Monthly Archives: Tháng Bảy 2014

Vẻ đẹp của trí tuệ

 (Nhân xem triển lãm ảnh “Những người giải mã, khám phá toán học” – Espace Hà Nội)

 

les_dechiffreurs_ihes12

1. “Sợ sai và sợ sự thật đều là một và giống nhau hết. Ai sợ sai có nghĩa là người đó không có khả năng khám phá. Chính khi chúng ta sợ nhầm lẫn là khi cái sai lầm ngự trị trong chúng ta lại lớn như một tảng đá không gì lay chuyển được. Bởi khi chúng ta sợ, chúng ta thường bám vào những gì chúng ta cho là “đúng” trước kia, hay vào những điều mà từ lâu đã được cho là vậy. Khi chúng ta muốn thay đổi suy nghĩ đó, không phải vì sợ rằng cái vỏ bọc an toàn nhưng không đúng đó sẽ biến mất mà bởi chúng ta khao khát được hiểu biết, thì khi đó sự sai lầm, cũng như những đau khổ hay buồn phiền trong cuộc sống sẽ luôn luân chuyển trong chúng ta và dấu vết của nó để lại chính là sự hiểu biết ngày càng hoàn thiện”.

Đó là một trích đoạn mà nhà toán học Alain Connes đặc biệt yêu thích. Tôi đã ghi nó lại (có thể không chính xác 100% vì viết khá vội trên một mảnh giấy nhỏ) khi xem triển lãm ảnh về hoạt động của các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu khoa học cấp cao IHES. Một trong những thông điệp nhiều ý nghĩa mà tôi ghi nhận được khi xem hơn một chục bức hình đen trắng chụp được trưng bày ở triển lãm này.

2. Các nhà nhiếp ảnh khi thực hiện dự án này quả thật phải đối mặt với một thách thức không nhỏ: Nghiên cứu khoa học cơ bản là hoạt động của tư duy, những lao động, nỗ lực của tư duy thường là thứ vô hình, là những căng thẳng, vận động diễn ra ở chiều sâu, nhiếp ảnh lại là nghệ thuật của cái hữu hình, của cái bề mặt. Rõ ràng, đối tượng và chủ đề của dự án nhiếp ảnh này là một đề bài khó.

Nhiều bức ảnh chụp các nhà khoa học trong những hoạt động đặc trưng cho lao động của họ: ở những buổi hội nghị, khi giảng bài cho học trò, trao đổi với đồng nghiệp, làm việc bên máy tính. Cũng có những bức ảnh chụp họ ở bên ngoài môi trường hàn lâm ấy: một giáo sư trẻ mải miết đi trên con đường xào xạc lá, một nhà khoa học nữ đăm chiêu trong nắng nhạt. Nhưng ngay cả những khoảnh khắc ấy, ta vẫn thấy họ hiện lên như là những con người đang mải mê suy nghĩ, đang theo đuổi một cuộc phiêu lưu nào đó trong tư tưởng. Ở các nhà khoa học ấy, có sự chia sẻ chân tình giữa những đồng nghiệp: hai vị giáo sư già vừa tản bộ vừa như đang tiếp tục câu chuyện khoa học, ông thầy chăm chú nghe nhà khoa học trẻ diễn giải ý tưởng khoa học của mình trên bảng đen. Những ký hiệu toán học giống như một hành tinh xa lạ, bí ẩn, đầy sức hút đang thách thức tư duy con người… Cái mà tôi cảm nhận được từ đây là một điều khó diễn tả rạch ròi nhưng nó là một cảm giác rất thực: tất cả các bức ảnh đều toát lên cái gọi là vẻ đẹp trí tuệ. Các nhà khoa học có thể hào hứng nhưng không hớn hở; họ có vẻ đang đăm chiêu, đang tập trung cao độ trong suy nghĩ nhưng họ không dằn vặt, nhàu nhĩ, mặc cảm. Không phải giáo sư nào cũng hiện lên với trang phục sang trọng, họ giản dị, đủ lịch lãm và đặc biệt ở ai cũng toát lên tác phong nhanh nhẹn và một thần thái hiền từ. Trí tuệ ở đây chính là một thứ trí tuệ ấm áp, hướng đến sự chia sẻ và lan tỏa, không phải là một thứ trí tuệ muốn vươn lên chiếm lấy quyền lực, hiểu theo nghĩa thô sơ nhất của khái niệm này, một thứ trí tuệ kiêu hãnh và độc tôn.

Với tôi, vẻ đẹp ấy có một sức hấp dẫn đặc biệt. Môi trường làm việc của tôi cũng là một môi trường hàn lâm và tôi không tiếp xúc đủ nhiều với giới học giả Việt Nam nên có lẽ cái cảm giác sau đây của tôi là một định kiến, một cái nhìn phiến diện. Nhưng đó cũng là cảm giác rất thật. Rằng vẻ đẹp của trí tuệ ấy là điều tôi khó bắt gặp ở chân dung các trí thức VN bây giờ. Họ hoặc phấn khích thái quá khi truyền bá một tư tưởng nào đấy, hoặc lại quá nghiêm nghị, khắc kỷ đến độ xa lạ. Họ gần với những viên chức trong những bộ trang phục thanh lịch, trong những câu chuyện tán gẫu về đời thường hơn là những trí thức. Họ gần với những quan chức ở phong thái bệ vệ, uy nghi, hay ra lệnh hơn là người có thể kiên nhẫn và hào hứng lắng nghe người ở thế hệ sau nói lên chính kiến của mình. Họ có thể rất quyền lực, nhưng họ thiếu cái sáng sủa và nhẹ nhõm ở thần thái, cái khiến nét mặt của họ toát lên khí chất của một người hiền. Những cái đó là thứ không thể diễn mà có được. Vẻ đẹp của trí tuệ không phải cứ có tấm bằng, có danh hiệu là ngời lên.

