Marie – Laure Ryan
TỰ SỰ
Mặc dù mối quan tâm đến hiện tượng hình thành nên chủ đề của cuốn từ điển này đã có lịch sử khoảng hai thiên niên kỷ, ở cả phương Đông và phương Tây, nhưng chỉ trong khoảng 50 năm trở lại đây, khái niệm tự sự mới xuất hiện như một đối tượng nghiên cứu độc lập. Từ Aristotle đến Vladimir Propp, từ Percy Lubbock đến Wayne Booth, những nhà phê bình và triết gia được xem là tiên phong trong lĩnh vực lý thuyết tự sự đều không quan tâm đến những đặc trưng của tự sự mà thay vào đó, nghiên cứu của họ hướng đến các thể loại văn chương cụ thể như thơ sử thi, kịch, truyện kể dân gian, tiểu thuyết hay rộng hơn là các thể hư cấu mà có thể gọi chung là tự sự hư cấu văn học. Chính di sản của chủ nghĩa cấu trúc Pháp, đặc biệt của Roland Barthes và Claude Bremond, đã giải phóng tự sự khỏi văn học và hư cấu, xem nó như một hiện tượng ký hiệu xuyên ngành và xuyên phương tiện truyền thông.
Khái niệm “tự sự”: Những cách sử dụng đương thời
Ngay khi tự sự trở thành một khái niệm lý thuyết, nó bắt đầu xâm nhập sang nhiều lĩnh vực khác như sử học, y học, luật pháp, phân tâm học và dân tộc học. Sự mở rộng lãnh địa này gắn liền với sự mở rộng ngữ nghĩa khiến tự sự không những được giải phóng khỏi những hình thức văn chương mà còn bất cứ sự hỗ trợ mang tính văn bản (textual support) nào. Một ảnh hưởng quan trọng đến những cách sử dụng thuật ngữ “tự sự” hiện nay chính là từ khái niệm “Đại Tự Sự” (Grand Narrative) của Jean-Francois Lyotard như đã được phác ra trong cuốn Hoàn cảnh hậu hiện đại. Lyotard đã đối lập kiểu tri thức dưới hình thức tự sự vốn điển hình cho các xã hội cổ đại, nơi chân lý được bảo đảm bởi địa vị đặc biệt của người kể chuyện trong một cộng đồng với kiểu tri thức dưới hình thức khoa học, trong đó, tác giả được xem là người phải cung cấp bằng chứng cho những khẳng định của mình. Song diễn ngôn khoa học lại không thể đảm bảo tính hiệu lực của chính nó vì nó từ chối quyền uy. Trong suốt thế kỷ XIX, khoa học đã tìm kiếm sự hợp pháp hóa trong cái mà Lyotard gọi là các “đại tự sự”: những kiến giải có ảnh hưởng sâu rộng thể hiện tri thức khoa học như là công cụ của sự tự hiện thực hóa mang tính lịch sử của một “anh hùng” dụ ngôn mang những cái tên khác nhau như Lý trí, Tự do, Nhà nước hay Tinh thần Con người. Ba đặc điểm phân biệt phân biệt đại tự sự với các tiểu tự sự mà chúng ta trao đổi trong đời sống hàng ngày là: chúng quan tâm đến những thực thể trừu tượng hơn là những cá nhân cụ thể; chúng có thể tồn tại như là những niềm tin tập thể hơn là thông điệp của những văn bản cụ thể; chúng kế thừa vai trò nền tảng của huyền thoại (myth) đối với xã hội hơn là những câu chuyện chỉ mang giá trị giai thoại hoặc tiêu khiển. Các tiểu tự sự và đại tự sự chia sẻ bình diện thời gian song nếu như tiểu tự sự chỉ đơn giản kể lại các sự kiện lịch sử thì khái niệm sau lại liên quan trực tiếp đến thứ Lịch sử được viết hoa. Sự tồn tại ngầm của Đại tự sự, cũng như sự kiến giải và bản chất trừu tượng của nó, đã dọn đường cho “các tự sự về chủng tộc, giai cấp, phái tính” hay “các tự sự về bản sắc” của lĩnh vực nghiên cứu văn hóa hiện nay.
