Monthly Archives: Tháng Năm 2009

tư liệu tham khảo – amos goldberg – chấn thương, tự sự và hai hình thức của cái chết (P1)

Amos Goldberg
Chấn thương, tự sự và hai hình thức của cái chết

picasso188

Chấn thương và tự sự

Hai khái niệm “chấn thương” và “tự sự” (hay “tự thuật”/”chuyện đời” –‘life narrative’) có thể liên hệ với nhau theo một số cách rất khác nhau[1]. Có những học giả cho rằng đây là hai khái niệm đối lập – những chuyện kể là phương thức của cấu trúc tượng trưng kiến tạo nên bản sắc, trong khi đó chấn thương lại là hệ quả của cái lẩn tránh cấu trúc và đập vỡ bản sắc. Nhiều người quy cách hiểu như vậy bắt nguồn từ Freud, chẳng hạn như cách tiếp cận của Cathy Carouth về mối quan hệ giữa chấn thương và tự sự lịch sử[2]. Những cách tiếp cận như vậy nhấn mạnh chủ yếu vào sự không thống nhất giữa cấu trúc thời gian lặp lại và xuất hiện muộn của chấn thương với cấu trúc thời gian tuyến tính của tự sự.

Một số quan điểm khác lại cho rằng chấn thương và những câu chuyện được kể bởi những nạn nhân chịu thương tổn thường mang những quan hệ nhân quả, thậm chí đôi khi còn mang tính chất như một hình thức chữa bệnh: một kinh nghiệm chấn thương làm nảy sinh nhu cầu tức thời muốn kể lại một câu chuyện và tái tạo tự thuật/chuyện đời của một người nào đó. Một số người, như chuyên gia tâm thần học Judith Herman hay nhà văn Primo Levi, còn cho rằng một câu chuyện tự thuật/chuyện đời là bước tất yếu đầu tiên để đi đến sự hồi phục hay ít nhất là có thể giúp người ta chịu đựng được chấn thương[3]. Hình thức quan hệ thứ ba là diễn xuất (enactment): tự sự chấn thương, trong hình thức và phương thức trần thuật của nó, đều diễn xuất lại cái sự kiện chấn thương nguyên uỷ. Công trình của Shlomith Rimmon-Kenan về tác phẩm Mèo và chuột của Gunter Grass là một ví dụ tốt về cách phân tích theo hướng này[4].

Trên thực tế, ba quan hệ ý niệm giữa chấn thương và tự sự không nhất thiết loại trừ lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp, chúng ta có thể tìm thấy cả ba kiểu quan hệ này, với những trọng tâm thay đổi, trong nhiều trang viết khác nhau về chấn thương. Có thể xem công trình của Dominick LaCapra là một ví dụ cho sự khớp nối phức tạp này; ông đặc biệt lưu ý đến sự dao động tất yếu giữa việc loại trừ, chấp nhận và diễn xuất trong hành vi biểu hiện chấn thương[5].

Tuy nhiên trong bài viết này, tôi muốn đề nghị một cách khác để liên hệ hai khái niệm này với nhau, gắn kết lại những yếu tố trong các cách tiếp cận được đề cập đến ở trên. Tôi cho rằng trong trường hợp một sự kiện gây chấn thương rộng lớn như Holocaust (song chắc chắn không chỉ riêng Holocaust), những câu chuyện được các nạn nhân kể lại là nơi mà chấn thương bị “đóng khung” để nó không rơi vào hai hình thức triệt để hơn rất nhiều của cái chết –cái chết của chủ thể nạn nhân bởi cái biểu đạt của kẻ huỷ diệt (annihilator’s signifier) và “cái chết tượng trưng” (symbolic death) của nạn nhân[6].

Hai hình thức này của cái chết, như sẽ được bàn luận ở dưới đây, ứng chiếu với hai khái niệm của Lacan và theo sự phân tích của tôi, chúng được Đức quốc xã áp đặt lên các nạn nhân của mình, với mục đích hư vô hoá họ thậm chí trước cả khi thật sự giết họ. Những khái niệm này định nên một khung lý thuyết cho việc đọc và hiểu những thách thức hàm chứa được gắn trong những văn bản khơi nguồn từ chấn thương. Để xây dựng điểm tựa cho quan điểm của mình, tôi sẽ xem xét các văn bản thuộc nhiều thể loại khác nhau – bao gồm cả văn bản lý thuyết, văn chương và tư liệu. Trước hết, tôi sẽ xác lập một luận đề lịch sử -lý thuyết, rồi từ đó, trở về với vấn đề đặt ra ban đầu về quan hệ giữa chấn thương và tự sự. Tôi sẽ minh hoạ cho luận đề của mình bằng việc phân tích một đoạn trích từ nhật ký của một cô gái trẻ đuợc viết trong trại cải tạo lao động Greenberg.

Tôi xin được bắt đầu bằng sự kiện mà tôi gọi là “sự triệt huỷ của bản ngã bởi cái biểu đạt”.

