vổng lên khiến chị trông có vẻ ngạo nghễ khi đứng bên bếp lò, nuốt từng giọt nước mứt nhơn nhớt xuống cổ họng. Khi nhìn chỗ nước mứt cuối cùng trong còn lại hơi sóng sánh ở đáy nồi, tôi không hiểu liệu cái chất P.W.H ấy có thật sự hủy hoại các nhiễm sắc thể?

15 tháng 6 (Thứ Hai),30 tuần tròn: Gió mùa về. Hầu như ngày nào trời cũng mưa. Không gian sầm sì và ảm đạm khiến chúng tôi phải bật đèn suốt cả ngày. Tiếng mưa cứ rả rích hoài bên tai tôi và trời lại lạnh đến nỗi tôi bắt đầu hồ nghi không biết liệu mùa hè  rồi có đến?

Nhưng bệnh thèm ăn của chị tôi thì chẳng thay đổi gì cả và mỡ đã bắt đầu tích lại ở má, ở cổ, rồi cả ở ngón tay và gót chân của chị nữa. Lớp mỡ dày, mềm.

Và tôi vẫn tiếp tục làm mứt. Bưởi chất đống khắp phòng bếp – trong giỏ trái cây, trên tủ lạnh, gần giá gia vị. Tôi gọt bưởi, lấy phần ruột, rắc đường lên, rồi xào nhỏ lửa. Thế rồi, trước khi tôi lấy mứt đổ vào bát thì chị tôi đã ăn rồi. Chị ngồi ở bàn, ẵm cái nồi trong tay và làm việc với cái thìa. Chị chẳng buồn phết nó lên bánh mì hay cái gì khác nữa. Nhìn chiếc thìa của chị cứ đưa lên đưa xuống, nhìn miệng chị nhai, có lẽ sẽ có người nghĩ hẳn là chị đang ăn món gì đó ngon lành, bổ dưỡng lắm, như cà ri hay cơm chẳng hạn. Thật là một cách ăn mứt kỳ quặc.

Mùi chua của trái bưởi hoà với mùi mưa. Chị dường như chẳng để ý gì tôi nhưng tôi thì vẫn cứ ngồi quan sát chị ăn. “Chị không sợ tức bụng sao nếu ăn nhiều như thế?” Tôi hỏi nhỏ. “Chị vẫn ăn chưa đủ à?” Vẫn không có câu trả lời. Có lẽ giọng nói của tôi đã bị nhấn chìm bởi tiếng mứt đang tan trong miệng chị hay tiếng gõ nhịp của mưa. Khi liếm hết thìa mứt cuối cùng, chị liếc nhìn tôi với một ánh mắt dịu dàng, mơ màng.

“Còn nữa không em?” Chị hỏi.

“Ngày mai em sẽ làm thêm,” tôi đáp với một giọng đều đều, vô âm sắc. Rồi sau đó, khi đã dùng hết số bưởi có trong nhà, tôi lại đến siêu thị nơi mình đang làm việc mua về một túi mới. Lần nào tôi cũng hỏi người bán hàng ở gian hoa quả xem đây có phải là bưởi nhập từ Mỹ không để cho chắc.

2 tháng 7 (Thứ Năm), 32 tuần + 3 ngày: Đã gần chín tháng rồi. Hôm nay, chị tôi có vẻ hơi buồn khi từ bệnh viện M về. Có lẽ người ta đã cảnh báo chị về việc để lên cân quá nhiều.

“Chị không hiểu tại sao ống sinh lại có thể tích mỡ được nhỉ,” chị nói. “Người ta bảo rằng phụ nữ lên cân quá nhiều sẽ sinh khó.” Chị tỏ ra bực bội, lấy ra cuốn sổ mà chị dùng để theo dõi thai. Tôi có thể nhìn thấy một dòng chữ ai đó đã viết bằng mực đỏ trên một trang giấy: “Giới hạn trọng lượng của cơ thể.” “Người ta bảo chị chỉ nên tăng khoảng 10 ký tính đến tháng cuối cùng khi mang bầu. Không nghi ngờ gì nữa, chị có chuyện rắc rối rồi.” Chị luồn tay vào tóc và thở dài. Chị đã lên gần hai mươi ký.

“Em không nghĩ là chị không thể làm được gì”, tôi liếc nhìn những ngón tay múp míp của chị khẽ nói khi đang đi vào bếp làm thêm mứt. Giờ thì đối với tôi, làm mứt bưởi, (gạt đi những ý nghĩ thật sự của tôi về việc này), đã trở thành một cái gì đó gần như là thói quen. Tôi làm mứt và chị ăn mứt, dễ dàng và tự nhiên như việc chải đầu khi thức dậy vào buổi sáng. “Chị thật sự có sợ bị sinh khó không?” Tôi hỏi nhưng không ngước lên khỏi bàn làm thức ăn.

“Dĩ nhiên,” giọng của chị nghe mỏng manh và yếu ớt. “Mấy ngày qua chị đã nghĩ rất nhiều về sự đau đớn – chị đã cố hình dung ra sự đau đớn khủng khiếp nhất mà mình đã từng cảm nhận được, không biết đau đẻ giống đau ung thư giai đoạn cuối hơn hay là giống như khi người ta bị cắt bỏ cả hai chân? Đại loại những thứ như thế đấy. Nhưng thật vô cùng khó để cụ thể hóa được nỗi đau ấy và chẳng vui vẻ gì khi cố hình dung điều đó.”

“Em có thể hiểu,” tôi vừa nói vừa gọt bưởi. Chị nắm chặt cuốn sổ trong tay. Hình đứa bé trên trang bìa trông méo mó; dường như nó đang khóc.

“Nhưng điều đáng sợ hơn là nghĩ đến việc phải đón đứa bé này,” chị nói. Chị đưa mắt nhìn xuống bụng. “Chị không thể tin nổi cái vật nằm trong này thật sự là con của mình. Điều đó dường như vẫn còn mơ hồ và trừu tượng. Nhưng chị không biết làm thế nào để thoát được điều đó. Buổi sáng, khi chị mới thức dậy, luôn có một khoảnh khắc mà chị tin chắc rằng tất cả chỉ là giấc mơ – những cơn ốm nghén, bệnh viện, cái bụng này, tất cả mọi thứ. Khoảnh khắc ấy cho chị một cảm giác tự do kỳ diệu. Nhưng rồi khi nhìn lại mình, chị biết rằng nó là hiện thực. Chị buồn lắm, và chị nhận ra điều làm chị sợ hãi nhất chính là viễn cảnh khi phải đón đứa con của mình.”