Mức độ phổ biến ngày càng gia tăng của thuật ngữ “tự sự” đồng thời cũng phản ánh sự khủng hoảng tri thức luận của văn hóa đương đại. “Tự sự” là thứ còn lại khi niềm tin vào tính khả dĩ của khoa học bị mục ruỗng. Cụm từ thường được nghe thấy – “các tự sự của khoa học” – vốn phổ biến trong những lĩnh vực mới của nghiên cứu khoa học, mang theo hàm ý: diễn ngôn khoa học không phản ánh mà chỉ ngầm kiến tạo hiện thực; nó không khám phá các sự thật mà chỉ thêu dệt chúng theo những luật lệ của trò chơi của chính chúng trong một quá trình có thể đem so sánh với sự thêu dệt công khai của tự sự hư cấu, dù đó là một sự so sánh gây bối rối. Do đó, gọi một diễn ngôn như một “tự sự” hay “chuyện kể” để chất vấn sự khẳng định của nó về sự thật, xét đến cùng, là đánh đồng tự sự với hư cấu.
Trong lĩnh vực khoa học tri nhận và trí tuệ nhân tạo, tự sự có xu hướng kết hợp với các hoạt động tạo nghĩa và giải quyết vấn đề. Thí dụ, Kerstin Dautenhahn, một chuyên viên thiết kế trí tuệ nhân tạo, đã gọi một con robot là một “tác nhân kể chuyện” (story telling agent) khi trên cơ sở những ký ức của nó về những kinh nghiệm quá khứ được gọi là “tự truyện” của nó, con robot sẽ thực hiện một chuỗi hành động hướng đến một mục tiêu nào đó. Sự đồng hóa ký ức vào tự truyện – điều cũng phổ biến trong lĩnh vực tâm lý – thể hiện ý niệm rằng việc sống một cuộc đời, suy ngẫm về nó cũng giống như việc viết một tự thuật – đó là một hành động tiếp diễn của sự tự sáng tạo liên đới đến những chọn lựa, trách nhiệm, sự đánh giá lại, sự bổ sung những chương mới vào cuốn sách vẫn đang trong quá trình được viết ra ở mọi thời điểm.
Vậy lý thuyết tự sự phải làm gì với sự đồng hóa mang tính ẩn dụ hoặc hoán dụ của khái niệm tự sự với những ý niệm mà trước đó được gắn nhãn là “niềm tin”, “sự diễn giải”, “thái độ”, “sự duy lý”, “giá trị”, “tư tưởng hệ”, “hành vi”, “kế hoạch”, “ký ức” hay đơn giản là “nội dung”? Chúng ta có nên đưa ra một định nghĩa đóng vai trò như một cảnh sát ngữ nghĩa không những làm nhiệm vụ loại trừ tất cả các cách sử dụng bất hợp pháp thuật ngữ này, gây nguy hiểm đối với sinh mệnh của khái niệm; hay chúng ta chịu khuất phục xu hướng thời thượng, xây dựng một định nghĩa chấp nhận tất cả những cách diễn giải hiện thời, chấp nhận mất mát một số đặc trưng quan trọng phân biệt tự sự với những hình thức hay sản phẩm khác của hoạt động tinh thần? Một sự thỏa hiệp giữa hai khả năng này là xem tự sự như một tập mờ, được xác định ở trung tâm bằng những đặc trưng quan trọng được coi là hạt nhân, nhưng lại chấp nhận nhiều mức độ thành viên khác nhau, phụ thuộc vào những đặc trưng mà một ứng cử viên muốn gia nhập tập hợp này phô bày. Giả thuyết về tập mờ sẽ giải thích được cho một thực tế: trong khi có những văn bản sẽ được nhất trí thừa nhận như là các tự sự như truyện cổ tích thần tiên hay những trò chuyện về kinh nghiệm cá nhân thì lại có một số văn bản sẽ phải đối mặt với việc thừa nhận bị hạn chế như tiểu thuyết hậu hiện đại, trò chơi điện tử hay nghiên cứu lịch sử về các hiện tượng văn hóa, thí dụ công trình History of Sexuality (Lịch sử tình dục) của Michel Foucault.
Tự sự: mô tả khái niệm và định nghĩa khái niệm
Nghiên cứu bản chất của tự sự có thể có hai hình thức. Thứ nhất, nếu nhắm đến mục đích mô tả, người ta sẽ đặt câu hỏi: tự sự giúp gì cho con người; thứ hai, nếu nhắm đến một sự định nghĩa, người ta sẽ phải cố gắng nắm bắt một số đặc trưng khu biệt của tự sự.