Sự triệt huỷ của bản ngã

Ý niệm về bản ngã và sự triệt huỷ mà nó phải lãnh nhận trong và sau thời kỳ Holocaust đã được Theodor Adorno nói đến mạnh mẽ. Trong bài thuyết trình “Sự lỏng hoá của bản ngã” (The Liquidation of the Self”) trình bày ngày 15 tháng 7 năm 1965, ông đã lưu ý đến sự khó khăn khi bàn về siêu hình học sau những chấn động kinh hoàng của thế kỷ XX:

“Trước kinh nghiệm mà chúng ta vừa trải qua, không chỉ qua hiện tượng Auschwitz mà còn qua việc hình thức tra tấn đã được xem như một thiết chế vĩnh viễn và qua sự kiện bom nguyên tử – tất cả những điều này hình thành nên một kiểu mạch lạc, một sự thống nhất khủng khiếp – đối diện với những kinh nghiệm này, việc khẳng định cái gì tồn tại là có ý nghĩa và đặc điểm xác quyết vốn được gắn cho siêu hình học gần như không có biệt lệ nào, trở thành một sự nhạo báng; đối diện với những nạn nhân này, nó thực sự là một điều vô luân.”[7]

Sau đó, Adorno nhấn mạnh: hạt nhân trung tâm của sự khủng hoảng của tư tưởng siêu hình nằm ở khái niệm bản ngã: “Sự đổi thay mà chúng ta đang trải nghiệm trong siêu hình học, ở cấp độ cốt tuỷ nhất, chính là sự thay đổi trong bản ngã và cái đuợc xem là bản chất của nó.”[8] Tiếp đó, ông giải thích: “sự đồng nhất hoàn toàn con người với khái niệm về họ không là gì khác ngoài cái chết của họ.”[9] Theo Adorno, cái chết của bản ngã – hay ít nhất một trong hai hình thức chết mà nó phải nhận lấy – là do một bản sắc tĩnh tại trong mối quan hệ của chủ thể đối với khái niệm về anh ta/chị ta gây ra. Khi giữa khái niệm trừu tượng và “vật thật” (real thing) (con người cá nhân bằng xương bằng thịt) không còn khoảng cách nào, chủ thể phải đối mặt với một hình thức của cái chết[10].

Theo lộ trình lý thuyết này, dù có một khác biệt nhỏ về hướng đi, tôi muốn chỉ ra một cái chết tương tự mà Đế chế thứ ba đã áp đặt từ từ lên người Do Thái bằng việc ấn định một sự đồng nhất hoàn toàn giữa con người thực tế với những biểu trưng thể hiện họ. Ta có thể đi theo con đường vòng này đến cái gọi là “sự hòa tan cuối cùng” (final solution) thông qua những thực hành biểu nghĩa mà nhờ đó Đức quốc xã đã xóa bỏ thật sự khoảng cách giữa những người Do Thái và những biểu trưng bị áp đặt lên họ. Thông qua quá trình này, những biểu trưng để nhận diện người Do Thái càng ngày càng tiến gần hơn đến thân thể thực sự của họ cho đến khi người ta bị xăm lên thân mình những biểu trưng đó. Hơn thế, quá trình này ít nhiều diễn ra song hành với việc chính sách của nhà nước phát xít đối với người Do Thái càng trở nên cực đoan hơn.

Đánh dấu nạn nhân

Như chúng ta đều biết, phát xít Đức là những kẻ bị ám ảnh bởi các biểu tượng: cờ, ruy- băng, ký hiệu, các cuộc duyệt binh, đồng phục mit-tinh, phù hiệu là những thành tố nổi bật của hiện tượng Đức quốc xã. Tuy nhiên, có lẽ nỗi ám ảnh bởi các ký hiệu, biểu trưng này thể hiện rõ nét hơn cả qua việc Đức quốc xã đánh dấu các nạn nhân của mình, đặc biệt là những người Do Thái. Quá trình biểu nghĩa này, theo tôi, trải qua năm chặng chính:

Chặng đầu tiên đã bắt đầu từ lâu trước khi Đức quốc xã lên nắm quyền. Ở chặng này, cái biểu đạt “người Do Thái” đã bị biến thành cái biểu đạt chủ (master signifier)[11] mang tính phủ định đối lập với cái biểu đạt chủ mang tính khẳng định – “Aryan” – trong thế giới quan của Đức quốc xã. Sự đối lập nhị nguyên rạch ròi này được định vị ở trung tâm của ngôn ngữ Đức quốc xã và kiến tạo nên dải phổ ý niệm của nó[12].

Chặng thứ hai được ghi nhận bằng việc đánh dấu các cơ sở thương mại và tài sản của người Do Thái. Sự việc này diễn ra ngay sau khi phát xít Đức lên nắm quyền, không phải dưới sự chỉ đạo của một sắc lệnh chính thức, chính thông nào mà là một hành động “tự phát” khi vào ngày 1-4-1933, một lệnh cấm đối với tất cả các cơ sở thương mại của người Do Thái được ban bố và các sĩ quan Đức quốc xã ngăn người Đức bước chân vào tất cả các cửa hiệu này. Trong sự kiện này, từ “Do Thái” được viết trên tất cả các cửa hiệu và cơ sở thương mại của người Do Thái ở Đức[13].

Cũng đáng lưu ý là có những người đã xem sự kiện lệnh cấm ban hành ngày 1-4 như một sự kiện biểu nghĩa (event of signification). Trên tờ Juedische Rundschau ra ngày 27-4-1933, Robert Weltch đã viết: “Hãy đeo tấm phù hiệu màu vàng đó với niềm kiêu hãnh.” Mặc dù trên thực tế phải sau đó hơn tám năm (tháng 9 năm 1941), việc đánh dấu người Do Thái bằng một tấm “phù hiệu” mới được triển khai nhưng Weltch đã coi lệnh cấm ngày 1- 4 đối với người Do Thái có ý nghĩa như một sự trở về với thời kỳ tiền giải phóng (pre-emancipation) mà “tấm phù hiệu vàng” có giá trị như một biểu trưng. Do đó, ông đã ẩn ý kêu gọi người Do Thái hãy đeo tấm phù hiệu đó với niềm kiêu hãnh, nói khác đi, hãy chấp nhận định mệnh này một cách hãnh diện và luôn nhớ đến bản sắc dân tộc riêng biệt của mình. Điều khiến tôi chú ý đặc biệt ở đây là Weltch đã diễn đạt một cách hoa mỹ về bản chất của các sự kiện như thể với tấm phù hiệu vàng này, người Do Thái đã nhận lấy biểu trưng về tính cách Do Thái của mình[14].

