Monthly Archives: Tháng Mười Một 2018

Tại sao nghệ thuật hiện đại lại tệ hại như thế?

Câu hỏi mà Robert Florczak từ tổ chức Prager University nêu ra trong viral clip này là đề bài tôi đặt ra cho sinh viên của mình khi học học phần “Tiến trình văn học”. Tôi muốn các bạn sinh viên, từ những tri thức liên quan đến “tiến bộ nghệ thuật”, bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của Florczak, dù đồng tình hay phản biện lại ông.

Các ý kiến được nhận về có sự đa dạng nhất định. Có lẽ với một giáo sư xa lạ, một số sinh viên cảm thấy dễ bày tỏ quan điểm hơn so với một ông thầy tuần nào cũng gặp ở trên lớp, do đó, lại ngại ngần khi thể hiện chính kiến, nhất là khi chúng có vẻ ngược với niềm tin của ông thầy.

Cá nhân tôi cho rằng ý kiến của Florczak là điều khiến tôi băn khoăn. Tôi không hơn được các sinh viên bao nhiêu khi đối diện với câu hỏi thách thức mà ông đặt ra. Tôi mừng là vì nghe được những ý kiến từ các bạn sinh viên mà qua đó, tôi thấy được sự chững chạc trong suy nghĩ của các em và thực sự chúng có sức gợi mở đối với cá nhân tôi. Dưới đây là một số bài viết ngắn của các bạn:

*

Bài viết của Nguyễn Hồng Phúc, lớp CLC -K65

  1. Quan điểm của giáo sư Robert Florzack trong clip không phải không có những điểm hợp lý, song về cơ bản, có rất nhiều nội dung cần phải được làm sáng tỏ hơn, hay thậm chí, cần được xem xét lại:
    • Lịch sử nghệ thuật xét đến cùng là lịch sử của những quan niệm nghệ thuật. Và để hiểu cũng như đánh giá đúng vị trí của một tác phẩm nghệ thuật, cần tìm được truyền thống/ hệ hình hay dòng nghệ thuật mà tác phẩm ấy thuộc về. Trên đại thể, lịch sử nền nghệ thuật phương Tây có thể tạm được lược quy về hai hệ hình lớn –tương ứng với hai khái niệm ‘nghệ thuật’ với những ‘tiêu chuẩn’ khác nhau. Trước thế kỷ 19, do những ảnh hưởng từ học thuyết Eidos (ý niệm) của Plato từ thời cổ đại, nền nghệ thuật phương Tây kéo dài suốt gần 20 thế kỷ phần lớn vẫn được quan niệm như sự mô phỏng (mimesis), nhấn mạnh đến yếu tố ‘giống thật’ của thực tại. Quan niệm này được các triết gia Khai sáng như David Hume, I. Kant,…phát triển thêm trong các lý thuyết mỹ học, nhìn chung thống nhất trong quan điểm đưa ‘cái Đẹp’ trở thành thước đo của mọi tác phẩm nghệ thuật, trọng sự cân đối hài hòa và trong sáng…Tuy nhiên, một quan niệm nghệ thuật như trên đã không còn có thể là hệ quy chiếu để lý giải các tác phẩm nghệ thuật của thế kỷ 19-20 được nữa. Nếu đánh giá theo tiêu chuẩn cái Đẹp theo hệ hình cũ, ta sẽ không thể hiểu tại sao chiếc bồn tiểu (Fountain, 1917) của Machel Duchamp lại có thể là một tác phẩm nghệ thuật vì nó thiếu hầu hết những yêu cầu về chất liệu, sự mô phỏng thực tại cũng tính nguyên bản,…như một tác phẩm nghệ thuật ‘thông thường’. Nhưng nếu xem nghệ thuật như một sự thực hành văn hóa, ta sẽ nhận ra được những sự phản tư về các định chế nghệ thuật mà Fountain nhắm đến. Nó khiến người ta phải suy tư lại về bản gốc –bản sao cùng chất liệu để tạo thành tác phẩm nghệ thuật (không còn dùng các chất liệu thông thường của mỹ thuật (fine art) để mô phỏng các vật dụng thường ngày, mà dùng chính vật dụng thường ngày để tạo ra tác phẩm), tức nó thuộc một khái niệm ‘nghệ thuật’ khác, gọi chung là ‘nghệ thuật đương đại’ và cần một hệ tham chiếu khác để đánh giá.
    • Nói như vậy để thấy rằng, trong clip trên, giáo sư Robert Florzack vẫn còn đang cố gắng tiếp cận những tác phẩm thuộc hệ hình mới bằng bộ tiêu chuẩn của hệ hình cũ, như ông có chỉ ra ba tiêu chí là: uyên bác (profound), truyền cảm hứng (inspiring) và đẹp (beautiful). Vì không nhận ra được bối cảnh và mục đích mà các tác phẩm nghệ thuật đương đại (comtemporary art) nhắm đến, nên Robert Florzack đã đơn thuần thấy chúng thật ‘ngớ ngẩn, vô nghĩa và đầy sỉ nhục’, xem chúng như biểu hiện cho một sự thoái hóa của nghệ thuật. Chẳng hạn, tác phẩm Petra của Marcel Walldorf (2010) chỉ đơn giản được Florzack nhìn nhận như bức tượng một phụ nữ trong trang phục quân đội đang đi vệ sinh mà không nhận ra được những khía cạnh văn hóa của nó. Trình hiện khoảnh khắc cực kỳ đời thường của một nữ quân nhân trong trang phục đàn áp biểu tình, tức những con người xưa nay vẫn hiện lên đầy lạnh lùng, thô bạo, là hiện thân của quyền lực/ sức mạnh, tác phẩm cho chúng ta thấy được khía cạnh con người (human being) và tính dễ tổn thương (vulnability) của những người ta vẫn quen tưởng là lạnh lùng, vô tri[1]. Một loạt các tác phẩm nổi tiếng khác cũng chỉ được Florzack đánh giá trên những tiêu chuẩn về hình thức, chất liệu mà không hề được đề cập đúng đến ý nghĩa và những thực hành văn hóa mà nó mang lại.
    • Một điểm thứ hai cũng cần phải xem xét thêm, đó là về niềm tin của Robert Florzack về ‘tiêu chuẩn phổ quát về chất lượng của nghệ thuật’(universal standards of quality), hay giá trị của tác phẩm nghệ thuật tồn tại một các ‘khách quan’, bên ngoài những thiên kiến cá nhân.

Điều này mang đậm tinh thần của Descart và một vị triết gia hậu bối khác là I. Kant. Tuy nhiên, một loạt các cặp nhị nguyên từ thời Descart, trong đó có cặp chủ quan –khách quan (subjectivity-objectivity) đã bị các nhà thông diễn học thế kỷ 20 xét lại tận gốc, tiêu biểu là M. Heidegger và hiển ngôn nhất trong lĩnh vực mỹ học là G. Gadamer. Trong kiệt tác Chân lý và Phương pháp (Truth and Method), Gadamer cho rằng, khái niệm ‘khách quan’, đặc biệt là khách quan trong tiếp nhận nghệ thuật là điều không tưởng. Vì mỗi cá nhân đều quan sát tác phẩm từ một chân trời (horizon) nào đó, tức toàn bộ không gian sử tính, Gadamer cũng gọi là truyền thống, bao quanh cá nhân từ khi sinh ra và ảnh hưởng đến sự đánh giá tác phẩm, tức những chân lý được rút ra khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Và vì sử tính, chân trời của mỗi cá nhân là điều cực kỳ riêng biệt, nên sẽ không thể nào có một định giá chung phổ quát, hay nói khác đi, là chân lý thường hằng cho mọi cá nhân. Lý thuyết trên của Gadamer gây được ảnh hưởng rộng rãi trong phê bình nghệ thuật, trong văn học là trường phái Mỹ học tiếp nhận Konstanz.

  • Do vậy, quan điểm của giáo sư Robert Florzack về sự thoái hóa của nghệ thuật trong clip trên là chưa hợp lý. Nghệ thuật không tệ hại đi, nó chỉ đang triển hạn những khả thể khác của chính mình. Và để có thể nhận ra điều này, phải cần đến một sự cởi mở và sẵn sàng tìm để hiểu cái Khác ấy.

