Monthly Archives: Tháng Mười 2014

Lydia Davis – Chùm truyện cực ngắn

Lydia Davis (1947), là tiểu thuyết gia, cây bút tiểu luận, dịch giả của những tác phẩm quan trọng của văn chương Pháp ngữ nhưng trước hết bà là một cây bút truyện ngắn của văn chương Mỹ. Tôi không để ý nhiều đến bà, cho đến hôm nay khi tình cờ tìm được tuyển tập truyện ngắn của bà, tôi mới biết năm 2013, bà đã được trao giải Man Booker International Prize. Cũng năm đó, giải Nobel vinh danh Alice Munro, nhà văn Canada chuyên trị thể loại truyện ngắn.

Truyện ngắn của Lydia Davis thuộc về một dòng mạch khác với Alice Munro. Chúng gần với truyền thống của thơ, của cách ngôn mà nhiều khi chỉ một hai câu, câu chuyện cho thể chạm vào những đau đớn tột cùng của con người như truyện “Đứa con”, hoặc gợi ra suy tư sâu sắc như truyện “Những bà mẹ”…

mother_and_son_walking_by_Panaer

Con đường náo nhiệt

Giờ tôi đã quen với nó

đến nỗi khi xe cộ trên đường im bặt

tôi nghĩ là một cơn bão đang về.

 

Vụ hành hình

câu chuyện từ Flaubert

Một câu chuyện nữa về lòng cảm thương của chúng ta. Ở một ngôi làng không cách xa đây lắm, một thanh niên đã giết chết một ông chủ ngân hàng và vợ ông ta, sau đó cưỡng hiếp cô hầu gái của nhà đó và uống hết rượu trong hầm chứa. Hắn ta bị bắt, bị đưa ra xét xử, tỏ ra hối hận, bị kết án tử hình và bị đem ra hành hình. Chuyện một gã bị xử chém, cố nhiên, là chuyện dễ thu hút sự quan tâm của dân tình, thế nên từ khắp nơi trong vùng, người ta đã đổ về ngôi làng ấy từ đêm hôm trước – có lẽ phải hơn mười ngàn người. Bởi số người muốn xem vụ xử chém quá đông nên những cửa hàng bánh ngọt không còn bánh mì để bán. Và bởi vì các quán trọ cũng kín chỗ, người ta đã phải ngủ qua đêm ngoài trời để chờ xem gã thanh niên kia chết như thế nào, họ phải ngủ trong tuyết.

Và chúng ta lắc đầu ngán ngẩm trước những đấu sĩ La Mã. Ôi, những kẻ chuyên lòe người.

 

Đứa con

Chị cúi gập người xuống đứa con của mình. Chị không thể nào rời nó. Đứa bé được khâm liệm trên bàn. Chị muốn chụp thêm một tấm ảnh nữa của đứa con, có thể là tấm cuối cùng. Khi còn sống, con chị chẳng bao giờ ngồi yên để chụp một tấm ảnh cả. Chị nói một mình, “Mẹ sẽ đi lấy máy ảnh”, cứ như thể chị đang nói với con, “Ở yên đó nhé.”

 

Bọn chuột

 