Chặng thứ ba – giai đoạn biểu trưng tiến gần hơn đến thân thể – được ghi dấu bằng việc bổ sung một thành tố biểu nghĩa đối với người Do Thái trong các tài liệu chính thức của ho. Bắt đầu từ mùa hè năm 1938, tất cả người Do Thái bị bắt buộc gắn thêm một cái tên thứ hai, thể hiện rõ căn cước Do Thái trong cái tài liệu chính chính thức của họ – Israel đối với đàn ông và Sarah đối với phụ nữ. Chính sách này được làm căng khi vào ngày 5-11 cùng năm đó, tất cả hộ chiếu của người Do Thái đều bị đóng dấu chữ “J” để đáp ứng yêu cầu của chính quyền Thụy Sĩ nhằm ngăn chặn người Do Thái chạy trốn khỏi Đức quốc xã xâm nhập vào Thụy Sĩ[15].

Chặng tiếp theo là giai đoạn hết sức quan trọng – người Do Thái bị đánh dấu bằng một tấm phù hiệu thực sự, họ bị bắt buộc phải đeo nó trên trang phục của mình. Lại một lần nữa không có một sắc lệnh chung nào từ cơ quan trung ương; nó là một thứ luật lệ địa phương. Song cuối cùng và cũng tuân theo cùng một thứ logic chặt của Đức quốc xã, tất cả người Do Thái trong phạm vi chiếm đóng của Đức quốc xã đều bị đánh dấu.

Có hai điều đặc biệt đáng lưu tâm đã xảy ra trong quá trình đánh dấu này. Thứ nhất, cái biểu đạt được nâng lên đến cấp độ biểu tượng nhưng vẫn duy trì tính chất ngôn ngữ học của mình. Trong nhiều trường hợp, từ “Jew” – người Do Thái (trong nhiều ngôn ngữ khác nhau) hay chữ cái “J” được in trên phù hiệu[16]. Nhưng dữ kiện quan trọng hơn đối với sự phân tích của tôi là cái biểu đạt- tượng trưng (symbol-signifier) tiến rất gần đến thân thể – chỉ có quần áo mới ngăn cách thân thể với cái biểu đạt nó[17]. Trên thực tế, ở nhiều nơi, như ở Đức, việc đánh dấu người Do Thái là bước đầu tiên để tiến đến hủy diệt họ. Tháng 9-1941, ngay trước khi bị trục xuất về miền Đông, những người Do Thái còn lại ở nước Đức dưới thời kỳ Đế chế thứ ba đã bị bắt buộc phải gắn ngôi sao Do Thái lên áo khoác, áo vest, và áo sơ mi của mình[18].

Chặng thứ năm diễn ra từ năm 1942 cho đến năm 1944, khi Auschwitz – địa điểm điển hình cho ngành công nghiệp của cái chết dưới thời kỳ Đức quốc xã – ngừng hoạt động. Trong giai đoạn này, mỗi tù nhân đều bị xăm một số hiệu trên cánh tay mình. Đến đây, nạn nhân đã chạm đến – theo nghĩa đen hoàn toàn – bản sắc cụ thể hữu hình của mình với cái biểu đạt thực sự võ đoán.

Hải Ngọc dịch

Nguồn: Amos Goldberg, “Trauma, Narrative and Two Forms of Death”, Literature and Medicine 25, No. 1 (Spring 2006), 122-141.

[1] Về những cách thức khác nhau mà hai khái niệm này liên đới với nhau, xin xem “Chấn thương và những câu chuyện tự thuật” (Trauma and Life Stories), Rogers và nhiều người khác.

[2] Xem Caruth, “Kinh nghiệm không được thừa nhận” (Unclaimed Experience). Một điều tra về những cách tiếp cận tương tự và sự phê phán sắc sảo đối với cách tiếp cận của Caruth, có thể tìm đọc trong cuốn “Chấn thương” (Trauma) của Leys

[3] Xem Herman, “Chấn thương và phục hồi” (Trauma and Recovery) và Camon, “Những cuộc trò chuyện với Primo Levi”(Conversations with Primo Levi), trang 41-3. Phản hồi đối với trường hợp của Levi có thể tìm đọc trong cuốn “Văn học hay hay cuộc đời” (Literature or Life) của Semprun, trang 247-51.

[4] Xem Rimmon – Kenan, “Trần thuật như là sự lặp lại” (Narration as Repetition)

[5] Có thể tìm đọc “Viết lịch sử, viết chấn thương” (Writing History, Writing Trauma) của LaCapra và những bài viết khác của ông về chấn thương.

[6] Tôi đưa vào trong bảng phân loại này các tự sự tự thuật, tư liệu và hư cấu được kể lại bởi các nạn nhân. Bảng phân loại này sẽ bao gồm nhật ký, hồi ức, tự truyện, hư cấu mang dấu ấn tự truyện và các thể loại khác.