[1] Why is modern art so bad? https://emmitsburgartscene.wordpress.com/2016/05/22/why-is-modern-art-so-bad-robert-florczak/ (truy cập 30/9/2018)

*

Bài viết của Đinh Thu Trang – lớp CLC K65

Viral video- Khi cách khai thác chủ đề là một nghệ thuật

Tôi xem video “Why is Modern Art so bad ?” (tạm dịch: Tại sao nghệ thuật Hiện đại lại tệ đến thế ?) của Robert Florczack lần đầu vào năm 2015, khi lướt tìm những video với dung lượng vừa phải, cùng một cái title đủ ấn tượng để học hỏi và thư giãn, hoàn toàn không liên quan tới mục đích đánh giá sâu sắc về vấn đề. Ấn tượng đầu tiên của tôi là cách Robert Florczack thể hiện quan điểm của mình: trực quan- “gây bão” và pha chút châm biếm. Đặc biệt, việc lựa chọn các tác phẩm và thí nghiệm về chiếc tạp dề của ông có khả năng lôi kéo sự chú ý và đồng thuận tự nguyện, đặc biệt trong thời buổi lên ngôi của sự “nhại”.

Về cá nhân tôi, bên cạnh sự khâm phục với cách thể hiện ý tưởng, quan điểm của Robert Florczack đưa ra không đủ sức thuyết phục.

Chuẩn mực và sự hoàn hảo- những thước đo không phải tuyệt đối

Thực chất, sự đối đầu, chống lại những chuẩn mực cổ điển trong nghệ thuật không chỉ nằm trong ranh giới của hội họa, và cũng không phải tới thời của những nghệ sĩ trường phái Ấn tượng mới nảy sinh như Robert Florczack đề cập. Sự thể nghiệm nghệ thuật luôn là cái không thỏa hiệp, không chính thống. Nhưng truyền thống bao giờ cũng mạnh, và khi đánh giá về cái mới, không tránh khỏi sự đối chiếu.

Nhưng sự so sánh mà Florczack đặt ra không thuyết phục trước hết ở sự chủ quan, phiến diện trong cách chỉ ra những đặc trưng của nghệ thuật cổ điển và hiện đại.  Khi nói tới những chuẩn mực cổ điển, ông dùng những từ ngữ như: “sâu sắc”, “truyền cảm hứng”, “hoàn hảo” trong khi với nghệ thuật hiện đại là: “khác biệt”, “xấu xí”, “ngốc nghếch”, “vô nghĩa”.  Vấn đề ở đây là, liệu ta có thể có một chuẩn mực hoàn hảo, một thước đo tuyệt đối trong đánh giá về nghệ thuật thị giác ? Một bức tranh khỏa thân nằm giữa ranh giới rất mong manh của nghệ thuật và khiêu dâm, hội họa ở thời nào cũng có những tiếp nhận trái chiều. Độ lùi thời gian và sự đóng khung của viện bảo tàng góp phần rất lớn tới việc định hình giá trị của một tác phẩm nghệ thuật, nhưng không đồng nghĩa những giá trị cổ điển sẽ mãi giữ nguyên ngôi vị của mình trong tiến trình nghệ thuật.

Tiếp đến là cách ông đưa ra những ví dụ trực quan chứng minh cho ý kiến của mình. Liệu có công bằng khi đưa ra những tác phẩm đã quá nổi tiếng của hội họa cổ điển với những thể nghiệm nghệ thuật hiện đại, cần một độ lùi thời gian nhất định để khẳng định giá trị. Thực chất, nghệ thuật hiện đại đã kéo dài từ những năm 1860, với những tên tuổi của Picasso, Monet, VanGogh,… Florczack có đề cập tới, nhưng khi lựa chọn tác phẩm để đối chiếu, ông khéo léo đưa ra những ví dụ gây tranh cãi. Nếu tìm hiểu, có thể thấy Holy Virgin Mary không phải một bức họa làm hoàn toàn bằng phân, và chất liệu sử dụng là phân voi (Florczack đã nhầm lẫn ở đây)- loài vật được coi là thiêng liêng trong văn hóa Zimbabwe- nơi họa sĩ lấy cảm hứng. Chỉ có vùng ngực trái của Mary sử dụng chất liệu này, với ý nghĩa tôn vinh khả năng sinh sản của người phụ nữ. Cái “mới” và “khác biệt” không phải luôn đi đôi với sự “xấu xí” và “vô nghĩa”. Có những tác phẩm có ảnh hưởng ở nền văn hóa này lại không được công nhận, thậm chí coi là xúc phạm ở nền văn hóa khác. Những câu chuyện của nghệ thuật, cần được lắng nghe trước khi đưa ra những phán xét.

Dù Florczack đã lên tiếng giải thích quan điểm của mình về cách đưa ra những tác phẩm hiện đại trong video của mình, rằng ông không phủ nhận câu chuyện của Holy Virgin Mary hay Petra, nhưng với ông, với bản chất là nghệ thuật thị giác, hội họa chân chính không cần một ngôn từ hay câu chuyện nào giải thích cho chính nó. Thế nhưng có ai đảm bảo nếu thiếu sức ảnh hưởng của ngôn từ phê bình, những tác phẩm hội họa kinh điển sẽ còn giữ nguyên ấn tượng với người thưởng thức hiện đại, với sự phát triển quá mạnh mẽ của nhiếp ảnh, của đồ họa vi tính ? Thậm chí ngay ở thời của mình, Mona Lisa cũng chỉ thực sự nổi tiếng khi thông tin về vụ đánh cắp được đưa lên báo chí ? Cách Florczack đang làm ở một mức độ nào đó, cũng là dùng ngôn từ định hướng người nghe về một thước đo nghệ thuật theo ý kiến chủ quan của mình.

Revival don’t go viral (  Tạm dịch: Sự hồi sinh không nhất thiết phải “gây bão”)

Điểm tích cực của Florczack là cách ông gợi dẫn những hướng giải quyết, những thay đổi có thể tạo ra bởi bởi “chúng ta”- những người thưởng thức nghệ thuật- một phần quan trọng trong tiến trình nghệ thuật.

Với tư cách một họa sĩ được đào tạo bài bản, mong muốn hồi sinh và lập trường ủng hộ cái cũ của ông có cơ sở, nhưng không nhất thiết phải được củng cố bằng việc phủ định cái mới hay phê phán nghệ thuật hiện đại/đương đại.  Ta có quyền tin vào nghệ thuật đương đại, với những triển lãm của các họa sĩ trẻ , sự hỗ trợ và phát triển của phương tiện đại chúng. Những tác phẩm đương đại hôm nay, hoàn toàn có thể trở thành kinh điển trong tương lai, tiếp tục được đặt lên bàn cân muôn thuở của cũ và mới.

Tiến trình nghệ thuật cần được nhìn nhận ở dạng số nhiều, với những góc nhìn khác biệt, và do đó, những giá trị của quá khứ có thể được phục hưng, nhưng cái mới cũng cần được đặt niềm tin. Tin và khẳng định sức sống của nghệ thuật đương đại trong tương lai, là một hành trình không dễ dàng.

*

Bài viết của Vũ Thị Kiều Chinh – lớp A -K65

Quan điểm của giáo sư Robert Florzack trong clip có thể được hiểu là: Có một thứ gọi là tiêu chuẩn nghệ thuật mang tính toàn cầu và có những thứ đang được xem là “nghệ thuật” hiện nay thì lại không tuân theo bất cứ tiêu chuẩn nào đã được định danh trong quá khứ. Trong những thứ phi “chuẩn mực” đó, với giáo sư, phần nhiều là rác rưởi.

Trong ý kiến “phân loại rác” này của giáo sư, tôi chỉ mong muốn được hiểu về khái niệm “tiêu chuẩn nghệ thuật mang tính toàn cầu”.

Với tôi, trước tiên, hai tiếng “nghệ thuật” bản thân đã là những kí tự được sử dụng trong một phạm vi không hề phổ quát. Một người trồng lúa như bà tôi, dù cả đời đã răn dạy chúng tôi bao điều (bà cho là) hay lẽ phải, nhưng theo ghi nhận của tôi thì bà chưa bao giờ dùng “nghệ thuật” để chỉ cho chúng tôi về thế giới khách quan. Đối với bà, sự mãn nhãn khi đứng trước một bức tranh của Davinci (nếu có) so với ngắm nhìn mảnh vườn hay cô gà mái trong chuồng đẻ trứng có lẽ cũng xấp xỉ như nhau hoặc kém hơn. Những thứ là “nghệ thuật” như người ta vẫn ngưỡng về vốn không phải bầu khí quyển cả thế giới cùng hà hít. Chúng được thai nghén, sinh nở và trưởng thành hoặc thậm chí chết đi trong một chiều kích không gian riêng, của những người có vẻ như hiểu biết về hai tiếng “nghệ thuật”. Những người này thường thì là “có ăn có học”. Và cuộc tranh luận về ý kiến của Robert Florzack, nếu có người tham gia, chí ít họ cũng phải là những người có kĩ năng nghe-hiểu một vài cái tên tiếng Tây mà người nói đề cập.  Tất nhiên bà tôi dù không thể dùng thuật ngữ “nghệ thuật” một cách nhuần nhị, tự nhiên nhưng bà cũng đã từng ngồi trong sân đình nghe tuồng chèo, ngâm ca dao, hát quan họ, … Các môn nghệ thuật từ thứ nhất đến thứ bảy len lỏi vào đời sống, ai cũng từng nhiêu lần va quệt qua, nhưng công cuộc “bàn về nghệ thuật” thì có tính tuyển chọn cao. “Nghệ thuật” cho “mọi người” nhưng “mọi người” không phải ai cũng có thể nói về “nghệ thuật”.

