Monthly Archives: Tháng Chín 2018

Đời sống của điển phạm: Nhân trường hợp bài thơ “If” của Rudyard Kipling

Quotefancy-4739953-3840x2160

Cách đây một tháng, một sự kiện xảy ra tại Đại học Manchester, vương quốc Anh khiến một số nhân vật hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, văn chương, nghiên cứu văn hóa và công chúng phải lên tiếng. Sinh viên đã bôi vẽ lên bức bích họa mà nhà trường trưng bày trong khuôn viên đại học, trên đó in bài thơ “If” (Nếu) của Kipling – bài thơ từng được thính giả của đài BBC vào năm 1995 bình chọn là thi phẩm Anh ngữ được yêu thích nhất. Lý do để sinh viên có hành động như vậy là vì họ cho rằng Kipling là nhà văn mang tư tưởng phân biệt chủng tộc, tác phẩm của ông có biểu hiện của “sự phi nhân hóa người da màu”. Để tạo ra đối trọng, sinh viên đã treo một tấm áp-phích khác in bài thơ “Still I Rise”(Tôi vẫn vươn dậy) của nữ sĩ người Mỹ da đen, Maya Angelou. Scandal xung quanh bài thơ nổi tiếng của Kipling khiến chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị của nó và rộng hơn, về đời sống của các hiện tượng nghệ thuật được xem như điển phạm.

 

Một điển phạm nghệ thuật thường được hiểu là một tác giả, một tác phẩm mẫu mực về tư tưởng cũng như bút pháp. Giá trị của điển phạm được thừa nhận và củng cố thông qua các hoạt động phê bình, các giải thưởng nghệ thuật và đặc biệt, việc chúng được tuyển lựa để hiện diện trong những thiết chế văn hóa như bảo tàng, quảng trường hay sách giáo khoa. Theo định nghĩa này, hoàn toàn có thể nói Kipling là một điển phạm: ông là nhà văn người Anh đầu tiên nhận giải thưởng Nobel Văn học danh giá vào năm 1907, được ngợi ca như một bậc thầy của nghệ thuật kể chuyện, những tác phẩm của ông như The Jungle Book, Just So Stories… được xếp vào loại kinh điển của văn học thiếu nhi. Ông nằm trong số không nhiều những tác giả được giải Nobel Văn học tiệm cận độc giả đại chúng rộng rãi, trong đó phải nói tới hình tượng cậu bé Rừng xanh Mowgli trong cuốn The Jungle Book đã đi từ trang sách sang màn ảnh, qua nhiều phiên bản cải biên, chuyển thể, trở thành một biểu tượng văn hóa có sức hấp dẫn mạnh. Tương tự, bài thơ “If” đáng được coi là điển phạm. Được sáng tác vào năm 1895, sau hơn một thế kỷ, nó là thi phẩm sống trong tình cảm yêu mến của nhiều độc giả (mà kết quả cuộc bình chọn của thính giả đài BBC là một minh chứng). Nó hiện diện trong nhiều tuyển tập thơ ca uy tín, được trích dẫn nhiều nhất và được khắc ghi ở nhiều vị trí trang trọng chốn công sở hay không gian công cộng không chỉ ở Anh mà còn tại Ấn Độ, nơi Kipling chào đời và đồng thời cũng là đất nước khơi nguồn cảm hứng lớn nhất cho sáng tác của ông[1]. Hơn thế, bài thơ còn được xem như là sự thể hiện tính cách và phẩm chất của con người vương quốc Anh. Xem một tác phẩm nghệ thuật như là biểu trưng cho tâm hồn cũng như giá trị tinh thần của một dân tộc chính là một động thái điển hình của quá trình điển phạm hóa. Điều này làm ta có thể liên hệ với trường hợp tiểu thuyết bằng thơ Eugene Onegin của Alexander Pushkin hay Truyện Kiều của Nguyễn Du – cả hai tác phẩm này đều được xem như là sự kết tinh cho tâm hồn và tính cách dân tộc.

