Cho đến cuốn sách mới nhất này, văn chương của Nguyễn Trương Quý vẫn tiếp tục ruổi rong trên những nẻo đường Hà Nội. Thành phố này, dù đã trở thành đề tài của bao nhiêu nghệ sĩ, dù đã được tác giả khai thác đến từng chi tiết tỉ mẩn ở những cuốn sách trước đó, vẫn tiềm tàng những bí ẩn – yếu tố quan trọng làm nên sức cảm dỗ của đô thị. Hay để dùng lại một thuật ngữ được Nguyễn Trương Quý nhắc đến như là đối tượng khám phá của cuốn sách, Hà Nội vẫn dồi dào những “vi lịch sử”, những tự sự nhỏ nằm bên dưới những sự kiện của đời sống thường nhật.
Về mặt thể loại, Một thời Hà Nội hát (Tim cũng không ngờ làm nên lời ca) được tác giả gọi là một cuốn du khảo. Nhưng thực ra từ những tác phẩm trước, Nguyễn Trương Quý đã định hướng tản văn của mình theo tinh thần du khảo. Văn chương du khảo cần sự hòa quyện giữa sự miêu tả, ghi chép vừa chính xác, cẩn thận đồng thời lại vừa đậm tính hình tượng và dấu ấn chủ quan với những phân tích, biện luận từ một quan điểm nghiên cứu. Nguyễn Trương Quý đã thực hiện được một việc không dễ là thống nhất được lối viết sống động, nhiều khi không giấu đi sự hài hước hay duy cảm trong cái nhìn đời sống của mình mà thể loại tản văn dung nhận với một số thao tác gần gũi với khảo cứu nhân văn như chọn điểm tựa về lý thuyết, tìm lai lịch của hiện tượng, trích dẫn nguồn tham khảo… Có thể nói tản văn của anh là một thực hành phê bình văn hóa mà ở đó, người viết bằng cả sự nhạy cảm lẫn chiều sâu tư duy đã phát lộ chiều kích huyền thoại của đô thị không chỉ qua những sản phẩm tinh thần mà còn trong kiến trúc cảnh quan hay những đồ vật gắn liền với nó.
Một thời Hà Nội hát có lẽ là tác phẩm đi xa hơn cả trong ý thức khảo cứu của Nguyễn Trương Quý. Ngay trong lời mở đầu, tác giả đã có sự lưu ý đối với độc giả về tinh thần của cuốn sách. Hà Nội, theo cách tiếp cận của Nguyễn Trương Quý, là một “cộng đồng được tưởng tượng”, nói như Benedict Anderson, người mà tác giả đã tiếp thu ý tưởng để hình thành nên khung tư duy của mình. Nghĩa là, với anh, Hà Nội được hiểu như một diễn ngôn, tức như là kết quả của quá trình tạo nghĩa thông qua các hoạt động văn hóa. Những bài hát và người hát về Hà Nội nằm trong những yếu tố tham gia vào quá trình ấy. Chúng đan dệt hình dung của nhiều người về thành phố, từ đó tạo nên những hoài niệm tập thể về nó.
Từ cách tiếp cận ấy, Đoàn Chuẩn – nhân vật chính của cuốn sách cũng là một diễn ngôn. Cho dù Nguyễn Trương Quý đã cất công tìm hiểu tiểu sử, thực hiện nhiều phỏng vấn, trò chuyện với những người liên quan đến người nhạc sĩ này thì cuốn sách cũng khó có thể được coi là một cuốn chân dung văn học theo định nghĩa chặt chẽ về thể loại. Người viết hướng mối quan tâm của mình vào việc phát hiện cơ chế nào để đưa Đoàn Chuẩn trở thành một giai thoại, giai thoại đó được cấu tạo theo những hình mẫu có sức hấp dẫn như thế nào và vì sao giai thoại – vốn là tiểu tự sự bên lề lịch sử chính thống – được trưng dụng trở lại, đi vào diễn ngôn trung tâm về Hà Nội. Nói một cách khác, Hà Nội cần đến Đoàn Chuẩn để thêm một biểu tượng mới cho mình, để phái tính hóa thành phố (sexing the city), làm cho thành phố mang diện mạo có nét quyến rũ của một lãng tử hào hoa. Nhưng ở phía ngược lại, cũng chính ở trong lòng thành phố mà tính cách đô thị của nó trong lịch sử nhiều khi buộc phải bị kìm nén, tiết chế và trở nên mất mát ít nhiều, Đoàn Chuẩn mới trở thành một biểu tượng đủ để khiến người ta ngưỡng vọng và hoài nhớ như một mẫu nhân cách một đi không trở lại. Cuốn sách, vì thế, là lịch sử về một biểu tượng hơn là một tiểu sử về một nghệ sĩ.