[7] Adorno, “Sự hoá lỏng của bản ngã” (The Liquidation of Self), 428. Vấn đề con người (“man”) đã được nhiều trí thức truy vấn riết róng sau chiến tranh. Có thể tìm đọc “Trại tập trung” (The Concentration Camps) của Arendt hoặc “Nếu đây là một con người” (If This Is A Man) của Levi.

[8] Ibid, 432

[9] Ibid 433

[10] Tham khảo nhận định tổng quát này của ông: “Nếu tư tưởng ko được xác định bởi sự tới hạn vượt quá khái niệm thì nhìn bề ngoài, chính bản chất của âm nhạc đã song hành cùng với phát xít Đức nhấn chìm tiếng thét của những nạn nhân của bọn chúng.” (Adorno, “Phủ định biện chứng”, (Negative Dialectics), trang 365)

[11] “Master signifier” có thể dịch rõ nghĩa hơn là “cái biểu đạt chủ nhân”. Đây là một từ khoá quan trọng trong lý thuyết của Lacan. Lacan chịu ảnh hưởng từ cách diễn giải của Alexandre Kojeve về “mối quan hệ biện chứng giữa ông chủ và nô lệ” mà Hegel trình bày trong “Hiện tượng học tinh thần”, theo đó, mối quan hệ biện chứng này là hệ quả tất yếu của nỗi ham muốn được nhận ra ở con người. Để được nhận ra, chủ thể phải áp đặt ý niệm của anh ta về chính bản thân mình lên chủ thể khác. Song chính chủ thể khác này cũng có ham muốn được nhận ra, vì thế y cũng làm điều tương tự, từ đó, chủ thể buộc phải dấn vào cuộc đấu tranh với kẻ khác. Cuộc đấu tranh để được nhận ra này nhất thiết phải là “cuộc đấu quyết tử” bởi lẽ chỉ khi dám liều mạng để được nhận ra thì người ta mới chứng tỏ mình là con người thực sự. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh, trên thực tế, buộc phải dừng lại khi một trong hai chủ thể giao tranh chết, vì sự nhận ra này chỉ được thừa nhận bởi một thực thể sống (living being). Do đó, cuộc đấu tranh này kết thúc khi một trong hai người từ bỏ ham muốn được nhận ra và đầu hàng kẻ kia; kẻ chiến bại sẽ thừa nhận kẻ chiến thắng như là “ông chủ” và trở thành nô lệ cho kẻ đó. Trên thực tế, xã hội con người chỉ khả hữu vì có một số người chấp nhận trở thành nô lệ thay vì đấu tranh đến chết; một cộng đồng toàn những ông chủ là bất khả.

Sau khi giành thắng lợi, chủ bắt nô lệ phải làm việc cho mình. Kẻ nô lệ lao động bằng sự chuyển hoá tự nhiên sao cho kẻ làm chủ có thể có thể tận dụng và tận hưởng thứ thành quả lao động đó. Tuy nhiên, đây không phải là thắng lợi tuyệt đối như có vẻ thế; mối quan hệ giữa chủ nhân và nô lệ là mối quan hệ biện chứng bởi vì nó dẫn đến sự phủ định vị thế riêng của từng chủ thể. Một mặt, sự nhận ra mà kẻ làm chủ giành được không làm cho y thoả mãn vì không phải là một người nữa công nhận y mà chỉ là một nô lệ, kẻ, đối với ông chủ, chỉ đơn thuần là một con thú hay một vật; do đó theo Kojeve, “người xử sự như một ông chủ không bao giờ cảm thấy mình thỏa mãn.” Mặt khác, kẻ nô lệ chỉ đền bù một phần cho sự thua cuộc của y mà thôi bởi vì bằng sự lao động, y đã nâng mình lên cao hơn tự nhiên bằng việc cải tạo nó, làm nó khác đi so với cái nó vốn là. Trong quá trình làm biến đổi thế giới, kẻ nô lệ đồng thời biến đổi chính bản thân và trở thành tác giả của chính số phận của mình, không giống như kẻ chủ nhân chỉ biến đổi thông qua sự hoà giải, dàn xếp (mediation) với lao động của nô lệ. Tiến trình lịch sử giờ đây là “sản phẩm của nô lệ lao động chứ không phải của ông chủ hiếu chiến” (Kojeve). Hệ quả của mối quan hệ biện chứng này, do đó, là nghịch lý, kẻ làm chủ kết thúc trong một “sự bế tắc hiện sinh” bất mãn trong khi đó, kẻ nô lệ lại có thể đạt đến sự thoả mãn thực sự nhờ “sự vượt qua theo tinh thần biện chứng” tình trạng nô lệ của mình.

Lacan đã lấy mối quan hệ biện chứng giữa ông chủ và nô lệ để minh họa cho nhiều luận điểm của mình, trong đó có lý thuyết về diễn ngôn. Trong sự thành lập công thức diễn ngôn của ông chủ, ông chủ ở đây chính là cái biểu đạt chủ (master signifier) – S­1, kẻ bắt nô lệ – S2 phải làm việc để tạo ra thặng dư – cái mà ông chủ có thể chiếm dụng cho mình. Cái biểu đạt chủ ở đây biểu hiện một chủ thể cho tất cả những cái biểu đạt khác; diễn ngôn của ông chủ do đó là nỗ lực muốn tổng thế hoá, bao gộp hết thảy. Song cố gắng này luôn thật bại bởi lẽ cái biểu đạt chủ không bao giờ có thể biểu hiện chủ thể hoàn toàn được; luôn có một phần dư thừa nào đó thoát khỏi sự biểu hiện. (N.D – dẫn theo Dylan Evans – An Introductory Dictionary of Lacanian Psychoanalysis, 108-109).

