Monthly Archives: Tháng Một 2018

QUÁN GIÓ – CUỐN TIỂU THUYẾT TRẮC ẨN VÀ CAN ĐẢM

hoa xoan

Cúi xuống, cúi xuống, hãy chỉ nên cúi xuống…[1]

Quán gió được Ngọc Giao hoàn thành vào mùa thu năm 1948. Có một số lý do để cuốn tiểu thuyết này hãy còn ít được biết đến, và vì thế, còn chưa được chưa nhìn nhận đúng về giá trị, trong đó, hẳn phải nói đến bối cảnh ra đời của nó. Quán gió được viết bởi một nhà văn hồi cư, nó thuộc về một không gian văn học vẫn thường được định danh là “văn học trong vùng bị tạm chiếm”. Mảng văn học ấy, cho đến giờ, vẫn còn bị bỏ khuyết: chưa có nhiều nỗ lực phục dựng tư liệu, mô tả lại diện mạo cũng như đánh giá thỏa đáng về nó trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

Nhưng lý do sâu xa hơn khiến cuốn sách nằm lại trong bóng tối khá lâu có lẽ chính là bởi tinh thần tiểu thuyết của nó. Tinh thần tiểu thuyết, thay vì tiếp cận đời sống theo lập trường giai cấp, theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa, lại cúi xuống số phận cá nhân của con người, lại muốn từ góc nhìn đời tư để nghĩ và cảm về cuộc đời. Cũng chính bởi vậy, tinh thần của tiểu thuyết lại gần hơn cả với tinh thần nhân bản. Quán gió của Ngọc Giao ghi lại bức tranh hiện thực li loạn của thời chiến với những phận người nổi trôi, lênh đênh, không biết bám víu vào đâu. Mảng hiện thực ấy của chiến tranh phần nào đã cũng đã đi vào một số tác phẩm thơ ca, âm nhạc thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp: trong “Đôi mắt người Sơn Tây” của Quang Dũng, trong “Về miền Trung”, “Quê nghèo”, “Bà mẹ Gio Linh”… của Phạm Duy. Tính chất của tiểu thuyết cho phép Ngọc Giao đi xa hơn những nét chấm phá, để miêu tả cận cảnh với niềm thông cảm sâu sắc những nỗi khốn khổ, điêu linh của những con người bé nhỏ thời loạn: từ cái lạnh buốt căm căm của mùa đông xứ Bắc đến cảnh mưu sinh cơ cực, lầm lụi trên đất tản cư; từ cảm giác lắt lay, bơ vơ của những con người trên đường chạy loạn đến nỗi bất an, hoang mang khi sống giữa thời bạo lực khôn lường… Chiến tranh, cho dù thế nào, vẫn luôn là một tình thế khắc nghiệt mà con người buộc phải chịu đựng; không những thế, sự chịu đựng ấy còn bị khuất lấp, bị biến thành vô hình để rồi không được nhận ra trong lịch sử. Giá trị của cuốn tiểu thuyết này, trước hết, chính là ở chỗ nó cố gắng nhìn thấu những gì mà lịch sử thường dễ làm mờ.

Hiện thực li loạn thời chiến chinh trong cuốn tiểu thuyết này chủ yếu được nhìn từ điểm nhìn của Trâm. Từ điểm nhìn của cô gái trực tiếp chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ập xuống gia đình và đời mình trong cơn biến động của thời cuộc, một góc khác của lịch sử hiện ra với sắc thái u uẩn, với những nỗi niềm tê tái mà con người phải cố gắng nén chặt lại để sống. Ở cái thời người ta tin có thể nhân danh những điều vĩ đại, lớn lao để cải biến thế giới, vào do đó có quyền phá hủy hết tất cả, xóa sạch những gì được cho là quá khứ, cái cá nhân, riêng tư của con người trở thành đối tượng phải chịu đựng nhiều trấn áp hơn cả. Trâm ái ngại cái nhìn của người dân nơi tản cư khi cô mặc áo dài trắng đi chợ đến nỗi chua chát “bây giờ nhất định là phải nhúng bùn đi hết. cho có vẻ là mình đã biết đời, biết thân”. Trâm sợ hãi khi thấy Khải – người anh trai cùng mẹ khác cha với mình, người của cách mạng – muốn mẹ con cô phải ghê tởm chính xuất thân của mình, căm hận người chồng, người cha của mình như một kẻ thù của nhân dân, giấu giếm, vứt bỏ tất cả những kỷ vật thuộc về một quá khứ bị xem là xấu xa, đồi bại. Trâm xa lạ trước viễn cảnh về xã hội lý tưởng mà người anh đi theo cách mạng của cô vẽ ra. Đó là một viễn cảnh được hình dung bởi một kẻ có cái nhìn đơn giản về con người nhưng lại thừa cao ngạo về sức mạnh và ý chí để biến cải thế giới: “… theo anh thì cách mạng phải đạp đổ tất cả chứ gì. Rất phải và rất đẹp. Nhưng cách mạng đã như cơn nước lũ, người ta vui say quá để không cần nhận thấy rằng: giúp cho cách mạng thành công, đã có bao nhiêu máu, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu hơi thở thoi thóp, bao nhiêu tấm lòng giẫy dụa chịu chìm khuất, chịu nhục nhã, chịu khinh bỉ… No ấm chưa chắc hẳn là hạnh phúc con người. Còn bảo rằng con người thỏa mãn thì em nghĩ con người không bao giờ thỏa mãn. Tại sao lại nghĩ rằng dăm ba bàn tay yếu sẽ có thể kiêu căng xây dựng một thiên đường…” Qua cảm nhận của nhân vật, có thể thấy Ngọc Giao đã rất sớm nhận ra nguy cơ lớn của những tham vọng cải tạo, lập lại trật tự cho thế giới nhưng lại xa rời những giá trị nhân bản nền tảng, những lý tưởng cách mạng bắt đầu bằng sự khơi dậy hận thù. Sự trắc ẩn với số phận cá nhân con người đã khiến Ngọc Giao nhạy cảm và sâu xa hơn trong cái nhìn về thời cuộc. Dù có thể chính khả năng thấu thị này là điều khiến văn chương và cuộc đời của ông ít được chia sẻ và hiểu đúng trong một thời gian dài.