Sau đây là một số ví dụ về những nhận định mà cách tiếp cận mô tả đưa ra: tự sự là một phương thức cơ bản để tổ chức kinh nghiệm của con người và là một công cụ để kiến tạo những mô hình của hiện thực (Herman 2002); tự sự cho phép con người chấp nhận và thích ứng được với tính thời gian (temporality) của sự hiện sinh của chính mình (Ricoeur 1984-1988); tự sự như một phương thức tư duy đặc biệt liên quan đến cái cụ thể, cái cá biệt đối lập với cái trừu tượng, cái chung chung (Bruner, người phân biệt tư duy “tự sự” với tư duy “khoa học”); tự sự sáng tạo và chuyển giao những truyền thống văn hóa, xây dựng những giá trị và niềm tin xác định những bản sắc văn hóa; tự sự là phương tiện của những hệ tư tưởng thống trị và là công cụ của quyền lực (Foucault 1978); tự sự là công cụ của sự tự sáng tạo (self-creation); tự sự là kho chứa tri thức có ích, đặc biệt ở những nền văn hóa truyền khẩu (quan điểm này nhắc chúng ta nhớ đến nghĩa từ nguyên của từ “tự sự” trong tiếng Latin là động từ gnare, tức “biết”); tự sự là khuôn trong đó chúng ta nhào nặn và bảo tồn ký ức; tự sự, trong hình thức hư cấu của nó, mở rộng thế giới tinh thần của chúng ta vượt ra ngoài khuôn khổ của cái có thực, cái quen thuộc, mở ra một sân chơi cho sự thể nghiệm tư tưởng (Schaeffer 1999); tự sự là một cội nguồn đa dạng, không thể cạn kiệt của giáo dục và giải trí; tự sự là tấm gương mà nhìn vào đó, chúng ta phát hiện ra ý nghĩa của việc là con người.
Trong khi những nhận định theo kiểu mô tả như vậy có thể không xung đột với nhau thì những cách tiếp cận theo kiểu định nghĩa lại có xu hướng đưa ra những quan điểm trái chiều nhau về bản chất của tự sự vì mỗi học giả sẽ chọn ra và làm nổi bật lên những đặc điểm khác nhau cấu thành nên tính tự tự (narrativity). Những luận đề tranh cãi với nhau dưới đây sẽ minh họa rõ hơn một số điểm bất đồng giữa các quan điểm:
(1) Khái niệm “tự sự” có khác nhau theo mỗi nền văn hóa và thời kỳ lịch sử, hay chính những điều kiện cơ bản, nền móng của tính tự sự cấu thành nên tính phổ quát của sự tri nhận (cognitive universals)? Việc “tự sự” rất lâu mới trở thành một khái niệm lý thuyết và chỉ được thừa nhận trong đời sống học thuật cho thấy có vẻ như biện hộ cho một cách tiếp cận tương đối luận song những đặc điểm đặc thù về văn hóa mới khiến người ta nhận thức về khái niệm chứ không phải là những dấu hiệu xác định khái niệm. Cách tiếp cận tương đối luận đặt ra vấn đề về khả năng so sánh: nếu ở mỗi nền văn hóa, tự sự lại có những hình thức rất khác nhau, đâu sẽ là mẫu số chung để biện hộ cho việc gắn nhãn những hình thức này là tự sự? Nếu ta chấp nhận một cách tiếp cận văn hóa phổ quát thì những khác biệt rõ ràng giữa tự sự ở các thời kỳ và các nền văn hóa khác nhau chỉ là vấn đề đề tài và chỉ được xem như là những biến thể trên một cấu trúc chung, mang tính cốt lõi. Tương tự, cốt truyện sử thi và cốt truyện kịch ở các nền văn hóa phương Tây có được nhìn nhận những phương thức hiện thực hóa khác nhau một lược đồ chung.