Nói vắn tắt hơn: Cái biểu đạt chủ là cái làm dừng lại quá trình trượt nghĩa của cái được biểu đạt bên dưới cái biểu đạt và cố định hoá nghĩa, từ đó hình thành nên một trật tự tượng trưng bền vững. Đó là cái biểu đạt đặc biệt bởi không có cái được biểu đạt và đại diện cho sự đầy đủ, trọn vẹn của ý nghĩa của hệ thống tượng trưng. Tuy nhiên, nó lại là cái tuỳ tiện và không thể bảo đảm được địa vị chủ soái của mình nếu không có sự bạo lực tuỳ tiện, võ đoán. Nó luôn bị ám ảnh bởi sự quay trở lại của cái Thực (Real) [ Về khái niệm Thực của Lacan, chúng tôi sẽ tiếp tục dẫn nhập trong phần dưới. ]

[12] Có thể thấy rõ điều này trong Mein Kampf của Hitler.

[13] Việc đánh dấu các cơ sở thương mại và cửa hiệu của người Do Thái đã được đảng viên cao cấp của Đức quốc xã nghĩ đến như bước đầu tiên tự nhiên và tất yếu mà giới lãnh đạo phải thực hiện trong những năm 1930. Những đảng viên cấp dưới đã gây áp lực đối với áp lực nhưng Hitler đã rất giận dữ. Y ý thức sâu sắc tầm quan trọng của của việc đánh dấu này nhưng y muốn mình là người duy nhất quyết định thời điểm để thực hiện một hành động như vậy. Hitler đã bộc lộ sự giận dữ của mình trong một hội nghị ở Gauleiters, ngày 29-4-1937. Một điểm thú vị là chính trong hội nghị này, Hilter đã biểu hiện mình một cách hết sức cực đoan như Saul Friedlander khẳng định: “Giọng điệu, lời lẽ, hình ảnh [của Hitler] chứa đựng một sự hung hãn, một sự đe doạ chết chóc mà người ta chưa từng nghe thấy bao giờ.” (Friedlander, “Đức quốc xã và người do Thái” – (The Nazi Germany and the Jews) – trang 188).

[14] Xin xem “Những tư liệu về Holocaust”, (Documents on the Holocaust), 44-7.

[15] Có thể nhắc đến hồi ký của Yolande Mukagasana, một nạn nhân sống sót sau thảm hoạ diệt chủng ở Rwanda. Trong hồi ký này, bà có trích một cuộc tranh cãi giữa hai anh em nọ về nguồn gốc sắc tộc của mình. Người đầu quả quyết hai anh em họ thực chất là người Tutsi trong khi người kia, một thành viên cực đoan của Đảng Hutu, khẳng định họ là người Hutu. Người thứ nhất cho rằng sự khác biệt giữa người Tutsi và người Hutu không phải là khác biệt sắc tộc mà là khác biệt về xã hội trong khi người kia đáp lại rằng anh ta nên nhìn vào chứng minh thư của mình và thấy rằng mình là người Hutu. Đọc thêm “Cái chết không muốn phần của tôi” (La mort ne veut pas de moi) của Musagana.

[16] Làm nhoà ranh giới giữa những cái biểu đạt ngôn ngữ học và các biểu trưng phổ biến, theo Victor Klemperer, là một đặc trưng của ngôn ngữ Đức quốc xã. Ví dụ mà ông đưa ra là trường hợp hai chữ viết tắt SS, vừa là cái biểu đạt ngôn ngữ học của Schutzstaffel (đơn vị phòng vệ) nhưng đồng thời cũng được viết như hai tia sét Ss. Xem Klemperer, LIT, trang 89-95.

[17] Cũng rất đáng lưu ý là một số chính quyền địa phương nhỏ đã bắt đầu tự ý đánh dấu người Do Thái trước cả khi chính quyền trung ương của Đức quốc xã ban hành bất cứ một sắc lệnh hay đạo luật nào (một sắc lệnh áp dụng đối với tất cả người Do Thái ở châu Âu chưa bao giờ được ban hành bởi bất cứ cơ quan trung ương nào ở Berlin). Điều này cũng giống như trường hợp ở Lodz, Rzeszow, Wloclaweck, và sau này ở Kalisz. Điều này có thể chứng minh việc đánh dấu người Do Thái là một khuôn mẫu quan trọng, tiềm tàng trong cách suy nghĩ của Đức quốc xã, nó được thực thi mà không cần các cấp lãnh đạo cao nhất thúc ép hay ra lệnh. Tuy vậy, việc này không diễn ra lâu trước khi có một sắc lệnh từ trung ương do Hans Frank (1900-1946, nguyên là luật sư làm việc cho Đức quốc xã, về sau là sĩ quan cao cấp của đế chế, bị kết án tử hình vào năm 1946 vì tội ác chồng lại loài người – N.D) đưa ra về việc đánh dấu người Do Thái trong tất cả các khu vực trên đất Ba Lan bị Đức chiếm đóng, vào ngày 23-11-1939. Mục đích của sắc lệnh này không được đề cập đếm nhưng Yisrael Gutman khẳng định, đó là biện pháp vượt xa tất cả các hình thức cô lập người Do Thái. Xem thêm Gutman, “Người Do Thái ở Vac-sa-va” (The Jews of Warsaw), 29.