 

Trong tự truyện của mình, Kipling cho biết bài thơ “If” lấy cảm hứng từ Leander Starr Jameson (1853 -1917), một chính khách phụng sự cho đế chế Anh, người đóng vai trò thủ lĩnh trong cuộc tập kích của người Anh chống lại người Boer (những người Hà Lan định cư tại Nam Phi). Trên thực tế, cuộc tập kích do Jameson lãnh đạo không gặt hái được thắng lợi nhưng nó đã được kể lại thành một phiên bản rất khác ở Anh, theo đó, chiến bại này được diễn dịch thành một thắng lợi và Jameson thì được khắc họa như một người hùng quả cảm. Là một người tự tôn dân tộc, hay nói đúng như nhận định của Viện Hàn lâm hoàng gia Thụy Điển, là người “tôn sùng chủ nghĩa đế quốc”[2], Kipling xem Jameson như một hình tượng mẫu mực, một con người kiên cường trước những thử thách khốc liệt của cuộc đời, đáng để giới trẻ, trong đó có chính con trai của nhà thơ, noi theo. Bài thơ, bởi vậy, được viết bằng một giọng điệu khuyên nhủ, răn dạy với cảm hứng đạo lý bao trùm.

 

Về mặt cấu trúc, có thể xem bài thơ là sự khai triển của một câu điều kiện, trong đó vế nêu giả thiết, bắt đầu bằng từ “nếu,” kéo dài đến tận 30 câu còn vế kết quả chỉ gói gọn lại ở hai câu cuối cùng. Nhìn trên bề mặt, cấu trúc này không có sự đối xứng: trọng tâm của bài thơ rõ ràng dồn vào vế nêu giả thiết mà ở đó, mỗi câu thơ đặt ra một tình thế, một thử thách đòi hỏi con người phải vượt qua những cách ứng xử thường tình hay do bản năng và nhất là lòng vị kỷ thôi thúc:
Nếu con mơ ước mà không để ước mơ làm chủ đời con
Nếu con có thể suy tư mà không lấy nó làm mục đích
Nếu cả Thành công, Thất bại trên đường đời con gặp
Mà vẫn như nhau – đối xử một tấm lòng
Nếu con biết nghe sự thật những lời của con
Bị kẻ bất lương làm bẫy lừa kẻ dại
Hoặc nhìn đời con đổ vỡ, đành làm lại
Và con cúi xuống dựng nên với công cụ đã mòn.

(Bản dịch tiếng Việt của Hồ Văn Hiền)

 

Có thể thấy những phẩm hạnh trong cách ứng xử mà nhân vật trữ tình trong bài thơ muốn người con noi theo mang tinh thần của chủ nghĩa khắc kỷ – một truyền thống tư tưởng nổi bật thời kỳ Victoria. Những tình thế khốc liệt của đời sống nên được xem như trường rèn luyện để con người hình thành nên kỷ luật tự giác, khả năng kiềm chế dục vọng, ham muốn, sự tự biết mình, năng lực chịu đựng, sự tự tôn và tự tin. Mục đích của sự đào luyện bản ngã này chính là điều được thâu tóm trong hai câu kết: “Mọi sự trên Trái đất thuộc về con/ Và – hơn thế nữa – con sẽ đúng là một Con Người!”. Chữ “Con Người” được viết hoa trong câu thơ cho thấy làm người là vinh dự lớn nhất, giá trị lớn nhất mà con người chỉ có thể đạt đến bằng chính sự chấp nhận và đối đầu đầy can đảm trước những thử thách khắc nghiệt của đời sống. Kipling xem Jameson như là hình mẫu anh hùng theo chủ nghĩa khắc kỷ và là tấm gương cho người trẻ đương thời. Trên thực tế, hình mẫu người hùng này còn được nối dài trong văn học mà Jordan trong Chuông nguyện hồn ai hay ông lão đánh cá Santiago – người tin rằng con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị đánh bại trong Ông già và biển cả của Ernest Hemingway là hai minh họa rõ nét. Và cũng không vô cớ khi nhà văn Ấn Độ Khushwant Singh cho rằng bài thơ của Kipling gần với tinh thần cốt lõi của Chí tôn ca[3] – một văn bản kinh điển được dung chứa trong pho sử thi đồ sộ của người Hindu – Mahabharata. Trong Chí tôn ca, người anh hùng Hindu Arjuna nhận ra số phận đã đẩy mình vào một tình thế khốc liệt, một khủng hoảng mang chiều kích nhân loại nhưng cũng chỉ trong một tình thế như vậy, Arjuna mới có thể hiểu được chính mình và ý nghĩa của bổn phận mình phải gánh vác.