3. Trong số chân dung các nhà khoa học được giới thiệu ở triển lãm này, có một nhà khoa học được nhiều người biết đến nhất: Ngô Bảo Châu. Tôi rất nhớ tâm sự Ngô Bảo Châu chia sẻ dưới bức ảnh chụp ông. Bức ảnh chụp ông vào thời điểm mà ông nhớ lại: Đó là những ngày ông phải đánh vật để hiểu một bài toán của Falting và rồi sau đó, ông bắt tay vào viết bổ đề, chỉ khoảng 10 dòng. Cảm giác khi hoàn thành bổ đề ấy là gì? Nó không phải là một trạng thái ngất ngây, tự sướng mà lại là một nỗi hoang mang. Ngô Bảo Châu chỉ có một cảm giác: 10 dòng đấy hình như trước đó chưa ai viết. Cái nỗi hoang mang ấy đeo đẳng ông. Ông giải tỏa bằng cách chia sẻ cái cảm giác không mấy dễ chịu ấy với một nhà khoa học đồng nghiệp. Người bạn ấy nói với Ngô Bảo Châu một câu: “Nhưng đó là việc chúng ta phải làm!”. Câu nói đó, đối với Ngô Bảo Châu, có một ý nghĩa quyết định. Hơn cả sự chia sẻ, nó củng cố cho ông niềm tin vào ý nghĩa của công việc khoa học.

Tôi không dám tự nhận mình là người làm khoa học (mà thật thế, trường tôi giờ chỉ là trường dạy nghề), lại càng không ảo tưởng lao động học thuật của mình có cái gì đó tương tự như Ngô Bảo Châu. Nhưng cứ cho là tôi đang ảo tưởng đi, bất cứ ai khi nghiên cứu cơ bản, dù ở lĩnh vực nào, dù chỉ làm một cái gì đó thật nhỏ nhưng thật nghiêm túc, sẽ có khoảnh khắc nào đó rơi vào nỗi trống rỗng của Ngô Bảo Châu. Nỗi trống rỗng khi thấy ý nghĩa nghiên cứu của mình thật nhỏ, thật xa vời, hình như nó không có điểm tựa nào trên mặt đất cả. Nói như Chế Lan Viên, đó là nỗi trống rỗng của kẻ cố hái hoa trên trời, một thứ hoa không thật mà quên đi “nước mắt dưới xa kia” mới là điều cần quan tâm hơn cả. Nỗi mặc cảm của kẻ hái hoa trên trời ấy làm họ nhàu nhĩ, khiến họ có một thứ cô đơn thật không dễ bày tỏ cùng ai. Tôi chưa làm nên công trạng gì nhưng đến giờ, tôi chưa bao giờ tha thứ cho bản thân mình khi bỏ môi trường phổ thông – nơi đáng ra tôi đã có thể có một cuộc sống ổn hơn về nhiều mặt – để bám trụ lại môi trường đại học, nơi mà tôi đã cho rằng mình lựa chọn vì “háo danh”.

Những ngày này, khi bắt đầu đọc những nghiên cứu mới về bản chất của ngành nhân văn, tôi lại có cảm giác mình điên rồ đi theo đuổi một thứ nhọc nhằn. Ngành nhân văn vốn dĩ đã là cái ngành chẳng ai thấy thiết thực ở đâu nhất là trong bối cảnh sự chụp giật trở thành một lối sống hiện sinh tầm thường và thời thượng. Giờ nó còn là cái ngành không tìm kiếm những câu trả lời tất định, nó chỉ thắc mắc, chất vấn, làm bất an bản thân, chối từ những mặc định của xã hội. Nó giờ còn là cái ngành mang bản chất nổi loạn đúng nghĩa. Nghiên cứu nhân văn là tiêng nói rất nhỏ, may mắn lắm, nó vọng được vào một hai cá nhân nào đó. Mình có đủ mạnh mẽ để sống băng thứ hy vọng nhỏ bé ấy?

Như một kẻ yếu đuối điển hình, tôi chỉ biết mong chờ vào thế hệ sau, dẫu biết rằng xung quanh ta, vẻ đẹp của trí tuệ, của tri thức đang khan hiếm, quyền năng của quan chức, sự nhàn hạ của đời sống viên chức mới là cái giàu sức hấp dẫn hơn. Nhưng biết làm sao?

4. Bài viết này còn là một câu trả lời cho những dằn vặt của một người đồng nghiệp trẻ. Mà không, nó chẳng phải là câu trả lời vì thực tế, tôi không thể trả lời, càng không thể nói với cậu bạn đó: dở hơi à, nghĩ nhiều làm gì. Không, cứ dằn vặt đi, cứ cảm thấy bất ổn đi vì chừng đó bạn còn đang là người mạnh mẽ đấy. Vì bất ổn hay dằn vặt đều là một biểu hiện kháng cự.