Những điều Trâm nói bị người anh của mình chặn lại vì cho rằng đó là “chuyện đàn bà”, là những suy nghĩ  không cần đếm xỉa.  Trong Quán gió, Trâm và mẹ cô – bà Hường không chỉ phải chịu đựng những nhọc nhằn, khổ ải của thời loạn, mà quan trọng hơn, họ còn bị đè nặng bởi những trấn áp kiểu gia trưởng từ những người đàn ông trong gia đình mình. Thời cuộc có biến chuyển thế nào thì những trấn áp gia trưởng ấy vẫn không gì lung lay, xê dịch. Trên phương diện này, cuốn tiểu thuyết của Ngọc Giao đã khơi gợi nỗi băn khoăn về lý tưởng xã hội mà những người cách mạng như Khải tin tưởng và đang thực thi. Đó có hẳn là một thứ lý tưởng không tì vết khi người ta muốn cải tạo mọi thứ theo nó, bất chấp phương tiện, chỉ trừ việc xóa bỏ những độc đoán gia trưởng đối với phụ nữ? Sự khơi gợi băn khoăn này tự nó đã thể hiện sự can đảm của nhà tiểu thuyết, người luôn muốn chất vấn những đại tự sự.

Trâm và mẹ cô coi những tội nợ của cha, chồng, anh em trai của mình như một thứ nghiệp chướng mà mình phải chịu. Cả hai người phụ nữ đều cảm thấy hình ảnh của Kiều trong cuộc đời mình, thấy sự cay đắng của kiếp hồng nhan, sự tủi cực khi rơi vào tình cảnh thất thế, lưu lạc. Nhưng sẽ là một cách đọc đơn giản nếu chỉ thấy cuốn tiểu thuyết này khắc họa sự chịu đựng, cam phận, nhẫn nhục của người phụ nữ, đặc biệt là nhân vật Trâm. Trâm không phải là người chỉ biết nín nhịn, quy hàng định mệnh, mặc đời đẩy đưa; cô muốn kháng cự lại những gì được bày đặt ra như là số phận dành cho mình. Hành động của Trâm ở đoạn kết cuốn tiểu thuyết khi cô muốn cầm súng để giết Tiến, người mà anh trai cô đã ép cô kết hôn, cũng là người đã xử bắn cha cô như một kẻ thù của cách mạng và đặc biệt việc cô chủ động phá bỏ cái thai trong bụng mình có thể được xem như là những hành động mang tính kháng cự số phận. Một cách đọc theo phê bình nữ quyền có thể tìm thấy vấn đề của mình ở hành động phá thai của nhân vật: Trâm đã chấp nhận phạm tội để dứt bỏ những mối oan nghiệt mà những người đàn ông đã gây ra đối với mình hay bản thân cảm giác có tội cho thấy cô vẫn chưa thoát ra khỏi những trấn áp của đạo đức gia trưởng? Trâm kháng cự nhưng không thắng được số phận. Song điều chủ yếu làm nên giá trị của con người nói chung vốn không hẳn nằm ở sự vượt thắng số phận mà chính là ở nỗ lực khước từ việc khuất phục nó ngay từ đầu.