 

Vậy điều gì đã khiến một bài thơ từng truyền cảm hứng mạnh mẽ cho thanh niên đến thời điểm này lại bị chính người trẻ phản đối? Sự kiện xảy ra tại Đại học Manchester tháng 7 vừa qua cho thấy một thực tế các điển phạm luôn có thể bị thách thức khi ngữ cảnh thay đổi. Bản thân địa vị của Ruyard Kipling cũng có sự thay đổi khi phong trào giải thực dân phát triển. Văn chương của Kipling được xem là đại diện cho kinh nghiệm của thực dân về văn hóa và con người thuộc địa. Điều này không chỉ thể hiện ở các sáng tác mà thái độ tự tôn về chủng tộc Phương Tây bộc lộ trực tiếp dưới dạng luận đề như “The Burden of the White Man” (Gánh nặng của người da trắng) hay “The Ballad of East and West” (Bài thơ Đông Tây) mà ngay cả trong những tác phẩm được đánh giá cao về nghệ thuật kể chuyện của Kipling như Kim, The Jungle Book…, nơi xứ sở và con người thuộc địa được nhà văn mô tả theo một cảm quan dị lãm, tức như một thực thể thỏa mãn sự hiếu kỳ của người phương Tây.

 

Nhưng liệu có áp đặt không khi viện vào nhãn quan chính trị (mà ở thời điểm này có thể bị phê phán) của Kipling để phủ nhận giá trị của bài thơ “If”? Thực sự, các sinh viên tham gia phản đối việc trưng bày bài thơ có lý của mình. Ý nghĩa luôn bị quy định bởi ngữ cảnh và trong ngữ cảnh của bài thơ “If”, hình tượng con người mà Kipling viết hoa như một biểu tượng cao quý, như đã nói, là sự phóng chiếu của nguyên mẫu Leander Starr Jameson. Từ đó, bài thơ có thể hàm ẩn những định kiến: con người cao quý, con người đích thực bao giờ cũng mang hình ảnh của người đàn ông da trắng phương Tây; chỉ có người phương Tây mới có thể vươn đến một hình mẫu lý tưởng như thế; việc coi  bài thơ là kết tinh của tính cách, phẩm giá của người Anh nhấn mạnh đến sự thượng đẳng của dân tộc này. Những định kiến ấy, được phát ngôn bởi các nhân vật nắm vị trí quyền lực trong văn hóa, được nâng lên thành các giá trị phổ quát và quá trình phổ quát hóa này không tách khỏi quá trình củng cố quyền lực của họ. Thách thức những quyền lực náu mình trong những định kiến được phổ quát hóa như chân lý chính là một nhiệm vụ của ngành nhân văn.

 

Câu chuyện xung quanh phản ứng từ sinh viên đối với bài thơ của Kipling, thực ra, cũng rất cần để những người làm trong lĩnh vực nhân văn và giáo dục ở Việt Nam hiện nay quan tâm. Chẳng hạn, việc đưa ngữ liệu tác phẩm văn học vào sách giáo khoa chính là một hành động điển phạm hóa các tác phẩm được chọn. Quá trình này có khả năng kéo theo và duy trì những định kiến văn hóa nhất định và điều này tiềm tàng những hệ lụy sâu xa mà người biên soạn có lẽ cần nghĩ đến. Một lúc nào đó, rất có thể sách giáo khoa sẽ bị phê bình như một thành lũy của những bất bình đẳng về giới, khi không chỉ ít các nhà văn nữ được tuyển lựa mà ngay cả nhân vật nữ trong các tác phẩm được đưa vào giảng dạy chủ yếu được mô tả như là những thân phận luôn phải chịu đựng trước hết vì những người đàn ông của mình: từ nàng Kiều bán mình chuộc cha đến người phụ nữ làng chài vô danh sẵn sàng đi tù chứ không muốn từ bỏ người chồng vũ phu của mình, cho rằng mình là nguyên nhân làm hắn khổ sở trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, xét tận cùng, đều được cấu tạo theo một công thức. Và có thể cần phải suy nghĩ thấu đáo hơn khi tôn những sự chịu đựng này lên thành đức hy sinh – phẩm hạnh lớn lao nhất của người phụ nữ Việt Nam. Đến một lúc nào đó, sinh viên cũng có quyền hồ nghi về một thứ tư tưởng nhân đạo bị giới hạn trong ý thức gia trưởng trong sáng tác của Nam Cao, thậm chí của Nguyễn Du. Và nếu những phản ứng ấy xuất hiện, thực ra lại không có gì phải bất an. Tầm quan trọng của điển phạm không nằm ở chỗ chúng không thể bị thách thức mà đúng hơn ở chỗ, để nghĩ khác, để tư duy mới hơn, các điển phạm thường là một xuất phát điểm tốt cho sự tra vấn, hoài nghi.