Vậy thì loại bà tôi ra, ta quay lại với sân chơi nhỏ hơn của những người biết về “nghệ thuật”. Robert Florzack bày tỏ sự nuối tiếc của mình trước công sức của bao thế hệ đi trước đã xây dựng nên bộ nguyên tắc để phân loại “nghệ thuật” với “rác rưởi”, giờ công cốc. Ở đây, với nhãn quan của một vị giáo sư Tây phương, ông đưa ra hoàn toàn là những dẫn chứng về nghệ thuật cổ điển của phương Tây và với ông, đó là dẫn chứng của nghệ thuật đích thực (công bằng là ông cũng lấy dẫn chứng về “rác rưởi” từ phía Tây). Người Á Đông như tôi từ khi sinh ra đã quen được dạy cách nhìn la bàn và đi về hướng Tây nên tôi sẽ không cố tranh luận với giáo sư rằng tại sao ông không cho chúng tôi lấy một slide để trưng bày một mặt trống đồng tinh xảo của mình. Rõ ràng, cái gọi là “tiêu chuẩn nghệ thuật” được vẽ ra bởi bàn tay của một số người, họ có ảnh hưởng, có một thứ quyền lực nào đó như quyền lực từ phương Tây chẳng hạn. Khi một nguyên tắc nào đó được ra với đủ sự thuyết phục và khuất phục với số đông bỗng nhiên nó trở thành “chuẩn mực”. Nói như vậy, “chuẩn mực” có vẻ như thật khó ưa vì nó thật thiếu tự nhiên nhưng nó lại cũng dễ ưa vì thực tế, nhờ có những người dang tay vun đắp “chuẩn mực nghệ thuật” mà bao nhiêu người chúng ta có cái để víu vào mà biết đâu là cái đẹp để thấy vui, đâu là cái xấu để phê bình. Nhờ thế mà cuộc sống trở nên “văn minh” hơn.

Vậy thì lại chấp nhận là cần có một chuẩn mực để ta còn có công việc là thưởng thức và phê bình nghệ thuật như đang làm. Robert Florzack so sánh sự cần thiết của “tiêu chuẩn nghệ thuật” như với luật trong thể thao, nếu anh ngã sóng xoài trên sân trượt băng thì không ai cho anh điểm. So sánh là tương đối, nghệ thuật và thể thao thật sự có những sự “lệch pha” nhất định. Trong thể thao, người ta đo lường bằng những giới hạn có tính chất lí tính, sự đúng luật hay phạm quy trên một sân bóng có thể được quan sát bằng mắt thường hoặc camera. Nghệ thuật chơi trên một cái sân khác, xa lạ hơn, nó bắt đầu từ tưởng tượng của người nghệ sĩ và đích đến là tưởng tượng của người thưởng thức. Đó là sân chơi của cảm xúc. Ban đầu chưa có cái gọi là nghệ thuật, người săn bắt hái lượm bắt đầu sáng tác thần thoại với nhu cầu được giải thích về thế giới xung quanh, dần dà, con người nhận ra có thể sử dụng những câu chuyện để đào sâu vào tìm hiểu bản ngã hay bộc lộ cái tôi, hoặc là bán ra thị trường để kiếm thêm tiền ăn ngon vào cuối tuần. Dù một tác phẩm văn học được sử dụng theo mục đích trấn tục hay thiêng liêng, về cơ bản cũng là để thỏa mãn một “dục tính” nào đó của con người. Trước kia, “dục tính” đó có thể là mong muốn được nhìn thấy những thứ giống y như thật hoặc đẹp hơn thật. Người ta từng sững sờ khi người nghệ sĩ có thể tạc ra một bức tượng người mà tỉ lệ đúng tới từng mi-li-mét, các đường nét trên cơ thể đều hoàn hảo và gương mặt của tượng thì hài hòa và đẹp theo đúng chuẩn hiện hành. Bây giờ, khi những sự “giống như thật” đã đạt tới đỉnh, “dục tính” thay đổi, họ mong muốn những thứ có khả năng khơi gợi ở một khía cạnh khác, chúng có thể méo mó, có thể cồng kềnh, có thể xô lệch, nhưng đọng lại được một ấn tượng cá biệt. Nhiều người từng nói Chipu làm thương mại, không làm nghệ thuật. Nhưng nếu nhìn vào những con số lượt xem trên Youtube thì Chipu về cơ bản là đáp ứng được một thứ gần với “chuẩn toàn cầu”. Robert Florzack cho rằng cần một tiêu chuẩn khách quan phân định chất lượng nghệ thuật. Nhưng “khách quan” đến bao nhiêu là đủ, khách quan đến từ giới phê bình nghệ thuật ngồi trong này hay lớp công chúng đông đảo đi lại nói cười ngoài kia?

Vậy thì có thể sẽ không có cái gọi là “rác rưởi” như Robert Florzack phân loại, chỉ có “nghệ thuật” với một nền dân chủ tự do vô tận. Điều này chắc chắn sẽ đem lại sự bất an cho chúng ta, những người vốn “rịt hơi” những chuẩn mực để dễ sống, vừa muốn mà vừa sợ tự do. Rác xịn sẽ lần với rác dởm (trong trường hợp chúng ta muốn giữ mã gen “phân loại”). Trong thời buổi khó khăn này, tôi mới chỉ tìm ra một cách “vượt khó” là cứ để mặc cho thời gian kiến tạo mọi thứ. Lịch sử là một quá trình sáng tạo và đào thải. Một cái mới trồi lên bao giờ cũng khó khăn và chật vật, nếu nó đủ khỏe mạnh và đề kháng cao, nó sẽ tồn tại hoặc cũng có thể “ba trăm năm lẻ nữa” mới có người biết nó đẹp và muốn phục sinh nó. Đứng trước “nghệ thuật” giờ đây tôi chỉ biết cảm nhận bằng cảm tính đã được nhúng trong một thùng thuốc nhuộm pha chế bằng rất nhiều diễn ngôn.

*

Bài viết của Đặng Thanh Hiền – lớp B-k65

Có hay không sự tiến bộ trong nghệ thuật? Để trả lời câu hỏi này, trước hết cần phải định nghĩa: Thế nào là nghệ thuật? Có nhiều quan điểm về cái gọi là nghệ thuật nhưng chung quy đều gặp gỡ nhau ở mệnh đề: “Nghệ thuật là vật thể có tính thẩm mỹ (hay nghệ thuật là cái đẹp)[1]. Hàng thế kỉ trôi qua nhưng cuộc tranh luận này vẫn chưa ngã ngũ bởi lẽ nghệ thuật không hoàn toàn là một phạm trù vật chất hay tinh thần. Tác phẩm nghệ thuật không chỉ tác động trực tiếp đến các giác quan của chúng ta bằng đường nét, hình khối, màu sắc, chất liệu,… mà còn khơi gợi suy tư trong tâm trí ta. Nói vậy tức là, tính thẩm mỹ (cái đẹp) trong nghệ thuật là một đặc trưng cảm tính và biến thiên.

Để đối thoại với quan điểm của GS. Robert Florczak, tôi sẽ đặt nghệ thuật trong sự đối sánh với khoa học.