Tôi nghe chị nói mà không quay lại nhìn chị. Vặn nhỏ lửa xuống, tôi dùng một cái muỗng khuấy nồi mứt. “Chẳng việc gì mà chị phải sợ như thế. Một đứa bé thì chỉ là một đứa bé mà thôi. Cơ thể của nó mềm mại, nó thích được vuốt ve, những ngón tay nhỏ xíu của nó thì nắm nắm lại và nó khóc nhiều. Vậy thôi.” Tôi nhìn chằm chằm vào chỗ mứt đang quấn quanh chiếc thìa.

“Nhưng không đơn giản như thế. Một khi nó được sinh ra, nó sẽ là của chị, dù chị có muốn hay không. Và chị chẳng thể làm gì được nó cả, kể cả khi nó có vết chàm nửa mặt, hay ngón tay dính vào nhau, hay nó không có não, hay nó là một cặp song sinh liền thân…” Chị tiếp tục liệt kê những khả năng đáng sợ khác thêm một lúc. Chiếc thìa tạo ra một âm thanh đều đều khi tôi vét đáy nồi lúc mứt bắt đầu đông lại.

Tôi chăm chú nhìn vào trong nồi, không biết có bao nhiêu chất P.W.H chứa trong đó. Dưới ánh đèn huỳnh quang, nồi mứt này làm tôi liên tưởng đến một hoá chất, một thứ gì đó chứa trong một chiếc chai trong suốt, hoàn toàn lý tưởng để làm phân rã các nhiễm sắc thể.

“Xong rồi,” tôi nói. Nắm lấy quai nồi, tôi đưa ra trước mặt chị. “Đây, chị ăn thêm đi.” Tôi chìa nồi mứt ra và chị nhìn vào nó một lát. Rồi không nói thêm lời nào nữa, chị bắt đầu ăn.

22 tháng 7 (Thứ Tư), 35 tuần + 2 ngày: Tôi đã cố nghĩ về đứa bé như một điều gì đó có ý nghĩa tích cực đối với chị tôi, anh rể và cả tôi nữa. Nhưng tôi chưa bao giờ làm được.Tôi không thể nào hình dung nổi về ánh mắt của anh rể khi anh bồng đứa trẻ trên tay hay bầu vú trắng nhởn của chị khi chị cho đứa bé bú. Tất cả những gì hiện hình trong tôi chỉ là bức ảnh những nhiễm sắc thể mà một lần tôi đã nhìn thấy trong một tạp chí khoa học.

11 tháng 8 (Thứ Ba), 38 tuần + 1 ngày: Đi làm về, tôi bắt gặp mẩu giấy nhắn anh rể tôi để lại trên bàn: “Chị đã đau đẻ. Anh chị phải đến bệnh viện đây!” Tôi cứ đọc đi đọc lại mấy chữ ấy. Khi liếc chéo ra xung quanh, tôi thấy một cái thìa còn dính mứt nằm trên bàn. Tôi vứt nó vào bồn rửa rồi nghĩ xem nên làm gì. Tôi đọc mẩu giấy nhắn của anh thêm lần nữa rồi rời nhà.

Mọi vật đều chan hoà trong ánh sáng. Những tấm kính chắn gió trên những chiếc xe hơi dường như rực sáng và những tia nuớc từ vòi phun trong công viên trở nên lóng lánh. Tôi rảo bước, vừa đi vừa chăm chú nhìn xuống đường và lau mồ hôi. Hai đứa bé đội mũ rơm chạy ngang qua. Cổng ngôi trường tiểu học đã đóng và sân chơi vắng hoe. Đi tiếp đoạn nữa, có một quầy bán hoa nhỏ nhưng tôi không thấy có người bán hàng hay người mua. Một chùm hoa baby nhỏ được cắm trong một chiếc bình thủy tinh.

Tôi rẽ ở góc phố và cuối cùng đến trước cửa bệnh viện. Đúng như chị tôi đã nói, ở đây, thời gian dường như dừng lại. Bệnh viện vẫn y như những gì còn bảo lưu trong ký ức tôi sau bao năm tháng –  vẫn cây long não to bên cạnh cổng vào, lớp kính mờ sương ở cửa trước, những chữ đã bị bong trên bảng hiệu. Và ở đây cũng không có một ai trong tầm mắt của tôi, ngoài cái bóng của tôi hằn rõ trên đường.

Tôi men theo bức tường vòng ra phía sau khu nhà bệnh viện, lách qua cánh cổng cũ đã hỏng để vào vườn. Tim tôi bắt đầu đập mạnh khi đặt chân lên bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận vẫn như ngày nào. Tôi ngước lên nhìn bệnh viện, lấy tay che cho mắt khỏi chói bởi ánh mặt trời phản chiếu trên cửa sổ.

Khi tôi đến gần toà nhà thì mùi sơn bay ra về phía tôi. Không khĩ tĩnh lặng, không có dấu hiệu nào của sự sống ở quanh tôi. Tôi là vật thể duy nhất đang chuyển động trong vườn. Bây giờ tôi đã đủ cao để có thể nhìn vào phòng khám mà không cần phải đứng trên một cái thùng nhưng không thấy bác sĩ hay y tá nào ở trong cả. Phòng khám tối và vắng lặng, như một phòng thí nghiệm khoa học ở trường sau khi giờ học kết thúc. Tôi đứng nhìn những chai thuốc, cái máy đo huyết áp, tấm áp phích vẽ người phụ nữ đẻ ngược, cái máy siêu âm. Kính cửa ấm lên khi tôi tì má vào.

Tôi nghe thấy có tiếng khóc trẻ con ở xa xa. Một tiếng khóc nhỏ, run run, đẫm nước mắt từ nơi đâu bên ngoài khoảng nắng vọng lại. Tiếng khóc ấy dường như trực tiếp ngấm vào màng nhĩ tôi và đầu tôi bắt đầu nhức buốt. Tôi lùi lại và ngước lên nhìn tầng ba. Tôi nhìn thấy một phụ nữ mặc áo ngủ đang nhìn chằm chằm về một nơi nào đó. Tóc chị xòa xuống má và mặt chị nhìn không rõ bởi góc tối bên trong phòng nên tôi không chắc đấy có phải là chị mình không. Môi chị hơi mấp máy và chị đang dụi mắt, giống như người ta thường dụi mắt khi sắp khóc. Tôi định đứng nhìn chị thêm nhưng góc chiếu của mặt trời thay đổi và chị nhòa đi trong ánh phản chiếu ấy.