 

Trở lại với câu chuyện về bài thơ “If”. Phản ứng của sinh viên, như đã nói, có sự chính đáng của nó, nhất là trong ngữ cảnh hiện nay, các định kiến văn hóa đang có xu hướng cố kết trở lại qua nhiều sự kiện chính trị lớn. Song một phản biện lại về vấn đề này từ phía các chuyên gia về Kipling cũng đáng được lắng nghe. Janet Montefiore, người chủ biên tạp chí học thuật Kipling Journal, đã thẳng thắn nêu quan điểm: “Tất nhiên, ông ấy là người có tư tưởng phân biệt chủng tộc. Và tất nhiên, ông ấy là người ủng hộ đế chế, song đó không phải là tất cả con người Kipling và tôi thấy rất đáng tiếc nếu người ta chỉ nghĩ về ông ấy như thế”. Theo bà, Kipling là một người kể chuyện kỳ diệu và nhãn quan của ông ấy là một phần của lịch sử. “Và người ta không muốn giả vờ rằng một nhận thức như thế chưa hề từng tồn tại.” Và bà quả quyết, “If” không phải là một bài thơ mang tư tưởng phân biệt chủng tộc. Đó là bài thơ chứa đựng lời khuyên tốt.”[4]

 

Các điển phạm được hình thành trong ngữ cảnh. Sự chuyển dịch, thay đổi ngữ cảnh dẫn đến những thăng trầm của các điển phạm. Tuy nhiên, sự thăng trầm này, như giáo sư Amit Chaudhuri của Đại học East Angalia nhận định, thực ra cũng đặt lại câu hỏi cho chính ta: “Có thể đây là trường hợp không chỉ để chúng ta suy nghĩ lại về mối quan hệ của mình với các nhà văn, rằng có nhà văn nào là mãi mãi hoàn hảo không, mà còn để ta nghĩ lại về chính khao khát của chúng ta muốn họ phải hoàn hảo.”[5] Nhận định này không chỉ là một ý kiến thấu đáo về sự kiện Kipling mà có thể gợi mở ít nhiều cho việc tuyển chọn và dạy học các điển phạm văn chương ở nhà trường Việt Nam. Ít nhất, nó cho thấy việc dạy và học các điển phạm không nhất thiết là việc chứng minh những tác giả, tác phẩm ấy toàn bích, không tì vết. Thay vào đó, việc nhận ra những điểm làm mình phải băn khoăn, phải thách thức với các điển phạm là một điều thú vị.

Trần Ngọc Hiếu

(Bài đăng trên tạp chí Tia Sáng, số 19, ngày 20-9-2018)

[1] Hai câu “If you can meet with Triumph and Disaster / and treat those two impostors just the same” (Nếu cả Thành công, Thất bại trên đường đời con gặp/Mà vẫn như nhau – đối xử một tấm lòng) được in trên tường của lối vào sân Centre Court dành cho vận động viên. Đây cũng là sân quần vợt nổi tiếng nơi giải vô địch Wimbledon được tổ chức. Tại Ấn Độ, một bản chép lại bài thơ được đóng khung, treo trên tường trước bàn học của các học viên sĩ quan tại Học viện An ninh quốc gia tại Pune và Học viện Hải quân Ấn Độ ở Ehzimala.