Nghệ thuật Khoa học
Mục tiêu Tạo ra cái khác

(Art makes different things)

Tạo ra cái tốt hơn

(Science makes better things)

Nhu cầu Thưởng thức Sử dụng
Tính chất Cảm tính Lý tính

Khái niệm “tiến bộ” (progress) thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học, để chỉ sự phát triển đi lên hay cụ thể hơn, là nỗ lực cải tiến các sản phẩm khoa học sao cho ngày càng thuận tiện đối với người sử dụng. Trong khi đó, tham vọng của nghệ thuật là tìm ra các cách diễn đạt khác về thế giới (cả vật chất lẫn tinh thần) nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của con người. Không thể đặt hai bức tranh phản ánh cùng một chủ đề nhưng ra đời trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau lên bàn cân xem bức nào TỐT hơn. Sự đánh giá ở đây, nếu có, hẳn chỉ là “Tôi thấy bức tranh này ĐẸP hơn” mà cái đẹp, như đã nêu trên, thuộc về phần cảm tính. Vậy, thay vì dùng cụm từ “tiến bộ trong nghệ thuật”, tôi ưa cách diễn đạt “thay đổi trong tư duy nghệ thuật” hơn. Chẳng hạn, ta có hai bức tranh cùng miêu tả người nữ khỏa thân:

Kết quả hình ảnh cho bathsheba rembrandt

Bathsheba (1654), Rembrandt van Rijn

Seated Kết quả hình ảnh cho Seated Bather (1930), Pablo PicassoBather (1930), Pablo Picasso

 

Bằng trực quan, có thể nhận thấy sự tương đồng giữa hai bức tranh là tư thế ngồi khỏa thân của người nữ. Tuy nhiên, sự khác biệt trong tư duy nghệ thuật dẫn đến cách tạo hình của hai nghệ sĩ không giống nhau. Rembrandt theo phong cách Baroque – đặc trưng là “ánh sáng phóng đại, cảm xúc mãnh liệt, thoát khỏi sự kiềm chế”[2]. Vì thế trong Bathsheba, người nữ hiện lên gần như chân thực qua những đường nét tròn trịa, tông màu trắng sáng tương phản rõ rệt với nền tối sẫm của không gian phòng tắm. Trái lại, Picasso – một đại diện của trường phái Lập thể – lại miêu tả người nữ khỏa thân trong Seated Bather bằng những hình khối phân mảnh khác nhau nhằm đồng thời tái hiện nhiều góc nhìn khác nhau và vì thế, sản sinh vô số phiên bản người nữ trong tâm trí người xem.

Mỗi nghệ sĩ có tư duy nghệ thuật riêng xuất phát từ những nguyên cớ riêng và cho ra đời các tác phẩm nghệ thuật riêng. Vậy phải chăng quan điểm của giáo sư: “Cần phải khôi phục các tiêu chuẩn thẩm mỹ cổ điển” là sự đóng khung nghệ thuật? Tôi không cho là vậy nhưng cũng không hoàn toàn đồng tình với nhận xét rằng nghệ thuật đương đại thể hiện sự xuống cấp của các tiêu chuẩn thẩm mỹ. Tôi nghĩ nghệ sĩ ở bất cứ thời đại nào cũng khát khao diễn giải thế giới bằng nhiều dạng thức. Bởi lẽ những thể nghiệm độc đáo trong nghệ thuật góp phần nới rộng các chiều kích nhận thức của con người cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.

[1] all-art.org, Art through the ages

[2] Wikipedia

Mỹ cảm về thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ

IMG_4301

“Em Hà Nội” của Trần Trung Tín được chụp lại tại triển lãm Bi kịch lạc quan, năm 2013

Những hình ảnh của thành phố có một vị trí quan trọng trong thơ Lưu Quang Vũ. Dù có thể được quy chiếu về một địa danh cụ thể như Hà Nội, Hải Phòng hay chỉ là một không gian phiếm chỉ thì thành phố, với những nơi chốn, địa điểm, biểu tượng của mình như đường phố, quán xá, nhà ga, cửa hiệu… đã được tái trình hiện trong thơ Lưu Quang Vũ với một mỹ cảm đặc biệt. Bài viết này tập trung phân tích mỹ cảm ấy trong những sáng tác của Lưu Quang Vũ ở thập niên 1970. Đó là thời điểm mà chiến tranh lan rộng ra miền Bắc, đặt Hà Nội, Hải Phòng ở trong tình trạng bất an thường trực. Đó cũng là lúc đời sống cá nhân của nhà thơ có nhiều biến động, đổ vỡ; những hình ảnh của thành phố xuất hiện dày đặc trong thơ Lưu Quang Vũ, trở thành sự phóng chiếu những trải nghiệm riêng tư của tác giả, vì thế, chúng có khả năng là chìa khóa để mở cửa vào thế giới nghệ thuật Lưu Quang Vũ ở giai đoạn u uẩn, gai góc nhất nhưng cũng là giai đoạn nhà thơ đến độ chín trong phong cách nghệ thuật của ông.

Thành phố không bao giờ chỉ tồn tại như một đơn vị hành chính hay một địa đanh trên bản đồ mà nó còn giữ một địa vị đặc biệt trong hệ thống biểu tượng của một nền văn hóa. Như một thực thể văn hóa, thành phố có thể được tiếp cận như một diễn ngôn. Theo đó, thành phố được hiểu là kết quả của một quá trình tạo nghĩa thông qua các thực hành văn hóa trong những ngữ cảnh nhất định. Diễn ngôn về thành phố thường được đưa về các đối cực. Hoặc, nó được xem như là hiện thân của quốc gia, thậm chí là sự phóng chiếu, là hình ảnh lý tưởng của quốc gia; hoặc, nó lại là không gian mở ngỏ cho con người cá nhân, nơi con người giải phóng bản thân mình ra khỏi nhiều ràng buộc về cả thể xác lẫn tinh thần. Hoặc, nó là biểu tượng của một sự quy hoạch cảnh quan, tổ chức xã hội theo một trật tự của ý chí con người, đối lập với trật tự của Thượng đế; hoặc, nó là thế giới của những chuyển động, xê dịch không ngừng, của những hỗn độn, bất định, lệch chuẩn cùng với những trải nghiệm bất an trong thế giới tinh thần con người. Vừa công cộng vừa riêng tư, vừa khuôn mẫu vừa nổi loạn, thành phố luôn từ chối là một ký hiệu đơn nghĩa.

Phải đến thời kỳ thuộc địa, ở Việt Nam mới xuất hiện những thành phố mang dáng dấp hiện đại như Hà Nội, Sài Gòn,… Dù chưa phải là những đô thị điển hình, nhưng thành phố thuộc địa quả thật một kiểu kiến trúc mới, một không gian xã hội mới với nhiều khác biệt về diện mạo và tính chất so với làng xã nông nghiệp cổ truyền, thậm chí so với chính kinh đô dưới các triều đại phong kiến. Bài thơ “Sông Lấp” của Trần Tế Xương có thể xem là một trong số tác phẩm văn học sớm nhất ghi lại buổi đầu của quá trình đô thị hóa ở nước ta dưới thời thuộc địa. Tuy chỉ là một bài thơ tứ tuyệt nhưng “Sông Lấp” đã phác thảo được những cải tạo nghiêm trọng về cảnh quan có thể ví như một thực tại “bãi biển hóa nương dâu” diễn ra với tốc độ nhanh chóng, làm cho người dân thuộc địa không khỏi ngỡ ngàng. Thành phố thuộc địa ban đầu là kết quả từ một quá trình cưỡng bức văn hóa, bị nhìn nhận như là một không gian nơi các giá trị truyền thống bị đảo lộn và do đó đáng bị phê phán, song dần dần, theo thời gian, được phát hiện như một không gian rộng rãi hơn so với không gian xã hội truyền thống, nơi mở ra những cơ hội, những điều kiện khả thể mới, có sức hấp dẫn, cám dỗ nhất định. Thay vì cự tuyệt nó, con người đầu thế kỷ XX bắt đầu hướng đến việc thích nghi với thành phố. Những địa điểm, nơi chốn của thành phố – nhiều trong số đó chỉ hình thành dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp – dần trở nên quen thuộc như đường phố, nhà ga, công viên, vườn thú, nhà thờ, trường học… Chúng đi vào các diễn ngôn văn chương nghệ thuật, được khoác cho những ý nghĩa mà chỉ con người hiện đại mới thấy. Chẳng hạn, đường phố được xem là một không gian dân chủ khiến con người hiện đại hào hứng, say mê vì ở đó, con người cá nhân được thoát khỏi nhiều ràng buộc để tự lựa chọn, thậm chí một lựa chọn có vẻ như phi mục đích: “Tôi là khách bộ hành phiêu lãng/Đường trần gian xuôi ngược để rong chơi” (Thế Lữ). Song, đúng như nhận xét của Đỗ Lai Thúy, nó cũng có thể “vô danh hóa con người”, “xóa nhòa cá tính bởi những thoáng chốc và bèo bọt của nó”[1]. Một ông đồ thất thế trên vỉa hè, hiện hữu mà như vô hình trước những bước chân vội vã của người qua đường là hình ảnh gợi xót xa về sự phù du của nhân sinh, nhưng xa hơn, nó có thể còn khơi động nỗi bất an của con người khi sống trong nhịp điệu phố phường.