Bọn chuột sống trên tường nhà chúng tôi nhưng không hề quấy rối gian bếp. Điều này làm chúng tôi dễ chịu nhưng chúng tôi lại không hiểu vì sao chúng không mò vào bếp, nơi chúng tôi đặt bẫy, như ở gian bếp những nhà khác. Và dù thấy dễ chịu, chúng tôi vẫn có cảm giác hơi buồn vì thấy bọn chuột cư xử như thể có gì đó không ổn ở gian bếp của nhà tôi. Mà cái cảm giác này càng khó hiểu hơn khi nhà tôi ít gọn gàng hơn những ngôi nhà hàng xóm. Có nhiều thức ăn vương vãi trong gian bếp hơn, nhiều vụn bánh trên bàn ăn hơn, và cả những mẩu hành bẩn thỉu bết lại ở đáy giá để bát đĩa. Trên thực tế, gian bếp nhà tôi nhiều thức ăn dây dưa đến nỗi tôi nghĩ bọn chuột sẽ chết vì ăn không chừng. Ở một căn bếp gọn gàng, sạch sẽ, sẽ là thách thức đối với bọn chuột khi phải kiếm đủ thức ăn hàng đêm để sống sót cho đến mùa xuân. Chúng sẽ phải kiên nhẫn sục sạo, gặm nhấm hàng giờ cho đến khi nào no thì thôi. Trong gian bếp nhà tôi, chúng phải đối mặt với một cái gì đó hoàn toàn không tương xứng với kinh nghiệm của chúng, đến mức chúng không thể xoay sở nổi. Chúng sẽ phải đánh liều dấn thêm vài bước nhưng ngay lập tức, cảnh tượng và mùi của gian bếp làm chúng ngợp, đẩy chúng trở lại ổ của chúng, rồi chúng sẽ khó chịu, sẽ bối rối vì đã không thể kiếm được thức ăn như chúng có thể.

 

Những bà mẹ

Ai cũng có một bà mẹ ở đâu đó. Một bà mẹ ăn tối cùng chúng ta. Bà là một phụ nữ nhỏ bé, đeo kính một mắt dày đến nỗi chúng dường như biến thành màu đen khi bà quay đầu đi. Rồi bà mẹ của người chủ trì bữa tiệc gọi điện đến khi chúng ta đang ăn. Điều này khiến cho người chủ trì bữa tiệc phải rời bàn ăn lâu hơn người ta nghĩ. Bà mẹ này có thể đang ở New York. Bà mẹ của một vị khác được nhắc đến trong cuộc chuyện trò: bà mẹ này đang ở Oregon, một bang hình như trong chúng ta chẳng ai biết mấy dù có vẻ như trước kia cũng có một người bà con nào đó sống ở đấy. Một biên đạo múa được nhắc đến sau đó, khi chúng ta ngồi trong ô tô. Đêm nay, ông ta sẽ nghỉ tại thị trấn này, trong chuyến đi của mình, mà thực ra, cũng là đến thăm mẹ của mình, cũng lại đang sống ở một bang khác

Những bà mẹ, khi họ là khách ở bữa tôi, họ ăn uống ngon lành, như đám trẻ con, nhưng dường như họ vắng mặt. Thường họ không thể nào theo kịp những gì chúng ta nói hay làm. Cũng thường là họ chỉ bắt chuyện khi nào câu chuyện chuyển sang chủ đề về tuổi trẻ của chúng ta; hoặc là họ dọn phòng cho chúng ta nghỉ khi thực ra chúng ta nào muốn nghỉ lại; họ mỉm cười và bị hiểu nhầm. Thế nhưng những bà mẹ luôn được nhìn thầy, luôn được nói đến, thậm chí cả trong những ngày nghỉ. Họ đã chịu đựng vì chúng ta và hầu như luôn là thế, họ ở một nơi chúng ta không thể thấy được họ.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Lydia Davis, The Collected Stories (NY: Farrar,Straus & Giroux) & Collected Stories (GB: Harmish Hamilton, 2010)

Trào lưu Dada: “Tất cả cho hôm nay”

Luôn được xem là biểu tượng cho tinh thần nổi loạn của nghệ thuật, trào lưu Dada chưa bao giờ chỉ là một hiện tượng lịch sử. Các tác phẩm, tư tưởng của các nghệ sĩ Dada vẫn tiếp tục gây nên những tranh luận, thách thức nhiều quan điểm mỹ học, và quan trọng hơn cả, vẫn lan tỏa ảnh hưởng đến những thực hành nghệ thuật đương đại. Dada cho thấy quyền tự do trong nghệ thuật là quyền được đi đến tận cùng những giới hạn, không thỏa hiệp, không nửa vời. Mỗi một hành động sáng tạo là một định nghĩa mới cho nghệ thuật.