Đến đoạn kết của cuốn tiểu thuyết, Trâm muốn trở về với mẹ, về với cái quán gió tiêu điều, mong manh. Quán hàng bé nhỏ, nghèo nàn, hút gió ấy không chỉ là biểu trưng cho những cảnh đời bấp bênh, tạm bợ trong buổi loạn li; nó còn là biểu trưng cho những nỗi thống khổ vô hình con người phải chịu đựng mà phải “cúi xuống” thật gần, thật thấp, chứ không thể từ trên cao để thấu cảm. Tính chất cảm thương của Quán gió có thể xem là sự nối tiếp truyền thống nhân đạo kiểu Đỗ Phủ, Nguyễn Du, những người coi văn chương là tiếng kêu đứt ruột về nỗi đau con người, nhất là trong những cơn biến loạn. Nhưng thứ văn chương “cúi xuống” những con người nhỏ bé, lẻ loi, cất lên tiếng nói cho họ giữa những náo động lịch sử, thực chất, là thứ văn chương mạnh mẽ bậc nhất. Quán gió làm người  đọc một lần nữa nhận ra văn chương luôn có thể bổ khuyết những gì mà lịch sử đã không nói. Nó, vì thế, thực sự là một cuốn tiểu thuyết trắc ẩn và can đảm.

TRẦN NGỌC HIẾU

[1] Trích bài tựa Quán gió, bản in của Nhà xuất bản Ngày mai, 1949.

Bài viết được sử dụng làm lời giới thiệu tiểu thuyết Quán Gió của Ngọc Giao, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn, 2017.

 

 

Văn học có thể nói gì với chúng ta về kẻ khác?

snow

Ở Werhoneshire nơi tôi sống trời lạnh và nhiều sương, nhưng không đủ lạnh và đủ nhiều sương để ôm ấp mãi nỗi buồn trong tôi. Đêm qua tôi nằm cuộn mình trong tấm chăn cũ ở trước bếp củi, ấm vì rượu và than, nghĩ về những ngày tôi ở viện tâm thần, đêm đọc thơ cho các bạn cùng phòng, thơ của John Clare, thơ của Ezra Pound, thơ của Theodore Roethke, thơ của Robert Lowell, độc là những người điên, và đôi khi cho y tá của tôi, người có bàn tay đẹp và đeo nhẫn cưới, khi cô chịu nghe. Bàn tay đẹp là một chi tiết để kể, nhưng tôi không thích bàn tay đẹp. Tôi thích bàn chân đẹp. Rồi tôi nhắm mắt và trong mơ tôi thấy mình giết một trong những người yêu cũ của tôi và thả xác trôi sông. Tôi biết ở đây không có xác thì không có tội phạm, và người ta không tìm thấy cô. Trong giấc mơ tôi không thấy có lỗi—mơ là cách duy nhất để thở. Ở một thế giới khác tôi sẽ là một cô gái bị cưỡng hiếp bởi người cô yêu, và ở thế giới này tôi là kẻ mang trong mình một kiểu tội lỗi như của người đàn ông ấy. Có lẽ một lần ngồi chờ tàu đến để lao mình xuống đường ray, thay vì quăng xác thân này, tôi đã đẩy một người khác xuống. Tôi tỉnh dậy tự hỏi mình đã nằm bao lâu. Người tôi bị cắt làm đôi bởi một dải nắng rọi vào qua khe nứt trên tấm ván mà tôi dùng để bịt cửa sổ. Nó làm tôi hoảng loạn. Tôi mở cửa nhà và tim tôi đau nhói. Màu xám không còn và sương đã tan, bầu trời mở ra và không gian quá rộng. Tôi đọc Annie Proulx và nghĩ rằng mình sẽ là một nhân vật hoàn hảo trong những câu chuyện Wyoming của bà. Nhưng tôi không thể nào bơi qua một đại dương để bước vào khung cảnh ấy. Tôi sẽ đi về phương Bắc, đến một nơi nào đó có đường vĩ cao hơn, và bởi vì tôi không biết thế nào là đủ, tôi sẽ bước đi mãi cho đến khi thấy mình ngập trong tuyết và đêm. Trong cái lạnh, bộ não của con người sẽ không còn hoạt động bình thường. Một số người, trong cơn ảo giác, vì rối loạn chức năng ở vùng dưới đồi, sẽ tưởng rằng họ đang nóng và cởi áo quần ra, làm họ thêm mất nhiệt và tiến nhanh hơn đến giai đoạn cuối cùng. Họ sẽ bới bằng tay một cái hố tuyết và chui vào trong đó, họ sẽ tự chôn mình như thế, và họ sẽ ra đi trong niềm an ủi không thật của riêng mình.

“Werhoneshire” – Nguyễn Huy Hoàng

*

Tôi đã sử dụng văn bản trên của Nguyễn Huy Hoàng, một người tôi chưa từng gặp, từng biết ngoài đời nhưng ngày nào cũng theo dõi facebook của anh, nơi tôi đọc được nhiều những bản dịch và những bài viết rất thú vị của anh, làm bài tập cho sinh viên lớp mình dạy. Yêu cầu đầu tiên của bài tập: xác định thể loại cho văn bản ấy, một yêu cầu có thể làm cho bản thân tác giả không thoải mái, vì sáng tác luôn là hành vi thách thức mọi sự phân loại theo những khuôn khổ đã sẵn có. Yêu cầu thứ hai – và đây là điều tôi mong đợi được đọc nhất từ bài làm của sinh viên: Bạn có thể cảm nhận điều gì từ văn bản này? Văn bản của một tác giả xa lạ, và nhất là nó lại biểu đạt một thế giới nội tâm mà sự khó hiểu của nó dễ làm nản lòng sinh viên.

