Monthly Archives: Tháng Mười Một 2013

Gilles Deleuze – Văn học và đời sống

Lời ngỏ: Tôi dịch tiểu luận ngắn này của Gilles Deleuze sau khi đọc xong cuốn “Kafka-Vì một nền văn học thiểu số” của ông viết chung với Felix Guattari do Từ Huy dịch. Tôi bị hấp dẫn bởi lời giới thiệu của Bùi Văn Nam Sơn và sau đó, có tìm đọc phần viết về quan niệm văn chương của Deleuze do Clare Colebrook trình bày (Link down cuốn sách của Colebrook là ở đây: http://en.bookfi.org/book/559651). Với tôi phần dẫn nhập của cả Bùi Văn Nam Sơn và Clare Colebrook đều khá sáng sủa đồng thời kích thích nhiều suy nghĩ của tôi về văn chương.

Thế nhưng khi đọc vào văn bản của Deleuze mới khủng hoảng vì văn bản quá khó, ngôn ngữ của Deleuze dường như thuộc một kênh mà tôi chưa thể nào nắm bắt được. Bài luận này tôi chỉ nghĩ mình hiểu được mấy luận điểm: Viêt như là sự trở thành, là quá trình tạo ra các khả năng cho bản thân nhà văn và văn chương; Văn chương luôn là sự giải cấu trúc tiếng mẹ đẻ, tạo ra những khả năng khác của cú pháp, của các kết hợp, điều này đồng nghĩa với việc tạo ra các đường thoát cho sự trở thành. Còn ý tưởng viết như là một tình trạng sức khỏe, viết gắn với cơ thể…có lẽ do gắn với các vấn đề phân tâm học, tôi không hiểu lắm và sẽ suy nghĩ thêm.

Bản dịch này là một cú liều lĩnh, điếc không sợ súng khi đụng vào văn bản triết học vốn rất phức tạp. Rất mong nhận được những chia sẻ, góp ý từ các bạn, nếu có thể.

Cuối cùng, với tôi, cuốn Kafka – Vì một nền văn học thiểu số là cuốn sách rất khó đọc, nhưng nó có thể đem đến những khoảnh khắc lóe sáng nhận thức quý giá.

*

gilles_deleuze_2_h

Viết chắc chắc không phải là sự áp đặt một hình thức (biểu đạt) cho kinh nghiệm sống. Văn chương đúng hơn luôn vận động theo hướng của những hình thức phi chuẩn, luôn không hoàn tất, như Witold Gombrowicz từng nói và thực hành. Viết là sự trở thành, luôn không hoàn tất, luôn ở trong quá trình hình thành, nó xa hơn vấn đề kinh nghiệm sống. Viết không thể tách khỏi sự trở thành: khi viết, ta trở thành đàn bà, trở thành con thú hay loài thực vật, trở thành phân tử, tới mức trở thành thứ không thể nhận thấy. Những sự trở thành này có thể kết nối với nhau bằng một dòng văn như trong các tiểu thuyết của J.M.G. Le Clezio; hoặc chúng có thể cùng tồn tại ở mọi cấp độ, đi theo những hướng cửa mở, những ngưỡng, những vùng để hình thành nên toàn bộ vũ trụ, như trong những tác phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ của H.P.Lovecraft. Trở thành không có nghĩa là vận động theo hướng khác, và người ta sẽ không trở thành Người được chừng nào anh ta thể hiện mình như một hình thức biểu đạt thống trị áp đặt lên mọi thứ, trong khi đó đàn bà, con thú và phân tử luôn tiềm tàng khả năng bay thoát khỏi chính sự hình thức hóa của chính nó. Nỗi xấu hổ của việc là người  – còn lý do nào tốt hơn cho việc viết? Thậm chí khi đó là một người phụ nữ viết văn, người đó cũng phải luôn ở trong trạng thái đang trở thành phụ nữ, và sự trở thành này không có gì liên quan đến trạng thái mà chị ta có thể xác nhận về bản thân mình. Trở thành không có nghĩa là đạt đến một hình thức (một sự nhận dạng, bắt chước, mô phỏng) mà là tìm thấy một vùng cận kề (proximity), không rạch ròi, không khu biệt nơi người ta không còn có thể được phân biệt với một người phụ nữ, một con thú, hay một phân tử. Sự trở thành không nhằm tiến đến một cái gì đó không chính xác hay đại khái mà là một thứ gì đó chưa từng thấy, chưa từng tồn tại trước đó, được cá biệt hóa từ một quần thể hơn là được xác định trong một hình thức. Người ta có thể thành lập một vùng cận kề với bất cứ thứ gì, miễn là sáng tạo được những phương tiện văn chương cho phép thực hiện điều đó. Chẳng hạn, André Dhôtel đã sử dụng hình ảnh loài hoa thạch thảo trong văn chương của mình, trong đó, loài hoa ấy như một thứ gì đó ở giữa các giống, các chủng, các vương quốc[1]. Trở thành luôn là trạng thái “ở giữa” như thế: một người phụ nữ giữa những người phụ nữ, một con thú giữa những loài thú khác. Song quyền năng của mạo từ không xác định chỉ có hiệu lực khi thuật ngữ bị tước đi những đặc điểm hình thức, trở thành một thực thể xác định, đã được biết, mà ta có thể gắn theo nó đại từ “này”: (con thú đang ở trước mặt bạn này…”). Khi Le Clézio trở thành người Anh-điêng, thì đó luôn là một người Anh-điêng không hoàn thành, kẻ không biết “cách trồng ngô hay đục một chiếc thuyền độc mộc”; thay vì cố gắng khoác những đặc điểm hình thức, ông lại bước vào một vùng cận kề[2]. Cũng tương tự, trong văn Kafka, ta bắt gặp nhà vô địch bơi song lại không biết bơi thế nào. Mọi sự viết đều giống như một môn điền kinh, nhưng môn điền kinh này hoàn toàn không phải là sự điều hòa văn chương và thể thao, nó cũng không biến viết thành một sự kiện Olympic; nó là một thứ điền kinh được tập luyện trong trạng thái bay và trong sự suy sụp của cơ thể sống – một thứ điền kinh trên giường, như cách nói của Henri Michaux. Người ta thậm chí trở thành con thú ngay cả khi con thú đó chết; và ngược với định kiến của những người theo thuyết duy linh, chính con thú mới là kẻ biết cách chết, là kẻ có cảm quan hay linh tính về cái chết. Văn chương bắt đầu với cái chết của một con nhím, như ta thấy ở tác phẩm của Lawrence hay cái chết của một con chuột chũi trong văn Kafka: “những ngón chân nhỏ xíu màu đỏ duỗi ra để chờ một sự thương cảm dịu dàng.”[3] Như Karl-Philipp Moritz (1756-1793) từng nói, ta viết cho những con bê đang chết[4]. Ngôn ngữ phải tự hiến mình để trở thành phụ nữ, con thú, phân tử – đó là những đường vòng, và mọi con đường vòng đều là quá trình đi đến sự chết. Không có đường thẳng, trong sự vật cũng như trong ngôn ngữ. Cú pháp là tập hợp những đường vòng cần thiết được tạo ra trong mỗi trường hợp để phát lộ sự sống trong các sự vật.

Viết không phải là sự kể lại những ký ức và hành trình, những mối tình và những nỗi muộn sầu, những giấc mơ và ảo tưởng của mình. Điều đó tương tự việc phạm tội bởi sự cường điệu một hiện thực cũng như của trí tưởng tượng. Trong cả hai trường hợp này, chính là hình ảnh người cha-người mẹ vĩnh cửu, một thứ cấu trúc mang tính chất của phức cảm Oedip là thứ được phóng chiếu lên cái thực hoặc được hấp thụ vào trong cái tưởng tượng. Ở quan niệm ấu thơ (infantile) về văn chương này, cái chúng ta tìm kiếm ở cuối hành trình hay ở trung tâm giấc mơ chính là một người cha. Người ta viết để tìm kiếm một người cha-người mẹ của mình. Marthe Robert đã đẩy quan niệm “ấu thơ hóa” (infantilization) hay “phân tâm học hóa” văn chương này đến cực điểm, để lại cho nhà tiểu thuyết không có sự lựa chọn nào khác ngoài sự lựa chọn của một đứa con hoang (bastard) hoặc của một đứa trẻ bị bỏ rơi, không biết bố mẹ mình là ai[5]. Thậm chí ngay cả việc trở thành con thú cũng không dễ tránh được nguy cơ bị quy giảm phức cảm Oedip theo kiểu xác nhận “con mèo của tôi, con chó của tôi”. Như Lawrence từng viết, “nếu tôi là một con hươu và những người Anh viết về tôi…là những con chó tử tế, ngoan ngoãn thì các con thú sẽ khác so với hình dung thông thường… Tôi là con thú mà người ta không ưa – một sự ghét bỏ rất bản năng.”[6] Như một luật lệ phổ quát, cái huyễn tưởng xem cái không xác định như một mặt nạ cho một cá nhân hay một hình thái sở hữu: “một đứa trẻ bị đánh” sẽ nhanh chóng bị chuyển thành “cha tôi đánh tôi”. Nhưng văn chương lại đi theo một lối đi ngược lại; văn chương tồn tại chỉ khi nó phát hiện ra quyền năng của sự vô ngã bên dưới những cá nhân hiện hữu cụ thể. Sự vô ngã này không phải là sự khái quát mà là một sự đơn nhất ở mức độ cao nhất: một người đàn ông, một phụ nữ, một quái vật, một cái bụng, một đứa trẻ… Đó không phải là hai người đầu tiên đóng vai trò như là điều kiện cho sự phát ngôn văn chương; văn chương bắt đầu chỉ khi một kẻ thứ ba sinh thành ngay trong bản thân chúng ta, tước bỏ đi ở chúng ta sức mạnh để thốt ra chữ “Tôi” (ý niệm về giống trung của Blanchot)[7]. Dĩ nhiên, nhân vật văn chương bao giờ cũng được cá thể hóa cao độ, đó không phải là những hình tượng mơ hồ hoặc chung chung song những đặc điểm cá nhân này nâng nhân vật lên thành một nhãn quan biến họ thành một hiện hữu không xác định, giống như một sự trở thành quá lớn đối với họ: Ahab và nhãn quan của Moby Dick trong tác phẩm của Melville. Lão hà tiện không phải là một kiểu người mà ngược lại, những đặc điểm cá nhân của lão (yêu gái trẻ, v.v…) khiến lão trở thành một nhãn quan: lúc nào lão cũng chỉ nhìn thấy vàng, cũng khát vàng… Không có văn chương nào không có hư cấu, nhưng như Henri Bergson cho thấy, hư cấu – chức năng hư cấu – không phải là sự tưởng tượng hay phóng chiếu một bản ngã. Đúng hơn, hư cấu nhằm đạt đến những nhãn quan này, hư cấu tự nâng mình lên thành quá trình tạo ra sự trở thành và sở đắc quyền năng của sự trở thành.