(2) Tự sự tiền giả định một hành động trần thuật được thực hiện bởi một tạo vật mang nhân dạng (anthropomorphic creature) được gọi là “người kể chuyện” (narrator) hay câu chuyện có thể được kể mà không cần phải nghĩ đến ý thức về người kể chuyện (narratorial consciousness)? Gerald Prince định nghĩa tự sự như là sự thể hiện các sự kiện có thật hay mang tính hư cấu bởi một hay nhiều người kể chuyện hướng đến một hay nhiều người nghe chuyện (narratee). Nhà nghiên cứu phim David Bordwell đưa ra một quan điểm đối lập, ông lại cho rằng trần thuật điện ảnh không đòi hỏi cần phải có một hình tượng người kể chuyện. Một số học giả khác tìm cách điều hòa định nghĩa tự sự trên nền khái niệm người kể chuyện với khả năng của hình thức trần thuật phi ngôn từ bằng cách phân tích cho thấy ngay trong phim hay kịch cũng có tiền giả định về phát ngôn của một hình tượng mang đặc tính của người kể chuyện, kể cả khi bộ phim hay vở kịch không sử dụng thủ pháp lồng giọng thuyết minh (voice-over).
(3) Đặc điểm của tính tự sự có thể được khu biệt như một lớp hoặc một bình diện nghĩa hay nó là một hiệu ứng bao trùm, khiến cho mọi yếu tố của văn bản đều có thể góp phần tạo nên? Quan điểm thứ nhất tạo cơ sở cho việc phân chia văn bản thành những bộ phận tự sự thúc đẩy cốt truyện tiến triển và những bộ phận phi tự sự nơi thời gian đứng yên vì dụ các trữ tình ngoại đề, suy tư triết lý hay phần bài học trong ngụ ngôn. Nhưng cách phân tích này gặp phải những khó khăn khi phải xử lý vấn đề miêu tả: trong khi các đoạn miêu tả có thể bị lướt qua mà không làm cho độc giả không theo dõi được cốt truyện thì nhân vật, bối cảnh sẽ không thể được nhận diện nếu không có các đoạn miêu tả. Nếu mục đích của tự sự không phải chỉ nhằm khơi dậy một chuỗi sự kiện mà cả những thế giới trong đó những kiện này xảy ra thì không thể loại trừ phần miêu tả khỏi lớp tự sự được, sự phân biệt giữa tự sự và phi tự sự bị mờ đi. Các nhà lý luận văn học, những người trung thành với quan điểm về sự không thể chia tách nội dung và hình thức, lại có xu hướng tán thành khả năng thứ hai: tính tự sự được hiểu như một hiệu ứng bao trùm. Trong số này phải kể đến Philip Sturgess. Ông đã viết: “Tính tự sự giống như một thế lực trao quyền (enabling force) của tự sự, một thế lực hiện diện ở mọi điểm trong tự sự”. Hệ quả tất yếu của quan điểm này là ta không thể phân biệt được tính tự sự với tính mục đích luận về thẩm mỹ (aesthetic teleology), hay nói như Sturgess, không thể phân biệt được nó với sự nhất quán mà văn bản phải huy động các thủ pháp để đảm bảo. Vì mỗi văn bản lại có một thứ mục đích luận thẩm mỹ riêng vì thế tính tự sự trở thành khái niệm không thể định nghĩa.
(4) Tính tự sự là vấn đề hình thức hay nội dung? Các yếu tố cấu thành tính tự sự như là hình thức đã cực đoan hóa những ý tưởng của Hayden White, người đã lập luận rằng một chuỗi của các sự kiện lịch sử có thể được trình bày ra như một danh sách phi cấu trúc, một niên biểu tuân theo những nguyên tắc thống nhất nào đó song lại thiếu đi một nguyên tắc lý giải bao trùm (comprehensive explanatory principle), hoặc như một cốt truyện đầy đủ (tức như một tự sự), trong đó, các sự kiện được tổ chức theo một thứ mục đích luận bao trùm. Nhưng nếu các sự kiện lịch sử có thể được biến thành các câu chuyện cũng như thành thứ gì đó khác (chẳng hạn, một cuốn giáo trình về ngoại giao dựa trên những ví dụ lịch sử) thì chẳng phải tự sự cũng cần đến những kiểu chất liệu thô đặc thù hay sao? Người ta có thể biến phương trình nổi tiếng của Einstein E=MC2 thành một câu chuyện mà không cần thêm bất cứ thứ gì vào nó hay không? Một cách để giải quyết rắc rối của vấn đề hình thức và nội dung là dựa vào sự phân biệt giữa hình thức và thực thể (substance) mà Hjelmslev đưa ra, có thể áp dụng cho cả bình diện nội dung (content plane) và bình diện biểu hiện (expression plane) của một văn bản, có nghĩa là bình diện cái biểu đạt lẫn cái được biểu đạt của nó. Tính tự sự, theo quan điểm này, sẽ thuộc về bình diện nội dung, chứ không phải bình diện biểu hiện nhưng nó lại là một cấu trúc gồm một hình thức nhất định (được biểu hiện bằng các khái niệm như cốt truyện, các tiểu phần [story arc][1], hay tam giác của Freytag[2]) và một thực thể nào đó (nhân vật, bối cảnh, sự kiện, nhưng không phải các luật lệ phổ biến và khái niệm trừu tượng).