Theo tiếng khóc của đứa bé, tôi trèo lên lối thoát hoả hoạn. Sàn gỗ dưới chân tôi rung kẽo kẹt. Cơ thể tôi lả đi và nóng lên nhưng bàn tay vịn vào rào chắn và đôi tai đang ngấm tiếng khóc đứa bé, lạ thay, lại lạnh. Khi bãi cỏ lùi xa dần dưới chân tôi, sắc xanh của nó thậm chí lại còn tươi sáng hơn.

Đứa bé tiếp tục khóc. Khi mở cửa tầng ba ra, tôi như bị mù trong giây lát khi mắt còn chưa điều chỉnh kịp để thích nghi với ánh sáng. Tôi đứng đấy, tập trung lắng nghe tiếng khóc của đứa bé cứ ré lên từng đợt cho đến lúc cuối cùng, tôi nhìn thấy một hành lang dẫn vào bóng tối. Tôi chạy về phía phòng của trẻ mới sinh để nhìn mặt đứa con bị hủy hoại của chị mình.

Chú thích

  1. mochi: một loại bánh truyền thống của Nhật Bản được làm từ bột gạo nếp.

 

Đôi nét về tác giả:

Yoko Ogawa sinh năm 1962 tại Okayama, Nhật Bản. Bà được xem là một gương mặt độc đáo của văn học Nhật Bản đương đại. Bà đã từng được nhận giải thưởng Akutagawa- giải thưởng văn học danh giá nhất của văn học Nhật Bản vào năm 1991.

Khác với nhiều nhà văn Nhật Bản cùng thời, thay vì đem vào trong tác phẩm những náo động, cuồng nộ, bạo lực của đời sống hiện đại, Yoko Ogawa lại xây dựng nên một thế giới im lặng, dường như không trọng lượng nhưng đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nỗi bất an. “Nhật ký thai kỳ” là một tác phẩm tiêu biểu cho cách tiếp cận hiện thực đời sống của nhà văn.

An Vân dịch

Chuyển ngữ từ bản Anh văn do Stephen Snyder dịch từ tiếng Nhật, “Pregnancy Diary”, đăng trên The New Yorker, ngày 26/12/2005.

Chimamanda Ngozi Adichie – Vật quấn quanh cổ mi

Truyện ngắn này tôi dịch cách đây gần 10 năm (đăng trên Yahoo 360 ngày 24-7-2007),  khoảng thời gian mà cuộc sống riêng của tôi trải qua một biến cố rất lớn. Tôi đã luôn nghĩ nhiều về khoảng thời gian ấy, về việc tại sao lúc ấy mình vẫn có thể dành thời gian để dịch những câu chuyện như thế này, dù nó không đem lại tiền bạc hay uy tín gì (mà khi ấy thật ra tôi rất cần tiền). Tôi vẫn tự cho phép mình dành một quỹ thời gian trong ngày, tìm đọc và dịch những nhà văn mà ở Việt Nam khi đó rất ít người biết đến, với một cảm giác khoái thú của một kẻ chơi một trò chơi ít người biết. Vậy thôi. Giờ, nghĩ lại, tôi thấy tôi đã mất đi nhiều sự trong sáng của mười năm ấy.

Bản dịch truyện ngắn này khi đó được đăng trên Da Màu. Cũng không mấy ai chú ý. Nhưng  Chimamanda Ngozi Adichie (sinh năm 1977), nhà văn gốc Nigeria này, thì  đã trở thành một cái tên khá nổi bật của văn chương Mỹ đương đại, khi tác phẩm của cô đã được nhận nhiều giải thưởng uy tín. Tiểu thuyết “Half a Yellow Sun” của cô cũng đã được dịch sang tiếng Việt, mà chính tôi cũng là người đề xuất một nhà sách mua bản quyền dịch cuốn sách này. Cuốn tiểu thuyết này giờ đây cũng rất khó tìm.

Hôm nay trên facebook nhắc lại một sự kiện làm tôi cảm động. Cách đây một năm, khi giới thiệu bài hùng biện của Chimamanda Ngozi Adichie trên TED, anh Lê Hồng Lâm có nhắc đến truyện ngắn mà tôi đã dịch này. Khi đó, tôi rất xúc động và giờ vẫn thế. Trò chơi văn chương với tôi giống như một thứ trò chơi một mình; tôi luôn hoài nghi mình làm điều gì đó có ý nghĩa với ai khác ngoài bản thân. Nhưng vì thế khi được một người chưa từng gặp ngoài đời nhắc đến nó, tôi đã thật sự thấy hạnh phúc. Tôi đã khóa lại blog cũ nên hôm nay giới thiệu lại truyện ngắn này ở đây. Thực sự tôi cũng mong mình có thể vứt bỏ nhiều thứ đi, những nợ nần, áp lực, để tiếp tục những trò chơi một mình. Như tôi đã chơi,trong hoàn cảnh tưởng chừng không thể chơi nổi, cách đây 10 năm.

18733444-African-women-isolated-over-white-background-Stock-Vector-african-art-africa

*

Mi nghĩ ở Mỹ ai cũng có một chiếc xe hơi và một khẩu súng ngắn, các ông cậu bà mợ của mi cũng nghĩ vậy. Sau khi mi nhận được tấm thẻ xanh, cô dì, chú bác, anh em họ của mi bảo rằng, chỉ trong một tháng, mi sẽ có được một chiếc xe hơi. Rồi chẳng mấy chốc, một ngôi nhà. Nhưng đừng có mua một khẩu súng giống như bọn Mỹ.

Họ lũ lượt kéo đến ngôi nhà lụp xụp của gia đình mi ở Lagos, họ phải đứng dựa vào những bức tường kẽm đóng đinh vì nhà không đủ ghế. Họ chào tạm biệt mi rất to nhưng lại nhỏ giọng nói với mi, rằng họ muốn mi gửi cho họ những gì. So với một chiếc xe hơi lớn và một ngôi nhà, (và có lẽ một khẩu súng nữa), những thứ họ muốn quả là nhỏ – túi xách, giày dép, nước hoa, quần áo. Mi bảo được, không vấn đề gì.