Người ta không viết bằng trạng thái loạn thần kinh. Loạn thần kinh hay tâm thần không phải là những chặng của đời sống mà là những trạng thái của đời sống mà chúng ta rơi vào khi quá trình viết này bị gián đoạn, phong tỏa hay bưng bít. Ốm đau không phải là một quá trình mà là sự dừng lại của quá trình, như trong trường hợp của Nietzsche. Hơn nữa, nhà văn không phải là bệnh nhân mà đúng hơn là bác sĩ, bác sĩ của chính mình và của thế giới. Thế giới là tập hợp các triệu chứng mà bệnh tật của nó với con người cùng là một. Văn chương, do đó, giống như một công việc liên quan đến sức khỏe, không phải theo nghĩa nhà văn nhất định phải có thể trạng tốt (sức khỏe ở đây cũng là một khái niệm mơ hồ như môn điền kinh ở trên đã nhắc đến) song nhất thiết anh ta phải có một thể trạng vừa khó chống cự lại được vừa dịu dàng, mong manh nảy sinh từ những gì mà anh ta nhìn thấy, nghe thấy về các sự vật vốn quá lớn, quá mạnh đối với anh ta, những thứ gây ngạt thở mà chuyển động của chúng làm anh ta kiệt sức song đồng thời cũng trao cho anh ta khả năng của sự trở thành – điều mà một thứ thể trạng có tính chất thống trị và hiểu theo nghĩa đen không thể đem lại[8]. Nhà văn trở về từ những gì mình nhìn và nghe thấy với đôi mắt đỏ hoe và màng tai bị đâm thủng. Thứ sức khỏe nào mới đủ để giải phóng sự sống ở bất cứ nơi đâu nó bị cầm tù bởi con người và bên trong con người, bên trong các cơ thể sống và giống loài? Đó hẳn phải là thứ giống như sức khỏe dịu dàng, mong manh của Spinoza, nó giúp ông đến tận phút cuối đời vẫn có thể chứng kiến sự hình thành một nhãn quan mới mà lộ trình của nó còn mở ngỏ thênh thang.

Sức khỏe cũng như văn chương, như sự viết, quan trọng nhất là phải phát kiến được một cộng đồng, một nhân dân. Chúng ta không viết với những ký ức, trừ khi điều này khiến ký ức trở thành khởi nguồn và đích đến tập thể của một nhân dân sẽ hình thành, sẽ xuất hiện – một cộng đồng hãy còn náu mình trong tình thế bị khước từ, bị bội phản. Văn học Mỹ có một uy quyền đặc biệt khi nó sở hữu những nhà văn có khả năng kể lại những ký ức của mình nhưng như là ký ức của một cộng đồng phổ quát của dân di cư đến từ tất cả các đất nước. Thomas Wolfe “đã đưa toàn bộ nước Mỹ vào trong sự viết đến mức có thể tìm thấy nước Mỹ trong kinh nghiệm của một cá nhân đơn nhất.”[9] Đây không phải là một nhân dân được kêu gọi tập hợp để thống trị thế giới. Đó là một nhân dân thiểu số, một cộng đồng vĩnh viễn thiểu số, luôn ở trong trạng thái đang trở thành nhân tố cách mạng. Cộng đồng ấy có lẽ chỉ tồn tại trong phần rất tinh vi trong nhãn quan của nhà văn, một cộng đồng “con hoang”, bị coi là hạ đẳng, bị thống trị, luôn đang ở trong quá trình trở thành, luôn luôn chưa hoàn thành. Con hoang không còn chỉ mối quan hệ gia đình nữa, mà chỉ một quá trình hay sự trôi dạt của dòng giống. Tôi là một con quái vật, một kẻ da đen bị coi là giống mọi muôn đời. Đó chính là sự trở thành ở nhà văn. Kafka (đối với châu Âu) và Melville (đối với Mỹ) đã đem đến một thứ văn chương như là phát ngôn tập thể của một nhân dân thiểu số, những người chỉ tìm thấy sự biểu đạt của mình trong và qua nhà văn[10]. Mặc dù văn chương luôn quy chiếu về một tác nhân (agent) cụ thể, đơn nhất, nhưng bao giờ nó cũng là một sự tập hợp phát ngôn của tập thể. Văn chương là một cơn mê sảng, nhưng mê sảng không phải là một tình trạng cá nhân; không có một thứ mê sảng nào lại không đi qua các cộng đồng, chủng tộc, bộ lạc, không ám ảnh một lịch sử phổ quát. Mọi cơn mê sảng đều thuộc về lịch sử thế giới, nó là “một sự thay thế các chủng tộc, các châu lục.”[11] Văn chương là cơn mê sảng và số phận của nó nằm ở hai cực của cơn mê. Mê sảng là một căn bệnh, một căn bệnh đặc biệt, hễ khi nào lên cơn thì chủng tộc, dòng giống mà nó khẳng định bao giờ cũng thuần khiết và mang địa vị thống trị. Song đó cũng là một thước đo sức khỏe khi trong trạng thái mê sảng ấy, nó đồng thời làm sống dậy một dòng giống bị bỏ rơi chịu sự trấn áp vốn không ngừng khuấy động bên dưới những sự thống trị, kháng cự lại mọi sự vùi dập và cầm tù; một thứ dòng giống được khắc họa nổi bật trong văn chương như một quá trình. Ở đây, một lần nữa, luôn có nguy cơ một trạng thái bệnh tật sẽ làm gián đoạn tính quá trình hoặc sự trở thành; sức khỏe và thể thao đều phải đối mặt với cùng một sự mơ hồ, một nguy cơ liên tục đe dọa: cơn mê trong khoái cảm thống trị sẽ bị trộn lẫn với cơn mê của những kẻ bị ruồng bỏ sẽ đẩy văn chương về phía một thứ chủ nghĩa phát xít ở dạng mầm mống, về phía căn bệnh mà chính nó đang chống lại – ngay cả nếu điều này có nghĩa là văn chương phải chẩn đoán được cả nguy cơ biến thành chủ nghĩa phát xít ngay trong chính mình và phải chiến đấu chống lại nó. Mục đích cao nhất của văn chương là khơi thông khả năng tạo ra thứ sức khỏe này hoặc sự phát kiến một cộng đồng nhân dân – nghĩa là một khả năng của đời sống – trong trạng thái mê sảng. Viết cho chính nhân dân đang bị mất đi… (chữ “cho” ở đây có nét nghĩa của từ “vì lợi ích” hơn là nhân danh).

Chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn tác động của văn chương lên ngôn ngữ: nói như Proust, nó mở ra một thứ ngôn ngữ xa lạ bên trong ngôn ngữ – đó không phải là một thứ ngôn ngữ khác, cũng không phải một thứ thổ ngữ được phục hồi, mà là một sự trở-thành-khác (becoming-other) của ngôn ngữ, một sự “thiểu số hóa” của ngôn ngữ chủ lưu, một cơn mê sảng cuốn nó đi, một lời phù chú của phù thủy thoát khỏi hệ thống chi phối. Nhà vô địch bơi trong tác phẩm của Kafka nói tôi nói cùng ngôn ngữ với các anh thế nhưng tôi không hiểu dù chỉ một từ mà anh nói. Sự sáng tạo ra ngôn từ hay những từ mới không có giá trị nào khác ngoài những hiệu ứng của cú pháp mà những từ ngữ mới này được khai triển trong đó. Do đó, văn chương bao giờ cũng thể hiện hai khía cạnh: thông qua việc tạo ra cú pháp, nó không chỉ giải cấu trúc hay phá hủy tiếng mẹ đẻ mà còn phát minh một ngôn ngữ mới bên trong ngôn ngữ. “Cách duy nhất bảo vệ ngôn ngữ là tấn công nó.” “Mỗi nhà văn đều phải có bổn phận phải sáng tạo nên ngôn ngữ của riêng mình.”[12] Ngôn ngữ dường như bị chiếm đoạt bởi một cơn mê sảng. Một cơn mê đủ lực để đẩy ngôn ngữ ra khỏi những đường rãnh của mình. Còn phương diện thứ ba, văn chương nảy sinh từ thực tế: thứ ngôn ngữ xa lạ ấy bao giờ cũng nằm trong một ngôn ngữ chủ lưu, để rồi đến lượt mình, nó bị lung lay, bị đẩy đến một giới hạn, đến phần bên ngoài hay cực đảo nghịch gồm những Hình ảnh, Âm thanh không còn thuộc về bất kỳ ngôn ngữ nào nữa. Những hình ảnh này không phải là huyễn tưởng, mà là những Ý niệm đích thực mà nhà văn nhìn và nghe thấy ở những khoảng giao cắt của ngôn ngữ, ở những quãng nghỉ của nó, giống như sự vĩnh cửu chỉ có thể được phát lộ trong quá trình trở thành hay một phong cảnh chỉ xuất hiện trong sự chuyển động. Chúng không nằm bên ngoài ngôn ngữ, mà là phần bên ngoài của ngôn ngữ. Nhà văn như là người nhìn, người nghe; mục đích của văn chương: đó là một chặng của sự sống bên trong ngôn ngữ cấu thành nên các Ý niệm.

Cả ba khía cạnh trên, vốn luôn ở trong một chuyển động vĩnh viễn, đều có thể quan sát rõ ở sáng tác của Antonin Artaud: sự rơi rụng của các con chữ trong quá trình giải thể ngôn ngữ mẹ đẻ (các chữ R,T…); sự tích hợp của chúng vào một thứ cú pháp mới hoặc vào những tên gọi mới với sự du nhập cú pháp; sự sáng tạo một ngôn ngữ (eTReTé); và cuối cùng; tạo ra hơi thở của ngôn từ, giải phóng những giới hạn cú pháp, điều mà tất cả các ngôn ngữ đều muốn hướng đến[13]. Và ngay cả ở Céline – chúng ta cũng không thể tránh nói ra điều đó, điều mà thực ta ta cảm nhận được rất rõ: ở Hành trình đến tận cùng đêm tối (Journey to the End of the Night) là quá trình làm mục rữa tiếng mẹ đẻ; ở Chết cho chịu (Death on the Installment Plan) là sự hình thành cú pháp mới như một ngôn ngữ bên trong ngôn ngữ; và ở Guignol’s Band là những câu cảm thán lửng lơ như là giới hạn của ngôn ngữ, những hình ảnh và âm thanh chực chờ bùng nổ. Để viết, tiếng mẹ đẻ có lẽ cần trở nên đáng ghét, gây khó chịu, gây ghê tởm, nhưng chỉ như thế, sự sáng tạo cú pháp mới có thể được mở ra cho một kiểu ngôn ngữ xa lạ bước vào bên trong ngôn ngữ và ngôn ngữ, như một chỉnh thể, sẽ để lộ ra phần bên ngoài của nó, nằm ngoài mọi cú pháp. Thỉnh thoảng chúng ta chúc mừng các nhà văn, nhưng họ biết rằng còn xa họ mới đạt đến trạng thái đang trở thành, đạt đến giới hạn mà họ định ra cho mình, những giới hạn luôn trượt khỏi họ. Viết cũng có nghĩa là trở thành cái gì khác hơn ngoài một nhà văn. Đối với những người đặt câu hỏi văn chương là gì, Virginia Woolf đã đáp lại, anh nói về chuyện viết lách, văn chương này với ai đó? Nhà văn không nói về nó, anh ta bận tâm đến cái gì khác hơn.

Nếu chúng ta xem xét những tiêu chí này, ta có thể thấy trong số những người viết ra các cuốn sách với một mục đích văn chương, thậm chí ngay trong số những người điên, có rất ít người tự gọi mình là nhà văn.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Gilles Deleuze, “Literature and Life”, bản dịch tiếng Anh của Daniel W. Smith và Michael A. Greco, in trong Critical Inquiry, Vol.23, No.2, (Winter, 1997), trang 225-230.