*

Cá nhân tôi cho rằng Hoàng chính là một người viết thơ cực kỳ đáng đọc. Và có lẽ anh cũng không thích người ta phải chú ý nhiều đến những gì mình viết. Rất có thể hành động của tôi, khi dùng bài thơ của anh làm đề bài cho sinh viên, và ngay cả lúc này, khi viết về nó, sẽ làm cho thế giới vốn yên tính của anh bị xáo trộn. Là người yêu sự yên tĩnh, tôi hình dung về khả năng gây thương tổn của mình cho một người lạ.

Nhưng chẳng hiểu sao văn bản mà Hoàng viết ám ảnh tôi rất mạnh, và thực sự tôi muốn nói về nó với những bạn trẻ theo học. Rằng qua đó, chúng ta cùng xác nhận một ý nghĩa của văn chương: Đó là một kênh để ta có ý niệm với kẻ khác, và không chỉ dừng lại ở ý niệm, nó còn khơi gợi một khao khát được lắng nghe, được chia sẻ tiếng nói của người khác. Con người có thể sống vắng Thượng đế, nhưng không thể thiếu được Kẻ khác – nhà nghiên cứu Tzevtan Todorov đã nói đại ý vậy.

Ý niệm về “kẻ khác” không chỉ là một ý niệm dễ loại hình hóa: đó là một kẻ thuộc nhóm thiểu số, đó là một người dưới đáy xã hội, đó là một thân phận là nạn nhân của hoàn cảnh nào đó… Văn học, cố nhiên, luôn trổ cánh cửa để ta nhìn ra được những thân phận, những đời sống dễ bị vô hình hóa, dễ bị làm cho câm tiếng. Nhưng quan trọng hơn, văn học không ngừng cho ta thấy mỗi cá nhân là một thế giới tinh thần phức tạp. Sự đối diện của con người với những vực thẳm nội tâm luôn là một chiều kích gai góc nhất, nhức nhối nhất nhưng rất cần được kẻ khác đồng cảm. Tôi tin là thế.

Bài thơ của Hoàng, với tôi, là một kinh nghiệm vực thẳm. Nhân vật trong bài thơ đối diện với sự phân mảnh của bản ngã, cùng lúc anh ta thấy được bóng tối của bản thân, thấy mình muốn hủy hoại, muốn bạo hành bản thân và kẻ khác mà cũng vừa thấy mình yếu đuối, đau đớn, muốn được bao bọc, cho dù là trong tuyết lạnh. Sự khủng hoảng nội tâm ấy khó cắt nghĩa thấu đáo bằng bất kỳ một kinh nghiệm duy lý nào, ngay cả những kinh nghiệm tâm lý học. Và cũng vì vậy, nó hoàn toàn nằm ngoài những kết luận về mặt đạo đức. Mà đúng hơn, nó chối từ những kết luận dễ dàng. Toàn bộ những trải nghiệm không thể nói được bằng ngôn ngữ thông thường này chính là phần sâu thẳm nhất, bộn bề nhất của tinh thần con người. Sẽ khó có thể nói “tôi yêu con người” nếu như ta ngoảnh mặt trước cái phần sâu thẳm, bộn bề, khước từ thẩm quyền phán xét, khước từ tư duy phân loại đánh giá ở mỗi chúng ta. Mỗi kẻ khác đều làm ta cần nhẫn nại hơn. Mỗi kẻ khác đồng thời là cơ hội để ta nhìn vào họ mà thấy thêm ta.

*

Không có nhiều bài làm của sinh viên cảm thấy hứng thú trước câu hỏi của tôi. Tôi lường trước được điều đó. Có một số bài viết mà tôi đọc ra ngay sự đối phó của sinh viên, như thể ông thầy đúng là rỗi hơi, bắt mình đi cảm nhận mấy dòng của một kẻ tự nhận mình là điên. Mà rồi hiểu một kẻ tự thấy mình là điên để làm gì? Giá như anh ta là một nạn nhân xã hội nào đó, rất có thể mọi thứ trở nên dễ hiểu hơn.

Không, kẻ khác trong văn học luôn thách thức nhu cầu thu hẹp con người lại, giản đơn hóa con người đi, để dễ nắm bắt, thâu tóm. Hàm ẩn đằng sau hành động đơn giản hóa con người rất có thể là nhu cầu muốn thống lĩnh con người. Văn học, xa lạ với khát vọng thống lĩnh ấy, bởi thống lĩnh cần đến một vị thế đứng bên trên con người.