Stuart Dybek – Sức mạnh kinh ngạc của những câu chuyện “ngắn hơn cả truyện ngắn”

paper lantern

Nhớ lại quá khứ một chút. Từ thời trung học, tôi đã viết những mẩu văn xuôi rất ngắn, lạ, đa dạng, dường như chẳng vừa vặn với bất cứ thể loại nào đã định hình. Tôi không có một chút gì tự phụ về những gì mình đang làm – chỉ là tôi thích viết những thứ như thế. Tôi nghĩ mình viết truyện, nhưng rất nhanh, tôi nhận ra mình đang theo đuổi một thứ hình thức không nằm trong một khung phân loại dễ dàng nào. Thời đó, người ta chỉ có thể xuất bản những mẩu văn xuôi rất ngắn trên những tạp chí thơ, nơi các biên tập viên thường nhất trí xem chúng như những bài “thơ văn xuôi”. Tôi đã giới thiệu những gì mình viết theo cách đó – bởi cũng chẳng có cách nào khác – dù trong thâm tâm, tôi nghĩ mình đang ăn gian.

Chúng ta vẫn chưa có cái tên thỏa đáng cho loại sáng tác này. Giờ đây, nó được gọi là “truyện chớp” (flash fiction), dù tôi nhớ có thời người ta đã gọi nó là truyện “ngắn ngắn” (short-short). (Grace Paley, một nhà văn mà tôi yêu quý cả về con người lẫn tác phẩm, có lần nói với tôi, “Truyện ngắn ngắn – cái tên đó nghe như một tiếng nói lắp hơn là một hình thức văn chương.”) Việc hình thức ngắn này thiếu một cái tên chắc chắn cho thấy nó rất đa dạng, rất biến động, khó xác định và những giới hạn của nó không ngừng gây nên những tranh cãi. Truyện chớp sở hữu một phẩm chất tự sự khiến chúng phân biệt với những bài thơ văn xuôi kinh điển; đồng thời chúng cũng lại có yếu tố trữ tình đậm nét, khiến chúng ngang hàng với thơ. Tính chất không tất định về hình thức này có thể có một sức hấp dẫn: nó có thể tạo ra những sự ngạc nhiên về hình thức và cảm xúc. Những bạn cũng có thể không muốn có quá nhiều khoảng trắng. Bạn chẳng bao giờ muốn bước vào một lãnh địa nơi bạn nghĩ, “Ôi dào, tôi có thể viết bất kỳ thứ gì, tôi muốn thoát khỏi khoảng trắng này”.

Vì tôi viết cả thơ lẫn truyện và chưa bao giờ tôi muốn dựng lên bức tường ngăn cách hai thể loại ấy nên tôi luôn muốn xóa nhòa ranh giới giữa những hình thức vốn ổn định hơn. Những nhà văn làm được điều này luôn gây hứng thú cho tôi. Nhưng rất hiếm có những nhà văn như thế, tôi nghĩ vậy, một phần vì thơ bị hờ hững trong văn hóa Mỹ. Thơ là thể loại có ý nghĩa cơ bản đối với con người, tình yêu dành cho thơ nằm sâu trong chúng ta, nhưng có cảm giác ở thời điểm này, phần lớn người ta nhận ra thơ từ những thể loại khác – ca khúc phổ thông, hip-hop, rap. Người ta cũng tranh cãi về điều này – có lần, có người nói với Paul Simon rằng ông viết những lời thơ còn ông thì đáp lại, “Ồ, không, thơ thì phải như Wallace Stevens chứ”- thế nhưng ca từ trong những bài hát của Bob Dylan, Bruce Springsteen hay của một vài nghệ sĩ hip-hop rõ ràng mang tính thơ. Trong văn xuôi hư cấu, xung lực thơ thường được dồn nén ở đoạn kết của câu chuyện, ở khoảnh khắc hiển linh (epiphany) mà chúng ta có thể bắt gặp được kể từ Joyce. Ở đoạn kết của một câu chuyện có khoảnh khắc hiển linh điển hình, ta có thấy được rất rõ sự sang số (gearshift) đột ngột từ tính tự sự sang tính trữ tình này; ta bắt đầu có cảm giác thơ bất ngờ hiện hữu ngay bên trong văn xuôi. Nhưng thường trạng thái ấy do một cái gì đó lớn bùng nổ, tạo ra sự đột biến – thơ được chứng thực trong những khoảnh khắc cảm xúc được đẩy đến cực điểm như vậy, còn không, nó chỉ là yếu tố rất phụ trong văn xuôi hư cấu Mỹ.

Tôi thích những nhà văn có thể tạo ra một sự tích hợp hòa quyện hơn giữa xung lực tự sự và trữ tình – và tôi nhận thấy, trong hình thức ngắn, xung lực trữ tình trở nên rất nổi bật. Một trong những tiếp xúc sớm nhất của tôi với loại tác phẩm này là khi tôi đọc In Our Time (Trong thời đại chúng ta) của Hemingway, vốn từ lâu đã khiến tôi chú ý. Những câu chuyện trong cuốn sách này được đặt rải rác lẫn với những phác thảo ngắn, đầy sức mạnh, đa phần không quá một đoạn văn. Cách mà Hemingway xây dựng một chỉnh thể gây ấn tượng mạnh về cảm xúc từ những phân mảnh này là một mẫu mực bậc thầy. Nhưng tôi luôn có cảm giác chúng vẫn cần dựa vào một cái gì đó nằm ngoài văn cảnh trong In Our Time. Khi đọc riêng những đoạn văn này, tôi không thích chúng như khi chúng hiện diện những khoảng lặng trong cuốn sách.