Cuộc kháng chiến toàn quốc năm 1946 đã tạo ra sự thay đổi trong cách kiến tạo diễn ngôn về thành phố. Thay vì là một không gian mở cửa cho những trải nghiệm cá nhân, giờ đây nó được mô tả như là tiêu điểm của quốc gia, dân tộc. Chỉ cần đọc lại ca từ bài hát “Người Hà Nội” (1947) của Nguyễn Đình Thi – một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất sau ngày toàn quốc kháng chiến, có thể thấy Hà Nội được biểu đạt như một cấu trúc quy tâm: nó là tâm điểm của cả đất nước, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, nơi “Việt Nam yêu dấu ngả soi bóng sông Hồng Hà”.  Các trung tâm trong bức tranh Hà Nội mà Nguyễn Đình Thi vẽ bằng ngôn từ là các nơi chốn, địa điểm, kiến trúc đã trở thành biểu tượng lịch sử ngàn năm: Hồ Gươm, Hồ Tây, Tháp Rùa (sau này, diễn ngôn về thành phố của bộ phận văn chương nghệ thuật cách mạng sẽ dung nạp thêm những biểu tượng của thời đại mới như quảng trường Ba Đình hay nhà máy, công trường, nhà cao tầng – thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng đồng thời cũng hiện thân cho niềm kiêu hãnh của con người khi thiết lập một trật tự mới, tạo ra một cảnh quan mới phi thường bằng ý chí và sức mạnh của mình). Đường phố trong bài hát của Nguyễn Đình Thi vẫn gợi lên không khí của đời sống thị dân: “Hà Nội vui sao/Những cửa đầu ô/…Sống vui phố hè/Bồi hồi chàng trai/Những đôi mắt nào/Quanh co, rộn ràng Đồng Xuân/Xanh tươi bát ngát Tây Hồ/Hàng Đào ríu rít Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Gai…” Song nó đã mang tính chất của con đường toàn dân, của không gian quy tụ hàng hàng lớp lớp con người, nó đông đúc, náo nức kiểu không gian sử thi chứ không còn là con đường dành cho “khách bộ hành phiêu lãng”, đơn độc, lạc loài nơi phố xá. Thành phố trong văn chương cách mạng được bồi đắp nhiều ý nghĩa lịch sử gắn với quốc gia, dân tộc, vì thế, tính chất đô thị của nó, đặc biệt là những khía cạnh móc nối với trải nghiệm cá nhân của con người, bị mờ đi, thậm chí bị xóa bỏ.

Trong thơ Lưu Quang Vũ, cũng có thể nhận thấy một mỹ cảm sử thi về thành phố như thế thể hiện ở một vài sáng tác. Bài “Chưa bao giờ”, viết vào tháng 4 năm 1967, khi Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, là một ví dụ. Kết cấu bài thơ là sắp đặt cận kề hai hình ảnh tương phản nhau của Hà Nội: một Hà Nội với nhịp điệu đời thường hiền hòa, yên ả với những “quầy hợp tác bán rau non”, “hoa ngoại ô” ùa vào phố phường, chuông tàu điện leng keng… và một Hà Nội đã nếm trải bom đạn, nơi “đường phố của ta dàn thành thế trận”, luôn sẵn sàng trong tình trạng chiến đấu với kẻ thù. Hai hình ảnh Hà Nội tương phản ấy, thực chất, lại nâng đỡ cho nhau, làm cho thành phố trong bài thơ bình yên và vững chãi, dịu dàng và hiên ngang, trữ tình và hào hùng. Chùm “Sông Hồng” mang dáng dấp của một trường ca, trong đó, hai khúc ca “Hồi ức của một nghĩa binh già” và “Lời từ giã của Trung đoàn thủ đô” tái tạo lại hai thời khắc lịch sử quan trọng của Hà Nội – thời điểm Hà thành thất thủ trước thực dân Pháp năm 1882 và ngày Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội mùa đông năm 1946, đánh dấu sự bắt đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954). Lưu Quang Vũ muốn từ lịch sử của thành phố để suy ngẫm về sự thăng trầm của lịch sử dân tộc – một nguồn cảm hứng quan trọng trong thơ ông. Để khắc họa vẻ sử thi của Hà Nội, Lưu Quang Vũ khai thác triệt để thủ pháp lấy toàn cảnh, tức là cố gắng nắm bắt đại cảnh, làm nổi bật những cảnh tượng hoành tráng, bề thế bằng lối liệt kê hay các dạng thức trùng điệp, chú ý tạo điểm nhấn bằng những hình ảnh hùng vĩ, dữ dội: “Hà Nội đêm nay nhắc gọi/ ra đi hôm nay để mãi mãi trở về/ mưa bay lồng lộng bờ đê/Hà Nội nhòe trong nước mắt/Tam Đảo sau lưng sừng sững/Việt Bắc chiến khu bát ngát/Hồng Hà cuồn cuộn réo sôi/chỉ xuống dòng sông đỏ rực/chúng ta thề sẽ trở về”.

Tuy nhiên, đến giai đoạn những năm 1970, thi pháp về thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ có sự thay đổi quan trọng. Màu sắc sử thi hầu như không hiện diện trong cách nhà thơ tạo hình về thành phố. Sự thay đổi này, như đã nói ở trên, có thể một phần do cuộc chiến tranh ngày càng trở nên khốc liệt và một phần khác, do nhiều biến cố trong đời sống cá nhân của nhà thơ dẫn đến những lầm lỡ, phiền toái, rạn nứt. Từ chỗ là một nhà thơ trẻ được chú ý, được ái mộ, Lưu Quang Vũ trở thành một kẻ ngoại biên. Vương Trí Nhàn – một người bạn của Lưu Quang Vũ – đã nói về nhà thơ ở thời điểm ấy: “Báo chí không in thơ Vũ nữa. Vũ rơi vào tình thế cô độc, hầu như lạc lõng giữa dòng người sôi nổi.”[2] Trong cái nhìn của Vương Trí Nhàn, hình ảnh của Lưu Quang Vũ là “hình ảnh của một kẻ long đong giữa cuộc đời vô định.”[3] Thành phố, dù là thành phố thời chiến đi nữa, vẫn cứ còn những ngóc ngách, không gian để kẻ bên lề nương náu, cho phép hắn được dừng lại, ngồi lại để ngắm nhìn, nghiền ngẫm mọi thứ hay để mặc hắn lang thang không mục đích. Sở dĩ thành phố dung nhận một Lưu Quang Vũ bị ngoại biên hóa lúc đó vì xét đến cùng, nó vẫn mang trong mình bản chất của một không gian nới lỏng nhiều ràng buộc nhờ tính chất của một môi trường thị dân còn được bảo lưu ít nhiều.