[1] Xin đọc cuốn Terres de mémoire (Mảnh đất ký ức) (Paris, 1979) André Dhôtel. Ở trang 225 của cuốn này có nói đến sự  trở thành loài thạch thảo mà ông đã trải nghiệm khi viết cuốn La Chronique Fabuleuse (Biên niên sử hư cấu) (Paris, 1960).

[2]  J.M.G. Le Clézio, Haï, (Paris, 1971). Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Le Procès-verbal (Biên bản), Le Clézio đã thể nghiệm xây dựng một nhân vật ở trạng thái trở thành đàn bà, rồi trở thành chuột, tới mức trở thành thứ không thể nhận thấy. Đến lúc đó, nhân vật đồng thời cũng tự xóa bỏ chính bản thân mình.

[3]  Franz Kafa, được trích lại trong Elias Canetti, Kafka’s Other Trial: The Letters to Felice [Vụ án khác của Kafka: Những lá thư gửi Felice], bản dịch tiếng Anh của Christopher Middleton, (New York, 1974).

[4] Xem Karl-Philipp Moritz, “Anton Reiser”, in trong La Légende dispersée: Anthologie du romantisme allemand (Những truyền thuyết rải rác: Tuyển tập chủ nghĩa lãng mạn Đức), Jean – Christophe Bailly biên soạn, (Paris, 1976),  trang 38.

[5] Xem Marthe Robert, Roman des origines et origines du roman (Tiểu thuyết về cội nguồn và những cội nguồn của tiểu thuyết) (Paris, 1972). Bản dịch Anh văn của Sacha Rabinovitch dưới nhan đề The Origins of the Novel (Những cội nguồn của tiểu thuyết).

[6] D.H.Lawrence, thư gửi John Middleton Murry, ngày 20 tháng Năm năm 1929, in trong The Letters of D.H. Lawrence (Những lá thư của D.H.Lawrence), Keith Sagar và James T. Boulton biên soạn, 7 tập, (Cambridges, 1993), tập 7 trang 294.

[7] Xem Maurice Blanchot, Le Part du Feu (Phần của lửa) (Paris, 1949), p29-30. “Có điều gì đó xảy ra đối với các nhân vật khiến họ chỉ có thể nắm bắt được điều đó bằng cách khước từ quyền năng xưng ‘Tôi’” Văn chương ở đây dường như bác bẻ lại quan niệm ngôn ngữ học vốn cho rằng điều kiện của phát ngôn nằm ở bộ chuyển dịch, đặc biệt là ở hai người đầu tiên.

[8] Quan niệm văn chương như  là câu chuyện về sức khỏe, thể trạng, nhưng dành cho những kẻ không có nó hoặc chỉ có sức khỏe rất yếu xin xem lời bạt của Henri Michaux trong tập La Nuit remue (Paris, 1972). Và Le Clézio cũng viết, “Đến một ngày nào đó, có lẽ chúng ta sẽ thấy không có bất cứ một thứ nghệ thuật nào, mà chỉ có y học mà thôi” (Le Clézio, Haï, trang 7).

[9]  André Bay, lời tựa cho cuốn De la mort au matin (Từ cái chết đến buổi sáng) (Paris, 1987).

[10] Xem những suy nghĩ của Kafka về cái gọi là văn học thiểu số ở nhật ký ngày 25 tháng 12 năm 1911, in trong Nhật ký Kafka, bản dịch tiếng Anh của Joseph Keph, Max Brod biên soạn, (New York, 1948) và suy nghĩ của Herman Melville về văn học Mỹ qua tiểu luận của ông viết về Hawthorne in trong cuốn Herman Melville, do R.W.B. Lewis (New York, 1962).

[11]  Arthur Rimbaud, Một mùa địa ngục, in trong Toàn tập tác phẩm và thư từ do Wallace Fowlie dịch và biên soạn (Chicago, 1966).

[12]  Marcel Proust trong thư gửi Madame Esmile Straus tháng Giêng năm 1908 có viết: “Không có sự chắc chắn, tất định nào cả, ngay kể cả sự chắc chắn của ngữ pháp”.

[13]  Xin xem thêm phân tích của Deleuze về cách ứng xử đối với ngôn từ của Artaud ở chương “Về bệnh điên và cô gái nhỏ” trong cuốn Logic of Sense (Logic của nghĩa), do Mark Lester và Charles Stivale dịch, (New York, 1990), trang 82-93.

Jeffrey Nealon- Susan Searls Giroux- Queer

Judith Butler

Cái được gọi là thuyết “queer” (thuyết đồng tính) có liên hệ mật thiết đến những phương pháp tiếp cận và những kiến giải của lý thuyết về phái tính: nếu lý thuyết về phái tính đã cho thấy có thể gỡ khái niệm “phái tính’ [gender] ra khỏi một quan điểm bản chất luận về “giống” [sex] (và ngược lại)  thì thuyết đồng tính chứng minh cũng có thể gỡ “hành vi tính dục” [sex acts] khỏi bản sắc phái tính [gender identity]. Nếu kiến giải quan trọng nhất của thuyết phái tính, nói theo chữ của Judith Butler, là “phái tính không phái sinh từ tính dục” [gender does not follow from sex, Gender Troubled], tức là, các phạm trù văn hóa không đơn giản chỉ đi theo những luật lệ được mặc định là tự nhiên thì kiến giải quan trọng nhất của thuyết đồng tính có thể là luận điểm có liên hệ mật thiết với kiến giải nói trên: “tính dục về bản chất không phải là một đặc điểm cá nhân mà là một phạm trù văn hóa có sẵn” (Queer theory). Nói cách khác, thuyết đồng tính sẽ không ngừng cho thấy không hề có mối liên hệ “tự nhiên” nào giữa công cụ giải phẫu với điều được xem là ý nghĩa hay chức năng của công cụ đó trong một ngữ cảnh nhất định – giữa một quan điểm sinh lý về tình dục và một hành vi tính dục cụ thể.

“Queer” đương nhiên ở một mức độ nhất định là từ dùng thay cho “gay” (đồng tính nam) hay “lesbian” (đồng tính nữ), bản thân những từ này lại thay thế cho từ “homosexual” (khuynh hướng tình dục đồng giới) ở thế kỷ XIX. Vấn đề thuật ngữ ở đây là quan trọng. Như Annamaria Jagose gợi nhắc:

Từ “homosexuality” (đồng tính) – vốn được một bác sĩ người Thụy Sĩ, Karoly Maria Benkert, đặt ra vào năm 1869 – vốn không được sử dụng rộng rãi trong tiếng Anh cho đến năm 1890, khi nó được nhà nghiên cứu về tình dục, Havelock Ellis, sử dụng. Từ này vẫn còn được dùng ở một mức độ phổ biến nhất định song vì sự liên đới khá chặt chẽ của nó với những diễn ngôn bệnh lý trong y học nên ngày nay nó hiếm khi được sử dụng như một thuật ngữ của sự tự xác định căn cước [self-identification]… Vào thập niên 1960, các nhà đấu tranh cho chủ nghĩa tự do đã dứt điểm không dùng từ “homosexuality” nữa, mà thay vào đó, bổ sung vào kho từ vựng từ “gay” và do đó, đã cấp một địa vị mới cho một từ lóng mà ở thế kỷ XIX vốn được dùng để chỉ những người phụ nữ có đạo đức đáng ngờ.” (Queer Theory, 72).

Bước chuyển từ “homosexual” sang “gay” như một ký hiệu tự xác định căn cước hoàn toàn nằm trong quá trình giải tự nhiên hóa tính dục. Jagose nói tiếp, “sự thông dụng của từ ‘gay’ cho thấy tiềm năng của nó trở thành một khái niệm phi bệnh lý, trút bỏ gánh nặng của một thứ lịch sử tình dục được chủ yếu nhìn nhận từ khía cạnh bệnh học”. (Queer Theory, 73).

Trên thực tế, nếu như dưới con mắt của các lý thuyết gia về phái tính, sự phân cực đàn ông/đàn bà theo tinh thần bản chất luận là điều đáng ngờ thì đối với một nhà nghiên cứu lý thuyết đồng tính, sự khác biệt giữa dị giới/đồng giới cũng là điều cần phải tra vấn. Làm sao ta có thể từ một phạm vi rất rộng và đa dạng các hành vi tình dục mà con người thực hiện để đi đến ý niệm là chỉ có “hai” bản năng giới tính, “hai” hình thái tình dục? Như Eve Kosofy Sedgwick chỉ ra, có vô số những thứ mà con người ta xem là trải nghiệm về tình dục; cùng một hành vi tình dục dưới những con mắt khác nhau có thể bộc lộ những ý nghĩa khác nhau. Đối với một số người, tình dục là tất cả những gì liên quan đến bộ phận sinh dục, trong khi với kẻ khác, nó không khác một trò chơi của tinh thần; một số người rất quan tâm đến tình dục như thể đó là một phần bản sắc của mình, dành nhiều thời gian để nghĩ về tình dục; người khác lại thấy nó không có liên hệ nhân quả nào đối với sự tự xác định mình và hầu như chẳng mất thời gian để suy tư nó; một số người không thể có quan hệ tình dục bên ngoài những ngữ cảnh đầy ý nghĩa của tình yêu, hồn nhân, niềm đam mê, v.v…; với kẻ khác, tình dục là thứ phải mang tính chất bộc phát nhưng lại có người xem tình dục phải là hành động được lên kịch bản rất rõ, thậm chí đến mức làm sao tạo ra cảm giác đó là sự hưng phấn bộc phát. Và thực tế, chúng ta đã có câu chuyện về cựu tổng thống Bill Clinton và cô nhân viên Monica Lewinsky để minh họa cho một luận điểm hóa ra lại rất quan trọng đối với thuyết đồng tính: Nói đơn giản là, chúng ta bất đồng trong việc xem cái gì cấu thành nên “tình dục”. Tóm lại, đó là một con dốc rất trơn.

Rõ ràng sự phân loại  cái mà Gilles Deleuze gọi là “cả ngàn biểu hiện tình dục nhỏ li ti” [a thousand tiny sexualities] có thể sẽ vẫn còn tiếp diễn trong cả một thời gian dài nữa, nhưng mục đích của việc liệt kê như vậy chỉ là để phức tạp hóa cái mà Sedgwick gọi là một nhận thức mang tính chất tiên đề [axiomatic] về tình dục, sự quy giản vô số những hình thức, kiểu biểu hiện của tình dục và hành vi tình dục thành hai (có thể là ba) loại: đống tính hay dị tính (hoặc lưỡng tính). Sedgwick đặt câu hỏi, “Làm thế nào mà giới tính (bản thân khái niệm này vốn dĩ đã phức tạp, như ta đã thấy) của đối tượng khơi dậy ham muốn tình dục của bạn lại dấu hiệu xác định sự thật về bản năng giới tính của bạn? Tại sao sự khác biệt ấy lại là sự khác biệt tạo nên tất cả những khác biệt khác? Làm thế nào mà tình dục từ chỗ bao gồm vô số những hành vi cuối cùng chỉ quy lại thành hai trạng thái?