(5) Một định nghĩa về tự sự có nên trao địa vị bình đẳng cho tất cả mọi tác phẩm hư cấu hay không, hay nó sẽ xem một số kiểu tiểu thuyết và phim hậu hiện đại như là thuộc về ngoại biên? Nói khác đi, một văn bản theo khuynh hướng tiền phong (avant garde) có nhân vật, có bối cảnh, sự kiện song lại từ chối tổ chức nội dung này thành một câu chuyện xác định sẽ mở rộng hàm nghĩa của khái niệm tự sự, khiến khái niệm này mang tính biến thiên về lịch sử; hay đơn thuần chỉ cho thấy khả năng tách biệt của những khái niệm “văn học”, “tự sự” và “hư cấu”?
(6) Tự sự đòi hỏi cả phần lời kể (discourse) và câu chuyện (story) hay nó có thể tồn tại được như một sự trình hiện tự do trôi nổi (floating representation), độc lập với bất kỳ sự hiện thực hóa mang tính văn bản nào (textual realisation)? Có phải cụm từ “câu chuyện không kể được” (untold story), rất gần với những tin vắn, là một nghịch ngữ (oxymoron) hay trí tuệ của chúng ta có thể nắm giữ được một tự sự mà không cần đến ngôn từ, như khi chúng ta ghi nhớ cốt truyện một tiểu thuyết hoặc khi chúng ta nói với bạn bè: Tôi có một câu chuyện cực kỳ hay muốn kể với các bạn?
Chuyện kể như một kiến tạo tri nhận
Câu trả lời cho câu hỏi cuối – câu hỏi quan trọng nhất đối với một định nghĩa về tự sự, vì nó đặt câu hỏi tự sự được cấu thành bởi những yếu tố nào – nằm ở sự phân biệt mang tính chất kỹ thuật giữa tự sự (narrative) và chuyện kể (story), mặc dù trong các từ điển tiếng Anh, hai thuật ngữ này đồng nghĩa với nhau. (Đó là lý do tại sao đến đây, mục từ này vẫn sử dụng hoán vị hai thuật ngữ này). Đưa ra một quan niệm phổ biến ở các nhà tự sự học, H.Porter Abbott đã dùng thuật ngữ “tự sự” để chỉ sự kết hợp giữa chuyện kể và lời kể đồng thời xác định hai thành tố của nó như sau: “chuyện kể là một sự kiện hay một chuỗi sự kiện [hành động] và lời kể [diễn ngôn trần thuật] là sự thể hiện những sự kiện ấy”. Tự sự, theo quan điểm này, là sự hiện thực hóa dưới hình thức văn bản của chuyện kể trong khi chuyện kể là tự sự ở hình thức tiềm năng. Nếu ta quan niệm sự thể hiện/trình hiện (representation) là hành vi tự do về phương tiện (medium-free) thì định nghĩa này không hạn chế tính tự sự chỉ trong các văn bản dùng lời hay các hành động nói gắn với người kể chuyện. Song hai thành tố này của tự sự đóng vai trò phi đối xứng vì lời kể ở đây được định nghĩa theo khả năng của nó trong việc thể hiện cái cấu thành nên chuyện kể. Điều này có nghĩa là chỉ có chuyện kể mới có thể được định nghĩa như một thuật ngữ tự trị. Kể từ khi các nhà hình thức luận Nga đưa ra sự phân biệt giữa “fabula” và “sjuzhet” (tức là chuyện kể và lời kể), các quan điểm tự sự học chuẩn mực đã coi chuyện kể như là “những chuỗi sự kiện”, nhưng cách định nghĩa này đã quên rằng các sự kiện tự thân chúng chưa phải là chuyện kể mà đúng hơn chỉ là chất liệu thô từ đó câu chuyện được hình thành. Vậy thì chuyện kể là gì, nếu, đúng như Hayden White lập luận rất thuyết phục, nó không giống như một thứ (thing) mà người ta tìm thấy trong thế giới (như là các hiện thể [existents] và sự kiện [events]) cũng không phải là sự thể hiện dưới hình thức văn bản của nó?