Diện mạo phản sử thi của thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ có thể thấy ngay ở mảng màu u trầm mà ông sử dụng để miêu tả nó. Thành phố của Lưu Quang Vũ là thành phố nghèo, khu phố nghèo, quán nghèo: “Khu phố nghèo lụp xụp ta qua/ Những cô bé ngã vào đêm tội lỗi/ Những mụ già đen tối/ Ngồi bên hè vá áo mặt âm u” (“Những đêm hoa vàng”); “Biết nói gì nữa em, cô gái hoang/ Của hải cảng tối/ Của tấm chăn nghèo thời chiến tranh phá hoại/ Của nỗi buồn nội chiến” (“Chiều cuối”); “Thành phố đầy bụi bặm/ Những mặt người lì nhẵn chen nhau” (“Có những lúc”), “Thành phố thời anh mười bảy tuổi/ Viển vông, cay đắng, u buồn” (“Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa”)… Đó không còn là hình ảnh của một đời sống đạm bạc nhưng ánh lên một vẻ đẹp bình dị, yên ả, trong sáng mà Lưu Quang Vũ từng khắc họa trong những bài thơ ở giai đoạn trước như “Phố ta”, “Vườn trong phố”… Trái lại, thành phố như một cơ thể đang mang thương tích bởi chiến tranh mà vẫn phải tiếp tục gồng lên để chịu đựng sự khắc nghiệt chưa dừng lại của nó. Thành phố là một thế giới của những con người rệu rã, nhọc nhằn, mệt mỏi. Trong thành phố của Lưu Quang Vũ, ta nhìn thấy những “Em gái mười lăm đã không còn thiếu nữ/ Dưới mái tóc quăn trơ trụi vai gầy” (Những tuổi thơ); “Đám người bán máu xanh gầy/ Co ro chờ ngoài bệnh viện” (Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa); “Lão ăn mày mù thổi sáo/ Điệu gọi hồn âm u” (“Chiều cuối”), “Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường/ Thân tiều tụy ôm mặt cười lặng lẽ” (“Quán cà phê ngoại ô”); ta nghe thấy “Tiếng bán mua tiếng cãi chửi ồn ào/ Những nhà cửa nhỏ nhoi những mặt người bụi bẩn” (“Từ biệt”); “Bà già bán thông phong bóng đèn/ Ca thán về thời buổi khó…Ai cười lên ha hả/ Giễu một người ngã xe” (“Ngã tư tháng Chạp”)… Đó là những hình ảnh, âm thanh mà thành phố trong diễn ngôn sử thi từ chối kết nạp vì chúng có nguy cơ phá vỡ sự cố kết đến mức hoàn tất của nó: một thành phố của những cơ thể khỏe mạnh hiện thân cho những phẩm chất đạo đức và lý tưởng thời đại không thể nghi ngờ… Những hình ảnh, âm thanh của thành phố mà Lưu Quang Vũ ghi lại gợi cảm thương nhưng có lẽ xa hơn thế, chúng hé lộ một thực tại bất an bởi sự rã rời, nứt rạn của nhiều giá trị nền tảng trong đời sống thường nhật. Thơ về thành phố của Lưu Quang Vũ hướng tới những góc khuất của đời sống thường nhật mà diễn ngôn thời chiến thường tìm cách loại trừ bởi tính chất phản anh hùng của chúng. Nói khác đi, thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ là một thành phố ngoại biên (trong tương quan với thành phố sử thi mà văn chương cách mạng xây dựng) được nhìn từ con mắt của một kẻ cũng đang ở vị thế ngoại biên mà ông đã tự họa không ngần ngại: “Tôi xấu xí mù lòa như đứa trẻ mồ côi” (“Có những lúc”); “Rách rưới, bơ phờ, cô độc… Hắn không phải là tấm hình đẹp trong sách/ Hắn chỉ là dãy phố nghèo lấm đất…” (“Người con giai đến phòng em chiều thu”)… Thành phố nghèo, buồn, lầm lụi, tiềm tàng bất an ấy chính là sự phóng chiếu cái tôi của Lưu Quang Vũ.

Một khám phá sâu hơn về thành phố của Lưu Quang Vũ đòi hỏi phải chú ý đến sự tái trình hiện những địa điểm, nơi chốn gắn với nó trong thơ ông. Có thể nói động hướng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ là kết nối những nơi chốn, địa điểm ấy với những trải nghiệm riêng tư và miêu tả chúng trong mỹ cảm thị dân vốn bị kìm nén bởi quá trình cải tạo tư sản bắt đầu từ năm 1954 và sự chi phối của chủ nghĩa tập thể thời chiến. Trước hết, thơ Lưu Quang Vũ đem đến một diện mạo khác cho đường phố. Nếu đường phố trong thơ ca sử thi là không gian trảy hội, quy tụ toàn dân, không gian cho sự diễu hành biểu dương lực lượng thì giờ đây, trong thơ Lưu Quang Vũ, nó là không gian lang thang của người bộ hành cô độc. Con người trong thế giới sử thi không lang thang vì đó là thế giới tất định, hơn nữa, con người ấy luôn đi cùng đội ngũ, đồng hành cùng đoàn thể. Trong khi đó, lang thang là động thái con người xé lẻ khỏi tập thể, vì thế, trở nên đơn độc hay mất định hướng giữa đường phố vắng lặng hay xa lạ: “Tôi chán cả bạn bè/ Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới/ Tôi bỏ ra đi, họ ngồi ở lại/ Tôi đi một mình trong phố vắng ban đêm” (“Có những lúc”); “Người đàn bà mặc áo mưa xám/ Đội mũ nồi đàn ông/ Đi lang thang các thành phố/ Những bờ bể chênh vênh kè đá/ Những nhịp cầu những cửa kính mù sương” (“Thơ viết về một người đàn bà không có tên II), “Đêm nay, tôi chẳng biết lối về/ Phía nào cũng hàng rào trước mặt/ Thế giới có bao nhiêu tường vách/ Ngăn cản con người đến với nhau” (Mấy đoạn thơ…)… Motif lang thang trong thơ Lưu Quang Vũ khác với motif phiêu bạt, giang hồ trong thơ lãng mạn ở chỗ nhân vật trữ tình bị giới hạn trong không gian thành phố thay vì xê dịch tới một xứ sở, nơi chốn xa xôi nào khác: “Muốn lên tàu đi đâu thật xa/ Nhưng nhà ga đã sụp” (“Ngã tư tháng Chạp”). Nỗi bất an trong trải nghiệm lang thang giữa thành phố của Lưu Quang Vũ một phần quan trọng bắt nguồn từ nhận thức của ông về một thế giới đang hoặc dễ dàng bị mất đi ý nghĩa. Đó là thế giới nơi những tên gọi phố phường đã trở thành những ký hiệu rỗng: “Phố Hàng Buồm đã chẳng còn buồm/ Phố Hàng Lược chẳng còn ai bán lược/ Phố Hàng Bạc những người thợ bạc/ Đã chết cùng đêm hội ngày xưa/ Chợ Mơ không còn mơ…” (“Không đề I”), thế giới nơi nhân vật trữ tình nhận ra cái hư vô – thứ mà thời đại Lưu Quang Vũ cấm kỵ nhất – là thứ con người phải giáp mặt: “Không vị thần nào để tin/ Không quỷ ma nào để sợ…/ Không có cả một nỗi buồn để khóc/ Cũng chẳng có chiến lũy nào để chết/ Chúng ta làm gì cho hết buổi chiều nay?” (“Không”). Trong thành phố của Lưu Quang Vũ, mưa trở thành hiện tượng dễ làm con người e ngại bởi nó có khả năng xóa bỏ ý nghĩa của mọi thứ. Đúng như cảm nhận của Vương Trí Nhàn: “Ở anh (tức Lưu Quang Vũ – T.N.H), mưa cho thấy sự trôi qua của thời gian mà con người bất lực, không sao níu kéo nổi. Mưa làm cho hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai trở nên lờ mờ, không xác định”[4]: “Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ Xóa nhòa hết những điều em hứa” (“Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa”); “Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà/ Như thác trắng vỡ tan như bạc của trời như bước chân của ký ức/ Em vuốt nước mưa chảy ròng trên mặt/ Ngoảnh đầu nhìn về đâu?…/ Làm sao anh biết được/ Điều ta tìm ẩn hiện nơi đâu/ Mỗi con người một vật thể cô đơn/ Nhìn rõ nhau qua cửa kính trống trơn/ Nhưng không thể nghe nhau không thể nói…” (“Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà”); “Cánh hoa nhòe trong mưa tơi tả/ Như những gương mặt ngày xưa không còn ai nhớ nữa” (“Mặt trời trong nước lạnh”)…

Quán xá là một nơi chốn mang dấu ấn đặc biệt trong thơ Lưu Quang Vũ. Chưa có một khảo cứu nào về ý nghĩa văn hóa của nó trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt nhưng có thể thấy sau những cải tạo về cảnh quan và tổ chức xã hội kể từ 1954, quán xá là không gian hiếm hoi còn lại trong thành phố dành cho những cá thể lẻ bầy, chúng là nơi chốn riêng tư, thậm chí một không gian dân chủ nhỏ hẹp. Trong thơ Lưu Quang Vũ, quán xá là không gian nơi còn giữ được đôi nét phong lưu của đời sống thị dân. Đó là những tiệm cà phê với cửa kính, chiếc máy hát, tranh sơn dầu… Nhìn rộng ra, những địa điểm, nơi chốn và hiện vật của lối sống đô thị vẫn hiện diện, dù ít ỏi, trong thời chiến như rạp phim, nhà hát, những cuốn sách, những ca khúc nước ngoài…có lẽ là những nhân tố mở rộng tâm thức con người, nhen nhóm không chỉ “những giấc mơ êm đềm” mà còn cả “những giấc mơ nổi loạn”, bất chấp sự khắt khe của chủ nghĩa tập thể thời chiến trong việc kiểm soát tinh thần. Không gian còn giữ lại nét phong lưu của đời sống thị dân ấy làm nền để Lưu Quang Vũ khắc họa hình tượng người phụ nữ – đối tượng trữ tình của ông. Hình tượng nữ trong thơ ông toát lên một nét đẹp u uẩn sang trọng nhưng không kiểu cách, gần gũi nhưng vẫn có gì đó khó nắm bắt: “Người đàn bà chơ vơ/ Đi vòng quanh chiếc đĩa hát khổng lồ/ Trong bản nhạc đợi chờ của Gríc/ Gương mặt đẹp chập chờn sau lọ mực/ Khi âm thầm tôi viết những dòng thơ” (“Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên I”); “Trong tiệm cà phê, bài hát về một người đàn bà cầm trái táo/ Người đàn bà mặc áo xanh đi dưới biển lá cây vàng…/ Năm tháng và tuổi trẻ đi qua/ Mắt em buồn hoang vắng…” (“Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà”)…