Vì thế, tôi bắt đầu tìm kiếm những câu chuyện cũng thể nghiệm với ý niệm tương tự về sự cô đọng và phân mảnh, nhưng chúng có thể tương đối độc lập. Tôi muốn tìm một bậc thầy của thể loại này – người có thể viết thứ văn xuôi cực ngắn có khả năng dồn nén cảm xúc mà chúng ta vẫn nghĩ chỉ những tác phẩm dài hơi hơn mới có thể đạt được.

Một trong những nguồn cảm hứng đến với tôi đó là tác phẩm Invisible Cities (Những thành phố vô hình) của Italo Calvino, cho dù việc tách các đoạn văn ngắn trong cuốn sách thành những khoảng trắng có ý nghĩa như một thủ pháp nhiều hơn (tác phẩm thực sự mang phẩm chất của một tiểu thuyết). Isaac Babel, một nhà văn tôi yêu thích ở nhiều khía cạnh, đã thẻ nghiệm một hình thức dồn nén cao độ mà tôi muốn thấy ở những truyện cực ngắn – hễ khi nào một nhà văn có thể nén thật nhiều vào một không gian thật nhỏ, tôi luôn có cảm giác cái mà chúng ta vẫn gọi là “thơ” đang ẩn náu cận kề. Primo Levi là một trường hợp khác – mẩu viết ngắn của ông, “Tranquil Star”(Ngôi sao lặng lẽ), là một tác phẩm đem đến cho tôi khoái cảm lớn. Khi học đại học, tôi tìm thấy một mô hình mới: tôi nằm trong số những người bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của thơ haiku. Phân mảnh, phức hợp, nhưng cuối cùng luôn đem đến một cảm giác thỏa mãn, hình thức này hội tụ nhiều đặc điểm mà tôi muốn tìm kiếm trong văn xuôi.

Bây giờ, ở Mỹ, thơ haiku nhan nhản đến nỗi nó gần như trở thành một trò đùa. Ở đây, haiku có tính chất như một phát súng không cần ngắm: nó là một cách để trẻ con lớp bốn học viết các hình ảnh. Nhưng đây không phải là đặc điểm của thơ haiku ở Nhật Bản, hình thức của nó rất được chú trọng – nó là một bộ phận của văn học cổ điển. Một khía cạnh mà thơ haiku hầu như bị đánh mất ở các phiên bản phương Tây chính là phẩm chất, có thể gọi đại thể, của sự “song chiếu” (double vision). Đó là một cách nói về một hình thức sắp đặt những tương phản cận kề nhau (juxtaposition). Ý niệm này từng ảnh hưởng rất sâu sắc đến Ezra Pound, người, cố nhiên, còn hơn cả một dịch giả vĩ đại: ông muốn du nhập những hiệu quả văn chương từ những nền văn học khác vào trong nghệ thuật kể chuyện và kho từ vựng thi ca của văn chương Anh ngữ. Ta có thể cảm nhận được sự song chiếu này thể hiện như thế nào trong bài thơ nổi tiếng của Pound – “In a Station of Metro” (Ở ga xe điện ngầm)”:

Sự xuất hiện của những gương mặt này giữa đám dông

Những cánh hoa trên cành cây đen, ướt

(These apparition of these faces in the crowd;

Petals on a wet, black bough)

Cách mà bài thơ đặt một khoảnh khắc hiện tại – một ga xe điện ngầm đông đúc – bên cạnh hình ảnh của những cánh hoa tươi tắn tạo nên một kiểu một hình thức đồng hiện mang tính thơ. Hai hình ảnh, hai ý niệm được chồng lên nhau đồng thời – cả hai đều được làm nổi bật bởi phép so sánh. Chính sự song chiếu này mới là đặc điểm nổi bật của thơ haiku.

Tuy nhiên, haiku không phải là văn xuôi, những bài thơ haiku thậm chí còn ngắn hơn hầu hết các mẩu truyện chớp, chúng thực sự không cung cấp mô hình văn xuôi mà tôi muốn tìm kiếm. Nhưng cuối cùng, mối quan tâm của tôi về văn học Nhật Bản đã đưa tôi gặp gỡ với một nhà văn mà với cá nhân tôi, ông chính là người thực hành xuất sắc bậc nhất thứ ngôn ngữ tiết chế, giàu sức ám gợi: Yasunari Kawabata – cũng là bậc thầy của việc tạo ra những hình ảnh song chiếu mà ta vẫn thấy trong thơ haiku truyền thống.

Tác phẩm đầu tiên của ông mà tôi đọc là Người đẹp say ngủ. Ở cây bút văn xuôi này, tôi lập tức nhận thấy tất cả những gì mình yêu thích ở thơ ca Nhật Bản – một sự đơn giản nhưng đồng thời quá đỗi sâu sắc, giàu sức gợi mở. Tôi đọc tiếp một tiểu thuyết nữa của ông, cuốn Xứ tuyết và dẫu cuốn sách đó không dài quá 150 trang, nhưng hình như luôn luôn còn có một cái gì đó chưa hết ở đó. Và đến tuyển tập những tác phẩm ngắn của ông, Những truyện ngắn trong lòng bàn tay, tôi đã tìm được mô hình lý tưởng cho một loại tác phẩm mà mình muốn thể nghiệm.