Ông cậu ở Mỹ nói mi có thể ở cùng với nhà ông ta cho đến khi nào tự lập được. Ông đón mi ở sân bay và mua cho mi một cái hot dog1 với mù tạt vàng khiến mi thấy buồn nôn. Giới thiệu với mi về nước Mỹ, ông ta cười lớn. Ông sống tại một thị trấn nhỏ của dân da trắng ở Maine, trong ngôi nhà nằm bên một cái hồ. Ông ta bảo với mi rằng cái công ti mà ông ta làm việc trả cho ông hơn ngàn đô la, thêm cả cổ phiếu vì họ muốn công ti mình trông có vẻ đa dạng văn hóa. Họ đưa hình ảnh của ông ta vào tất cả những cuốn sách quảng cáo của công ti, kể cả những cuốn chẳng dính dáng gì đến công việc kỹ sư. Ông ta cười phớ lớ, bảo rằng cái việc chỗ đó tốt, cũng đáng để sống trong một thị trần toàn bọn trắng, cho dù vợ ông ta phải mất một tiếng đồng hồ để tìm tiệm làm đầu chăm sóc cho người da đen. Bí quyết để hiểu nước Mỹ là: hãy nhớ, Mỹ là đất nước sòng phẳng. Mi phải từ bỏ nhiều nhưng thu nhận về cũng lắm.

Ông ta hướng dẫn mi làm thế nào để xin được chân thu ngân ở một tram gas ở Maine Street và ghi danh cho mi vào một trường đại học cộng đồng, nơi mà mấy đứa con gái cứ trố mắt ra nhìn tóc của mi: Tóc mày có dựng lên khi mày tháo những sợi dây tết ra không? Dựng hết cả lên hả? Như thế nào? Sao lại thế? Mày có dùng lược không?

Mi mím miệng cười khi người ta đặt những câu hỏi ấy. Ông cậu bảo mi cứ chờ đợi điều đó đi; một pha trộn giữa sự ngu ngốc và ngạo mạn, ông ta gọi điều đó như thế. Rồi ông ta kể với mi chuyện những người hàng xóm đã đồn rằng từ khi ông ta chuyển nhà đến đây, lũ sóc bắt đầu biến mất. Họ nghe đâu bọn Phi châu ăn thịt tất cả những loài thú hoang.

Mi cười với ông cậu và cảm thấy thoải mái như ở nhà mình khi ở trong nhà của ông; vợ của ông ta gọi mi là nwane, em gái, hai đứa con đang độ tuổi đi học của ông ta gọi mi là cô. Họ nói tiếng Igbo và ăn trưa với món garri2, như ở quê nhà vậy. Cho đến khi ông ta mò vào tầng hầm chật chội, nơi mi nằm ngủ với những chiếc hộp cũ và sách vở, rồi vạch ngực mi ra, như thể đang vặt những trái xoài và rên rỉ. Ông ta thực ra không phải là cậu mi, mà là một người anh em họ xa của ông chồng bà mợ mi, không có liên hệ ruột thịt.

Đêm đó, khi mi gói ghém hành lý, ông ta ngồi trên giường mi, mìm cười bảo rằng giờ mi chẳng có nơi nào để đi cả. Nếu mi chiều ông ta, ông ta sẽ làm nhiều thứ cho mi. Những phụ nữ thông minh bao giờ cũng làm thế. Mi nghĩ thế nào về những người phụ nữ trở về Lagos với những nghề nghiệp thu nhập rất khá cũng đã làm cái việc đó? Kể cả phụ nữ ở New York nữa?

Mi khóa chặt mình trong phòng tắm và sáng hôm sau, mi ra đi, bước trên con đường dài quanh co, mi ngửi thấy mùi những con cá con trong hồ. Mi nhìn thấy ông ta lái xe qua, trước đó, bao giờ ông ta cũng thả mi xuống ở Maine Street, và giờ thì ông ta chả buồn bóp còi. Mi băn khoăn không hiểu ông ta sẽ gì với vợ mình, rằng vì sao mi lại bỏ đi. Và mi nhớ ông ta đã từng nói, Mỹ là đất nước sòng phẳng.

Rồi thì mi dừng lại ở Connecticut, lại một thị trấn nhỏ nữa, bởi vì đó là điểm dừng cuối cùng của chuyến xe bus mà mi đi. Mi bước vào một nhà hàng gần đó và nói với ông chủ nhà hàng rằng mi sẵn sàng làm việc với mức lương thấp hơn hai đô la so với những người bồi bàn khác. Ông chủ tên Juan, có mái tóc đen như mực, mỉm cười để lộ một chiếc răng vàng chóe. Ông ta bảo ông chưa từng có một nhân viên nào là người Nigeria nhưng bọn dân di cư, thằng nào cũng làm việc chăm chỉ cả. Ông ta hiểu, ông ta cũng đã từng ở đó. Ông ta trả mi ít hơn một đô la so với các nhân viên khác nhưng một cách bí mật, ông ta không thích tất cả những thứ thuế má mà người ta bắt ông phải đóng.

Mi không đủ tiền để đến trường, vì bây giờ mi phải trả tiền thuê căn phòng nhỏ như lỗ mũi với tấm thảm dơ dáy. Hơn thế, cái thị trấn nhỏ ở thị trấn Connecticut không có đại học cộng đồng, mà một tín chỉ ở trường đại học của bang lại quá đắt. Vì vậy, mi đến thư viện công cộng, tìm kiếm những chương trình học trên mạng của các trường và đọc vài cuốn sách. Đôi khi, mi ngồi trên chiếc giường đơn trong phòng, chiếc giường có trải tấm nệm nhiều chỗ đã phồng lên, mà nghĩ về quê nhà, cha mẹ, cô chú, anh em họ, bạn bè. Những người chẳng kiếm được là bao gì từ những trái xoài và món akara3 mà họ phải đến từng nhà để chào mời, nhà của họ chỉ được làm bằng những tấm kẽm được ghép tạm thời bằng cách vít đinh vào, cứ mùa mưa là lại vỡ thành từng mảnh. Những người đã đến để chia tay mi, để chúc mừng mi và để thú nhận sự ghen tị thèm muốn vì mi đã có được tấm thẻ xanh. Những người đã gửi con cái mình đến những trường phổ thông mà ở đó, giáo viên sẽ cho điểm A nếu như có ai đó giúi cho họ những chiếc phong bì màu nâu.