Mượn một thuật ngữ từ ngôn ngữ học, cả Sedgwick và Butler đều lập luận rằng phái tính và tình dục là những diễn ngôn biểu hành (performative): chúng đều chỉ nói về các hành vi (acts) và sau đó mới là trạng thái tồn tại. Người ta không sinh ra là đàn bà, đàn ông hay đồng tính: người ta trở thành đàn bà, đàn ông hay đồng tính chỉ trong ngữ cảnh ngữ cảnh sự trình diễn, biểu hành hay không trình diễn, biểu hành những hành vi nhất định nào đó. Đồng tính không gọi tên một trạng thái tồn tại: nó biểu thị một hữu thể (being) thực hiện một số hành vi nhất định nào đó, kẻ được nhận diện và được phân loại bằng những phạm trù xã hội hơn là những thuộc tính bản chất. Hay, nói cách khác, những thuộc tính bản chất của căn cước một con người bị “trì hoãn” (backloaded) từ những hành động chủ quan; ý nghĩa của tính dục, phái tính, chủng tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào việc tính dục, phái tính, chủng tộc hoạt động như thế nào. Bản sắc chủ thể, như ta đã quan sát từ đầu đến giờ, hoạt động từ ngoài vào trong hơn là ngược lại.

Trong các thuật ngữ ngôn ngữ học mà ta nhắc đến ở trên, bất cứ một câu  nhận định nào (constative utterance), tức một hành động lời nói chỉ đơn thuần muốn mô tả một dữ kiện hay phát biểu một sự hiển nhiên đã tồn tại trước đó, trên thực tế, đã hoàn toàn là một câu ngôn hành (performative utterance), tức một phát ngôn mà nhận định “biểu diễn/thực hiện” hành động mà nó quy chiếu. Ví dụ, câu “Hoboken ở New Jersey” là câu mà người ta có thể gọi là câu nhận định: nó dường như chỉ thông báo lại một dữ kiện hay mô tả một sự tình đã được chứng minh là đúng. Ngược lại, câu “Tôi hứa ngày mai sẽ trả nợ anh” hay lời của quan tòa “Giờ tôi xin tuyên bố hai anh chị là vợ chồng ” lại là những câu ngôn hành rõ ràng, chúng đòi hỏi phải có một hành động được thực hiện trước khi chúng được phán là “đúng” hay “sai”. Chúng thực sự làm xuất hiện một tình thế mà chúng muốn quy chiếu – hôn nhân hay lời hứa không phải là thứ đã tồn tại sẵn rồi; đó là những chuyện được hiện hữu nhờ hành động cụ thể: kết hôn hay trả nợ. Nói gọn lại, những câu ngôn hành nói về các hành động (acts) trong khi đó những câu nhận định nói về các dữ kiện (facts).

Song như ta đã thấy nhiều lần trong cuốn sách này, dữ kiện thực ra đã và mãi bị lệ thuộc vào những hành động nhất định, hơn là theo chiều ngược lại. Thí dụ, một nhận định đơn giản hay một dữ kiện đơn giản: “Hoboken ở New Jersey” đã bị quy định bởi một số những “hành động” trước đó. “New Jersey”, chẳng hạn, khó có thể nói là một thực thể tự nhiên hay mang tính bản chất; nó được xác định bởi các nhà lập pháp, các chính trị gia, những người làm bản đồ. Đã phải có một số hành động xảy ra để bất cứ một nhận định đơn giản nào có thể được xác nhận là đúng và ngay cả một nhận định đơn giản về sự thật tự thân nó cũng đã là hành động. Trái với niềm tin phổ biến, hóa ra nói một điều gì đó tức là làm một điều gì đó (từ đây ta mới thấy được tầm quan trọng của việc “coming out” [thú nhận về giới tính] trong cộng đồng queer). Sự thật, thậm chí ngay cả sự thật về giới tính, phụ thuộc vào các hành động, hành vi hơn là ngược lại. Bạn là ai là hệ quả của việc bạn làm gì.

Đây là kiến giải quan trọng nhất của lý thuyết đồng tính và nó có nhiều điểm chung với những chương trước của cuốn sách này. Trên thực tế, toàn bộ cuốn sách này gợi ý cho ta thấy các phạm trù của xã hội và cá nhận trước hết và quan trọng hơn hết là những phạm trù biểu hành (performative), được kiến tạo để phán ứng lại những ngữ cảnh cụ thể.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: “Queer” in trong The Theory Toolbox – Critical Concepts for the Humanities, Arts & Social Sciences, p.170-5., Rowman & Littlefield Publishers, Inc., 2003.

(Bản dịch nháp làm tài liệu cá nhân, tôi post lên đây mong nhận được những góp ý về cách dịch, cách hiểu vì quả thật có rất nhiều chỗ tôi thấy mình dịch không thoát. Rất cảm ơn mọi đóng góp).

Raymond Carver – Tôi thuộc về chủ nghĩa hiện thực

(Phỏng vấn Raymond Carver – Larry McCaffery và Sinda Gregory thực hiện)

carver

 

Raymond Carver sinh năm 1938, mất năm 1988, là một trong những nhà văn kiệt xuất của nền văn học Hoa Kỳ. Tên tuổi ông gắn liền với truyện ngắn và thơ. Đặc biệt, ông được coi là người hồi sinh thể loại truyện ngắn vào những năm 80 của thế kỉ trước với lối viết tối giản đầy ám ảnh.

Trước khi mất ở tuổi 50 vì bệnh ung thư phổi, Raymond Carver đã để lại năm tập truyện ngắn, khoảng sáu tập thơ và một vở kịch viết chung. Hai tuyển tập truyện ngắn trong số di sản này đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam là Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình (2009) và Em làm ơn im đi được không (2012). Chúng tôi xin trích dịch cuộc trò chuyện với Raymond Carver do Larry McCaffery và Sinda Gregory thực hiện để thấy được những quan niệm của nhà văn về nghệ thuật truyện ngắn. Cuộc phỏng vấn được đăng trên tạp chí Mississippi Review, số 14, Mùa đông năm 1985

*

Ở một tiểu luận trong tập Fires (Những ngọn lửa) ông nói rằng, “Để viết tiểu thuyết, nhà văn cần sống trong một thế giới có ý nghĩa, một thế giới mà anh ta có thể tin vào, hướng đến và viết về nó một cách chính xác. Một thế giới dù thế nào cũng đến lúc sẽ cố định ở một chốn nhất định. Song hành với điều đó phải là một niềm tin vào sự đúng đắn thuộc về bản chất của thế giới ấy.” Liệu tôi có đúng khi cho rằng ông đã tới được một chốn như vậy, cả trong thực tại lẫn tâm lý, nơi niềm tin của ông vào “tính đúng đắn” của thế giới ấy đủ mạnh để làm bệ đỡ cho một thế giới tưởng tượng có dung lượng của một tiểu thuyết?

Tôi cảm thấy mình đã đến một nơi như vậy. Đời tôi nay đã khác xưa, với tôi nó dường như trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều. Trước đây tôi gần như không thể tưởng tượng được mình có thể viết tiểu thuyết trong tình trạng tuyệt vọng, không thể hiểu nổi mình mà bản thân đang rơi vào. Giờ tôi đã có hi vọng, trước đây thì không – “hi vọng” theo nghĩa có một đức tin. Giờ đây tôi tin rằng ngày mai trước mắt tôi thế giới sẽ tồn tại hệt như nó đã tồn tại ngày hôm nay. Trước đây mọi thứ thật khác. Có một thời gian dài tôi thấy mình đã sống rất bản năng, tôi tự làm mọi thứ trở nên khó khăn thậm tệ đối với chính mình và người thân vì thói rượu chè. Nay, trong cuộc đời thứ hai này, giai đoạn hậu-say sưa, dù trong tôi vẫn còn đôi chút cảm giác bi quan, nhưng tôi đã có niềm tin và tình yêu vào nhiều điều trong thế giới này. Tôi không đề cập đến lò vi sóng, máy bay hay xe hơi đắt tiền nhé.

Niềm tin và tình yêu vào nhiều điều trong thế giới này” mà ông mới tìm thấy được thể hiện rất rõ trong một số truyện ở tập Cathedral (Thánh đường), đặc biệt là trong tác phẩm được lấy làm nhan đề của tập truyện.

RC: Với tôi, truyện ngắn đó là một quá trình “khai mở” ở mọi phương diện. “Thánh đường” là một câu chuyện rộng lớn và có tầm vóc hơn bất cứ thứ gì tôi từng viết trước đây. Khi bắt đầu viết truyện ngắn này, tôi cảm giác mình đang bứt phá ra khỏi thứ mà tôi từng say mê, cả về phương diện cá nhân lẫn phương diện thẩm mỹ. Đơn giản là tôi không thể đi xa hơn theo hướng tôi đã đi trong What We Talk About When We Talk About Love (Chúng mình nói chuyện gì khi chúng mình nói chuyện tình). Ồ, thực ra tôi nghĩ mình vẫn có thể, nhưng tôi không muốn. Vài truyện bắt đầu bị loãng đi. Tôi không viết thêm bất cứ thứ gì trong khoảng 5, 6 tháng sau khi cuốn sách đó ra đời. Thật vậy. Không gì cả ngoài thư từ. Vậy nên tôi hết sức hài lòng rằng khi rốt cục tôi cũng ngồi xuống, sáng tác trở lại và tôi đã viết “Thánh đường”. Cảm giác như trước đây tôi chưa từng viết bất cứ thứ gì như vậy. Tôi có thể để mình ngẫu hứng, không phải áp đặt những giới hạn cho bản thân như tôi từng làm ở những câu chuyện trước đó. Truyện cuối cùng tôi viết cho tuyển tập này là “Fever” (Cơn sốt), cũng là truyện dài nhất mà tôi từng viết. Và đó cũng tác phẩm đáng ghi nhận, tôi nghĩ vậy, một câu chuyện có cách tiếp cận vấn đề tích cực. Quả thực, toàn bộ tuyển tập hoàn toàn khác biệt, và cuốn sách tiếp theo cũng sẽ khác biệt không kém!

Việc một nhà văn như ông gần như đột nhiên thấy mình ở trong một không gian tinh thần khác có ý nghĩa như thế nào? Liệu bây giờ ông có gặp khó khăn khi viết về sự suy sụp, cảm giác hoảng loạn và tuyệt vọng, những điều từng là một phần quan trọng trong nhãn quan sáng tác của ông trước đây không?

Không, bởi khi nào tôi cần mở cửa cho trí tưởng tượng của mình, nhìn chăm chú ra bên ngoài qua khung cửa sổ mà Keats gọi là “khung cửa thần kỳ” của ông, tôi vẫn có thể nhớ lại chính xác hình hài của sự suy sụp và tuyệt vọng, vẫn có thể nếm trải và cảm nhận chúng. Những điều thấm thía như vậy vẫn luôn sống động, hiển hiện trước tôi, ngay cả khi cuộc đời riêng của tôi đã đổi thay. Đơn giản là vì, thế giới vật chất quanh tôi và trạng thái tinh thần của tôi khác đi không có nghĩa là tôi không còn biết rõ về những gì từng nói đến trong các truyện trước đây nữa. Tôi có thể nhớ lại tất cả nếu muốn, nhưng tôi không còn thấy bị thôi thúc chỉ viết về độc nhất thứ cảm xúc đó nữa. Không hẳn là tôi chỉ thích viết về cuộc sống nơi đây, tại trang trại Bốn Mùa, một giai đoạn đời sống cảnh vẻ của tôi). Nếu đọc kĩ tập Thánh đường, anh sẽ thấy nhiều truyện vẫn còn liên hệ tới cuộc đời kia, mà với tôi nó vẫn còn rất nhiều ý nghĩa. Nhưng không phải tất cả các truyện đều vậy. Đó là lí do tôi cảm thấy cuốn sách thật khác biệt.

