1. Tôi dạy lý luận văn học ở một trường đại học. Chiều nay là kỳ học mới của sinh viên và tôi bắt đầu phải lên lớp cho các em học phần đầu tiên của bộ môn này. Tôi không háo hức, không kỳ vọng gì nhiều vào bài giảng của mình, vào sự chờ đợi của sinh viên. Biết nói gì với các em về bộ môn này, ở thời điểm này?
Chẳng lẽ nói: lý luận văn học là bộ môn chịu nhiều định kiến nhất trong các môn học của chuyên ngành ngữ văn? Định kiến phổ biến đầu tiên: nó là môn học không thực tế, chẳng áp dụng được gì nhiều ở trường phổ thông – nơi đa số sinh viên sẽ làm việc sau này. Các ông thầy thường dẫn câu nói của quỷ Mephisto trong kịch Faust: “Lý thuyết thì xám xịt, chỉ cây đời mãi mãi xanh” như để nhấn mạnh đến tính vô dụng của môn học. Nếu nổi nóng khi muốn bảo vệ cho chuyên ngành của mình, có thể tôi sẽ nói: môn học nào ở trường đại học không vô dụng và xám xịt? Nhưng sự nổi nóng luôn làm người ta không tỉnh táo.
Định kiến thứ hai: lý luận văn học là thứ mang tính chất trang sức, thậm chí là thứ trang sức nhập ngoại nên thường bị “hải quan” trong ngành nghiên cứu văn chương Việt Nam này săm soi. Nếu có thời gian, em hãy thử đi nghe seminar một số luận văn, luận án ở các bộ môn khác, sẽ thấy một than phiền phổ biến: luận án quá nặng về trình bày khái niệm, dẫn giải lý thuyết, mà mình làm luận án chuyên ngành văn học Việt Nam, văn học nước ngoài cơ mà…? Lý thuyết là thứ bị xem đối lập với văn học sử, cho đến giờ vẫn là trục chính để kiến tạo toàn bộ khung chương trình ngữ văn ở bậc đại học. Đã thế, nếu một luận văn thể hiện sự hào hứng với lý thuyết mới, người nghiên cứu cặm cụi sưu tầm tài liệu, dịch thuật…thì thay vì được trân trọng, có lẽ họ sẽ nhận về những thái độ hà khắc: em chưa đủ khả năng “tiêu hóa” lý thuyết mới đâu, em viết như dịch, em vọng ngoại quá. Và mệnh đề kinh khủng nhất: lý thuyết đó có phù hợp với Việt Nam đâu mà theo đuổi? Rất nhiều lý do để nản lòng với môn học này.
Định kiến thứ ba: lý luận văn học, mà lại còn ở Việt Nam à, mà lại trong giáo trình đại học à, không khác gì một thứ pháo đài kiên cố để bảo vệ những gì cũ kỹ, thủ cựu nhất. Mở giáo trình ra mà xem, chúng ta đã đi hết một thập niên của thế kỷ XXI, vậy mà vẫn có những mục như thế này trong bài học: “Đấu tranh từ hai mặt xung quanh vấn đề tính giai cấp”, “Chống lại xu hướng”, “Chống các biểu hiện của chủ nghĩa sùng ngoại và bài ngoại”… Lại “chống”, lại “đấu tranh”… Sinh viên đã học đủ các môn triết học, đường lối…trước khi học môn này rồi còn gì? Nhưng này em, trong không khí của những ngày ta đang sống, những từ vựng ấy lại càng rắn lại, hóa thạch lại và thậm chí chúng làm ta sợ. Lý luận văn học là môn dạy người ta phải sợ.
2. Còn nhiều định kiến có thể liệt kê ra nữa. Thực ra, chính tôi cũng hơn một lần chất vấn về ý nghĩa của bộ môn mình học và giảng dạy. Khi có điều kiện tìm hiểu các luận án tiến sĩ ở mỹ qua cơ sở dữ liệu Proquest, tôi đã rất ngạc nhiên khi những luận án mà subject là “literary theory” không quá nhiều như tôi vốn hình dung. Dù sao thì Mỹ vẫn là nơi các lý thuyết phát triển năng động nhất.