Một hình thức phổ biến của thủ pháp song chiếu trong thơ haiku là đặt một cái gì đó thuộc quá khứ bên dưới một cái gì đó ở hiện tại. Một trong những truyện ngắn của Kawabata mà tôi yêu thích đã tạo ra sự cách tân – truyện “The Grasshopper and the Bell Criket” (Châu chấu và dế chuông): ở đây, một hình ảnh hiện tại tạo sinh một phóng chiếu về tương lai.

Câu chuyện mở đầu với hình ảnh một người đàn ông – ta không biết gì nhiều về ông – tản bộ vào lúc chiều tối theo thói quen vốn có. Ông bắt gặp một đám trẻ nhỏ đã chơi trò gì đó trong lễ hội mùa xuân. Chúng làm những chiếc đèn lồng bằng giấy – một loại đèn thủ công nhiều màu sắc rực rỡ, có thể hắt ra những mô hình ánh sáng. Một vài đứa trẻ cắt tên mình dán lên đèn, vì thế chiếc đèn có thể phóng chiếu những ký tự Nhật Bản vào màn đêm.

Ông lặng lẽ quan sát những em bé, khi chúng hào hứng đi bắt côn trùng dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng. Ở Nhật Bản, người ta vẫn thường ra ngoài trời bắt những con côn trùng như dế, bọ ngựa, hay những loại côn trùng có thể phát ra những âm thanh du dương khác rồi đặt chúng vào trong những cái lồng nhỏ. Cũng giống như trẻ em ở Mỹ chơi với những con đom đóm – bất ngờ vào một buổi tối mùa hè nào đó, trời làm ấm những con côn trung đẹp đẽ này, khiến chúng phát sáng trong bóng tối, bọn trẻ ra ngoài trời với chiếc hũ thủy tinh trong tay, đi bắt những con đom đóm, rồi quan sát chúng phát sáng cho đến khi bố mẹ nói, giờ các con thả chúng đi được rồi đấy. Trong câu chuyện này, một cậu bé bắt được một con côn trùng mà cậu nghĩ là châu chấu – một phần thưởng tuyệt vời mà tất cả những đứa trẻ khác đều thèm thuồng. Khi cậu bé trao cho cho cô bé mà cậu thích nhất, cô bé nói với cậu con côn trùng ấy thực ra là một con dế chuông, một loài côn trùng thậm chí còn hiếm hơn, được săn tìm nhiều hơn.

Có một cảnh tượng thật đẹp đẽ sau cuộc trao đổi này, hai em bé đứng nhìn nhau và có vẻ như cả hai em đều không để ý, ánh sáng từ những chiếc đèn lồng của mình, đỏ và xanh, hắt ngang qua ngực. Cậu bé dán tên mình lên chiếc đèn lồng của mình và cô bé thì cũng làm việc tương tự với cái tên và chiếc đèn của cô – tất nhiên, bạn phải hình dung được sự cô đúc tuyệt vời của một ký tự Nhật Bản, những con chữ ấy hắt sáng trong đêm – trong khoảnh khắc, tên của cậu bé rọi sáng trên ngực áo cô bé còn tên của cô lại hắt đỏ lên phần thắt lưng của cậu. Cả hai đều không biết điều này và đấy là điều gây xúc động – cứ như thể giữa cô bé và cậu bé đã hình thành một sự kết nối mà họ sẽ bao giờ không hiểu rõ, cho đến khi đã quá muộn.

Ở đoạn kết tuyệt vời, bất ngờ của câu chuyện này, người kể chuyện như muốn nói với cậu bé, ông biết tên cậu ta khi nhìn thấy cái tên ấy phóng chiếu lên người cô bé:

Fujio này, sau này lớn lên, cháu vẫn cứ cười thật thoải mái đi nhé trước vẻ vui mừng của người bạn gái khi nói với cô ấy, này, đây là một con châu chấu, dù thực ra cô ấy đang được tặng một con dế chuông. Và hãy cứ cười thật trìu mến trước nỗi thất vọng của cô bé ấy khi nói, này, đây, tặng em một con dế chuông nhưng thực ra cô ấy chỉ đang nhìn thấy một con châu chấu.

Thậm chí nếu cháu thật thông minh, tách khỏi đám bạn bè, một mình tìm kiếm nơi một bụi cây nào đấy, cháu cũng sẽ thấy thế gian này chẳng còn nhiều dế chuông nữa đâu. Có lẽ rồi cháu cũng sẽ chỉ tìm thấy một cô gái giống như một con châu chấu mà cháu lại nghĩ cô ấy là một con dế chuông.

Và cuối cùng cháu ơi, khi trái tim cháu nếm trải tổn thương, trở nên u uẩn thì một con dế chuông đích thực cũng chỉ như một con châu chấu mà thôi. Ngày đó rồi sẽ đến thôi, cái ngày dường như đối với cháu, thế giới này chỉ toàn châu chấu. Và ta nghĩ thật tiếc làm sao, chẳng có cách nào để cháu nhớ lại trò chơi ánh sáng đêm nay, khi tên cháu in hình màu xanh lên ngực cô gái nhờ chiếc đèn lồng đẹp đẽ của cháu.

Kawabata vốn bị ám ảnh bởi sự phản chiếu của các hình ảnh – tôi lại nhớ đến một câu chuyện, ở đó nhân vật nam bị lôi cuốn bởi một người phụ nữ khi thoáng nhìn thấy gương mặt nàng phản chiếu qua cửa sổ một con tàu. Trong truyện ngắn này,có thật nhiều hình ảnh phản chiếu, có thật nhiều cặp đôi theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng vốn rất đặc trưng cho phép song chiếu ở thể thơ haiku. Đó là các cặp ánh sáng-bóng tối, cô bé-cậu bé, người trưởng thành-trẻ thơ, hiện tại-tương lai, và ngay cả những con côn trùng bị bắt nhốt dường như cũng gợi ra một ý nghĩa kép nhất định.