Nhiều truyện của ông mở đầu bằng việc sự sống bình thường bị xáo động đôi chút bởi cảm giác về một mối đe dọa bất an, hoặc chúng được phát triển theo hướng nhân vật đi đến chỗ chạm mặt với tình thế bị đe dọa đó. Phải chăng khuynh hướng này là kết quả từ niềm tin của ông rằng thế giới này đầy đe đọa đối với hầu hết chúng ta? Hay điều này còn có gì khác liên quan đến một sự lựa chọn thẩm mỹ, thí dụ, mối đe dọa gây bất an kia hàm chứa những khả năng thú vị đối với nghệ thuật kể chuyện?

Đúng, thế giới là một nơi bất an đối với nhiều nhân vật trong truyện của tôi. Tôi viết về những người cảm thấy bất an, và tôi nghĩ rất nhiều người, nếu không phải hầu hết, đều cảm thấy rằng thế giới là một chốn bất an như vậy. Có lẽ không nhiều những người đọc bài phỏng vấn này sẽ cảm thấy sự bất an theo nghĩa tôi đang nói. Phần lớn bạn bè và người quen của ta, những mối quan hệ của ta, của anh và tôi, không cảm nhận theo cách ấy. Nhưng hãy đi và thử sống ở phía bên kia của con đường một chút xem sao. Mối đe dọa ở đó, nó là thứ ta có thể sờ mó được. Về phần thứ hai trong câu hỏi của anh, điều đó cũng đúng vậy. Mối đe dọa hàm chứa những khả năng thú vị cần thăm dò, ít nhất đối với tôi.

Việc di chuyển qua lại giữa hai thể loại văn học –thơ và truyện ngắn – có phải là một vấn đề khó khăn với ông? Có sự khác nhau nào trong quá trình sáng tác ở từng thể loại không?

Tung hứng giữa các thể loại chưa bao giờ là vấn đề với tôi. Tôi cho rằng đối với một nhà văn chưa từng làm việc ở cả hai thể loại đến mức độ như tôi thì đấy là một việc không bình thường. Còn thực sự, tôi luôn cảm thấy và tin rằng về mặt hiệu ứng, cách viết một bài thơ gần với cách viết một truyện ngắn hơn là cách viết một truyện ngắn so với cách viết một tiểu thuyết. Truyện và thơ có nhiều điểm chung trong mục tiêu của sự viết, trong sự cô đọng của ngôn ngữ và cảm xúc cũng như trong sự thận trọng và kìm nén cần thiết để đạt đến hiệu quả nghệ thuật. Với tôi, quá trình viết một truyện hay một bài thơ dường như chưa bao giờ quá khác nhau. Mọi thứ tôi viết đến từ cùng một nguồn cảm hứng, dù đó là truyện, tiểu luận, thơ hay kịch bản. Khi tôi ngồi xuống viết, tôi hoàn toàn bắt đầu với chỉ một câu hoặc một dòng. Tôi luôn phải có dòng đầu tiên trong đầu, dù đó là một bài thơ hay một truyện ngắn. Về sau những phần khác có thể thay đổi, nhưng dòng đầu tiên ấy thì rất hiếm khi. Bằng cách nào đấy, nó đẩy tôi sang dòng thứ hai, và rồi quá trình viết bắt đầu lấy được đà và đi theo một hướng. Gần như mọi thứ tôi viết đều qua nhiều lần sửa chữa, vậy nên tôi làm công việc dự phòng và trở đi trở lại giữa các ý tưởng rất nhiều. Tôi không ngại sửa chữa, thậm chí còn thích thú việc này.

Có thể sự tương tác giữa thơ và văn xuôi hư cấu có liên quan đến hiệu quả mà truyện ngắn của ông đem đến cho độc giả: dường như truyện của ông thường chỉ xoay quanh một hình ảnh đơn nhất: một con công, một điếu xì gà hay một chiếc ô tô. Dường như những hình ảnh ấy vận hành hệt như những hình ảnh trong thơ – tức là, chúng tổ chức câu chuyện, kéo phản ứng của chúng ta vào một chuỗi những kết hợp phức tạp. Ông đã tự ý thức như thế nào khi viết và phát triển kiểu xử lý hình ảnh đó?

Tôi không ý thức tạo ra một hình ảnh trung tâm trong tác phẩm hư cấu để chi phối câu chuyện theo cách mà các hình ảnh, hay một hình ảnh, chi phối một tác phẩm thơ ca. Tôi có một hình ảnh trong đầu nhưng dường như nó trồi lên từ câu chuyện như một sinh thể tự nhiên. Lúc viết, tôi không bận tâm đến việc phát triển các biểu tượng hay suy tính xem hình ảnh sẽ đóng vai trò gì. Khi tôi gặp một hình ảnh có khả năng tạo được hiệu quả tác động, một hình ảnh đại diện cho đúng cái mà nó cần đại diện (nó cũng có thể đại diện cho vài thứ khác nữa) thì đó là điều tuyệt vời. Nhưng tôi không nghĩ về chúng một cách tự giác: chúng dường như tiến hóa và tự nảy sinh. Tôi sáng tạo ra chúng và rồi mọi thứ xung quanh bắt đầu thành hình: những sự kiện diễn ra, hồi ức và tưởng tượng bắt đầu tô màu cho chúng v.v…

Ở một tiểu luận trong tập Fires (Những ngọn lửa), ông có đưa ra một nhận định mà với tôi nó là sự mô tả hoàn hảo cho một trong những đặc điểm độc đáo nhất trong văn xuôi hư cấu của ông: “Trong một bài thơ hay truyện ngắn, ta có thể viết về những điều tầm thường, sự vật tầm thường với một thứ ngôn ngữ tầm thường và phú cho những sự vật đó – một cái ghế, một tấm rèm cửa, một cái nĩa, hòn đá, hoa tai – sức mạnh lớn lao, thậm chí gây sửng sốt.” Tôi nhận thấy về điểm này mọi câu chuyện đều khác nhau, nhưng làm sao nhà văn có thể cấp cho những sự vật bình thường này một sức mạnh và tầm quan trọng nhường ấy?

Tôi không quen dùng phép tu từ hay sự trừu tượng hóa trong đời sống, cũng như trong suy nghĩ hay trong lối viết, nên khi tôi viết về con người, tôi muốn đặt họ trong một khung cảnh được xây dựng chân thực, đến mức có thể gây cảm giác tiếp xúc được trực tiếp với nó. Vậy nghĩa là một cái ti vi, một cái bàn ăn hay một cái bút dạ nằm trên bàn làm việc đều là những yếu tố trong một bối cảnh ngoài đời sống, nhưng nếu đưa chúng vào trong hoạt cảnh văn chương thì chúng phải mất đi vẻ trơ lì. Tôi không nói là chúng luôn phải có một đời sống tự thân nhưng bằng cách nào đó, chúng phải làm cho sự hiện diện của mình khơi gợi được cảm giác. Nếu anh định mô tả một cái thìa, cái ghế hay cái ti vi, anh sẽ không muốn chỉ đặt chúng vào hoạt cảnh một cách đơn giản. Anh muốn trao cho chúng một trọng lượng nhất định, liên kết chúng với những sự sống xung quanh. Với tôi, các sự vật đó đóng một vai trò trong câu chuyện: chúng không phải là “nhân vật” hiểu theo nghĩa là con người trong truyện của tôi, nhưng chúng ở đó và tôi muốn độc giả của mình ý thức rằng chúng ở đó, biết rằng cái gạt tàn này ở đây, cái ti vi ở kia (nó đang bật hay tắt)…

Người đọc thường lập tức bị ấn tượng mạnh bởi tính chất “tối giản” trong tác phẩm của ông, đặc biệt là những tác phẩm trước tập Thánh đường. Phong cách này là sự tiến triển của lối viết hay ngay từ đầu ông đã lựa chọn nó?

Ngay từ đầu. Tôi thích quá trình viết lại không kém gì lúc đặt bút viết một câu chuyện. Tôi luôn luôn yêu thích việc nhặt lên và chơi đùa với những câu văn, viết lại chúng, giản lược cho tới khi chúng trở nên cô đặc theo một cách nào đó. Điều này có lẽ do tôi vốn là học trò của John Gardner; ông đã từng nói một điều mà tôi hưởng ứng ngay: “Nếu anh có thể diễn đạt một điều trong 15 từ hơn là 20, 30 từ thì hãy nói 15 từ thôi”. Điều này có ý nghĩa với tôi như một sức mạnh của sự khải thị. Khi tôi đang mò mẫm tìm lối đi riêng, người ta đã nói với tôi một điều  mà theo cách nào đó lại gặp gỡ với thứ tôi vẫn muốn làm. Tôi trở lại những gì đã viết, tinh lọc chúng rồi xóa bỏ phần thừa như thể đó là hành động tự nhiên nhất trần đời. Mấy ngày gần đây, tôi đọc lại thư từ của Flaubert và nhận thấy ông đã nói những điều dường như thật gần gũi với quan điểm thẩm mỹ của tôi. Một lần khi đang viết Bà Bovary, Flaubert dừng bút lúc quá nửa đêm và viết thư cho tình nhân của ông, Louise Colet kể về việc viết cuốn sách và chia sẻ quan điểm của ông về mỹ học. Có một đoạn đã thực sự khiến tôi rất ấn tượng: “Người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo của mình phải giống như Đấng sáng thế? vô hình và toàn năng; ta cảm thấy Người ở khắp mọi nơi nhưng người ta lại không thấy Người ở đâu cả.” Tôi đặc biệt thích vế cuối của đoạn văn này. Có một bình luận thú vị nữa khi Flaubert viết cho biên tập viên tạp chí sẽ đăng dài kỳ cuốn Bà Bovary. Họ sắp sửa chia cuốn tiểu thuyết ra thành nhiều kì và lược bỏ nhiều chỗ vì sợ rằng nếu đăng nguyên văn như Flaubert viết thì chính quyền sẽ buộc họ đóng cửa. Flaubert nói rằng nếu lược bỏ thì họ sẽ không được phép xuất bản cuốn sách, nhưng hai bên sẽ vẫn là bạn. Dòng cuối cùng của bức thư viết: “Tôi biết phân biệt văn chương và việc kinh doanh văn chương” – đây là một sự thấu suốt khác mà tôi rất đồng tình. Ngay cả trong các bức thư ấy, văn xuôi của ông vẫn khiến ta kinh ngạc: “Văn xuôi phải được tổ chức nghiêm ngắn, cẩn trọng từ đầu đến cuối, như một bức tường được phủ kín sơn đến tận chân tường.” “Văn xuôi chính là công trình kiến trúc.” “Mọi thứ phải được thực hiện một cách lạnh lùng, nghiêm nghị.” “Tuần trước tôi đã dành năm ngày chỉ để viết một trang.”