Mi chưa bao giờ phải đút lót để có điểm A, chưa bao giờ phải dấm dúi chiếc phong bì màu nâu cho một ông thầy nào ở trường. Tuy nhiên, mi vẫn chọn một chiếc phong bì dài màu nâu để gửi về cho cha mẹ mi một nửa số tiền mà mi kiếm được trong tháng; bao giờ mi cũng dùng những tờ bạc mà Juan đưa cho mi, vì chúng là những tờ bạc còn mới cứng, không giống như những tờ tiền boa. Mi không viết thư. Mà có gì để viết.

Nhưng những tuần đầu tiên thì mi muốn viết, vì mi có những câu chuyện muốn kể. Mi muốn viết về sự thoải mái đáng ngạc nhiên của những người Mỹ, họ đã cởi mở như thế nào khi kể về người mẹ đang phải chống chọi với bệnh ung thư của họ, về đứa bé bị đẻ non của bà chị dâu – những chuyện mà người ta nên giấu hay chỉ nên tiết lộ với người trong nhà mà thôi, những người mong mọi sự sẽ tốt đẹp. Mi muốn viết về cái cách người ta để thừa lại quá nhiều thức ăn trên đĩa và vò mấy tờ đô la để xuống dưới, như thể đấy là món tiền để biếu, để chuộc lỗi vì chỗ thức ăn thừa. Mi muốn viết về đứa trẻ chỉ vừa mới khóc và dứt mái tóc vàng của mình thì cha mẹ nó đã cuống quýt dỗ dành, nài nỉ nó đừng khóc, rồi tất cả đứng lên và rời khỏi nhà hàng.

Mi muốn viết về những người Mỹ giàu có nhưng lại mặc những bộ quần áo tồi tàn và đi những đôi giày đế mềm đã tã tời, trông không khác những người gác đêm trước những khu vực rộng lớn có hàng rào vây quanh ở Lagos. Mi muốn viết về những người nghèo béo phì và những người giàu gày nhom. Và mi muốn viết rằng ở Mỹ không phải tất cả mọi người đều có nhà lớn, xe to, dù mi vẫn không chắc về những khẩu súng bởi biết đâu họ để chúng trong túi xách hay túi quần.

Không phải mi chỉ muốn viết cho cha mẹ mình, mà còn cho cả những người bạn, anh em họ, cô dì chú bác. Nhưng mi vẫn không đủ tiền để mua nước hoa, áo quần, túi xách cho tất cả và vẫn phải làm cái nghề bồi bàn để trả tiền thuê nhà, vì thế mi không viết cho ai cả.

Không ai biết mi đang ở đâu vì mi không nói với ai hết. Đôi lúc, mi cảm thấy mình vô hình và cố gắng xuyên qua bức tường trong phòng để ra phòng trước rồi mi vập vào tường, việc đó để lại trên tay mi những vết bầm tím. Một lần, Juan hỏi mi có phải mi có một anh chàng nào đó và gã ta đã đánh mi không, Juan hỏi vậy vì ông có thể coi chừng gã kia cho mi và mi đã cười lớn, một tiếng cười bí ẩn. Đêm đêm, có một vật gì đó quấn quanh cổ mi, một vật gì đó gần như thít chặt lấy cổ mi cho đến khi mi choàng dậy.

Một vài người cứ nghĩ mi đến từ Jamaica vì họ cho rằng mọi đứa da đen nói nhấn trọng âm đều là dân Jamaica hết. Hoặc cũng có vài người đoán mi là dân Phi thì hỏi mi có biết cái này cái kia ở Kenya hay ở Zimbabwe không bởi vì họ nghĩ châu Phi là một xứ sở mà mọi người đều biết lẫn nhau.

Vì thế lúc hắn hỏi mi, trong không gian mờ tối của nhà hàng sau khi mi đọc bản tin đặc biệt hàng ngày, rằng mi đến từ nước châu Phi nào, mi trả lời: Nigeria và chờ đợi hắn hỏi tiếp xem mi có biết người bạn nào mà hắn đã quen ở Senegal hay Botswana không. Nhưng hắn lại hỏi mi là người Yoruba hay Igbo, vì khuôn mặt mi trông không giống người Fulani. Mi ngạc nhiên – mi nghĩ hắn phải là giáo sư ngành nhân chủng học, hơi trẻ một chút, nhưng biết đâu đấy? Igbo, mi đáp. Hẳn hỏi tên mi và khen cái tên Akunna của mi đẹp. Hắn không hỏi cái tên ấy có ý nghĩa gì, may thay, vì mi đã mệt bởi cái kiểu người ta hỏi, Con gái rượu của cha à? Thế có nghĩa là cha cô thật sự sẽ bán cô cho một anh chồng nào đó hả?

Hắn đã từng đến Ghana, Kenya và Tazania, hắn đã đọc về tất cả các nước châu Phi khác, về lịch sử cũng như những vấn đề phức tạp của những quốc gia ấy. Mi có cảm giác khinh bỉ, mi muốn biểu thị điều đó cho hắn thấy khi mang món hắn gọi ra, vì những kẻ da trắng cực kỳ mê châu Phi và những kẻ da trắng chả ưa nó đều như nhau cả – đều mang một thái độ hạ cố của kẻ bề trên mà thôi. Nhưng hắn không tỏ ra là mình biết nhiều, không lắc đầu kiểu trịch thượng như ông giáo sư ở đại học cộng đồng Maine một lần khi nói về Angola, hắn không có chút gì tỏ ra hạ cố cả. Ngày hôm sau, hắn lại đến, vẫn ngồi ở cái bàn cũ và khi mi hỏi hắn thấy món gà thế nào, hắn đã hỏi mi điều gì đó về Lagos. Ngày thứ ba, hắn đến và nói chuyện rất lâu – thỉnh thoảng hắn lại hỏi mi chẳng lẽ mi không nghĩ tiếng Mobutu và Idi Amin là giống nhau? – mi đã phải nhắc hắn nói chuyện lâu với thực khách như thế này là trái với quy định của nhà hàng. Hắn chạm nhẹ bàn tay mi khi mi đặt tách cà phê xuống. Sang đến ngày thứ tư, mi nói với Juan mi không muốn phục vụ cho cái bàn ấy nữa.