Chuyện kể, không giống như lời kể/diễn ngôn tự sự, là sự thể hiện/trình hiện, song không giống như diễn ngôn, nó không phải là sự thể hiện/trình hiện được mã hóa trong những ký hiệu vật chất. Chuyện kể là một hình ảnh tinh thần, một kiến tạo tri nhận liên quan đến một số kiểu thực thể nhất định và những quan hệ giữa các thực thể ấy. Tự sự có thể là sự kết nối câu chuyện và diễn ngôn, nhưng chính khả năng khơi gợi những câu chuyện trong đầu mới là thứ phân biệt diễn ngôn tự sự với các kiểu văn bản khác. Sau đây là những cách xác định mang tính chất thăm dò về kiến tạo tri nhận mà các nhà tự sự học gọi là “chuyện kể”:
1) Sự hình dung trong đầu một chuyện kể bao hàm việc kiến tạo hình ảnh tinh thần của một thế giới được xác định bằng những nhân tố và vật thể được đặc thù hóa (nhân vật). (Đây là các bình diện không gian của chuyện kể)
2) Thế giới đó nhất thiết phải trải qua những biến đổi không hoàn toàn khả đoán do các sự kiện vật chất không theo quán tính: hoặc do các ngẫu nhiên hoặc do những hành động chủ ý của những nhân tố có khả năng trí tuệ. (Đây là bình diện thời gian của chuyện kể).
3) Cùng với việc được kết nối với các tình trạng vật chất của những mối liên hệ nhân quả, các sự kiện vật chất phải gắn với các trạng thái và sự kiện tinh thần (mục tiêu, kế hoạch, cảm xúc). Mạng lưới những kết nối này trao cho các sự kiện sự mạch lạc, động cơ, độ đóng (closure), tính khả thụ (intelligibility) và biến chúng thành cốt truyện. (Đây là bình diện logic, tinh thần và hình thức của chuyện kể).
Định nghĩa này xem tự sự như một kiểu văn bản có khả năng khơi gợi một kiểu hình ảnh nào đó trong đầu óc của người tiếp nhận. Song, như đã đề cập đến ở trên, nó không cần đến một văn bản để khơi gợi ra một hình ảnh như thế: chúng ta có thể hình thành những chuyện kể trong đầu như một phản ứng đối với bản thân đời sống. Thí dụ, tôi chứng kiến một vụ ẩu đả ở bến xe điện ngầm, tôi sẽ hình thành trong đầu câu chuyện về vụ đánh nhau đó để kể lại cho mọi người trong nhà mình. Có thể lý giải tiềm năng tự sự của đời sống bằng cách phân biệt giữa việc “là một tự sự” với việc “sở hữu tính tự sự”. Đặc điểm “là một tự sự” có thể được xác nhận cho bất kỳ một khách thể ký hiệu nào, dù ở bất cứ phương tiện nào, có thể được tạo ra với chủ định khơi dậy một phản ứng bao hàm trong đó việc kiến tạo một câu chuyện. Chính xác hơn, chính sự tri nhận của người tiếp nhận chủ định này đã dẫn đến nhận định: một khách thể ký hiệu là một tự sự, mặc dù ta không bao giờ có thể chắc chắn liệu người gửi và người nhận có cùng một câu chuyện trong đầu hay không. Ngược lại, “sở hữu tính tự sự” lại có nghĩa là khả năng khơi dậy, kích thích một phản ứng dưới hình thức tự sự, dù là văn bản hay không phải văn bản, bất kể tác giả có chủ định tạo ra tác nhân kích thích đó hay không.