Bên cạnh John Gardner, có nhà văn nào khác có ảnh hưởng tới cảm quan sáng tạo của ông ở thời kỳ đầu không? Tôi nghĩ ngay đến Hemingway…

Chắc chắn Hemingway là một nguồn ảnh hưởng. Tôi không đọc ông tới tận khi tôi vào đại học, sau đó tôi lại đọc phải cuốn sách tồi của ông ấy (Across the River and Into the Trees – Qua sông vào rừng) và thật sự không mê Hemingway. Nhưng không lâu sau, khi đọc In our time (Trong thời đại chúng ta) ở một lớp học, tôi nhận ra ông ấy thật phi thường. Tôi nhớ mình đã nghĩ, “Chính là nó – nếu mày có thể viết văn xuôi như thế này, mày sẽ làm được cái gì đấy”. Một trong những điều thú vị ở tác phẩm của Flaubert chính là nó cho ta thấy ông đã tự giác như thế nào khi bắt đầu thể nghiệm một điều gì đó rất đặc biệt và khác biệt với văn xuôi. Ông rất ý thức khi nỗ lực biến văn xuôi thành một hình thức nghệ thuật. Nếu anh nhìn vào những thứ được xuất bản ở Châu Âu vào năm 1865 khi Bà Bovary ra đời, anh sẽ thấy cuốn sách đó quả là một kì tích.

Trong các tiểu luận của mình, ông lên tiếng chống lại những “thủ thuật” hay “mánh lới” màu mè[1] trong văn chương – nhưng tôi lại nghĩ rằng chính tác phẩm của ông cũng mang tính “thể nghiệm” theo nghĩa mà người ta nói về văn xuôi hư cấu của Hemingway. Đâu là khác biệt giữa sự thể nghiệm văn học mà ông xem là chính đáng với những thứ không phải nó?

Tôi chống lại những thủ thuật thu hút sự chú ý về chính bản thân chúng, cố ra vẻ thông minh hay chỉ đơn thuần là sự bí hiểm, ngoắt ngoéo. Sáng nay tôi có đọc một bài điểm sách trên tờ Publishers Weekly về một tiểu thuyết đồng tác giả sẽ ra mắt mùa xuân năm sau; cuốn sách có vẻ rất rời rạc và chứa đầy những thứ chẳng có nghĩa lý gì với cuộc đời hay với văn chương như tôi biết; chắc chắn là tôi thà chết chứ không đọc nó. Một nhà văn không được xao lãng khỏi câu chuyện của mình. Tôi không hứng thú với những tác phẩm toàn thiên về kỹ thuật mà thiếu vắng chất đời. Chắc tôi lỗi thời rồi nên mới thấy rằng độc giả, như là những con người, bằng cách nào đó, phải được quan tâm đến trong quá trình viết. Vẫn cần phải có một khế ước nào đó giữa nhà văn và độc giả. Viết hay bất kì hình thái lao ðộng nghệ thuật nào, không chỉ là sự phô bày; nó là sự giao tiếp. Khi một nhà văn không còn thực sự hứng thú với việc giao tiếp mà chỉ nhắm đến phô bày điều gì đó thì thật đáng buồn; họ có thể phô bày bản thân bằng cách ra ngoài và hò hét ở góc phố. Một truyện ngắn, một tiểu thuyết hay một bài thơ nên cố gắng tạo được một số “cú đấm cảm xúc” (emotional punches). Anh có thể đánh giá tác phẩm đó qua  cường độ và số lượng những cú đấm đó. Nếu nó chỉ rặt những chiêu trò lóa mắt và tự thỏa mãn thì chao ôi, tôi xin kiếu. Tác phẩm như thế chỉ là rơm rác: chúng sẽ bị cuốn bay theo cơn gió đầu tiên.

Một trong những khía cạnh phi truyền thống trong sáng tác hư cấu của ông là các truyện ngắn không hướng đến “khuôn mẫu” của những truyện được viết theo lối cổ điển vốn thường tuân theo cấu trúc nhập đề/xung đột/phát triển/giải quyết. Thay vào đó thường là một tính chất tĩnh tại hay mơ hồ, bỏ ngỏ trong các truyện của ông. Tôi cho rằng ông thường xuyên cảm thấy những kinh nghiệm mà ông đang diễn tả đơn giản là không thích hợp với sự biểu đạt bằng kiểu cấu trúc quen thuộc.

Đối với các nhân vật cũng như những tình huống mà tôi miêu tả trong tác phẩm của mình, sẽ không phù hợp nếu đưa ra cách giải quyết mọi thứ một cách gọn ghẽ và ở một mức độ nhất định, đây còn là điều bất khả. Một điều khá phổ biến ở những người cầm bút là họ có xu hướng ngưỡng mộ những người trái ngược với mình về mục đích và cách tạo hiệu quả trong sáng tác, và tôi thừa nhận mình cực kì ngưỡng mộ những truyện được triển khai theo mô thức cổ điển ấy, với xung đột, giải quyết và kết thúc. Nhưng dù tôi có thể kính trọng những tác phẩm ấy, thậm chí đôi lúc còn hơi ghen tị, thì tôi vẫn không thể viết như vậy được. Công việc của nhà văn, nếu quả thực anh/cô ta có một công việc, không phải là mang lại những kết luận hay câu trả lời. Nếu câu chuyện tự trả lời chính mình, trả lời những vấn đề và xung đột chính nó đặt ra và thỏa mãn những đòi hỏi tự thân, thì thế là đủ. Mặt khác, tôi muốn chắc chắn rằng độc giả của mình không cảm thấy bị chơi khăm cách này hay cách khác khi họ đọc hết câu chuyện của tôi. Điều quan trọng với nhà văn chính là anh ta phải cung cấp vừa đủ để thỏa mãn độc giả, ngay cả khi họ không đem đến những câu trả lời hay cách giải quyết rõ ràng nào.

 Một đặc trưng trong tác phẩm của ông là ông thường thể hiện những nhân vật mà hầu hết các nhà văn khác ít khi khai thác – đó là những người về cơ bản không có khả năng diễn đạt, những người không thể nói ra bằng lời cảnh ngộ của mình, họ thường không thực sự nắm bắt được chuyện gì đang xảy ra với họ, điều gì trở nên bất ổn.

Tôi không nghĩ đó là dấu hiệu đặc trưng hay phi truyền thống, bởi tôi cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi viết về những con người đó. Tôi đã gặp những người như vậy suốt cả đời. Mà cơ bản thì, tôi cũng là một trong những con người lúng túng và ngơ ngẩn ấy, tôi xuất thân từ những người như thế, tôi làm việc và kiếm sống bên họ suốt nhiều năm. Đó là lý do tại sao tôi không bao giờ có chút hứng khởi nào với việc viết một truyện hay một bài thơ dính dáng đến đời sống học thuật, đến thầy hoặc trò, v.v… Đơn giản là tôi không thích. Những gì tạo nên ấn tượng không phai mờ trong tôi là những gì tôi nhìn thấy ở những cuộc đời quanh mình và trong chính cuộc đời bản thân tôi đang sống. Có những cuộc đời mà ở đó người ta thực sự hoảng sợ khi ai đó gõ cửa dù ngày hay đêm, hay khi chuông điện thoại reo; và họ không biết mình sẽ trả tiền thuê nhà ra sao hay làm thế nào nếu chiếc tủ lạnh ngừng hoạt động. Anatole Broyard đã cố phê phán truyện “Preservation” (Bảo hành) của tôi khi nói: “Thế là cái tủ lạnh hỏng – tại sao họ không gọi thợ điện đến và sửa chữa nó?” Kiểu bình phẩm đó thật là ngu xuẩn. Anh gọi thợ đến sửa tủ lạnh hết 60$; và ai mà biết sẽ còn tốn bao nhiêu nếu cái tủ lạnh đó hỏng hẳn. Có lẽ Broyard không ý thức được nhưng nhiều người không đủ tiền để gọi thợ nếu việc đó lấy đi của họ 60$; cũng như họ không đến nha sĩ nếu họ không có bảo hiểm, còn răng của họ trở nên tệ hơn bởi họ không đủ tiền đến gặp nha sĩ khi họ cần. Những hoàn cảnh như thế không có vẻ gì là phi thực hay giả tạo với tôi. Cũng không phải là vì chú tâm vào nhóm người ấy mà tôi lại tạo ra thứ gì hoàn toàn khác biệt với những nhà văn khác. Chekhov từng viết về những kẻ bên lề bị khuất lấp cả trăm năm trước. Với tôi, dường như các tác gia truyện ngắn vẫn luôn luôn làm vậy. Không phải mọi truyện của Chekhov đều là về những kẻ thất thế, nhưng vẫn có một số lượng đáng kể tác phẩm của ông xoay quanh những kẻ bên lề bị khuất lấp mà tôi đang nói đến. Ông có viết về các bác sĩ, thương gia, nhà giáo nhưng ông cũng viết về những kẻ rất khó nói nên lời và tìm được phương tiện để những nhân vật đó cất lời. Vậy nên, viết về những người hay ấp úng, những người bối rối và sợ hãi, không phải là tôi đang làm điều gì hoàn toàn khác biệt so với một số nhà văn khác đâu.

Người ta thường nhấn mạnh khía cạnh hiện thực trong tác phẩm của ông, nhưng tôi thấy có một đặc tính nào đó trong tác phẩm của ông không phải là hiện thực thuần túy. Giống như một cái gì đó xảy ra ngoài trang văn, một cảm giác mơ hồ về sự phi lý, gần như tiểu thuyết Kafka.

Có lẽ tác phẩm của tôi nằm trong truyền thống hiện thực chủ nghĩa (đối lập với phái hoàn toàn thoát ly), nhưng nếu chỉ kể về sự việc như là chính nó thì tôi thấy rất chán. Mà đúng là như thế. Người ta không cần đọc về cách con người nói chuyện với nhau trong đời thực và về những gì đã thật sự xảy ra trong cuộc sống của họ. Kiểu gì họ cũng ngủ gật mất thôi. Nếu đọc kĩ truyện của tôi, tôi không nghĩ anh sẽ thấy con người nói chuyện với nhau theo cách thông thường. Người ta luôn luôn nói rằng Hemingway có một khả năng đặc biệt trong việc miêu tả trò chuyện, và sự thật đúng là như thế. Nhưng chẳng ai từng nói chuyện ngoài đời như trong hư cấu của Hemingway. Ít nhất là cho tới trước khi họ đọc Hemingway.

Đức AnhNgọc Hà trích dịch


[1] Từ gimmick liên hệ đến những tác phẩm mà sự đổi mới về hình thức thực ra không tạo nên một hiệu quả thẩm mỹ nào. Ở đây dịch là mánh lới hoa mỹ ngụ ý chỉ các tác phẩm cố ra vẻ khác biệt và độc đáo về hình thức nhưng thực ra chẳng có tác dụng gì cả/

Meena Alexander – Thơ có ích gì?

Meena Alexander[1]

Thơ có ích gì?

Trong bài nói chuyện tại Yale Political Union [2]vào 23/4/2013, Meena Alexander bắt đầu với một trích dẫn từ bài luận năm 1821 của Shelley, “S biện hộ của Thơ ca”. Kết luận – “Thi nhân là những nhà lập pháp không được  thừa nhận của thế giới” – dẫn đến cuộc tranh luận sôi nổi. Sau đây là phiên bản đã sửa chữa đôi chỗ của bài nói chuyện mà  Meena đã trình bày  nhân sự kiện đó.

brancusi07-02

1

Cách đây không lâu, tôi đã có buổi đọc thơ ở Colorado, trong một hội trường có những cửa sổ rất lớn nhìn ra dãy Rockies. Tôi bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp thô ráp, góc cạnh của dãy núi mà chỉ cần quay đầu lại một chút, tôi cũng có thể nhìn thấy nó. Như thường lệ, sau phần đọc thơ lại có những ý kiến phát biểu từ phía dưới hội trường. Một người phụ nữ với chiếc áo thun dài tay màu đỏ đứng dậy. Bà ta ở gần cuối hội trường chật ních người, và tôi phải căng mắt ra để trông thấy bà – nhưng giọng bà thì to rõ và rành mạch.