Thật may, trong những gì tôi nhận được về, tôi đã đọc được những nỗ lực của các em, và hơn hết, ở các bài viết ấy, tôi đọc ra được một suy nghĩ: kẻ lạ kia mang đến cho chúng ta một điều bí ẩn, và điều bí ẩn có thể giúp ta hiểu chính ta hơn. Ta ở trong kẻ lạ ấy. Kẻ lạ ấy làm phong phú thêm những gì ta tưởng như đã biết về con người. Và tôi xin giới thiệu một vài cảm nhận của sinh viên ở đây và tôi tin các em đã có một trải nghiệm ý nghĩa khi tìm hiểu nội tâm của một người lạ

*

Bài viết của Vũ Thị Kiều Chinh

Bài viết ban đầu đem đến cho tôi hai câu hỏi: Sao lại muốn giết người yêu? Sao lại phải chết nhọc công như vậy? Hai ý nghĩ được ngăn ra bởi sự tỉnh giấc của nhân vật, như một cái đập chia đôi dòng suy tưởng: mơ và thực, hệt như cách “tôi” miêu tả: “bị cắt làm đôi bởi một dải nắng.” Hai câu hỏi đó, với tôi, cũng giống như việc bị cắt đôi nhưng vẫn là trên một cơ thể, có thể tựu chung lại ở một câu hỏi lớn hơn: Như thế nào để sống?

Ở một phân mảnh trong ý thức, nhân vật muốn làm những điều “ác”. Giấc mơ là sự phản ảnh của những thứ trong hiện thực. Thậm chí, mơ còn thực hơn cả thực, vì trong mơ, người ta không bị kiềm tỏa bởi những thứ gọi chung là “trật tự xã hội.”, như chính “tôi” thừa nhận: “mơ là cách duy nhất được thở.” Và biểu hiện “được thở” rõ ràng nhất là “tự do”. Trong mơ, “tôi” được tự do bơi mình trong những suy nghĩ có vẻ méo mó, bệnh hoạn: giết người yêu cũ, cưỡng hiếp, đẩy một kẻ xuống đường ray; tôi được bộc lộ bản năng của tính tư hữu, nhục dục, lòng căm thù, … hay đơn giản là mong muốn tự nhiên: được làm điều ác hay những chuyện li kì. Ban ngày, người ta đã rào và quy định thế nào là chuẩn mực, … và đẩy những kẻ chạm vào ranh giới ra rìa. Và vì những lo âu “chạm vạch” nên thường thì ta cố thu mình lại, càng nhỏ càng tốt, nhưng ý nghĩ thì không mất đi, đêm đêm, chúng chồm lên kéo tay ta đi ra khỏi lằn ranh. Hoặc lí giải đơn giản hơn, cái ác quyến rũ ghê gớm, mà bản chất con người lại là hiếu kì, nên càng cấm thì càng muốn làm. Như vậy, có một cách để sống: dùng cái ác như một công cụ để khẳng định sự tự do.

Phân mảnh còn lại, nhân vật muốn đi về phương Bắc cho đến khi “ngập trong tuyết và đêm.” Các nhân vật trong những câu chuyện Wyoming của Annie Proulx sống cô lập trong cái lạnh nhưng ấm nóng với những lí tưởng, tình cảm. “Tôi” muốn sống như vậy, tức là sống một đời ý nghĩa. Và tính từ “ý nghĩa” còn gì rõ ràng hơn khi được minh họa bằng một hành trình đi tới một điểm nào đó hoàn bích đến khôn cùng. Sở thích của con người là chinh phục. Cho dù ý nghĩ đi tới nơi lạnh nhất và chôn mình nghe thật ngu xuẩn, nhưng nó vẫn là một ý nghĩ cao cả: tìm kiếm một thứ gì đó hoàn hảo theo nghĩa nào đó. Xưa nay có vĩ nhân nào lại không từ đam mê một cái gì đó vừa hoàn hảo vừa huyễn hoặc? Chạm được một thứ tuyệt đẹp có lẽ là niềm an ủi lớn nhất cho một đời sống cho dù nó không hề thật. Và có một cách sống: ôm một hoài bão, một giấc mơ thậm chí điên rồ.

Cách một khó ưa, nên để trong mơ. Cách hai dễ được thông cảm hơn, nên để trong tỉnh.