Là một kẻ tự học, tôi dần dần mày mò tìm hiểu và có lẽ tôi hiểu được phần nào lý do của hiện tượng trên. Không phải ở Mỹ, lý thuyết văn học cũng là thứ trang sức, lộ ra ngay bên ngoài như người ta thấy ở Việt Nam. Lý thuyết là điểm tựa tư duy, nó ẩn trong cái nhìn của người nghiên cứu về các hiện tượng trong đời sống. Mọi luận án, xét đến cùng, đều phải xử lý một vấn đề lý thuyết nào đó, nhưng nó được xử lý từ dưới lên, từ những quan sát rất nhỏ. Lý thuyết không phải là cái mà người ta học được; nó là cái mà người ta làm. Làm lý thuyết tức là luôn phải chất vấn lý thuyết, luôn phải băn khoăn về những khái niệm, công cụ sẵn có trước đó được trao cho ta. Cái cảm giác phải chất vấn lý thuyết đó ở ta cũng có…nhưng nó biến tướng thành những trạng thái tâm lý khá buồn cười thay vào đó: sự nghi kỵ, sự cảnh giác. Tức là người ta vẫn bắt đầu từ nỗi sợ để nhìn lý thuyết. Mà có tự do tư duy nào sinh ra từ sợ hãi? Lý thuyết không phải là những khung kiến cố, những bộ quy tắc để ta áp dụng vào từng trường hợp văn học giống như đem áp dụng công thức toán lý để giải các bài tập. Chúng khiến ta phải hỏi, phải hồ nghi, phải băn khoăn nhiều hơn. Và trong khi chúng ta còn chưa thật sự nắm bắt được những gì đang diễn ra trong đời sống học thuật thế giới, trong khi rất ít các giáo sư tiến sĩ trong nước thực sự hiểu được những học giả có ảnh hưởng lớn về tư duy lý thuyết trong học thuật đương đại thì chúng ta lại có vẻ đang dư dả các công trình tổng kết các khuynh hướng của lý thuyết phương Tây và kết luận được nhiều người đắc ý hơn cả: phải thận trọng, phải thận trọng. Đúng, phải thận trọng, nhưng đó phải là sự thận trọng khi các lý thuyết mới được nghiên cứu một cách sâu sắc. Thêm nữa, lý thuyết giờ cũng giải đại tự sự, không một khuynh hướng nào tự cho nó có thể bao quát được toàn vẹn thực thể văn học hay đời sống, mỗi người chỉ có thể chiếm lĩnh được một phần nhỏ trong cái mênh mông đó mà thôi. Lý thuyết văn học đã từ bỏ những phán quyết chắc nịch, theo kiểu văn học là gì là gì. Nó nhìn văn học trên những đường biên, trên những bình địa mấp mô. Chính trên những lằn ranh động đó, văn học không còn là một thực thể tĩnh tại. Với một thực thể không tĩnh tại như thế, lý thuyết giờ xa lạ với những phán xét, nó xa lạ với những cái nhìn giáo điều. Tôi đã từng rất khổ sở khi đọc lý thuyết nước ngoài khi không tìm thấy được, vậy thì rốt cục, bản chất của vấn đề này là gì? Tôi chỉ nghe thấy những đối thoại không ngừng xung quanh những vấn đề đó. Tôi chỉ nghe thấy những câu hỏi mà không biết đấy là điều mà lý thuyết cho mình, chứ không phải một định nghĩa sau cùng, chắc nịch.
3. Môn học chúng ta sẽ học là lý luận văn học. Ở tiếng Anh, chắc là không có sự phân biệt rạch ròi lý thuyết văn học với lý luận văn học. Ông Jonathan Culler trong cuốn “Literary Theory: A Very Short Introduction” có nói thực ra từ thập niên 90 thế kỷ trước, người ta đã không nói nhiều đến lý thuyết văn học nữa, mà chỉ là lý thuyết thôi. Đối tượng của lý thuyết là mọi hình thức văn bản: không chỉ ngôn từ mà đó còn là điện ảnh, hội họa, thời trang, thân thể… Tinh thần chung của lý thuyết là chất vấn những giá trị mặc định, phản biện những gì được xem là tự nhiên, vốn dĩ. Theo đó, lý thuyết luôn mang tính khiêu khích, hình thức của nó thường là một cái gì đó trái chiều, phủ định, gai góc, thậm chí đôi khi khá điên rồ. Còn gì điên rồ hơn khi nói rằng ngay cả màu da, giới tính chúng ta…hóa ra là những thứ được “văn bản hóa” (textualized) hơn là những thứ “tự nhiên”?
Bởi lẽ đó, thực ra, trong giờ học, tôi muốn thầy trò sẽ cùng thảo luận về những vấn đề hình như chẳng văn học gì hết? Chúng ta sẽ nghĩ gì về vụ khủng bố tòa sọa tờ báo châm biếm Charlie Hebdo? Chúng ta sẽ nghĩ gì khi nhân trường hợp một phụ nữ Việt Nam bị xử tử hình ở Indonesia vì buôn ma túy, có người đã đề nghị cần phải thúc đẩy hơn nữa việc xóa bỏ án tử hình? Đó là những case rất hay để thầy trò chúng ta cùng hình thành tư duy phản biện, cùng suy ngẫm về những giới hạn và khả năng của con người, của đời sống. Chúng ta có thể cùng hỏi nhau những câu hỏi thế này về cái chết:
http://thegioitiepthi.net/gia-dinh/cai-chet-va-triet-hoc/
Nhưng hôm trước thôi, tôi nghe thấy các bạn sinh viên khi mượn máy chiếu của khoa để chiếu phim “Boyhood”, có thầy đã nhắc nhở không được chiếu những phim có những cảnh nhạy cảm. Trước đó nữa, nghe nói một hội thảo mà khoa định tổ chức về đổi mới giảng dạy và nghiên cứu ngữ văn, trong phần xác định mục tiêu của hội thảo có mấy chữ đại ý nhắm phát triển tư duy phê phán cho sinh viên, hội thảo đó đã tạm thời bị xếp lại.
Vậy còn lý do gì để chúng ta học môn này nữa chứ?
Nhưng thôi em ạ. Hãy luôn nghĩ thực ra khi đã là sinh viên rồi, không ai dạy được em hoàn toàn hết. Nếu em nghĩ, mình cần tư duy độc lập, mình cần hình thành một quan điểm cho riêng mình, mình không thích những gì đã được dọn sẵn, hãy học lý thuyết. Học một cách rất thực tế: tập nhìn đời sống, tập suy ngẫm, chiêm nghiệm, chân thành và rốt ráo. Lý thuyết không bao giờ đi đồng hành với nỗi sợ cả.
Thế nhé.