[2] “Lời tuyên dương  của Viện Hàn lâm Thụy Điển”, in trong Các nhà thơ giải Nobel (1901-2006), Tân Đôn dịch, NXB Lao động và Trung tâm Văn hóa-Ngôn ngữ Đông Tây, 2007, trang 67.

[3] Khushwant Singh, “A Prayer for Everyone”, https://www.outlookindia.com/magazine/story/a-prayer-for-everyone/211656

 

[4] Dẫn theo Frances Perraudin, “Manchester University Students Paint over Rudyard Kipling mural, https://www.theguardian.com/education/2018/jul/19/manchester-university-students-paint-over-rudyard-kipling-mural

 

[5] Tlđd

Christy Wampole – Bám chặt “rễ” của mình

Christy Wampole là phó giáo sư Văn học Pháp và Italia tại Đại học Princeton (Mỹ). Chuyên luận của bà  – “Rootedness: The Ramifications of a Metaphor” (University of Chicago Press, 2016) đã được trao giải thưởng của Hiệp hội nghiên cứu Ngữ văn hiên đại (MLA) cho công trình nghiên cứu đầu tay được xuất bản xuất sắc nhất. Bài dịch này của bà như  một khởi động cho cá nhân tôi để đọc cuốn sách ấy.

2006AG3569_jpg_l

 

*

Cách đây không lâu, tôi tình cờ xem một mẩu quảng cáo cho website nghiên cứu phả hệ Ancestry.com, trong đó, một người đàn ông kể lại anh ta đã luôn đinh ninh rằng cội rễ của mình là người Đức. Anh ta luôn tự hào về di sản này – thí dụ, qua việc mặc quần ống túm bằng da Lederhosen, gia nhập một vũ đoàn Đức – cho đến khi một lần kiểm tra DNA đã phát lộ thực tế bị che giấu về cội nguồn của anh ta: 52% tổ tiên của anh đến từ Scotland và Ireland – anh ta biết vậy; trong cây phả hệ gia đình nhà anh, không có người Đức nào cả. “Thế là tôi bán cái quần ống túm Lederhosen của mình để đổi lấy cái váy của người Scotland,” người đàn ông ấy kể. Và tương tự như thế, anh ta thay thế một bộ rễ của mình bằng một bộ khác, chẳng khác Tarzan đu mình từ dây leo này sang dây leo kia.

 

Nội dung quảng cáo ấy thật ngớ ngẩn khi nó giản lược vấn đề bản sắc thành một sự lựa chọn trong tủ đồ, nhưng nó cho ta thấy một điều gì đó trong cảm nhận về bản ngã mà chúng ta rút ra từ ý niệm về cội rễ của mình, điều vừa trở nên rắc rối, vừa trở nên phong phú bởi thực tại do công nghệ kiến tạo mang tính toàn cầu của thời đại này. Chúng ta có thể biết nhiều hơn bao giờ hết về những tổ tiên xa xôi. Song mục đích mà thứ tri thức này phục vụ là gì? Tại sao cội rễ lại là một ẩn dụ có sức mạnh thôi thúc ta nghĩ về mối kết nối của mình với tổ tiên, quê hương và bản thân trái đất này?

 

Con người là tạo vật tìm kiếm bối cảnh và nhu cầu cảm nhận này được đan dệt vào thế giới trong nhiều hình thức: ý thức tìm hiểu lịch sử gia đình; niềm kiêu hãnh về quê nhà, thành phố hay đất nước của mình, cũng như những đặc thù của những nơi chốn này đánh dấu tính cách, hành vi và ngôn ngữ của một người; sự hoài niệm về một quá khứ khi con người dường như có những vận mệnh chắc chắn, vai trò của giới, địa vị xã hội và “trật tự của vật” dường như rõ ràng hơn, những phạm trù được kế thừa không bị thách thức; nỗi khắc khoải mang tinh thần của truyền thống mục đồng muốn khôi phục một mối giao cảm đã mất với chính trái đất. Cội rễ là ẩn dụ linh hoạt nhất để nói về con người như một tồn tại được đặt vào bối cảnh. Nó thường trực thôi thúc ta đến mức ta quên mất nó là một ẩn dụ.