[18] Xem thêm Browning, “Nguồn gốc của sự hoà tan cuối cùng”, (The Origins of the Final Solution), trang 318-20. Việc này được đề xuất bởi Joseph Goebbels và được Hitler chấp thuận vào ngày 19-8-1941. Xem thêm Browning, trang 371.

truyện ngắn – Maxim Biller (nhà văn Đức)

Maxim Biller
Con voi bằng gỗ gụ

bf80

Tìm kiếm thông tin về Maxim Biller trên Google, chỉ thấy rất ít những thông tin bằng tiếng Anh. Ông là nhà văn Đức, sinh năm 1960, hiện đang sống ở Berlin. Năm 2003, cuốn tiểu thuyết Esra của ông gây chú ý vì bị thu hòi ngay sau khi phát hành, bởi những đụng chạm liên quan đến những nhân vật có thật ngoài đời.

Nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng lắm. Cái khiến tôi thích thú khi đọc và rồi quyết định dịch truyện này chính là ở “The Mahogany Elephant”, có cái gì đó gợi người ta nhớ đến Hemingway, Raymond Carver… những tác giả điển hình cho khuynh hướng minimalism trong văn xuôi Mỹ. Một lối viết tiết chế tối đa, với sức dồn nén lớn trong những đối thoại tưởng chừng rất vụn vặt, nhạt nhẽo Maxim Biller cũng thừa nhận ảnh hưởng sâu đậm của văn học Mỹ đối với ông. Ông nói những truyện tình mà ông viết đều buồn, nhưng cũng luôn lạc quan. Tôi cũng nghĩ thế khi đọc truyện này.

*
Anh đã chờ đợi nàng ba tháng. Anh chọn lọc những tấm hình của mình, sắp xếp lại những cuốn sách của mình, di chuyển đồ đạc xung quanh, và rồi anh lại tiếp tục chờ đợi. Sau đó, anh đọc tất cả những thư từ mình từng nhận được và vứt đi gần như tất cả mớ thư từ ấy, rồi anh mua một tấm bản đồ Ấn Độ khổ lớn và treo nó trên giường. Mà nói đúng hơn, anh không mua một tấm bản đồ Ấn Độ, đấy chỉ là điều mà anh thực sự muốn làm trong khi chờ đợi vậy thôi. Anh cứ chờ đợi, và chờ đợi, và anh bắt đầu viết một câu chuyện về việc chờ đợi nàng, song anh không biết nó sẽ kết thúc thế nào, vậy nên anh dừng. Cuối cùng, anh chẳng làm gì cả; thậm chí anh cũng không chờ đợi nữa. Anh ngủ ít dần đi, anh không ăn gì cả ngoài bánh mì, cà chua và pho mát vàng mua ở siêu thị, rồi cuối cùng, nàng trở về. Họ ngồi bên nhau trên sofa và nàng nói: “Một khoảng thời gian dài đấy nhỉ!”

Ừ,” anh nói, mặc dù trước đó anh đã quyết chắc: nói càng ít càng tốt. “Một khoảng thời gian rất dài.”

Nàng gầy đi sau những chuyến du lịch của mình, nhưng anh không nghĩ nàng trông khá hơn trước đó. Nàng mệt mỏi, nhưng nàng thì có bao giờ không mệt mỏi, nàng đã đi du lịch để có thể thoát khỏi cảm giác mệt mỏi triền miên này, nhưng giờ, khi trở về, nàng vẫn mệt mỏi. Và nàng đã trở nên già hơn. Già hơn, hay thô cứng hơn, hay nghiêm túc hơn – anh không chắc là điểm nào. Có một vết xám trên làn da rám nắng của nàng, cái vết mà người ta thường chỉ thấy ở những phụ nữ già hơn. Nụ cười của nàng quá đỗi nghiêm nghị và tư lự, gò má của nàng thậm chí còn nhô cao hơn cả ngày trước.

Nàng đứng dậy và rời khỏi phòng. Khi trở lại, nàng cầm một chiếc túi sáng màu trong tay.

“Tặng anh,” nàng bảo.

“Cảm ơn em yêu,” anh nói. Anh mở chiếc túi ra. Có một con voi nhỏ bằng gỗ gụ màu đen, béo ú trong đó.

Anh nhét con voi vào túi áo mình.

“Em uống gì chứ?”

“Một chút nước.”

“Anh đã mua vang cho em.”

“Không, nước thôi.”

Anh từ từ đứng dậy, chân anh sượt qua chân nàng. Ngoài nụ hôn chớp nhoáng lúc nàng đến, đây là sự tiếp xúc cơ thể đầu tiên giữa hai người trong ba tháng.

“Chỉ nước suông thôi sao?” Anh hỏi vọng ra từ bếp nhưng nàng không đáp lại. “ Uống lạnh hay bình thường?” anh hỏi và nàng nói vọng vào một cách điềm tĩnh, “Bình thường”.

Anh lôi một két nước từ tủ ra, sau đó lại lấy chân đẩy nó vào, rồi anh mở chai rượu vang để trên bàn trong phòng bếp suốt sáu tuần qua. Anh nhặt lấy hai chiếc ly và cầm chai rượu; trước khi quay trở lại phòng khách, anh lấy con voi từ túi áo ra và vứt nó vào sọt rác.

“Jordi,” nàng nói, “Em đã không muốn uống rượu.”

“Ừ,” anh tán đồng. “Vẫn còn quá sớm để uống rượu.”

“Em đã không uống một chút nào khi em ở đó,” nàng bảo.

“Thật tiếc,” anh nói.

“Không, em không nghĩ vậy.”