Thành phố dù cho phép con người cô đơn nương náu nhưng như đã nói, nó vẫn cứ là không gian giới hạn, không làm khuây được những xáo động bất an trong nội tâm nhà thơ. Khát vọng giải thoát giới hạn trong thơ Lưu Quang Vũ được mã hóa thành hệ thống biểu tượng không gian cao rộng đối lập với thành phố theo cả trục ngang (“biển”, “chân trời”) và trục dọc (“bầu trời”, “mây trắng”). Đến lượt mình, các biểu tượng không gian cao rộng ấy lại là sự mã hóa một phạm trù thẩm mỹ mà Lưu Quang Vũ xác lập cho riêng mình – cái vô biên. Ngay cả trong những ngày tháng nhiều dày vò, dằn vặt nhất, sự hướng tới cái vô biên vẫn là một khắc khoải thường trực ở Lưu Quang Vũ: “Bỏ phường phố bỏ dòng sông anh tìm đến biển/ Dù muộn mằn dù tê dại bàn chân/ Trước mắt ta là khoảng vô cùng/ Mặt trời như cốc rượu nhớ mong/ Ta gửi lại muôn đời trên mỏm đá/ Có lẽ nào em lìa anh lần nữa?/ Tàu chạy ngược chiều đêm, em thiếp ngủ/ Bánh sắt ầm ầm bão lốc lao đi/ Tàu lửa bay vụt sáng cánh đồng khuya/ Đất quằn quại, đá nghiến răng vỡ nát/ Đường ray bỏng rung lên đau đớn/ Nhưng con tàu đang chạy tới một vầng trăng.” (“Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa”); “Mười bảy tuổi chúng ta thường tới đó/ Nói rất nhiều về những cửa biển xa” (“Quán cà phê ngoại ô”); “Vượt lên những vách tường chật hẹp/ Một chân trời xanh biếc lúc hoàng hôn?” (“Một thành phố khác một bờ bến khác”). Trong thơ Lưu Quang Vũ từ giữa thập niên 1970 trở đi, nỗi khao khát cái vô biên được thể hiện bằng một giọng điệu bớt khắc khoải hơn, thay vào đó, điềm tĩnh hơn, tin tưởng hơn, như điều mà nhà thơ nhận thức được trong bài “Giấc mơ của anh hề”: “Cái không thể nào tới được/ Đã giục con người/ Vươn đến những điều đạt tới… Đời sống là bờ/ Những giấc mơ là biển/ Bờ không còn nếu chẳng có khơi xa…”.  Cái vô biên là chiều kích khoáng đạt nhất của tâm hồn, tự do nhất của tinh thần, nó không đối lập với thực tại, con người tiệm cận với nó bằng sự chăm chút, trân trọng thực tại: “Không thể ôm cả bầu trời lồng lộng/ Nhưng có thể cầm một chùm quả trên tay/ Có thể trồng thêm một bóng mát cho ngày/ Không tới được một vì sao xa lắc/ Nhưng có thể đến trong mùa cấy gặt/ Làm thuyền trên sông, làm lúa trên đồng/ Làm ngọn lửa hồng, làm tấm gương trong/ Và nhận hết niềm vui trên cõi sống” (“Bài hát ấy vẫn còn là dang dở…”). Có thể nói đến một tâm thức hiện sinh trong thơ Lưu Quang Vũ bao hàm cả sự khủng hoảng niềm tin và nỗi khao khát tự do tinh thần tuyệt đích, mà dù ở cực nào, tâm thức ấy chưa bao giờ biến cái cao cả thành đối tượng để phủ định.

Sẽ là thiếu sót khi nói về thành phố của Lưu Quang Vũ mà không quan tâm tới gương mặt lịch sử của nó. Những năm 1970, Hà Nội, Hải Phòng – hai thành phố đi vào nhiều nhất trong sáng tác của Lưu Quang Vũ – trực tiếp trở thành mục tiêu của những trận bom lớn mà quân đội Mỹ dội xuống. Sự khốc liệt đó được tái trình hiện theo những cách khác nhau trong văn chương nghệ thuật ở giai đoạn này. Ở dòng chủ lưu, bộ phim Em bé Hà Nội (1974) của đạo diễn Hải Ninh tuy sản xuất sau thời điểm xảy ra vụ thảm sát do bom Mỹ ở phố Khâm Thiên (1972) nhưng có thể xem là một trong những tác phẩm sớm nhất, hơn thế còn mượn phương tiện tuyên truyền hiện đại nhất là điện ảnh, để biểu đạt sự kiện kinh hoàng này. Khung cảnh tang thương của Hà Nội được phóng chiếu trên màn ảnh, dĩ nhiên, trước hết là bằng chứng để tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ. Nhưng sự đau thương mà con người chịu đựng, theo logic của bộ phim nói riêng và của nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung, có thể được bù đắp bởi những chiến công. Âm hưởng anh hùng của những chiến công trở thành âm hưởng chủ đạo trong các tác phẩm xoay quanh sự kiện này. Nhưng có một cách tiếp cận khác về thành phố và chiến tranh thuộc về mạch ngầm của nghệ thuật mà phải đến giai đoạn về sau, khi không khí văn hóa cởi mở hơn, chúng mới được giới thiệu và được khẳng định giá trị như tranh của Trần Trung Tín, thơ Phan Vũ,… Trong hội họa của Trần Trung Tín, thành phố thời chiến là một không gian bóp nghẹt, dồn bức, một thế giới của những nỗi sợ hãi, tuyệt vọng, cay cực của những con người bé nhỏ bị cuốn vào cuộc chiến. Bức “Em Hà Nội” mà Trần Trung Tín vẽ trên giấy báo mà trên đó còn sót lại dòng tít lớn “Những trang sử” là một cách biểu cảm về con người thời chiến hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa vốn thường lãng mạn hóa, phi thường hóa hình tượng: ánh mắt thất thần, câm lặng như không thể hiểu mọi thứ tàn nhẫn đang diễn ra mà vẫn cứ phải chịu đựng.

Gương mặt lịch sử của thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ phần nào gần gũi với những cảm nhận của Trần Trung Tín ở tính chất phản sử thi của nó. Thành phố thời chiến, trước hết, là một quang cảnh điêu tàn, loạn lạc nơi con người thấm thía đến tận cùng nỗi cơ cực, khổ ải: “Gió hú ầm ào qua gạch vỡ/ Người chết vùi thân dưới hố bom/ Kẻ sống vật vờ không chốn ở/ Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường/…/ Máu chảy thành sông thây chất núi/ Bè bạn tan hoang mình rã rời” (“Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn”). Chiến tranh trong cái nhìn của Lưu Quang Vũ như một trò chơi nghiệt ngã, nhẫn tâm, mà càng nhỏ bé, càng bị xoay vần trong trò chơi ấy: “Mọi chuyện thiêng liêng thành nhảm nhí/ Khắp nơi trí trá lọc lừa nhau/ Nước Pháp khôn ngoan nước Nhật giàu/ Nước Mỹ lắm bom mà cực ác/ Nước Nga hiềm khích với nước Tàu/ Nước Việt đói nghèo thân cơ cực/ Đất hẹp trụi trần vạn khổ đau” (“Đêm đông chí…”). “Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn” có thể xem là một bài thơ đậm cảm thức bi kịch: con người không cưỡng lại được cuộc chiến như là định mệnh của mình, đối mặt với định mệnh phi lý ấy, cái khó nhất không phải sự né tránh chết chóc, thương vong mà là làm sao để dẫu bị cuốn vào guồng quay nghiệt ngã của cuộc chiến, vẫn không thể nghiệt ngã như nó, vẫn có thể giữ được cái đẹp đẽ và cao cả của sự làm người.