Marcel Duchamp (1887-1968)

Marcel Duchamp tiếp thu cả khuynh hướng Lập thể và Vị lai trước khi ông có khúc ngoặt quyết định, trở thành kẻ thách thức tất cả các quy phạm vào năm 1913, khi tác phẩm The Nude Descending the Staircase (Người khỏa thân bước xuống cầu thang) được giới thiệu tại Amory Show ở New York và gây ấn tượng mạnh mẽ. Hành động giao chiến của Duchamp với chủ nghĩa duy mỹ thị giác, vốn được bắt đầu từ thời kỳ ông sáng lập chủ nghĩa Dada, đã làm dấy lên những trào lưu nhỏ của nghệ thuật hiện đại. Nó vừa mở đường cho các nghệ sĩ muốn khẳng định vai trò tri thức của mình trong việc hình thành nghệ thuật hiện đại, vừa tạo không gian cho những kẻ muốn chối từ các quy phạm, đưa vào trong nghệ thuật sự hóm hỉnh, tinh thần hài hước, châm biếm. Nói như Wilhem de Kooning, riêng Marcel Duchamp đã là cả một trào lưu – “trào lưu một người”.

*

bicycle_wheel

Năm 1913, tôi nảy ra một ý nghĩ hay ho: buộc một bánh xe đạp với một chiếc ghế đẩu nhà bếp, rồi xem nó quay như thế nào.

Mấy tháng sau đó, tôi mua một bức tranh chép vẽ phong cảnh một buổi tối mùa đông với giá rẻ – tôi đặt lại tên cho nó là Nhà thuốc sau khi thêm vào bức tranh ấy hai dấu chấm nhỏ, một đỏ, một vàng ở đường chân trời.

Tại New York, vào năm 1915, tôi mua một chiếc xẻng xúc tuyết tại một cửa hàng đồ gia dụng, trên đó, tôi viết dòng chữ “Lường trước chuyện gãy tay”.

Chính trong khoảng thời gian này, cái từ “readymade” (đồ làm sẵn) lóe lên trong đầu tôi như tên gọi cho hình thức biểu đạt này.

Một điểm mà tôi đặc biệt muốn nhấn mạnh là việc lựa chọn những “đồ làm sẵn” này chưa bao giờ chịu chi phối bởi khoái thú thẩm mỹ cả.

Sự lựa chọn ấy dựa trên một phản ứng của sự lãnh đạm thị giác đồng thời gạt bỏ hết ý niệm về khiếu thẩm mỹ tốt hay xấu…trên thực tế, đó là một sự mất cảm giác tuyệt đối.

Một đặc điểm quan trọng ở những tác phẩm “làm sẵn” là những câu văn ngắn mà thỉnh thoảng tôi viết lên các đồ vật.

Câu văn ấy, thay vì mô tả đồ vật như một nhan đề, lại đưa tâm trí người xem liên tưởng đến những vùng khác, nơi có nhiều lời hơn.

Đôi khi, tôi lại bổ sung một chi tiết hình họa trên lời giới thiệu mà tôi gọi là “chi tiết trợ giúp” cho tác phẩm làm sẵn, để thỏa mãn khoái cảm muốn chơi phép điệp của bản thân, .

Lại ở dịp khác, khi muốn phơi bày xung khắc cơ bản giữa nghệ thuật và tác phẩm làm sẵn, tôi đã tưởng tượng ra cái gọi là”readymade tương hỗ”: Sử dụng một bức tranh của Rembrandt như một mặt bàn dùng để là quần áo.

Tôi nhận ra rất sớm mối nguy hiểm của việc lặp đi lặp lại một cách bừa bãi hình thức biểu hiện này và quyết định chỉ sản xuất một số lượng nhỏ các “tác phẩm làm sẵn” này mỗi năm mà thôi. Ở thời điểm đó, tôi ý thức được rằng, hơn cả nghệ sĩ, đối với người xem, nghệ thuật giống như một thứ ma túy quen dùng và tôi muốn bảo vệ những “tác phẩm làm sẵn” của mình khỏi sự ô nhiễm ấy.