 

Gần đây, phiên bản làm lại của mini-series truyền hình “Cội rễ” (vốn dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Alex Haley (1976) và kịch bản chuyển thể được phát sóng trên ti vi nhiều lần kể từ lần đầu tiên vào năm 1977) chiếu trên kênh History, ở chừng mực nào đó, đã đem ý niệm này trở lại với ý thức của người Mỹ đương thời. Lần này, di sản văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong bối cảnh của thời buôn bán nô lệ trên nước Mỹ đã trao tiếng nói cho di sản của những người phải chịu cảnh ly tán gia đình và bị ném vào một tương lai bi kịch, không thể thay đổi được. Đây là một tự sự đặc trưng của nước Mỹ nhưng ngôn ngữ của cội rễ có thể tìm thấy trong một phạm vi rộng rãi các ngữ cảnh, xuyên qua các nền văn hóa và trong tất cả các thể loại văn chương – bao gồm thơ ca, các sáng tác về thiên nhiên và triết học phê bình sinh thái – để mô tả tình trạng tự trừu xuất mình khỏi mặt đất của con người. Làm thế nào mà một hình ảnh như thế lại có thể được sử dụng trong những bối cảnh hết sức đa dạng?

 

 

Tiểu thuyết gia người Pháp, đồng thời là cây bút tiểu luận, theo khuynh hướng siêu hình, Michel Tournier (1924-2016), tin rằng nguồn gốc của hầu hết các xung đột của con người nằm trong mối quan hệ căng thẳng giữa những người bật rễ và những người bám rễ. Ông đưa ra nhiều ví dụ trong tiểu luận “Kẻ du mục và người tĩnh tại” (“Nomad and Sedentary”) trong cuốn sách The Mirrors of Ideas (Những tấm gương của ý niệm): vụ sát hại anh em trong Sáng thế ký, bao gồm cả vụ người nông dân Cain, vốn quen môi trường tĩnh tại, giết Abel, người em chăn cừu – dân du mục của mình; sáng kiến dùng hãng rào kẽm gai ở nước Mỹ vào những năm 1800 đánh dấu sự chiếm đóng của những người khai hoang và cuộc đổ máu giữa họ với những chủ nhân thực sực của vùng đất; mối xung đột giữa người du mục Tuareg và dân định cự Saharan; và việc phát xít Đức đã  biến hình ảnh người Do Thái, vốn được tưởng tượng như là kẻ bật rễ, do đó bị xem là dân tạm lưu bất chính, thành quỷ.

 

Người ta thường cho rằng việc truy nòi giống của mình xa đến một mức nào đó sẽ cho thấy sẽ cho thấy chúng ta đều đến từ cùng một nơi. Song cội rễ nguyên thủy lại thường bị coi thường. Vì lý do nào đó, mỗi một tập thể, dù đó là một quốc gia, một nhóm sắc tộc hay một bộ lạc, có xu hướng xây dựng một hình dung đặc thù về cội nguồn của mình, phớt lờ đến ý niệm cơ bản nhất này về bản chất kết nối của con người.

 

Chúng ta đã đi đến một điểm khớp nối lạ lùng của lịch sử, nó đặt hai hệ thống thế giới vào tình thế xung đột với nhau: thứ nhất – một hệ thống xưa cũ hơn, trao đặc quyền cho những tôn ti theo trục dọc, những gì thuộc về truyền thống và bá quyền dân tộc; thứ hai, một hàng rào mắt cáo theo chiều ngang của sự chuyển giao thông tin trong môi trường điều khiển học và mạng lưới kết nối về kinh tế.