Sau cái ngày mi đổi ca đó, hắn đứng đợi mi ở bên ngoài, dựa người vào cột đèn, hắn mời mi đi chơi vì tên mi vần với “hakuna matata”4 và “Vua sư tử” là bộ phim sướt mướt duy nhất mà hắn thích. Mi thì không biết “Vua sư tử” là cái gì. Mi nhìn hắn trong ánh đèn sáng rõ và nhận ra mắt hắn có màu của một thứ dầu ô liu cực kỳ tinh khiết, một màu vàng pha lục. Thứ dầu ô liu cực kỳ thuần khiết ấy là thứ duy nhất mà mi yêu thích, yêu thích thật sự ở cái nước Mỹ này.

Hắn là sinh viên lớn tuổi ở trường đại học của bang. Hắn nói với mi tuổi của hắn và mi hỏi hắn tại sao vẫn chưa tốt nghiệp. Xét cho cùng, đây là nước Mỹ, không phải như đất nước của mi, nơi các trường đại học thường xuyên đóng cửa đến nỗi người ta phải thêm ba năm vào một khóa học bình thường và các giảng viên thì bãi công liên tục mà vẫn không được thanh toán tiền lương. Hắn kể rằng hắn đã dừng học một hai năm sau khi xong trung học để khám phá bản thân mình và đi du lịch, chủ yếu là đến châu Phi và châu Á. Mi hỏi hắn, vậy thì cuối cùng hắn đã tìm thấy mình ở đâu. Hắn cười. Mi thì không cười. Mi không biết những người có thể lựa chọn việc không đến trường một cách đơn giản, những người có thể bắt cuộc đời này viết theo những gì mà họ đọc ra. Mi thì đã quen với việc chấp nhận những gì mà đời cho mình, và viết theo những gì mà cuộc đời đọc cho mình.

Ba ngày sau, mi vẫn nói không với lời mời của hắn, vì mi không nghĩ làm thế là đứng đắn, vì mi thấy không thoải mái với cái cách hắn nhìn mi, với cái kiểu bật cười dễ dàng của mi trước những gì hắn nói. Rồi đến đêm thứ tư, mi bỗng thấy hoang mang khi không thấy hắn đứng đợi trước cửa nhà hàng sau ca làm của mi. Mi đã cầu nguyện một hồi lâu cho đến khi hắn xuất hiện từ phía sau mi, chào một tiếng “hey”, và mi, mi đã nói, vâng, tôi muốn đi với anh, thậm chí trước cả khi hắn ngỏ lời mời.

Ngày hôm sau, hắn đưa mi đến chỗ của Chang và trong chiếc bánh quy may mắn của mi có kẹp hai dải giấy. Cả hai đều không có gì.

Mi biết, mi đã thấy thoải mái hơn ở bên hắn khi mi thú thật với hắn lý do thực sự mi xin Juan chuyển sang phục vụ bàn khác chính là vì chương trình Jeopardy5. Khi xem chương trình Jeopardy qua chiếc ti vi trong quán, bao giờ mi cũng cổ vũ người chơi theo thứ tự ưu tiên này: trước hết là phụ nữ da màu, rồi đến đàn ông da đen, phụ nữ da trắng và cuối cùng là đàn ông da trắng – nghĩa là mi không bao giờ ủng hộ đàn ông da trắng cả. Hắn cười và bảo mi: hắn đã quen không được ủng hộ rồi, mẹ của hắn dạy ngành Phụ nữ học.

Và mi biết, mi đã trở nên thân thiết với hắn khi mi nói với hắn rằng cha của mi không phải là thầy giáo ở Lagos, ông chỉ là một người lái taxi. Và mi đã kể cho hắn về câu chuyện trên đường ở Lagos ngày hôm ấy, khi mi ngồi trong chiếc xe của cha mi; hôm đó, trời mưa và chỗ của mi bị ướt bởi nước mưa dột xuống qua những lỗ thủng trên mái xe do gỉ sắt ăn mòn tạo thành. Đường sá ở Lagos rất lầy lội, lúc nào cũng lầy lội, và khi mưa xuống thì thật kinh hoàng. Hệ thống tiêu thoát nước ở đây tệ hại tới mức vài chiếc xe ô tô bị mắc kẹt trong những ổ gà ngập bùn và mấy người anh em họ của mi phải trả tiền để người để đẩy xe ra khỏi chỗ ổ gà đó. Cơn mưa và con đường ngập ngụa bùn ấy – mi nghĩ – đã làm cho cha mi hôm đó nhấn phanh quá muộn. Mi nghe thấy một tiếng va đụng mạnh trước khi cảm thấy nó. Chiếc xe của cha mi đã đâm vào một chiếc xe to, ngoại nhập, màu xanh sẫm, có đèn pha màu vàng như mắt mèo. Cha của mi đã khóc lóc trước cả khi chui ra khỏi xe và nằm phủ phục trên đường, khiến giao thông bị đình lại. Xin lỗi ngài, xin lỗi ngài, ngài có bán tôi và cả gia đình tôi cũng không đủ tiền mua một cái lốp xe của ngài đâu ạ, cha mi khẩn nài như thế. Xin lỗi ngài.

Người đàn ông to béo ở đằng sau xe vẫn ngồi yên, chỉ có gã tài xế của ông ta bước ra, xem xét chiếc xe hư bị hỏng thế nào, gã nhìn trộm cha mi đang nằm rạp trên đường như thế lời cầu xin của cha mi là một bài hát mà gã phải ngượng ngùng thú thực là mình thích nghe. Cuối cùng, gã tha cho cha mi. Vẫy tay xua ông đi. Các xe khác bóp còi và tài xế thì chửi. Khi cha mi chui vào xe, mi đã không muốn nhìn ông vì ông chẳng khác gì những con lợn vẫn hay lạch bạch ở những chỗ lầy bùn quanh chợ. Cha của mi trông như một cục phân. Mẹ kiếp! Sau khi mi nói với ông điều đó, ông nắm lấy bàn tay mi và bảo ông hiểu. Mi giằng tay mình ra khỏi tay ông, bực bội, bởi ông nghĩ thế giới này là thế, hẳn đầy những người như ông. Mi bảo ông rằng chẳng có gì để hiểu cả, thế giới này là thế đấy.