Một khía cạnh khác của “tác phẩm làm sẵn” là nó thiếu tính chất độc nhất…bản sao của một “tác phẩm làm sẵn” cũng mang cùng một thông điệp; trên thực tế, gần như mọi “tác phẩm làm sẵn” còn tốn tại đến nay đều không phải là bản gốc, hiểu theo nghĩa quy ước của khái niệm này.

Một nhận xét cuối cùng trong bài phát kiểu của kẻ nghiện chính mình (egomaniac) này:

Kể từ khi những ống màu mà họa sĩ sử dụng được sản xuất hàng loạt và là những sản phẩm làm sẵn, chúng ta được quyền kết luận rằng mọi bức tranh trên thế giới này đều là những “sự trợ giúp” cho “tác phẩm làm sẵn” và đều là những tác phẩm lắp ghép.

[1961]

Francis Picabia (1879-1953)

Francis Picabia gặp Marcel Duchamp và những người anh em trong nghề của mình vào thời điểm tất cả đều đang say sưa thể nghiệm, khám phá những khả năng biểu đạt của Hội họa Lập thể mà kết quả là cuộc triển lãm gây nhiều tiếng vang của nhóm Section d’Or vào năm 1912. Tranh của Picabia đã thể hiện những ngụ ý châm biếm sự máy móc, tình trạng cơ giới hóa của đời sống hiện đại thậm chí trước cả khi ông đến New York năm 1913. Sau đó, tác phẩm của Picabia trở nên đáng chú ý bởi những áp đặt mang tính cơ giới, lạ lùng và mỉa mai, lên những hình thức hữu cơ (organic forms). Từ năm 1915, khi Duchamp đến New York, Picabia trở thành một nhân vật nổi bật của trào lưu Dada, ông đã đưa đến những sự phê phán bằng ngôn ngữ thị giác hài hước nhất, ngộ nghĩnh nhất đối với chủ nghĩa hiện đại qua những bức vẽ đăng trên tạp chí Camera Work của Alfred Steiglitz – một tạp chí ủng hộ các khuynh hướng tiên phong của nghệ thuật thế giới ra đời năm 1902 và tiếp tục xuất bản cho đến tận năm 1917.

*

not_detected_236817.jpg!Blog

Nếu anh muốn có những ý tưởng sạch sẽ, hay thay đổi chúng thường xuyên như thay áo.

Một niềm xác tín giống như một căn bệnh.

Chỉ có một cách duy nhất để cứu rỗi đời mình: hãy hy sinh danh tiếng.

Ai cũng phải đi qua cuộc đời này, dù nó màu đỏ hay xanh, hoàn toàn trần truồng và được dẫn dắt bởi âm nhạc của một người câu cá tinh tế, lúc nào cũng sẵn sàng trong tâm thế câu được con cá lớn.

Chúng ta không chịu trách nhiệm cho những gì mình làm; chúng ta chẳng biết gì về hành động của chúng ta chỉ đến khi chúng ta kết thúc chúng.

Khi tôi hút thuốc xong, tôi chẳng còn quan tâm đến mẩu thuốc lá còn lại.

Tội ác thực ra còn ít vô đạo đức hơn sự công bằng của nhân loại.

Những gì giúp hoàn thiện nhân cách chúng ta tượng trưng cho những điều tốt; những gì làm hại nó tượng trưng cho điều xấu. Đấy là lý do Thượng đế chẳng có nhân cách gì.

Chẳng có gì hiện đại trong cách làm tình cả, tuy nhiên, đấy lại là việc tôi thích làm nhất.

Tất cả cho hôm nay, không có gì cho ngày hôm qua, không có gì cho ngày mai.

[1920]

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Twentieth – Century Artists on Arts, Dore Ashton biên tập, NY:Pantheon Books, 1985, trang 21-24.