Thành phố thời chiến trong thơ của Lưu Quang Vũ có khi được hình dung như một thế giới biến loạn, mọi thứ đang rời rã, tha hóa, gợi liên tưởng đến cảm quan mạt thế. Bài “Móng tay trên đá” tưởng tượng về thành phố như một bộ lạc tàn lụi: “Người đàn bà trong thành phố không tên/ Tay lực lưỡng một ái tình hung tợn/ Những con tàu không lái buồm chí hướng/ Những cụ già như bao tải tả tơi/ …/ Ông luật sư ăn mày cửa chợ/ Phật Thích ca đẩy xe bán cá/ Cãi nhau với bác hàng thùng…/ Vị tộc trưởng kêu to: ngừng bắn/ Hãy chuyển sang trận đánh hoà bình/ Quân lính buông súng rút dao găm/ Giết nhau trong im lặng”. Cảm quan mạt thế thể hiện đậm nét nhất chính là trong chùm các bài thơ xoay quanh sự kiện Hà Nội chịu những trận ném bom kinh hoàng của Mỹ năm 1972. Bài thơ “Khâm Thiên” có thể ví như một bài thơ điện ảnh với những câu thơ tương ứng với nhiều cỡ cảnh khác nhau, khi toàn cảnh – “phố Khâm Thiên ầm ầm đổ sụp/ tiếng người la khủng khiếp đêm dài”, “phố đông đúc thành bãi bằng đổ nát/ không nhận ra những vỉa hè quen”, khi cận cảnh – “mặt giập vỡ ngực trần thủng hoác/ những đống tóc gân đầu mình lẫn lộn”, khi xoáy vào những cảnh ai oán tang tóc – “quan tài trẻ thơ như những chiếc hòm con”, “những bó hương châm nát cả bầu trời”, “báo đậy mặt, ruồi đậu bàn chân xám”, khi lia vào những gương mặt người, mỗi gương mặt lại biểu hiện những tình trạng sang chấn khác nhau – “bé ngẩng đầu ngơ ngác/ bên xác anh xác chị xác mẹ xác cha”, “bà cụ phát điên vật mình ôm mặt”, “tôi đi như mù lòa/ đỡ em gái đập đầu ngã ngất”…  Thảm kịch mà Lưu Quang Vũ chứng kiến trên thành phố của mình là sự lên ngôi của cái phi nhân đang vươn rộng toàn cầu bất chấp “trái đất phóng bao tàu vũ trụ”, bất chấp “không nơi nào không nói đến tình thương”. “Khâm Thiên” của Lưu Quang Vũ từng được ví như một Guernica bằng ngôn từ, cho dù ngay trong bài thơ này, ông cho rằng những gì mà Picasso thể hiện trong kiệt tác của mình cũng không kinh hoàng, thê thảm bằng những gì mà người dân thành phố của ông đang phải chịu đựng. Ám ảnh tận thế của bài thơ không phải chỉ được gợi lên từ những hình ảnh chết chóc, lụi tàn mà còn từ nỗi ngao ngán, mỉa mai đến tột cùng của nhân vật trữ tình khi thấy những biểu tượng hùng mạnh nhất của nền văn minh hiện đại lại là những thứ có khả năng thảm sát con người lớn nhất, những nhân vật quyền lực nhất trên bàn cờ chính trị, hay nói lên những mỹ từ về thế giới, lại là những người ra những quyết định phi nhân tàn bạo nhất.

Có thể nói sự kiện Hà Nội bị ném bom đã thôi thúc cái tôi trữ tình công dân ở Lưu Quang Vũ lên tiếng. Đặt bên cạnh Phan Vũ, người viết khúc cầu hồn cho Hà Nội bằng trường ca “Em ơi! Hà Nội phố” (1972), gợi lại những gì còn lại sau khi thành phố trải qua thảm họa – những thứ tưởng như rất đỗi nhỏ bé, mơ hồ, mong manh hóa ra lại là những gì bền vững nhất, không bom đạn nào hủy hoại nổi, Lưu Quang Vũ có một cách ứng xử nghệ thuật khác trong chùm thơ Hà Nội 1972. Ngôn ngữ của ông là thứ ngôn ngữ của phim tài liệu ký sự về cuộc chiến – hình ảnh bộn bề tựa như từ hiện thực trực tiếp bước vào thơ ca. Điểm nhấn trong cách tạo hình ở chùm thơ là những náo động dữ dội mang màu sắc tận thế: “Dưới vầng trăng tê dại nỗi kinh hoàng/ Bom xé trời, mắt đất chao nghiêng/ Vụt mở hoác những vực sâu khủng khiếp” (“Ghi vội một đêm 1972); “còi báo động ngày đêm gầm thét/ như tiếng rú con bò khổng lồ/ trên nóc nhà bị kẻ nào chọc tiết/ thành phố nửa đêm chạy giắc/ trăng đỏ ngầu trong tiếng ve sôi” (“Hồ sơ mùa hạ 1972”). Hà Nội trong trường ca của Phan Vũ vẫn còn nén cái đau vào cái đẹp, như thể đó là phương cách để thành phố hồi sinh. Trong thơ Lưu Quang Vũ, cái đau của thành phố được phô bày trần trụi qua bút pháp tốc ký, không nén, không ẩn vào đâu cả. Như chính lời của nhà thơ, người muốn lãnh vai trò chứng nhân cho tấn thảm kịch này mà đối với ông, không ai, kể cả ông, có thể cho mình vô can trước những nỗi đau tột cùng mà con người phải chịu đựng: “kẻ làm chứng trung thành/ trước phiên tòa lịch sử/ giữa tột cùng đau khổ/ đâu dám ngồi trau chuốt mỗi câu thơ” (“Khâm Thiên”). Mặt bên kia của cảm quan mạt thế chính là nỗi mong đợi khả năng phục sinh. Trong những ngày tháng tận cùng khổ đau ấy, thứ con người không thể để mình bị thao túng là nỗi sợ hãi: “Thành phố thân yêu không nhỏ bé như em/ Để anh ôm trong vòm tay che chở…/ Và chúng ta không có quyền được sợ/ Nếu nỗi đau làm ngực anh buốt giá/ Nếu những cánh tay buông thõng rã rời/ Giấc ngủ trẻ thơ giấc ngủ ngày mai/ Sẽ lấy gì sưởi ấm?” (“Ghi vội một đêm 1972”).  Trẻ thơ, trong những bài thơ về chiến tranh của Lưu Quang Vũ, là những người dễ bị tổn thương nhất, nỗi đau đớn mà trẻ thơ phải gánh chịu bởi bom đạn là bằng chứng cho sự phi nhân của chiến tranh. Song trẻ thơ lại cũng là biểu tượng của sự khởi nguyên, là tín hiệu của sự phục sinh ngay từ hiện tại đổ nát: “lũ trẻ hò hét om sòm/ thân trần trụi trên mặt đường nóng bỏng/ chúng thả những con diều trắng/ lên vô biên thăm thẳm của trời hè” (“Hồ sơ mùa hạ 1972”).

Có thể nói, trong thơ Lưu Quang Vũ, thành phố được kiến tạo với cấu trúc riêng: nó là thành phố ngoại biên trong tương quan với thành phố sử thi, thành phố ấy là quỹ tích của những không gian điểm có tính chất bên lề khác, nơi mỹ cảm thị dân được bảo lưu và đó cũng là một cơ thể mang thương tích chiến tranh – một cơ thể chịu nạn để chuẩn bị cho một sự phục sinh khác. Thành phố ấy vẫn sở hữu trong nó những bí mật bởi nó là sự mã hóa thế giới tinh thần của Lưu Quang Vũ ở giai đoạn phức tạp nhất, khi ông không giấu giếm những hoài nghi, không thôi chất vấn thế giới, không ngừng day dứt với chính mình. Bởi thế, nó vẫn còn mời gọi những khám phá từ những cách đọc khác.

Trần Ngọc Hiếu

Bài đã in trong  Lưu Quang Vũ – Những đối thoại nghệ thuật, Viện Văn học – Đại học Duy Tân & NXB Đà Nẵng, 2018, trang 246-258.

—————————————-

[1] Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2012, trang 44.

[2] Vương Trí Nhàn, “Lưu Quang Vũ và một mảng đời mảng thơ thường bị lãng quên” in trong Cây bút đời người (Chân dung văn học), NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2002, trang 34.

[3] Vương Trí Nhàn, tlđd, trang 34.

[4] Vương Trí Nhàn, tlđd, trang 35.