“Anh lại nghĩ đấy là điều đáng tiếc.”

Anh rót rượu cho mình, rồi cho nàng, và họ cụng ly. Nàng không nhìn vào mắt anh, nàng chỉ nhấp một ngụm nhỏ trước khi vào trong bếp kiếm một chai nước. Rồi nàng trở lại, ngồi trên ghế sofa, cách xa anh như lúc trước đó, và bắt đầu kể về những chuyến du lịch của mình – nhưng anh chỉ ngồi yên nghe. Trong thời gian nàng đi xa, anh vẫn luôn cố hình dung xem vào lúc đó nàng đang ở đâu, nơi đó như thế nào, nhưng bây giờ, anh không thể nghĩ ít hơn về Ấn Độ được; anh chỉ muốn biết quyết định của nàng. Dĩ nhiên, anh đã biết quyết định đó rồi, nhưng anh muốn nghe từ chính miệng nàng. Anh muốn nàng phải chịu đựng một chút, anh muốn nàng phải nói ra điều đó và cảm thấy khổ sở khi làm anh thương tổn. “Không,” nàng sẽ nói. “Chúng ta sẽ không cưới nhau, Jordi. Em biết đó không phải là điều em muốn lúc này, thế nên chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa, như cách mà hai ta đã thỏa thuận.”

“Em có nhớ anh không?” anh hỏi

“Không, Jordi ạ” nàng nói. “Em không nhớ anh.”

“Tất nhiên là không rồi,” anh nói và gật đầu.

“Anh có giận không?”

“Không.”

“Em mừng vì điều đó.”

“Tốt.”

“Anh chắc là anh không thấy giận chứ?”

“Chắc.”

Anh nhìn ra cửa sổ. Hồi nàng ra đi, anh vẫn còn có thể nhìn qua quảng trường về phía nhà thờ của Hội Thánh Tin Lành Zion. Giờ, những cái cây đã trổ lá xum xuê và tất cả những gì anh có thể nhìn thấy từ cửa sổ chỉ là những chiếc lá lớn xanh ngắt thật tuyệt vời đó. Những chiếc lá đong đưa qua lại trong gió khiến Jordi liên tưởng đến những đám rong biển dạt trôi trên đại dương.

Có lẽ là vì họ đã không gặp nhau quá lâu. Khoảng thời gian hai người không gặp nhau dài gần bằng khoảng thời gian họ quen biết nhau! Anh đặt tay lên lưng sofa phía sau nàng và để yên đó vài phút, nhưng rồi anh lại bỏ tay xuống. Cánh tay anh cũng chẳng cảm thấy chắc chắn về nó nữa.

“Còn anh?” Nàng hỏi.

“Anh ư?”

“Anh đã làm gì?”

“Tại sao em không gọi?” anh nói. “Không một lần trong suốt ba tháng.”

“Nhưng anh đã biết rồi còn gì,” nàng nói, thoáng chột dạ. “Đấy là thỏa thuận của chúng ta, đúng không nào?”
Nàng nói đúng. Thậm chí nàng đã chẳng nói: “Giả sử em ở luôn đó?” Và anh cũng đã nói, được, không sao, nàng là một nhân viên tự do, và nếu họ không bao giờ nói với nhau một lời nào nữa thì cũng được. Nhưng anh nói thế chỉ vì tính toán, bởi anh biết nàng là người tuổi Dương Cưu – và vậy thì hãy thử nhốt giữ một con cừu đực xem sao!

“Có một câu chuyện về con voi đó,” nàng nói. Rồi ngừng lại, đợi xem anh hỏi câu chuyện đó thế nào, nhưng tất cả những gì anh có thể nghĩ chỉ là làm thế nào để lấy con voi ra khỏi sọt rác mà không để cho nàng trông thấy.

“Đó là con thứ tư,” nàng bảo, “Thật đấy, đó là con thứ tư, em thề.”

Anh không nói gì. Rồi anh vào bếp, và trước khi quỳ xuống lục lọi cái sọt rác, anh quay lại, để yên tâm rằng nàng không nhìn thấy.

“Em đã để mất ba con đầu!”, nàng nói vọng vào từ phòng khách. “Anh tưởng tượng được không – cả ba con? Anh có nghĩ điều đó có một ý nghĩa nào đó không?”

Anh sục sạo cái sọt rác như điên như rồ nhưng không thể nào tìm thấy con voi. Anh vục bàn tay trần của mình mỗi lúc một sâu hơn vào đống cặn bã ướt nhẹp, hôi thối, và rồi anh đổ hết mọi thứ trong sọt rác ra sàn bếp

“Em biết con này xấu!”, nàng nói tiếp. “ Em mua nó ở sân bay Bombay. Đáng lẽ anh được nhìn thấy những con kia cơ. Chúng thật sự xinh xắn!”

Anh không thể tìm thấy nó. Anh quỳ xuống, toát mồ hôi, với đống rác rưởi cặn bã của cả ba ngày đổ ra trên sàn nhà quanh anh, và bỗng nhiên anh nhận ra mình rồ dại như thế nào. Anh nghĩ, nếu nàng nhìn thấy cảnh tượng này, nàng sẽ nghĩ mình hoàn toàn điên rồ, và anh bắt đầu gom nhặt lại chỗ rác thải đó, nhồi vào trong túi đựng rác.

“Thật sự thì, điều đó không đúng. Em không muốn mang bất cứ một thứ gì về cho anh cả.” Nàng đã đứng đằng sau anh. “Đơn giản là em đã quên anh.”