 

Có lẽ đây là điều hai triết gia người Pháp, Gilles Deleuze và Félix Guattari đã dự cảm trong lời giới thiệu cuốn sách xuất bản vào năm 1980 của họ, A Thousand Plateaus (tạm dịch Một ngàn mặt phẳng) khi họ mô tả thân rễ (rhizome), một hình tượng của những hệ thống hình thành ở chính giữa, không có khởi đầu hay kết thúc có thể thấy rõ rệt và hoạt động theo một cơ chế sinh sôi theo bề ngang, không dự đoán được. Việc tính thân rễ ở thời điểm hiện tại của chúng ta, với sự phát triển mạnh mẽ của những mạng lưới công nghệ hiện tại, trở nên rõ rệt hơn không có nghĩa là ý niệm cội rễ đã không còn sức hấp dẫn đối với con người. Trái lại, có lẽ giờ đây, hơn bất cứ lúc nào, con người có những lý do hoàn toàn hiểu được khi thấy mình xa lạ với thế giới và với người khác  – mức độ xa lạ này càng lớn thì cội rễ lại càng trở nên quý giá.

 

Ngày nay, con người trên khắp thế giới đối mặt với một loạt thế lực làm bật rễ và dẫn đến tình trạng xa lạ: khủng hoảng tị nạn của người Syria, chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo, làn sóng di dân, khuynh hướng phân rã bản sắc của Liên minh châu Âu, cuộc cạnh tranh toàn cầu, sự đồng phục hóa của chủ nghĩa tư bản và nỗi cô đơn mênh mông của thời đại số. Không phải ngẫu nhiên khi mỗi một sự kiện này đều được nhận về lời đáp, theo những cách khác nhau, của khuynh hướng bám rễ, hay, đúng hơi, một thứ tinh thần bắt rễ lại. Người ta nghe thấy trong những diễn văn của Donald Trump và Marine Le Pen một khát vọng định vị lại gốc rễ của những nền văn hóa dân tộc. Một sự tôn vinh rễ chính là động thái quan trọng của những người muốn giữ những biểu tượng, biểu hiệu của liên minh các bang miền Nam nước Mỹ, thể hiện nét đặc thù của di sản người da trắng trong không gian công cộng. Nghịch lý thay, cũng có thể nghe thấy khát vọng này trong những lời kêu gọi khôi phục những lịch sử thiểu số, những tiếng nói bị trấn áp hay danh dự của những nạn nhân lịch sử.

 

Mặc dù chủ nghĩa dân tộc ái quốc thường được hình dung như là cực đối lập của chủ nghĩa đa văn hóa vốn chú trọng đến tính đa dạng nhưng những nhân vật khởi xướng của cả hai khuynh hướng này thực tìn lại có những động cơ và mong muốn rất giống nhau. Mỗi nhóm đều hy vọng có thể bảo tồn hay khôi phục một cảm thức về gốc rễ ở một cái gì đó. Nhìn vào những mối băn khoăn lớn về việc làm thế nào khi tôn vinh cội rễ của một bộ phận nào đó, ta không làm tổn thương cội rễ của những người khác, ta sẽ thấy cuộc đấu tranh này chắc chắn còn tiếp diễn trong những thập niên tới.

 

Quốc gia dân tộc, cố nhiên, vẫn sẽ là một đơn vị quan trọng. Suốt nhiều thế kỷ, người ta đã chết, và còn tiếp tục chết, cho dân tộc của mình. Ngược lại, không ai sẽ sẵn sàng chết cho cái gọi là “toàn cầu”, như nhận định rất sâu sắc từ một người bạn của tôi. Trên thực tế, chủ nghĩa toàn cầu dường như đang thách thức chính khả thể của tính bám rễ, ít nhất là cách mà người ta từng dựa vào nhà nước- quốc gia để lấy quyền lực tượng trưng của nó. Con người sẽ bám rễ như thế nào trong tương lai nếu các mạng lưới toàn cầu thay thế các quốc gia dân tộc? Qua dòng máu? Qua ý thức hệ? Những thực hành văn hóa cùng chia sẻ? Những sự tương đồng tập thể? Liệu chúng ta có trở nên thoải mái hơn khi bám rễ vào trạng thái không cội rễ?

 

Những câu hỏi này liên quan chặt chẽ đến những sự không chắc chắn về tình trạng sức khỏe của hành tinh chúng ta. Mối quan hệ giữa ta và trái đất đang trĩu nặng âu lo, nếu không có cách gì để thay đổi nhận thức về những mối lợi ích được duy trì liên tục trong suốt Thế nhân tân cũng như những tuyên ngôn khác về nhấn mạnh vào sự đứt lìa của nhân loại với thế giới tự nhiên.