Hắn không ăn thịt, vì hắn nghĩ cái cách người ta giết thú vật là sai, hắn bảo người ta đã phun những độc tố đáng sợ vào các con thú và những độc tố này, đến lượt chúng, sẽ khiến con người ta mắc chứng hoang tưởng. Ở quê, miếng thịt mi ăn, khi mà có thịt để ăn, chỉ bé bẳng nửa ngón tay. Nhưng mi không nói điều đó với hắn. Mi cũng không nói với hắn mẹ của mi đã nấu tất cả các món với hột dawadawa6, bởi vì cà ri và cỏ xạ hương quá đắt, cái hột đó có chứa chất MSG7, chúng chính là chất MSG. Hắn bảo chất MSG gây ung thư, đó là lý do hắn thích quán của Chang; Chang không dùng chất MSG khi nấu ăn.

Một lần, ở quán Chang, mi nói với người bồi bàn mi đã từng sống ở Thượng Hải một năm, rằng mi có thể nói được vài câu tiếng Quan thoại. Người bồi bàn nhiệt tình hẳn và bảo hắn món soup nào là ngon nhất, rồi hỏi hắn: anh có bạn gái ở Thượng Hải à? Hắn mỉm cười, không nói gì.

Mi đã mất cảm giác thèm ăn, vùng bên dưới ngực mi như bị tắc lại, ở bên trong. Đêm ây, mi không cất tiếng rên rỉ khi hắn vào trong cơ thể mi, mi cắn chặt môi và giả vờ như mi không đến trạng thái cực khoái vì mi biết, làm thế, hắn sẽ thấy lo lắng. Cuối cùng, mi nói với hắn vì sao mi buồn, bởi cái gã người Hoa ấy cho rằng mi không thể trở thành người yêu của hắn được, và khi ấy hắn đã cười, không nói gì. Trước khi hắn xin lỗi, hắn chằm chằm nhìn mi với ánh mẳt trống rỗng, và mi biết hắn không hiểu.

Hắn mua tặng mi những món quà và khi mi hỏi về giá tiền, hắn bảo hắn có một khoản ngân quỹ được ủy thác, thế nên không có vấn đề gì cả. Những món quà của hắn làm mi bối rối. Một quả cầu bằng nắm tay mà khi mi lắc nó, mi thấy cảnh tuyết rơi xuống một ngôi nhà nhỏ hoặc một vũ nữ ballet xoay tròn. Một hòn đá sáng bóng. Một chiếc khăn đắt tiền của Mexico có hoa văn được vẽ bằng tay mà mi không bao giờ dám quàng vì màu của nó. Cuối cùng, mi bảo hắn, dài giọng ra tỏ ý mỉa mai, rằng ở các nước thứ ba, quà tặng bao giờ cũng phải là thứ hữu ích. Viên đá, chẳng hạn, có ích nếu người ta dùng nó để nghiền thứ gì đó, hay có thể đem mài nó. Hắn cười dài và nặng nề nhưng mi thì không cười. Mi nhận ra trong đời hắn, hắn có thể mua những mòn quà thuần túy là quà, chứ không phải là cái gì khác. Khi hắn bắt đầu mua tặng mi giày dép, áo quần, sách vở, mi đã bảo hắn đừng làm thế nữa, mi không muốn bất kỳ một thứ quà tặng nào cả.

Tuy nhiên, mi không tranh cãi. Thực ra thì cũng không phải vậy. Mi tranh cãi rồi mi lại làm hòa, và làm tình với hắn, mi lùa tay vào tóc mình và tóc hắn, mái tóc vàng mềm mại lòa xòa như cờ ngô mới trổ, còn tóc của mi thì sẫm và đàn hồi như thứ để nhồi gối. Mi cảm thấy an tâm trong vòng tay hắn, giống như cảm giác mà mi có được khi còn ở nhà, trong ngôi nhà lụp xụp được ghép lại bằng những tấm kẽm của gia đình mi, như khi mi nhận ra da của hắn bởi rám nắng quá nhiều đã ngả sang màu dưa hấu chín, mi đã hôn lưng hắn trước khi thoa kem lên đó. Hắn tìm thấy một cửa hàng Châu Phi trên Những trang vàng trong danh bạ điện thoại Hart Ford và lái xe chở mi đến đó. Chủ cửa hàng, một người Ghana, hỏi hắn có phải là người châu Phi không, giống như những người da trăng ở Kenya hay Nam Phi, hắn cười lớn, bảo: phải, nhưng hắn đã ở Mỹ một thời gian dài rồi và giờ thì hắn nhớ những món ăn thuở nhỏ của mình. Hắn không nói với người chủ rằng hắn nói đùa. Mi nấu cho hắn, hắn thích món cơm trộn jollof8 nhưng sau khi ăn garri và súp onugbu9, hắn đã ọe ra trong bồn rửa của mi. Nhưng mi không bận tâm, bởi vì giờ mi đã có thể nấu súp onugbu với thịt.

Cái vật quấn quanh cổ mi, gần như lúc nào cũng muốn thít chặt lấy cổ mi trước khi mi ngủ ấy, đã bắt đầu nới lỏng ra, buông mi ra.

Mi biết, người ta cho mi là một đứa không bình thường, qua cách mà họ phản ứng, xử sự với mi- những kẻ đê tiện thì quá đê tiện còn những người tử tế lại quá tử tế. Những phụ nữ da trắng già nhìn hắn trừng trừng và lầm bầm, những người đàn ông da đen nhìn mi lắc đầu, còn đàn bà da đen thì tỏ ra đau lòng vì sự thiếu tự trọng của mi. Lại có những người phụ nữ da đen nhìn mi nhoẻn cười kín đáo thể hiện một sự gắn kết, những người đàn ông da đen phải hết sức cố gắng để có thể tha thứ cho mi, chào hắn bằng một tiếng “hi” rõ ràng, hay những người phụ nữ da trắng nhìn mi và hắn nói to: một cặp xứng đôi vừa lứa đấy, như thể muốn chứng tỏ sự độ lượng của họ với chính bản thân mình.

Nhưng cha mẹ của hắn thì khác; họ gần như khiến mi nghĩ tất cả đều rất bình thường. Mẹ hắn nói hắn chưa từng giới thiệu một cô gái nào với cha mẹ cả, ngoại trừ một cuộc hò hẹn trong một buổi dạ hội ở trường trung học, hắn cười một cách không tự nhiên lắm và nắm lấy tay mi. Tấm khăn trải bàn che bàn tay mi đang nắm chặt. Hắn siết lấy tay mi và mi cũng siết tay hắn, mi băn khoăn không hiểu vì sao cặp mắt có màu dầu ô liu cực kỳ tinh khiết của hắn trở nên tối lại khi hắn nói chuyện với cha mẹ mình. Mẹ hắn hỏi những vỏ ốc màu được xâu qua những sợi dây tết tóc trên đầu mi có phải là vỏ ốc thật không và mi đã đọc Simone Beauvoir và Nawal El Saadawi10 chưa. Bố hắn thì hỏi mi thức ăn Ấn Độ giống thức ăn Nigeria như thế nào, ông nói đùa, bảo mi thanh toán khi người ta đưa hóa đơn đến. Mi nhìn họ với một nỗi hàm ơn khi họ đã không săm soi mi như một đồ lưu niệm ngoại lai hay một chiếc ngà voi.