*

Bài của Phạm Thị Thái Phương

Có vài điều tôi chia sẻ cùng “Werhoneshire”, dẫu rằng tôi chưa bao giờ ở vào tình trạng phải nằm viện tâm thần. Thứ nhất là những giấc mơ đáng sợ. Những tình huống trong mơ của “tôi” rất bạo lực: khi thì giết người, cưỡng hiếp, khi thì tự sát, khi là hung thủ, khi là nạn nhân. Nếu nói giấc mơ là sự phản chiếu đời thực ta đang sống, thì cái thế giới thực của “tôi” quả là khủng khiếp. Cá nhân tôi thấy đây cũng là những vấn đề người trẻ tuổi quan tâm đặc biệt hiện nay, họ ít để tâm đến chính trị. Chính trị thì trừu tượng và có vẻ xa xôi quá, trong khi cá nhân đã quá nhiều bất trắc và lo âu phải đương đầu. Thứ hai là những cuốn sách mà “tôi” đọc. Thú thực là có nhiều cái tên tôi không biết, chúng kết chuỗi với nhau thành một thế giới tinh thần rất xa lạ. Không biết “tôi” đã đọc ở đó những gì, có giúp gì cho “tôi” hay cho những bệnh nhân cùng phòng với “tôi” hay không? Nhưng với cá nhân mình, tôi thấy sách vở đôi khi là một lực treo, treo người ta lên lơ lửng khỏi cuộc đời, rồi nhìn xuống: đôi khi là quá hời hợt tới ngu ngốc, có khi lại quá sâu vào bản chất đến nghiệt ngã, tóm lại là đọc xong một cuốn sách thì khó mà sống như cái tôi trước đó nữa, đọc càng nhiều sự thay đổi càng chồng chất, khiến sự sống không còn bình an. Sách, nhất là văn học, dù giả trang thế nào cũng không phải cuộc đời, nó chỉ là “những niềm an ủi không thật”. Thứ ba là đôi bàn tay đẹp mà “tôi” không muốn kể. Cảm nhận về cái đẹp của con người, là chủ quan hay khách quan thật khó nói, công việc ấy dành cho các triết gia ; còn “tôi”, chủ quan anh ta chọn chân đẹp mà chẳng có lí do gì – dù rằng về khách quan, anh ta có nhận ra vẻ đẹp của bàn tay cô y tá. Tiêu chí của cái đẹp có khi cũng vô lý y như bản chất của ngôn ngữ vậy: chẳng ai biết vì sao quả đu đủ lại gọi là quả đu đủ, như việc ai mà biết được vì sao “tôi” lại không thích tay bằng chân. Cố tình tìm một lí do thì có thể vì bàn tay ấy đeo nhẫn nên nó không đẹp nữa chăng? Như hoa trong chậu sao đẹp bằng hoa đại ngàn – cũng vô căn cứ nốt. “Werhoneshire” kể về một nhân vật có hoàn cảnh khá đặc biệt, nhưng những trải nghiệm tinh thần của anh ta thì lại khá gần gũi với đời sống tinh thần của giới trẻ đương đại, hay ít ra là với tôi.

 

Vũ Thị Kiều Chinh – Tinh thần tiểu thuyết trong truyện ngắn “Nguyễn Thị Lộ” của Nguyễn Huy Thiệp

Bài viết dưới đây là một phần từ bài điều kiện học phần “Tác phẩm và thể loại văn học” của bạn Vũ Thị Kiều Chinh, sinh viên K65, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Khi chọn tác phẩm “Nguyễn Thị Lộ” như một case study để các bạn sinh viên tìm hiểu về tiểu thuyết như một mô hình thế giới quan, thực sự tôi đã không nghĩ xa và nghĩ sâu như những gì mà sinh viên của mình cảm nhận được. Và với tôi, đọc một bài văn mà trước hết, thấy ngay được sự suy nghĩ nghiêm túc, sự chăm chút cho câu chữ, sự mạnh dạn nêu lên quan điểm (cho dù có thể cảm tính, cực đoan chỗ này chỗ khác) luôn là điều làm tôi thấy ý nghĩa nhất của công việc dạy văn.

*

 

tranh-son-dau-hoa-dao (9)

Phẩm chất dễ thấy nhất của “tinh thần tiểu thuyết” mà Nguyễn Huy Thiệp đã trao cho truyện ngắn này của mình có lẽ là chất ngôn tình của nó. Còn có đề tài nào đời thường, trần thế và thực tại hơn một câu chuyện tình yêu với những cung bậc của nó từ lúc gặp gỡ, tìm hiểu, tìm hiểu sâu rồi về với nhau một nhà. Còn có nhân vật nào sống hiện tại hơn kiểu nhân vật trong khi yêu. Và vấn đề nhân vật hay sự kiện có được “thi vị hóa, lãng mạn hóa” lên không, nó chẳng còn nằm ở vấn đề thể loại nữa, vì bản thân, một câu chuyện tình yêu thì cái “thật” nhất của nó đã là cái “thi vị” rồi.