Những nguyên tắc hình thành nên định nghĩa này là những luật lệ rắn chắc, xác định rõ những điều kiện tối thiểu. Tuy nhiên, có một điều kiện trong đó lại có vẻ gây nhiều tranh cãi hơn những điều kiện khác: chuyện kể có nhất thiết phải hàm chứa những sự kiện không theo thói quen hay không, hay nó có thể chỉ quan tâm đến những hành động thông thường? Liệu điều kiện này có nên được thay thế bằng một luật lệ thiên vị hơn? Điểm rắc rối này đưa đến một khu vực nơi tính tự sự (sản phẩm của những điều kiện tối tiểu) cực kỳ khó tách khỏi tính khả thuật (tellabilty) (một vấn đề được mô tả tốt hơn bằng những luật lệ thiên vị, song nếu biên giới giữa tính tự sự và tính khả thuật nhiều khi rất mơ hồ thì vẫn có những nguyên tắc rõ ràng thuộc về phạm trù này hơn là phạm trù kia.
Bằng việc nới lỏng những điều kiện của định nghĩa trên, chúng ta có thể giải thích những hình thức tự sự ít mạch lạc hơn những chuyện kể mang tính điển phạm như nhật ký, biên niên cũng như những hình thức mở rộng của thuật ngữ tự sự mà ta đã nhắc đến ở phần đầu mục từ này. Việc bất tuân điều kiện thứ ba giải thích cho trường hợp thiếu khuyết đặc tính tự sự của một số tiểu thuyết hậu hiện đại: trong khi chúng tạo ra một thế giới, lấp đầy nó bằng cách nhân vật, làm cho chuyện nào đó xảy ra (mặc dù chúng thường bất chấp điều kiện thứ hai), những tiểu thuyết này lại không cho phép độc giả khôi phục lại mạng lưới đã kích thích hành động của các nhân vật và ràng buộc các sự kiện vào một trình tự khả thụ và xác định. Song chúng lại bù đắp cho sự phá vỡ chuyện kể bằng sự sáng tạo độc đáo, phi thường trên bình diện lời kể. Việc nhấc điều kiện thứ nhất ra cho phép ta mô tả các đại tự sự cùng những quan hệ lân cận của nó. Những đại tự sự này không nói về những tồn tại mang tính cá nhân mà về những bản sắc tập thể; chúng thể hiện những luật lệ chung hơn là một thế giới cụ thể đối với trí tưởng tượng. Nhưng chúng vẫn giữ lại bình diện thời gian và đưa đến những kiến giải phổ quát về lịch sử. Điều kiện thứ hai là điều kiện khó phớt lờ nhất nhưng ta nhấc điều kiện này ra khi nói đến “tự sự về sự thượng đẳng da trắng” hay “tự sự về sự trường tồn của hệ thống Soviet”. Điều xảy ra ở đây là cái nhãn “tự sự” đã được chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ từ những chuyện kể được truyền bá bởi văn chương thực dân hay truyền thông do đảng phái chỉ đạo đến những định đề phi thời gia hình thành nên thông điệp tư tưởng hệ của chúng. Cái nhãn tự sự này thậm chí vẫn còn được gắn với những phát ngôn, nhận định tư tưởng hệ ngay cả khi chúng được giải phóng khỏi những câu chuyện cụ thể.
Hải Ngọc dịch
Nguồn: “Narrative”, in trong Routledge Encyclopedia of Narrative Theory, David Herman, Manfred Jahn & Marie-Laure Ryan ed., Routledge Ltd, 2010, p.544-8.
[1] “Arc”, đầy đủ là “story arc”, là một thuật ngữ chỉ phần cốt truyện thống nhất xuyên suốt nhiều chương, nhiều tập, nhiều phần liên tục của một ấn phẩm truyền thông như sách, truyện tranh, trò chơi điện tử hay thậm chí phim điện ảnh. Dẫn theo: http://blog.zing.vn/jb/dt/khanhdeptraipl/16754352?from=my
[2] Thuật ngữ “tam giác của Freytag” ở đây chỉ phương pháp phân tích cốt truyện kịch mà nhà phê bình người Đức Gustave Freytag trình bày trong cuốn sách Technique of the Drama (Kỹ xảo của kịch) [1863] của mình. Theo đó, một cốt truyện kịch thống nhất về hành động bao giờ cũng phải hội tụ ba thành phần: mở đầu (thời điểm nảy sinh động cơ; động cơ phát triển thành hành động) – cao trào (đỉnh điểm của những xung đột, mâu thuẫn) – thoái trào (kết thúc).
rất hay