Nhưng đây cũng là một trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất của câu chuyện. Một người kể chuyện dường như chỉ ra ngoài đi dạo, nhìn ngắm những đứa trẻ từ xa, người hầu như không hé lộ điều gì về chính mình, chỉ có thể có sự thấu thị như vậy vì ông ta đã trải nghiệm chính sự vỡ mộng khi mình trưởng thành. Những suy nghĩ thầm kín của ông có lẽ hé lộ về một quá khứ buồn đau của ông, về một trái tim từng chịu tổn thương, trở nên u uẩn và cả một nhận thức chín chắn rọi chiếu về tương lai của Fujio. Và ông nhìn thấy gì? Một giả thiết mà ta vừa thấy trước đó – một con côn trùng bị nhầm với một con côn trùng khác – trở thành một ẩn dụ giàu sức nặng về việc chúng ta thường lại không nhận ra được một sự tương hợp hiếm hoi, thật sự lãng mạn khi chúng ta nhìn thấy. Ông nhìn vào tương lai của Fujio, ông như thấy cậu bé không những sẽ không thấy được mối tơ duyên cho một tình yêu lớn mà còn sẽ trở nên thất vọng vì đã không nhận ra tình yêu lớn của đời mình khi cô bé ấy đang hiện hữu. Như thế, chỉ trong một đoạn văn ngắn, Kawabata đã đặt cận kề hiện tại và tương lai, người lớn và trẻ thơ, sự ngây thơ và sự mất mát. Tất cả chồng xếp lên nhau trong một khoảnh khắc đơn nhất – và trong một không gian nhỏ, những sự chồng xếp này tạo nên một cảm thức đẹp về con đường tất yếu mà tuổi thơ rồi sẽ đánh mất, sẽ phải trả giá cho sự trưởng thành.

Điều mà tôi cũng thích ở truyện ngắn này là cái kết bất ngờ – nhưng đấy không phải là cái kết theo kiểu O’Henry vốn đem đến sự ngạc nhiên bằng một khúc ngoặt nào đó. Thay vào đó, sự ngạc nhiên ở truyện ngắn này bắt nguồn từ sự tươi tắn của ngôn ngữ, sự chồng xếp tinh tế các lớp chủ đề. Đó là sự ngạc nhiên giàu cảm xúc và tính thơ, hơn bất cứ điều gì khác. “Châu chấu và dế chuông” là một truyện ngắn, độc lập; như có phép màu, nó tạo nên những cảm xúc phong phú, dồi dào. Tôi có đó là một kiệt tác nhỏ. Với tôi, nó là một sự xác nhận: bạn có thể làm việc với hình thức ngắn như vậy mà vẫn có thể tạo ra nhiều tầng lớp, nhiều hàm nghĩa.

Người ta có thể ngồi xuống, viết một cuốn sách với nhiều chủ ý khác nhau – họ chẳng biết những chủ ý ấy có được hiện ra hay không. Nhưng trong cuốn sách mới của tôi, Paper Lantern: Love Stories (Đèn lồng giấy: Những câu chuyện tình), tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi phép song chiếu mà tôi bắt gặp ở Kawabata. Tất cả những câu chuyện trong cuốn sách này đều thuộc thể loại truyện tình, những mỗi truyện lại được chồng xếp với những thể loại khác nữa. Truyện ngắn đầu tiên, “Tosca”, gợi liên tưởng đến thể loại opera, đến cảm xúc hoành tráng và âm hưởng nhạc kịch của hình thức ấy. Truyện “Oceanic” lại có sự song chiếu với thơ ca lãng mạn của Keats, Shelley và Byron. Một truyện ngắn khác có sự sắp đặt với một bộ phim loại B trong khi một truyện nữa lại có sự tương ứng với bản “Wild Horses” của ban Rolling Stones. Với phép song chiếu này, tôi hy vọng độc giả có thể có những bước nhảy trong liên tưởng, cảm xúc và nhận thức giữa hình thức vay mượn và câu chuyện về những người tình ở những truyện ngắn trong tập. Những đặc thù ở các nhân vật của tôi và khung thể loại rộng lớn hơn mà các truyện ngắn của tôi luôn cố gắng quy chiếu đến không ngừng có sự tương tác – đó là một nỗ lực nhằm tạo ra nhiều tầng liên tưởng mà tôi luôn ngưỡng mộ ở thể thơ haiku.