Đành rằng lựa chọn nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp đã mang cho mình ý niệm của “tiểu thuyết”, lấy những nhân vật lịch sử tưởng đã đóng băng trong quá khứ thành những tượng đài mà đập ra cho vỡ vụn, cho tan chảy để hòa với dòng chảy hiện thực, quyện vào nó. Ý đồ này bản thân nó đã thể hiện phương diện “tiểu thuyết hóa” lịch sử của tác phẩm, không nhìn nhận lịch sử như một cái gì bất động, đã xong xuôi mà sinh động, chảy trôi như cách vận động của mọi vật. Nhưng cá nhân tôi cho rằng, khi nhà văn đã quyết đưa cái huyền thoại ra làm chất liệu cho cái đời thường thì công chúng bạn đọc cần đọc nó trong mối tương quan với những cái đời thường khác, những thứ “tiểu thuyết” khác. Tức là không nhìn nhận cái hay, cái đặc sắc của tác phẩm nằm ở việc lựa chọn nhân vật và khía cạnh khai thách của tác giả, cho dù việc so sánh ông Nguyễn Trãi khi yêu với ông Nguyễn Trãi trong triều đình là một đề tài rất thú vị. Những thứ đó chỉ là bước đầu, cái khoảng không ở phía vành ngoài của một tác phẩm, còn khi bước vào tác phẩm, tôi mong muốn nói về Nguyễn Trãi đơn thuần như xét một con người bình thường, một hàng xóm hay một người bạn mang tên Nguyễn X. Và tác phẩm này, nếu có gì thú vị vượt lên trên cái vỏ thể loại “truyện ngắn” của nó, thì đó là thứ xuất phát từ những dị biệt cụ thể thật sự của một con người cá nhân Nguyễn X, chứ không phải vì đó là Nguyễn Trãi nên những suy tưởng đó tự nhiên trở nên hay ho, khác biệt.

Hơn một truyện ngắn với đặc trưng “sít sao”, “trùng khít” giữa nội dung và sự vận động của cốt truyện và tính cách, tác phẩm “Nguyễn Thị Lộ” trải ra nhiều hơn là những dòng suy tưởng của nhân vật, thứ đặc điểm tiêu biểu nhất của “con người nếm trải” trong tiểu thuyết. Những dòng suy tưởng có lúc là tâm trạng khi yêu của các nhân vật, nhưng rộng hơn việc trình bày, kể lể để biểu đạt những cảm xúc như vậy, thứ mà ta dễ dàng bắt được trong các tác phẩm ngôn tình thông thường, việc trình đó còn đem đến nhiều hơn về những quan điểm sống, những triết lí cá nhân về ý thức hệ riêng mình theo đuổi. Những cuộc đối thoại giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ được kể lại từ điểm nhìn của một ngôi thứ ba, lồng trong đó là những đối thoại của từng nhân vật từ điểm nhìn của mình với nhân sinh, với cuộc đời. Những đối thoại này mang nhiều những kinh nghiệm cá nhân của chính tác giả, hơn là những quan niệm có sẵn mang tính lịch sử, thời đại. Tôi thì bị hút vào những nội dung bên trong của cuộc trò chuyện hơn là cảm động bởi bởi cái bên ngoài rằng, đây là hai kẻ tri kỉ tâm ý tương thông.

Những cái bên trong đó trước hết là cảm quan về những lầm lẫn ở đời. Rằng những thứ đang có, đang hiện hữu như một cái nghiễm nhiên quanh ta đều là nhầm, đều là sai hết. Tất cả do bàn tay sắp đặt của một ai đó, một kẻ có quyền lực phía trên nào đó hoặc do một thứ trừu tượng như thể chế nói chung chẳng hạn, quy định ra. Những thứ đang tồn tại này phục vụ cho một mục đích thực dụng nào đó, nhưng thực dụng vẫn còn là có ý nghĩa hiểu theo một nghĩa nào đó, nhưng còn có những thứ còn vô nghĩa, trái khoáy, tệ hại nhưng vẫn ngông nghênh, nhâng nháo góp mặt. Những thứ đó tự dán cho mình những cái nhãn như “thành kiến xã hội”, “quy ước xã giao thông tục”, như “trật tự bầy đoàn”, như “đạo đức duy lý”. Những thứ đó bản thân chúng phần nhiều thuần túy là vật chất, đối lập với đời sống nội tâm cả hai nhân vật. Một kẻ như Nguyễn Trãi, xem trọng cái đẹp, cái nhân, trân trọng lý tưởng kết tinh lại trong quan điểm “đạo đức duy mĩ”. Một kẻ như Nguyễn Thị Lộ sống vô tư, không bị ràng buộc bởi những sợi dây tròng cổ mà xã hội đã chăng ra. Những cái lầm lần đó là tổng kết chung của cả nhân loại, không riêng gì một thời đại, rằng càng ngày, con người ta càng thích sống sao cho có lý nhiều hơn có nghĩa. Tức là cố gắng sao cho thật vừa khuôn, thật hợp lý với khung cảnh hơn là vượt ranh để chạm đến những cái đẹp, những cái cao cả. Vì sự thật là, làm cái gì vừa vặn bao giờ cũng dễ làm và dễ được thông cảm hơn làm những cái to lớn, đồ sộ.