Câu hỏi ấy dội vào những những bức tường: “Thơ có ích gì?”. Tôi nín thở. Bà ấy có thể là con gái của Plato đang chất vấn tôi. Tôi nhớ rằng khi ấy hội trường yên phăng phắc. Tôi nghĩ: chẳng có gì, tôi chẳng thể nói gì. Tôi thốt ra mấy lời, những từ ngữ mà, tận một năm sau, tôi biến chúng thành tâm trạng chưa từng thú nhận trong một bài thơ. Bài thơ có tựa đề khá giản dị – “Question time” (Hỏi thời gian) – và nó sẽ được in trong cuốn sách của tôi, Birthplace with a Buried Stones (Nơi sinh với những Hòn đá chôn giấu), sắp được xuất bản vào tháng 10/2013:

Hỏi thời gian

Tôi nhớ cạnh sắc hằn sẹo

Của dãy núi trăng trôi ngang qua

 

người đàn bà với chiếc áo thun màu đỏ,

Như tia lửa phát quang nơi gốc cây đã mục, như những bụi cây rực lên vì phồng giộp

 

Giơ tay đặt câu hỏi giữa căn phòng chật kín –

Thơ có ích gì?

 

Trên kia, những ngọn đèn nhấp nháy

Đường điện hẳn có vấn đề

 

Tôi quay lại và thấy trăng xoáy trong nước,

Dãy Rockies như rùng mình bởi một thứ ánh sáng màu hoa cà

 

Những sinh vật biển cắt thành tán lá trên trời

Trong bóng cây tôi và anh đã từng

 

Môi chạm môi, đùi lướt đùi,

Mơ về một quá khứ giải thoát cho những kẻ bị cầm tù trong đó.

 

Đứng từ xa, tôi nhìn người đàn bà ấy và nói –

Chúng ta có thơ

 

Nên chúng ta không chết vì lịch sử.

Tôi cũng không hiểu mình muốn nói gì.

2

Có thể chúng ta nghĩ về lịch sử như là những gì thuộc quá khứ được giao nộp cho ký ức, được ghi lại bởi những người ở vị trí được làm việc này, quyền lực của họ là quyền lực của kẻ thao túng những hình thức ghi chép công khai. Nhưng có một dòng ngầm quan trọng của lịch sử mà tôi đã nhận ra: những bức thư, nhật kí, bản thảo, kí tự bí mật trên những mảnh giấy được lén lút chuyển ra từ chốn ngục tù. Với tôi, thơ, trong chủ ý của nó, vốn dĩ gần hơn với dòng chảy bị chôn giấu này;  lãnh địa của thơ là những gì  được cảm nhận từ trong sâu thẳm, từ“trong huyết quản và trái tim”, như Wordsworth từng viết trong những dòng thơ thấu tóm tư tưởng cốt lõi của ông khi suy ngẫm về quá khứ và bản chất bất khả của nó –  tức là sự bất khả của ý thức khi muốn tìm cách quay về quá khứ.

3

Lãnh địa của thơ ca là những gì được cảm nhận từ sâu thẳm và về bản chất, không thể nói lên được; đó chính là thứ nghịch lý mà tất yếu thơ ràng buộc vào. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ giống như họa sĩ dùng sắc màu, chất liệu quan trọng nhất để hình thành tác phẩm nghệ thuật. Nhưng thứ ngôn ngữ được sử dụng hàng ngày quanh ta – trong những âm thanh, quảng cáo, hùng biện chính trị, báo chí – cần phải được thanh lọc để có thể được sử dụng như là chất liệu nghệ thuật.

Bài thơ, trong hành động tạo nghĩa của nó, quay lưng lại với vùng nghĩa đen của ngôn từ; tính chân thực của nó gắn liền với cái có thể được nó khơi gợi. Và hình ảnh được gợi ra này vụt lóe lên được là nhờ ký ức. Abhinavagupta (950-1020) đã nhận thức rõ điều này. Trong suy tưởng của mình, ông đã viết về cách thơ ca trong khi thoát ly nghĩa đen đã chạm tới những gì nằm trong ký ức, trong những mảnh vỡ kí ức. Chính theo cách này mà rasa, khái niệm chỉ độ nhạy của khoái cảm thẩm mĩ, được chạm đến:

Mặt khác, rasa là điều không thể biểu đạt bằng nghĩa con chữ. Nó không nằm trong những biểu đạt trong đời sống thường ngày. Đúng hơn, rasa thuộc về một hình thức mà chỉ trong sự hưởng thụ hân hoan một trạng thái tinh thần rất vi tế thông qua sự kích thích của những yếu tố ký ức đã sẵn có trước đó…Những yếu tố ký ức này đẹp bởi chúng có sức hấp dẫn đối với trái tim con người)  Sự ám gợi một  cảm giác như thế được gọi là rasadhvani và điều này xuất hiện duy nhất trong thơ ca. Theo nghĩa nghiêm ngặt, ấy là linh hồn của thơ (Nguồn: The Dhvanyāloka of Ānandavardhana with the Locana of Abhinavagupta, Harvard University Press, 1990)

4

Trong khi thơ ca gắn bó với cơ cấu cảm giác ở con người, với sức mạnh cảm tính của sự hiện sinh của thân thể, với những kí ức lấy sức mạnh từ những cảm xúc được các giác quan đẩy lên cao độ, thì đồng thời nó cũng gắn với nơi chốn. Chính tại nơi chốn mà chúng ta định vị bản thân, đánh dấu chính mình trong quan hệ với những kẻ khác; chính tại nơi chốn, ta tồn tại. Nhưng điều gì sẽ xảy ra đối với quá khứ nếu nơi chốn ấy không còn, khi cảm giác bị gạt bỏ phũ phàng, khi chính sự lưu đày hay xê dịch mới đánh dấu những giới hạn của hiện sinh?

5

Tại sao ta lại cần thơ ca trong thời điểm thế này? Với tôi câu hỏi ấy nằm trong một câu hỏi khác: Việc chúng ta thuộc về một thế giới bạo lực thì có ý nghĩa gì?

Tôi nghĩ đến kho dữ liệu vô hình mà một chúng ta mang trong mình, đến sự tích lũy mang tính cá nhân sâu sắc các hình ảnh, âm thanh, mùi vị và những mảnh nhỏ của những thứ vật chất đôi khi bị phá hủy mà ký ức nhận về – và có lẽ đây là một cách khác để nghĩ về dòng sáng lấp lánh của đời sống bên trong vốn cấp ý nghĩa cho sự tồn tại của con người, tất cả những thứ đó sẽ kết tinh lại khi ta can đảm nói chữ “Tôi”. Chắc chắn đó là địa hạt của thơ ca.

6

Được nhấn mạnh ở phần trung tâm bài luận “Sự biện hộ của thơ ca” (1821) Percy Shelley là những dòng mà trong đó, ông nhắc đến sức mạnh tự thân của bài thơ: “Nó tạo ra cho chúng ta một sự sống khác trong sự sống của chính mình. Nó biến ta trở thành cư dân của một thế giới mà so với nó, cái thế giới quen thuộc ta vẫn sống chỉ là sự hỗn loạn. Nó tái tạo cái vũ trụ thường ngày mà chúng ta là một phần trong đó và là kẻ tri giác nó, và nó thanh tẩy từ cái nhìn bên trong ta lớp phủ của sự quen thuộc, thứ đã che khuất nỗi ngạc nhiên của chúng ta về chính sự sống của  mình”.

Cái thế giới đối nghịch ấy, cái sự sống khác trong sự sống của mình ấy, cái vùng khát vọng mà thơ ca khơi gợi nên ấy là gì? Chắc chắn có một sự thật lớn lao bị vùi chôn ở đây, một thứ gì đó liên quan đến trạng thái ngất ngây của ta, sự xuyên thấu của cảm giác mà lí tính thuần túy không thể tạo ra, một kiểu tạo nghĩa, mà thiếu nó, tất cả chúng ta đều có thể trở thành con tin bị giam giữ bởi chính xác thịt của mình.

7

Đã có những thời kì trong lịch sử chung của nhân loại, ở một số nơi trên thế giới, có những nhà thơ và ca sĩ bị cấm đoán. Nhưng tại sao? Thơ có gì mà khiến người ta phải sợ hãi? Chính xác là vì sức mạnh của bản ngã sống động, thường biến mà thơ ca giải phóng- thứ khát vọng không bao giờ có thể bị ràng buộc bởi luật lệ hay pháp chế. Đó là sức mạnh của con người, là cấp độ tinh thần trong đời sống con người.

8

Bài thơ là một phát minh tồn tại bất chấp lịch sử. Hầu hết các sức mạnh trong đời sống thường nhật mà ta đang sống giờ đang hiệp lực để cản ngăn việc sáng tác một bài thơ. Có thể vẫn còn có không gian nào đó cho thơ được xuất bản, nhưng lại không có không gian cho sự sáng tạo: không có không gian đặc biệt nào nơi người ta được phép ngồi suy ngẫm, dẫu rằng trường đại học có thể vẫn còn một khoảnh rất nhỏ cho điều này.

Trong một thời đại bạo lực, nhiệm vụ của thơ theo cách nào đó là hòa giải chúng ta với thế giới và trao cho chúng ta một chút dịu dàng và thanh cao để ta có thể tồn tại trong thế giới này. Tôi tin sâu sắc vào điều đó, và tôi xem đó như một nỗ lực để dấn thân vào những sự phức tạp của thời đại này, thậm chí ngay cả khi chúng tàn bạo; nhưng thông qua đó, trong chừng mực nhất định, sứ mệnh của thơ là hòa giải chúng ta với thế giới –  đó không phải là việc chấp nhận giá trị bề mặt hoặc đồng tình với những điều sai trái, mà là một sự hòa giải hiểu theo nghĩa rộng hơn, để chúng ta trở lại với tình yêu, với địa phận của trí tưởng tượng, về với không gian của cuộc sống trần thế hữu hạn.

9

Thơ là một thứ nghệ thuật bị bỏ rơi, nhưng không phải đối với những người sáng tác, mà đối với nhiều người khác. Tuy nhiên, có một đặc ân mà thơ ca đem lại, một điều, thật nghịch lý, lại khó  nắm bắt bằng ngôn từ, một hối thúc mãnh liệt mà Shelley cố gắng khơi gợi trong luận văn “Sự biện hộ của Thơ ca” – đó là nhiệm vụ cao cả và bất khả của thi sĩ trong lịch sử mà chúng ta có thể rút ra từ đó giải pháp cho ngày hôm nay

Mở đầu bài luận của mình, Shelley nói về vẻ đẹp và cách thức mà nhờ đó trực giác về cái mà ông gọi là “cái trật tự không thể phá hủy ” được trao cho nghệ sĩ. Từ trực giác ấy mà dẫn đến sự xuất thần của đức tin. Ông cho rằng nghệ sĩ là “những người hình thành nên luật pháp, và những người lập nên xã hội dân sự”, tóm lại là, các nhà lập pháp: danh xưng dành cho họ trước đây.

Với tôi bây giờ, điều này dường như là một sự xuất thần nhưng không cứu được cho một cơ thể  đang rơi tự do, tìm cách hạ xuống một không gian khả dĩ nào đó để có thể sống sót. Chắc chắn chúng ta hãy đừng đeo ý tưởng về sự lĩnh hội sâu sắc cái đẹp và “thế giới vô hình này” lên các nhà lập pháp thông thường bây giờ, đừng gắn nó với các quốc hội và nghị viện, các quy trình pháp lý và đại diện toàn quyền.