Cuốn sách của Nguyễn Trương Quý tập trung vào một lát cắt lịch sử của Hà Nội mà hình dung về nó còn bỏ ngỏ nhiều khoảng trống – giai đoạn thành phố bị tạm chiếm trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Không có tham vọng lấp đầy những khoảng trống ấy, cuốn sách chỉ cố gắng phác thảo lại một mảng hiện thực mà sử học thường ít chú ý: đời sống giải trí. Nhưng chính phương diện này lại có thể phát lộ nhiều điểm thú vị, độc đáo về văn hóa thị dân của thành phố. Nguyễn Trương Quý đã chọn được một kênh dẫn thích hợp để có thể đi vào tâm thức của thị dân Hà Nội trong nửa đầu thế kỷ XX: tân nhạc – loại hình nghệ thuật mới, chịu ảnh hưởng từ âm nhạc phương Tây, được sinh thành và nuôi dưỡng trong lòng thành phố. Anh có một cách làm việc cẩn trọng trên những tư liệu của quá khứ, không chỉ chú ý đến những sự kiện nổi lên trên bề mặt mà quan tâm đến cả những gì có thể ẩn giấu trong những chi tiết có vẻ như vặt vãnh như danh mục của các bài hát được trình bày, các thông tin quảng cáo cho những sinh hoạt giải trí in trên mặt báo, cách các bài hát được thu thanh và biểu diễn… Nói một cách khác, anh quan tâm đến hầu hết các phương diện tạo nên đời sống truyền thông của tân nhạc. Từ đó, cuốn sách không chỉ làm người đọc hình dung được thị hiếu, mỹ cảm một thời của thị dân Hà Nội. Có lẽ thú vị hơn, nó cho thấy luôn có những câu chuyện ẩn khuất sau những hình ảnh, giai điệu mà những mô tả lịch sử trên bình diện vĩ mô không nắm bắt được. Mà những câu chuyện khuất lấp ấy mới là nơi ta cảm nhận được rõ hơn những kinh nghiệm tinh thần của con người trong quá khứ. Những nghiên cứu tư liệu của Nguyễn Trương Quý, đặc biệt là về lời ca khúc Đoàn Chuẩn, cho thấy ngôn từ có những ký ức riêng của mình và chúng có thể tồn tại dai dẳng bất kể những biến thiên lớn của thời cuộc. Tinh thần lãng mạn ở những hình ảnh, motif trong ca khúc của Đoàn Chuẩn, dẫu có thể từng bị gán cho định kiến trong một thời gian dài, thậm chí trở thành những cấm kỵ, thì vẫn cứ là một cái gì ám ảnh, ăn sâu vào hoài niệm và mơ tưởng của một lớp người, vượt khỏi cả những ranh giới ý thức hệ từng ngăn cách hai miền đất nước, để tạo thành một ký ức thống nhất về Hà Nội. Một Hà Nội tiền chiến, sang trọng và u uẩn, lịch lãm và phóng khoáng. Một Hà Nội như một cộng đồng tưởng tượng của một lớp người, có nhiều khác biệt với một Hà Nội được kiến tạo bởi những nhạc sĩ từng sống ở miền Bắc sau 1954. Hà Nội, trong ca từ của lứa nhạc sĩ sau Đoàn Chuẩn, là một vùng hoài niệm đạm bạc hơn, thương khó hơn và chịu đựng hơn.
Những suy nghĩ trên đây của tôi có thể khiến nhiều người nghĩ rằng cuốn sách của Nguyễn Trương Quý nặng về tính học thuật. Song không hẳn vậy, dù rằng đây là khía cạnh khiến tôi nể phục nhất ở anh từ khi đọc nó lúc còn là dạng bản thảo. Một thời Hà Nội hát cũng là một cuốn sách mang nhiều trải nghiệm riêng tư của tác giả. Dễ thấy nó là sự nối tiếp chủ đề mà Nguyễn Trương Quý đã khai thác trong Còn ai hát về Hà Nội? (2013), nhưng lần này tác giả muốn tập trung hơn vào một hình tượng nhạc sĩ gắn với giai đoạn âm nhạc thường được gọi tên là nhạc tiền chiến. Tuy nhiên, tính cá nhân của cuốn sách này không chỉ nằm ở chỗ nó phản ánh một hứng thú của tác giả mà còn ở một khía cạnh đáng lưu ý khác. Nguyễn Trương Quý thuộc thế hệ lớn lên vào lúc văn học nghệ thuật lãng mạn, sau một thời kỳ dài trong lịch sử bị xem như một vùng cấm, quay trở lại, được thừa nhận giá trị, đi vào sách giáo khoa và hòa cả vào văn hóa đại chúng từ cuối thập niên 1980. Thơ Mới, âm nhạc tiền chiến, khi ấy, dường như cung cấp cả một vùng ngữ vựng để thế hệ ấy biểu đạt bản thân. Họ dùng tên một tác phẩm của Xuân Diệu để gọi lứa tuổi của mình – “hoa học trò”; họ tạo hình cho mình theo khuôn mẫu lãng tử mà văn chương hay ca khúc lãng mạn khắc họa; họ vu vơ, sầu muộn, bất cần, phong tình – những trạng thái mà tuổi trẻ trong những năm chiến tranh phải nén lại, không được phép biểu hiện – có nghĩa là, họ gần với thế hệ thanh niên tiền chiến hơn là thế hệ thanh niên thời cha mẹ mình. Tuổi hoa niên của thế hệ của Nguyễn Trương Quý, dẫu vậy, cũng không phải là bản sao của thế hệ tiền chiến và có lẽ nó cũng là vẻ đẹp đang một đi không trở lại. Những người trẻ mười tám, đôi mươi giờ đây có thể tìm thấy những điểm tựa khác để tạo hình cho mình. Với cuốn sách này, Nguyễn Trương Quý không chỉ muốn phục dựng những vi lịch sử của một giai đoạn quá khứ. Nó có lẽ còn là cuốn sách hoài niệm những gì đã từng bước vào thế giới tinh thần của anh ở những năm tháng thanh xuân ấy. Và những gì bước vào đời ta ở quãng thời gian ấy chính là những giá trị quan trọng định hình nên ta bây giờ. Bởi vậy, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm chân thành của Nguyễn Trương Quý đối với Hà Nội, với âm nhạc và đặc biệt là sự trân trọng đối với Đoàn Chuẩn – người nghệ sĩ đã dành những “bản nhạc đời còn ghi những nét thương yêu” không chỉ cho riêng ông.
Trần Ngọc Hiếu
(Lời giới thiệu cho cuốn sách Một thời Hà Nội hát – Tim cũng không ngờ làm nên lời ca của Nguyễn Trương Quý, NXB Trẻ, 2018)