Bên trong những câu chuyện đó, khi phát hiện ra cuộc đời là một mớ bùng nhùng với những lầm lẫn và lộn xộn, con người dễ lâm vào trạng thái tự thấy mình cô độc. Nguyễn Trãi tự ý thức được cái lạc loài của bản thân mình, ông ý thức được vị trí của mình nằm ở bên ngoài của cái vòng tròn vừa khít và trật tự kia. Nhưng con ốc nếu cứ yên tâm an phận trong một vỏ ốc của chính mình thì có lẽ nó sẽ chẳng bao giờ bị xâm phạm. Bi kịch của con người nằm ở chỗ, người ta biết mình đứng ngoài cuộc chơi, nhưng người ta lại khát khao đến hung hãn cái ước vọng được nhập vào cái vòng đó, không phải để hòa trộn, để sống vui vẻ, hòa đồng, mà là để phá tung nó ra, đảo lộn, thay đổi mọi thứ. Khi không đổi thay được, những lí tưởng tốt đẹp bị đánh trả, vùi dập không thương tiếc, tất yếu dẫn đến những tuyệt vọng. Và Nguyễn Trãi là phần trình bày cho bi kịch này. Càng đi xa, càng muốn hòa nhập tất cả, con người càng cảm thấy cô độc, lạnh lẽo. “Nàng biết ông đang chạy tế lên những hệ tư tưởng đương thời, vừa hung hãn, vừa tuyệt vọng.”

Những cái bên trong của câu chuyện chỉ ra nguyên nhân của bi kịch là từ bản chất nghiệt ngã của cuộc đời này, những xã hội mà thuyết vị lợi được coi như tôn giáo chính thống nhất. Khi những thứ gọi là “bi kịch cá nhân”, theo Lê Lợi, mãi mãi nó chỉ là của cá nhân, là những thứ nhỏ bé, không có giá trị. Không cần để mắt. Nguyễn Trãi nhìn ra, những cá nhân làm nên bản chất của quần chúng, từng cá nhân suy đồi có thể dẫn dụ quần chúng đi đến một bi kịch tập thể. Nhưng Lê Lợi chỉ sử dụng cá nhân như những miếng mồi ngon nhử một bầy đoàn khác, cá nhân đó không có giá trị hơn là một công cụ. Ở bất cứ xã hội nào không coi trọng sự tồn tại riêng biệt của từng cá nhân, thì khi anh có một hệ tư tưởng dị biệt, anh nhất định sẽ bị giam mình hoặc phải tự giam mình trong những căn phòng vàng vàng và ngập tối, thậm chí anh còn phải gói ghém nó lại ở một góc nào đó thật sâu, thật tối, và đừng mong có cơ hội thực hành lí tưởng.

Đối diện với những bi kịch đó, bên trong đối thoại giữa hai nhân vật hàm ẩn những giải pháp tạm thời. Khi rơi vào bi kịch của kẻ lạc loại và bị cự tuyệt, con người đơn giản cần tìm đến một người có thể ngây thơ, vô tư để được sống toàn vẹn với tất cả những tử tế và đạo đức của riêng mình. Cả hai nhân vật đều hiểu, nếu những suy nghĩ của Nguyễn Trãi không được “thở” ở một nơi nào đó, có có thể sẽ ngạt hơi, sẽ phân hủy, thối rữa trong tâm thức. Để bớt bi kịch bị tự phân hủy, con người cần ít nhất một kẻ đồng hành hiểu và lắng nghe mình. Ban đầu, Nguyễn Thị Lộ có thể không hiểu mục đích của Nguyễn Trãi khi đến với mình, nhưng việc chỉ cần trên đời còn sót lại tồn tại của một người, có thể là người cuối cùng hiểu được mình, đồng cảm cùng mình thì đời sống đó còn có chỗ để sống, những tư tưởng đó còn một tia hi vọng để thở.

Còn một thứ bên trong nữa tôi muốn nói cuối cùng: quan niệm về cái chết. Người chết nằm dưới nhiều lớp đất, không nói, hoàn toàn lặng im hoặc bị bắt phải lặng im. Nhưng có một thứ vẫn còn sống và chảy: những dòng hồi tưởng. Nguyễn Trãi có thể sinh nhầm thời đại, trên thực tế nếu coi quan điểm cuộc đời bản chất là sai thì việc sinh nhầm thời vẫn là đúng theo cái luật chơi này. Đúng ở chỗ cuộc đời phải đa diện, phải phức tạp nó mới làm nên được hình dạng của những con người tư tưởng, trăn trở. Và vẻ đẹp trong một thế giới hỗn độn có lẽ chính nằm ở việc người ta cứ buồn phiền mãi về những cái bất toàn trong đời sống này. Cơ thể vật lý của những suy tưởng có thể chết đi, nằm sâu dưới đất, nhưng cái linh hồn của những hồi tưởng thì vẫn âm ỉ chảy trôi như một mã gen ngầm, từ đời này qua đời khác, từ những con người này sang những con người khác.

Chính những cái đó mới làm nên một thứ “tinh thần tiểu thuyết” cho một tác phẩm.