10

Tôi nghe những cái móc nhảy nhót.

Vạt áo cởi nút.

Một trái tim đang đập, đang thở

Nhưng chúng ta nên chăng? Chắc chắn một đời sống biết xúc động, rung cảm – và, tôi muốn nói thêm, thơ, theo nghĩa rộng nhất mà Shelley nói tới – rất quan trọng ngay cả với những nhà lập pháp và những quyết định được đưa ra. Bản chất của luật sử dụng súng và các vấn đề về nhập cư chỉ là hai ví dụ ta có thể nghĩ đến, rút ra từ các cuộc tranh luận gần đây của chúng ta.

Nhưng có lẽ đối với Shelley, cái bóng của lời tiên tri là những gì cho phép các nhà thơ có tư cách như những nhà lập pháp – theo đó, nhà thơ như “người giải thích sự huyền bí của một nguồn cảm hứng chưa được thấu tỏ; là tấm gương của cái bóng khổng lồ mà tương lai soi lên hiện tại”

Tôi nhớ đến bài thơ đáp lại Shelley của George Oppen. Trong một bài thơ có tên “Thảm họa”, Oppen viết:

những cuộc chiến phương tây

gió và bão

về chính trị tôi đã chán ngấy sự phù phiếm

của nhà thơ      những nhà lập pháp

 

của cái thế giới

vô thừa nhận

 

Cái thế giới vô thừa nhận này là gì? Như thường thấy, đó là một thế giới nằm rất sâu để người ta có thể rơi nước mắt vì nó.

11

Tôi đã ở New York vào ngày 11/9. Thơ là một phương thức để người ta sống sót. Tôi đã viết trên những mẩu giấy nhỏ mình mang theo. Mọi người đọc to những bài thơ cho nhau, trên đài phát thanh, ở quảng trường Liên hợp quốc và những nơi công cộng khác. Có điều gì đó ở bài thơ cho phép người ta biểu hiện được trạng thái mãnh liệt của cảm xúc vốn rất cần thiết trong thời gian khủng hoảng. Tôi đã viết một chùm bi ca cho những người tử nạn. Đây là một trong số đó. Tất cả những bài thơ này đều được in trong tập Raw Silk (Lụa thô) của tôi.

Bài thơ trữ tình là một hình thức của sự im lặng tột cùng được bảo vệ để thế giới này không động được vào. Để viết một bài thơ trữ tình, tôi phải nhập vào một trạng thái trong mơ. Nhưng đồng thời, gần như nhờ sự gián đoạn ấy, nó trở thành một vị trí cho phép những suy tư về thế giới của con người đạt đến độ căng.

Hậu họa

Có một ánh sáng lạ trên bầu trời

Cánh hoa phai tàn hằn thành vết tích trên đá.

 

Tôi muốn viết về cây bồ đề

Xòa bóng ở rìa sông

Nhưng lá cây đầy những côn trùng

Với đôi cánh màu máu khô.

 

Ở bờ xa sông Hudson

Gần mũi phía nam hòn đảo của chúng tôi

 

Một ngọn núi vươn mình, một loạt những câu

Những âm tiết của lửa hàn chắp nối lại những đổ nát

 

Mắt, môi, một bàn tay cắt lìa bỗng hồng hào

Làn khói ngọt ngào và cay đắng vấy lên bầu trời.

      New York, 13–18 tháng 9, 2001

Tôi đã viết một chùm thơ được đặt tên “Sau đó có một hòn đảo”, bài thơ tôi vừa đọc, “Hậu họa” là bài đầu tiên. Khi viết chùm thơ này, tôi đã liên tục tới khu Ground Zero (khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới đã bị phá hủy trong vụ tấn công 11/9 – ND), cố gặng đến gần hiện trường nhất, quay trở lại nơi đây nhiều lần, như một cuộc hành hương. Địa điểm này nay đã như một nghĩa trang của hàng ngàn con người với mùi hôi thối của xác thịt và dây điện cháy. Một lần, khi đi qua phố Liberty, tôi bị ấn tượng mạnh bởi một cậu lính bảo vệ vòng ngoài hiện trường còn rất trẻ. Đó một cậu thanh niên đầy tàn nhang, nét mặt tươi tắn. Phía sau cậu là tường của tòa tháp phía nam, một ông lão đã rất già  dựa vào đó tạo dáng chụp ảnh, lũ trẻ nhỏ la hét đàn chim bồ câu trong niềm phấn khích, một nhân viên cứu hộ, đăt tay ôm cổ họng, khuôn mặt mệt mỏi tột độ, mặt nạ chống khí độc lủng lẳng bên hông anh ta.

12

Vào tháng sau đó, có một cuộc gặp gỡ  tại một Viện nghiên cứu Châu Á/ người Mỹ gốc Á mới được thành lập. Tôi được đề nghị tham gia ban chủ tọa; cuộc gặp gỡ được tổ chức tại Trung tâm Cao học nơi tôi dạy. Đó đại loại là một dịp mà đúng ra tôi sẽ mặc một chiếc sari (trang phục lễ của phụ nữ Ấn Độ – ND) mà không cần đắn đo – nhưng giờ đây có điều gì đó làm tôi lấn cấn.

Hai trong số các sinh viên Nam Á của tôi trước đó từng gặp phải rắc rối khi mặc y phục phi Tây phương: người ta đã la hét, có kẻ ném cả chiếc túi giấy vào cô bé. Một người bạn đã kể với tôi qua điện thoại về lần ra ngoài một buổi tối ở Boston bị một người đàn ông la hét và nhổ nước bọt vào cô như thế nào.

Một sự ngờ vực đã lan rộng ra cộng đồng người Châu Á, Nam Á, người da nâu – những người trông có vẻ như là người Ả Rập. Tôi muốn lựa chọn cuộc chiến của tôi. Tôi muốn có sự kiểm soát đối với những việc nhỏ nhặt trong cuộc sống. Nếu việc tỏ ra khác biệt có thể trở thành điều nguy hiểm, thì sẽ thật vô nghĩa nếu ta chủ ý chấp nhận chịu đựng Tôi cần phải giữ năng lượng để viết, và tôi đang viết rất nhiều thơ.

Tôi cuộn chiếc sari của tôi lại thật khéo léo để không làm nhăn nó, đặt nó một cách cẩn thận trong một chiếc túi nilon mà tôi cắt từ phần giữa túi đựng sách của tôi. Trong toilet nữ ở tầng 4, tôi trút bỏ bộ quần áo và mặc chiếc sari lên mình. Tôi ngắm nhìn lụa lướt trên sàn lát gạch và không chớp mắt nhìn vào khuôn mặt mình trong gương.

Trông da mình thật tối, chất Ấn Độ không thể lẫn đi đâu được. Tôi cần suy nghĩ vượt qua nỗi e sợ. Sau này khi làm thơ, tôi nghe tiếng Kabir, bậc thi thánh thời trung đại, hát cho tôi, cho tôi can đảm để sống cuộc đời của riêng mình. Đây là bài thơ tôi đã làm.

 

Kabir Hát trong Thành phố Những Tòa tháp Cháy

 

Thật đáng xấu hổ

họ làm mi sợ

nên mi lột bỏ chiếc sari của mình,

vò nát chúng thành một cuộn tròn

và rồi trải nó ra

trên sàn toilet.

Đốm lửa từ những tòa tháp

lẩn trốn qua nếp lụa.

 

Với mái tóc đen của mi

và làn da cháy nắng

mi chỉ là một đứa con của trái đất.

Kabir -người thợ dệt hát:

 

Hỡi loài người và loài chó

trong thời khắc buồn đau

quả đất đang quay của chúng ta

nhỏ lại.

 

13                     

Nghệ thuật trong thời đại chấn thương là một động thái dịch rất cần thiết. “Những mảnh vỡ của một chiếc bình,” Walter Benjamin viết, “được dính keo lại với nhau.”

Nhưng sẽ ra sao nếu như chất keo dính này lộ ra, các vết nối, vết nứt gãy?

Trong thời đại bạo lực, các tác phẩm nghệ thuật phải sử dụng khung của cái thực, nó làm công việc dịch một bản thảo dường như không đọc được, một thứ mã của sự phục hồi chấn thương.

Có vẻ như với tôi, trong nhịp điệu của mình, bài thơ, tác phẩm nghệ thuật, có thể kết hợp với nhịp điệu, âm hưởng của cái thực tại, của những bước ngập ngừng, những im lặng đột nhiên, những bùng nổ tàn bạo thành một chỉnh thể chặt chẽ. Để rồi, những gì được ráp lại với nhau không chỉ là một tác phẩm tồn tại như một vật thể trong thế giới, mà, trong sự hài hòa mà vẫn chực bất an của nó, trong cái bóng trải ra lấp lánh của nó, cho phép thế giới bước vào bài thơ.

Tôi nghĩ về nó như một sự tái tạo trả lại cho ta cuộc sống của ta, mong manh, bấp bênh.

14

Đôi lời để kết luận.

Tôi nghĩ về nhà thơ trong thế kỷ XXI như một người phụ nữ đứng sau cửa tối.

Chị ta là một người nội trợ, nhưng là một người nội trợ kì quặc.

Chị phân vân trong lối cửa tối. Chị cần phải ở đó bên ngưỡng cửa để tìm một sự cân bằng, để duy trì một mái nhà bên rìa của thế giới.

Chị đưa cả hai tay mình ra. Chúng sẽ giúp chị vững vàng, giúp chị tìm lối đi riêng.

Chị ta phải phát minh ra một thứ ngôn ngữ có thể biểu thị bởi nhiều thứ tiếng.

Về những gì mà chị viết, chúng trói buộc chị với cái hữu hình, đối diện với không gian công cộng, chúng đánh dấu sự nguy hiểm, đánh dấu niềm ham muốn.

Phía sau chị, trong bóng tối của ngôi nhà mình thông qua chị, chảy tràn ra những thứ ngôn ngữ mà không ai trong số những người chị biết sẽ có thể đọc hay viết được những ngôn ngữ ấy,.

Những ngôn ngữ ấy tạo hình một thân thể bị mất[3] bằng phương pháp khắc axit. Một thân thể tinh tế, sống động, không thể chiếm đoạt.

Nguồn gốc của mọi sự dịch.

New York City

Nguyễn Đức Tâm An dịch

Nguồn: Meena Alexander, “What Use Is Poetry?”, http://www.worldliteraturetoday.org/2013/september/what-use-poetry-meena-alexander#.UilWnn9WnT


[1] Meena Alexdander (1951) là nhà thơ,học giả có uy tín quốc tế. Sinh tại Allahabad, Ấn Độ, trưởng thành tại Ấn Độ và Sudan, hiện bà đang sống và làm việc tại thành phố New York, nơi bà được bầu chức danh Giáo sư danh dự khoa Văn học và ngôn ngữ tại Hunter College. Bà là tác giả của nhiều tập thơ, hồi ký văn học, tiểu luận và phê bình.

[2] Câu lạc bộ tranh luận về các chủ đề chính trị xã hội tại Đaị học Yale, Hoa Kỳ.

[3]  Lấy từ chữ của Aimé Césaire trong tập thơ Corps perdu  (NXB Fragrance, 1950), với tranh vẽ khắc axit minh họa của Pablo Picasso.