Tôi nghĩ những chiếc đèn lồng rực rỡ của Kawabata – một trong những hình ảnh yêu thích của ông – đã bước vào kho từ vựng thi pháp của tôi. Khi đặt nhan đề cho tập truyện là Đèn lồng giấy, trong đầu tôi thật sự không nghĩ đến ông một cách ý thức – nhưng có phải văn chương Kawabata đầy hình ảnh của chúng? Quả là vậy. Chúng nằm trong số những hình ảnh quan trọng của văn chương châu Á, cùng với những chiếc ô, những cánh hoa anh đào nổi tiếng. Đối với tôi, đèn lồng giấy chính là một ẩn dụ về nghệ thuật văn chương, cho cách mà ý nghĩa xuyên rọi qua trang viết. Cho dù giờ chúng ta đều viết bằng máy tính, tôi vẫn nghĩ về sự viết như là hành vi trải ngôn từ lên trang giấy. Và khi ta viết một câu chuyện hay một bài thơ, nó rọi sáng. Ý nghĩa chiếu qua ngôn từ như ánh sáng hắt qua lớp giấy của chiếc đèn, hắt vào đêm tối, phóng chiếu hình ảnh của nó lên trái tim của người khác.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Stuart Dybek, “The Surprising Power of Stories That are Shorter than Short Stories”, http://www.theatlantic.com/entertainment/archive/2014/06/the-enormous-power-of-extremely-short-stories/372570/

Viết ngắn: Tô Hoài – Giữa sự viết và hư vô

Như một tưởng tượng về nhà văn…

stillness

Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ – sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

Tôi muốn nói về Tô Hoài bắt đầu từ một truyện ngắn ít được biết đến của ông – truyện ngắn “Tình buồn” được ông viết năm 1993. Với tôi, đây là một truyện ngắn cảm động. Nhân vật chính của câu chuyện là bà cụ Tứ, già sinh lẫn, nói trước quên sau, đám con cháu trong nhà phải cố gắng nhẫn nhịn chịu đựng. Thế nhưng trong mấy ngày cuối đời, bà lão lẩn thẩn trước đó còn khiến mấy đứa cháu trêu cười vì dở chứng hay ăn vụng trong bếp bỗng nhiên trở nên tỉnh táo, minh mẫn lạ thường. Bà lão sai con trai cả sang làng bên kia sông tìm một ông lão mà chỉ đến khi ấy, anh con trai mới biết ông lão kia từng là người yêu của mẹ mình. Chỉ đến khi ấy, đám con cháu trong nhà mới biết mẹ mình có một quá khứ gai góc thế nào. Thời còn con gái, bà cụ Tứ từng bất chấp sự can ngăn, thậm chí đòn đánh của cha mẹ, yêu một người con trai có địa vị thấp hơn, đến mức muốn hai người cùng nhảy xuống sông mà chết nếu không đến được với nhau. Người con trai bà yêu có nhiều lý do để không quyết định như thế. Trước ngày bị ép gả cho người khác, bà cụ Tứ bỏ làng đi nơi khác. Rồi lấy một người khác, sống một đời âm thầm, tránh tiếp xúc tối đa với thiên hạ, chỉ quanh quẩn làm lụng nơi ruộng vườn. Rồi già cả, khó tính, lẩm cẩm, mất trí nhớ. Chỉ riêng một điều duy nhất đã không tuột khỏi trí nhớ của bà: bà muốn gặp lại người đàn ông mình đã từng yêu năm nào chỉ để nói một lời xin lỗi. Xin lỗi vì đã chẳng hiểu nổi những éo le của ông khi ấy, khi quyết bỏ đi biệt chẳng để lại lời nào cho ông. Chỉ khi nói xong lời xin lỗi ấy, bà mới có thể nhắm mắt.

Nhân vật trong truyện ngắn ấy của Tô Hoài vừa đáng thương, vừa đáng trách nhưng đồng thời cũng vừa rất đáng trọng. Sự thấu đáo trong cái nhìn của Tô Hoài về con người có lẽ cũng là ở chỗ đó: ông thấy mình, thấy nhân vật của mình loay hoay một cách khốn khổ mà cũng buồn cười trong cõi đời lắm mối nhùng nhằng. Tôi thuộc lứa hậu sinh, tôi biết Tô Hoài trước tiên ở cái phần hồn hậu, trong sáng trong những truyện đồng thoại viết cho trẻ thơ, tôi không trải nghiệm một giai đoạn lịch sử văn học phức tạp với nhiều phép thử rất nghiệt ngã đối với nhân cách và văn cách của các nghệ sĩ để có thể xác nhận Tô Hoài là một người khôn ngoan, khéo léo đến mức lọc lõi và do đó, giữ được cho mình một vị thế yên ổn, vững vàng. Khi đọc truyện ngắn “Tình buồn” này, tôi thấy ở ông một cái nhìn độ lượng, chân tình về con người. Sự độ lượng, chân tình ấy cũng là cảm giác tôi có được khi đọc những Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác – những dấu mốc văn chương quan trọng cuối đời của ông. Đó là sự độ lượng, chân tình mà văn chương nên có, cần phải có để hiểu được con người thay vì chỉ chăm chắm phán xét, kết luận về nó. Văn chương khác với đạo đức và cũng mạnh hơn đạo đức cũng chính là ở khi nó thoái thác phán xét mà thay vào đó, cố gắng ghi lại, cố gắng lắng nghe những nỗi cắc cớ, oái oăm của những tình thế nhân sinh.

Bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Tình buồn” vào lúc cận kề với cái chết hơn bao giờ hết bỗng trở nên quyết liệt như chính mình thời con gái, khi phải nói bằng được lời xin lỗi với người đàn ông mình đã từng yêu vì hồi đó đã chưa biết thông cảm hết cho ông, chưa thấu hiểu được ông. Tôi cứ muốn nghĩ nỗi day dứt, nỗi khẩn thiết cần phải thành thật của nhân vật trong câu chuyện như là ẩn dụ về động cơ sáng tác của chính Tô Hoài ở giai đoạn cuối đời văn. Tuổi già khiến con người có một cảm nhận rõ rệt về sức mạnh của hư vô. Nó im lặng và lạnh lùng, nó gặm nhấm ký ức cá nhân, làm rơi rụng ngôn ngữ, nó từ từ đồng hóa những tự sự nhỏ, những lịch sử nhỏ vào một lịch sử lớn duy nhất, đông đặc. Chính trong điều kiện giáp mặt với hư vô ấy, sự viết thực sự trở thành sức mạnh bởi viết tức là làm hiện hữu, viết là phá bỏ một lịch sử đơn nhất và đơn trị. Một bộ phận đáng kể của văn chương Việt Nam đương đại chính là những tự thuật, tự thú cuối đời của các nhà văn như Nguyễn Khải, Chế Lan Viên, Bùi Ngọc Tấn…, đương nhiên trong đó có Tô Hoài. Có lẽ không nên quá nghiệt ngã khi chất vấn: tại sao chỉ đến lúc đó, lúc người cầm bút tiệm cận với hư vô, những câu chuyện như thế, những tự thú như thế mới được viết ra? Sự thật, nhất là từ những trải nghiệm cá nhân, khi được nói lên, luôn đáng trân trọng và có lẽ không bao giờ là quá muộn. Đối mặt với hư vô – cái thứ câm lặng vô hình mênh mông ấy – thực ra cần nhiều can đảm để viết hơn người ta nghĩ. Lời của con người sẽ còn lại, độc lập với tiếng nói của thứ lịch sử luôn muốn lợi dụng khả năng hư vô hóa của thời gian để bảo tồn tính đơn nhất của nó. Chúng tôi sẽ biết được gì ngoài thứ lịch sử đơn nhất ấy nếu như không có những lời tự thú, tự thuật kia?

Trong nhiều bài viết nói về kinh nghiệm viết văn, Tô Hoài hay nhắc đến tầm quan trọng của việc ghi nhớ, quan sát và bản thân ông cũng thường được nhắc đến như một mẫu mực của tài ghi nhớ và quan sát trong các tài liệu bàn về quá trình sáng tạo của nhà văn. Sự phong phú của kho ký ức vừa là ưu thế nhưng cũng vừa là trách nhiệm đối với nhà văn, nhất là khi hư vô mỗi lúc lại lừng lững hiện lên muốn phủ trùm lên ký ức. Bản thân nhan đề những tác phẩm của ông như Chuyện để quên, Chiều chiều, Cát bụi chân ai… đã bàng bạc một nỗi ám ảnh về hư vô. Kho ký ức của Tô Hoài chất chồng những mẩu chuyện nhỏ, những chi tiết có vẻ như lặt vặt, những quan sát tinh quái mà thật may ông đã không để lịch sử lớn quét chúng đi, để hư vô kịp khỏa lấp chúng. Những lịch sử nhỏ được Tô Hoài kể lại bằng một phong cách mang hơi hướng giai thoại và cái duyên trong cách kể chuyện của Tô Hoài, một phần quan trọng, nằm ở lối giai thoại này. Lối kể chuyện giai thoại tự nó đã gợi ra tính phi đơn nhất của lịch sử, nó cho thấy có thể có những sự thật khác nằm ở phía ngoài lề, ngoài dòng chính. Viết những lịch sử nhỏ ấy, Tô Hoài biến ký ức cá nhân của mình thành một ký ức công cộng, nơi đó, hư vô có thể phải dừng lại.

Giai đoạn cuối trong đời văn, Tô Hoài chủ yếu chỉ viết về “chuyện cũ”. Điều đó thiết tưởng không khó hiểu vì đối với người già, ký ức nhiều khi là phần giàu có nhất. Những chuyện cũ được làm sống dậy với những lớp ngôn từ mang đầy chứng tích, dấu vết của thời đại. Trên phương diện này, văn của Tô Hoài có thể xem như một bảo tàng lịch sử của chữ, nơi đó, ngay cả những chữ thô tháp, dân dã nhất của đời thường cũng được lưu giữ. Đọc Ba người khác, những lứa hậu sinh như chúng tôi có thể thấy được ngôn ngữ một thời bày ra trò chơi làm người ta khốn đốn như thế nào. Đọc Chuyện cũ Hà Nội, chúng tôi biết được một đời sống ngôn ngữ sống động của người dân ngoại ô với những tiếng lóng, tiếng bồi, từ chỉ nghề nghiệp, từ chỉ bánh trái, thức ăn, trang phục… Ngôn ngữ Tô Hoài không hướng đến sự cầu kỳ, sang trọng với những phép tu từ duy mỹ kiểu Nguyễn Tuân, Vũ Bằng. Ông nghiêng về chăm chú lắng nghe, nâng niu lời ăn tiếng nói của những con người bình dân trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Hà Nội trong văn Tô Hoài không lấp lánh ánh sáng kinh kỳ, cũng không “nghèo mà sang”. Đó là một Hà Nội lầm than, lấm láp, chịu thương chịu khó với những con người ven đô bụi bặm, chân chất. Nhưng chính ở họ, từ quan sát của Tô Hoài, ta lại thấy được những tình cảm đạo đức rất tự nhiên hình thành giữa con người với con người. Đấy cũng là điều cần phải bảo lưu, không phải chỉ trên trang sách.

Tô Hoài viết để làm chúng ta nhớ. Khi sự hư vô xâm lấn mạnh mẽ vào đời sống ở mọi phương diện, chẳng đợi đến tuổi già người ta mới thấm thía, nhớ có lẽ cũng là một cách kháng cự.

Trần Ngọc Hiếu