Sau buổi đó, hắn có tâm sự với mi những vấn đề của hắn với cha mẹ mình, rằng họ đã chia phần tình yêu như người ta cắt một chiếc bánh sinh nhật và hắn sẽ nhận được phần lớn hơn chỉ khi nào hắn theo học trường luật. Mi muốn cảm thông. Nhưng thay vào đó, mi lại nổi giận.

Mi càng giận dữ hơn khi hắn kể hắn đã từ chối đi Canada cùng với cha mẹ mình một hai tuần, đến ngôi nhà nghỉ hè của họ ở miền nông thôn Quebec. Thậm chí họ đã bảo hắn đưa mi đi cùng. Hắn cho mi xem bức ảnh chụp ngôi nhà của gia đình hắn và mi không hiểu nổi tại sao nó lại được gọi là ngôi nhà thôn dã cơ chứ, trong khi ở quê mi những tòa nhà lớn xung quanh chỗ mi sống đều là các ngân hàng và nhà thờ. Mi đánh rơi chiếc ly cầm trên tay, chiếc ly đập xuống nền gỗ cứng của nhà hắn, vỡ tan. Hắn thảng thốt hỏi mi có chuyện gì và mi nói, không, không có gì hết, mặc dù mi nghĩ có quá nhiều điều sai lầm. Tất cả thế giới của mi đều sai lầm, tất cả.

Rồi sau đó, dưới vòi tắm, mi bắt đầu khóc, mi nhìn thấy nước từ vòi tắm làm loãng đi nước mắt của mình và mi không hiểu vì sao mi lại khóc.

Cuối cùng thì mi viết thư gửi về nhà, khi cái vật quấn quanh cổ mi gần như đã tự tháo bỏ hoàn toàn. Gần như thế. Một lá thư ngắn ngủi gửi cho bố mẹ, anh chị em, kẹp vào giữa là thư là những đồng bạc còn mới cứng, và mi cũng ghi luôn địa chỉ của mình. Chỉ mấy ngày sau, mi nhận được hồi âm qua người đưa thư. Mẹ của mi đã tự viết thư, mi nhận ra điều ấy qua lối văn phong rối rắm, qua những từ ngữ sai chính tả.

Cha mi đã chết; ông ấy đã đập đầu vào bánh lái của chiếc taxi. Chuyện xảy ra cách đây năm tháng, mẹ của mi viết như thế. Gia đình mi đã sử dụng một phần số tiền mi gửi về để làm một đám tang tử tế cho ông ấy. Họ đã giết một con dê để mời khách khứa và chôn ông trong một tấm quan tài đàng hoàng chứ không phải mấy tấm gỗ ghép lại.

Mi cuộn mình trên giường, áp đầu gối thật chặt lên ngực và khóc. Hắn ôm lấy mi khi mi đang khóc, hắn vuốt tóc mi và ngỏ ý muốn đi cùng mi, trở về Nigeria. Mi bảo không, mi cần đi một mình. Hắn hỏi mi liệu có trở lại và nhắc mi rằng mi có thể mất tấm thẻ xanh hạn nếu không quay lại trong một năm, hiểu chứ? Mi có trở lại, có trở lại không?

Mi quay đi, không nói gì và khi hắn chở mi ra sân bay, mi đã ôm hắn thật chặt, mi ghì lấy cơ lưng hắn cho đến khi mi thấy đau nơi mạn sườn. Và mi nói: Cảm ơn.

Chú thích:

  1. hot dog: xúc xích nóng kẹp với bánh mì.
  2. garri: một món ăn phổ biến ở Tây Phi, đặc biệt là ở Nigeria và Ghana, được làm từ sắn.
  3. akara: món ăn của người Nigeria được làm từ đậu đen nghiền, nặn thành cục và đem chiên với dầu cọ.
  4. hakuna matata: một thành ngữ của người Swahili, có nghĩa đen là: “Ở đây không có nỗi lo lắng nào”, “không có gì phải lo”, “không vấn đề gì”. Cụm từ này trở nên phổ biến khi bộ phim hoạt hình của Walt Disney “Vua Sư tử” được công chiếu rộng rãi. Trong phim, hai chú cầy bốn ngón và lợn lòi là đã dùng cụm từ này để khuyên chú sư tử Simba quên đi những ký ức đau buồn trong quá khứ, chỉ cần sống cho hiện tại. Cụm từ này trong bộ phim còn hàm ý nói đến một cuộc sống vứt bỏ mọi tham vọng. “Hakuna matata” còn là tên một bài hát trong phim do Elton John viết nhạc, lời của Tim Rice.
  5. Jeopardy: một show game đố vui kiến thức trên truyền hình rất nổi tiếng của Mỹ.
  6. dawadawa: một loại hạt phơi khô cho lên men được lấy từ một từ một loại bồ kết của châu Phi có tên khoa học là Parkia biglobosa
  7. MSG: chất dùng làm mì chính, bột ngọt.
  8. cơm jollof: một món ăn phổ biến ở Tây Phi gồm có cơm, cà chua, cà chua xay, hành, muối, hạt tiêu và một số rau, gia vị khác trộn lẫn với nhau.
  9. súp onugbu: một loại súp rau ở Tây Phi (chưa tra cứu được chính xác).
  10. Simone de Beauvoir (1908-1986): nhà văn Pháp, nhà đấu tranh cho nữ quyền tiên phong. Nawal El Saadawi (1931): nhà văn theo chủ trương nữ quyền người Ai Cập.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Chimamanda Ngozi Adichie, “The Thing Around Your Neck”, Prospect Magazine, Issue 99, September, 2004.

(Dịch trong những ngày rất nhiều điều phải lo nghĩ. Dịch chỉ để quên đi ý nghĩ của mình bằng cách nhìn vào ý nghĩ của người khác)