 

Trong những nỗ lực nhằm sửa chữa tình trạng đứt mạch với hành tinh, phải kể đến việc thúc đẩy những hoạt động ngoài trời cho trẻ trước tuổi đi học để khôi phục sự kết nối mang ý nghĩa trung tâm giữa trẻ em và Đất mẹ bằng việc đưa các em trở về với môi trường sống tự nhiên. Rudolf Steiner, người sáng lập quỹ giáo dục Waldorf, đã gây ấn tượng mạnh khi thường xuyên đưa ra sự tương đồng giữa trẻ em và cây cỏ trong những trang viết của mình. Trong nhãn quan của ông, cây cỏ là hình mẫu cho sự được gắn kết vào vũ trụ, một điều cần thiết đối với hạnh phúc con người, do đó, đem tới trẻ em một ví dụ sinh động về sự kháng cự lại những sức mạnh gây bật rễ vốn cấu thành tính hiện đại.

 

Xuyên suốt lịch sử, nhiều triết gia – trong đó có thể nhắc tới những tên tuổi như Montesquieu, Rousseau và Heidegger – đã tin rằng đất đai và khí hậu của một vùng đất cụ thể có thể truyền cho cư dân nơi ấy những đặc điểm nào đó ở tính khí, ngôn ngữ và các sản phẩm văn hóa – những thứ in dấu ấn sâu sắc những tác động của địa hình, khí tượng và thực vật. Chủ nghĩa vùng miền sinh học (bioregionalism) này gợi nhớ đến khái niệm terroir trong tiếng Pháp vốn được dùng trong nông nghiệp và văn hóa ẩm thực để chỉ mối quan hệ giữa hương vị và nơi chốn. Nhưng điều này liệu cũng có đúng đối với con người?

 

Một nỗi khao khát về cội rễ và sự bám rễ có thể có một tầm quan trọng mới trong hoàn cảnh mới, đầy phức tạp của toàn cầu hóa, nơi sự chắc chắn là thứ khó có được. Nhưng tôi đôi khi cứ băn khoăn liệu có phải chính lối suy nghĩ bám rễ này thực sự đã gây ra nhiều vấn đề mà chúng ta dường như không thể tìm được giải pháp hay không. Hãy nghĩ về những cội rễ của chính bạn và thử xem có bao nhiêu phần bản sắc của bạn phụ thuộc vào chúng. Có bao nhiêu thứ làm phiền bạn hay làm bạn giận dữ, theo cách nào đó có liên hệ, dù chỉ là ngoại biên theo cách nào đó, với sự bám rễ này? Nếu bỗng nhiên bạn phát hiện ra mình nhầm lẫn về gốc rễ, bạn có bán chiếc quần Lederhosen lấy một cái váy Scotland? Cảm quan về bản ngã của bạn mang tính thương thỏa đến mức nào? Cội rễ của bạn chi phối hành động của bạn đến mức nào? Sẽ ra sao nếu bạn sinh ra với cội rễ của kẻ khác, chẳng hạn, kẻ thù của bạn?

 

Mỗi cá nhân sẽ có những câu trả lời khác nhau cho những câu hỏi trên. Song le, vẫn còn gì đó mang tính phổ quát ở sự bám rễ. Tất cả mọi người đều kiếm tìm một bối cảnh mà họ có thể tự bọc mình trong đó. Nếu ta thực sự bị mắc vào mạng lưới của vô vàn kết nối, thì theo nghĩa nào đó ta đã được toại nguyện ước muốn của mình; hệ thống mạng lưới chưa từng có tiền lệ giờ đây đã làm tính toàn cầu co lại và ít nhất, nó đã đem đến khả năng cho những hình thức mới của tính liên tục và sự phát triển. Song vẫn còn phải xem liệu tính kết nối này sẽ hòa giải làm sao với những bản sắc cá nhân, với những cách thức cũ tạo ra sự gắn bó, và với niềm hoài nhớ của con người về khu vườn đầu tiên mình từng thuộc về.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Christy Wampole, “Clinging to  Our Roots”, https://www.nytimes.com/2016/05/30/opinion/clinging-to-our-roots.html