Anh quay đầu lại và nhìn nàng từ dưới lên. Nàng lùa tay vào mái tóc của anh và nói, “Thế rồi em lại nhớ anh ở Bombay, lúc ở sân bay ấy… Có chuyện gì vậy? Anh quẳng nó đi rồi à?”

“Ừ,” anh nói.

“Vậy thì chúng ta sạch nợ với nhau,” nàng nói. Nàng quỳ xuống bên anh và giúp anh dọn chỗ rác lại. Việc cũng sớm xong, rồi họ cùng rửa tay trong phòng tắm, hai người nhìn nhau qua gương và mỉm cười.

“Anh làm ơn ra ngoài được không?” nàng nói,

Trước đây, nàng không bao giờ thấy ngượng khi ngồi trên toilet trước mặt anh. Mặc dù anh thực sự chẳng thích điều đó, nhưng anh chẳng biết lấy cớ gì để nàng không tống anh ra ngoài bây giờ. Anh khép lại cánh cửa sau mình và đi vào phòng khách. Anh ngồi trên sofa nhưng chỉ ngay phút sau, anh đứng lên và mở một đĩa nhạc. Đó là cái CD mà họ đã cùng nhau nghe vài lần, vì thế anh nhanh chóng tắt nó đi. Anh lại ngồi xuống sofa và nhìn ra cửa sổ, nhìn những chiếc lá to, xanh ngắt đong đưa trong gió, và rồi anh cảm thấy không đến nỗi tệ sau tất cả mọi chuyện. Như thể là anh, chính anh vừa mới trở về sau một chuyến đi, một chuyến đi rất hay, nhưng cũng vất vả; mà nói thực tình thì hết sức mệt mỏi. Và giờ đây anh đã trở về, anh sung sướng khi không phải đi nữa, sung sướng khi anh có thể chỉ ngồi yên ở đây, nơi anh đã ngồi suốt bao nhiêu năm, nhìn ra cửa sổ, thích thú ngắm những chiếc lá to, xanh ngắt, đợi nó rụng xuống để anh có thể nhìn thấy ngôi
nhà thờ sau rặng lá và sung sướng khi nghĩ rằng rồi chẳng mấy nỗi, lá lại mọc lên.

Trước khi nàng đi, họ đã thử làm chuyện ấy trên sofa một lần. Không, mà là anh đã thử; ban đầu nàng đã đồng ý làm việc đó nhưng sau đó, bất ngờ, nàng vắt chéo tay ôm lấy bộ ngực trần của mình. Anh mơn bàn tay nơi bụng nàng và nàng khít chặt đùi mình lại. Anh quay đi, thất vọng và nàng bảo thật kinh tởm khi anh trừng phạt nàng như thế. Sau khi chuyến bay của nàng cất cánh, anh có gửi cho nàng một bức điện xin lỗi, và có lẽ nàng đã đọc được bức điện ấy khi máy bay dừng ở Zurich, hoặc cũng có thể không.

Nàng sẽ ngồi trong toilet thêm bao lâu nữa? Nàng thường làm việc này rất nhanh – anh luôn ngạc nhiên vì nàng mất rất ít thời gian để làm việc này – nhưng nàng rất thường xuyên vào toilet. Cũng có đôi khi anh vào trong đó thường xuyên nhưng chỉ khi anh thấy căng thẳng mà thôi, mà như thế nghĩa là phải chăng nàng cũng luôn căng thẳng? Hôm nay thật khác lạ, đây là lần đầu tiên nàng vào trong phòng tắm kể từ lúc đến đây và nàng đã ở đây hai tiếng rồi. Vậy thì hôm nay nàng không căng thẳng như mọi hôm! Ngay khi ý nghĩ ấy nhen lên trong đầu, anh bỗng cảm thấy căng thẳng và muốn vào trong phòng tắm.

Anh ngồi trên sofa một lúc, đợi. Mười phút trôi qua, và anh không thể đợi thêm được nữa, anh đi đến phòng tắm. Cửa đóng, vì thế anh gõ cửa nhưng không có tiếng đáp lại. Anh lại gõ, to hơn, và lần này anh nghe thấy nàng.

“Em ở đây,” nàng đáp một cách điềm tĩnh.

“Ở đâu?”

“Đây,” giọng của nàng thậm chí còn điềm tĩnh hơn.

Nàng ở trong phòng ngủ. Nàng nằm trên giường, vẫn mặc nguyên quần áo, và khi anh bước vào, nàng nói, “Thôi được, chúng ta cưới nhau đi.” Nàng nằm đó, vẫn mặc nguyên quần áo, và khi nàng trở mình, nàng gác đầu lên gối và vùi tay dưới đó. Nàng nhìn anh một cách nghiêm nghị và buồn bã.

Hải Ngọc dịch
Nguồn: Maxim Biller, “The Mahogany Elephant”, Anthea Bell dịch từ tiếng Đức, in trên The New Yorker, 25-06-07.

truyện ngắn – Lara Vapnyar (nhà văn Mỹ gốc Nga)

Lara Vapnyar

Những hồi ức về một nàng thơ

feb8
*
Lara Vapnyar, sinh năm 1971, nhà văn Mỹ gốc Nga và viết bằng tiếng Anh. Cô đã xuất bản tập truyện “Những người Do Thái trong nhà tôi” (There are Jews in my house). Hiện cô đang bắt tay vào viết một tiểu thuyết.

*

Hồi còn bé, tôi đã từng nghĩ rằng bà vợ thứ hai của Dostoyevsky, Anna Grigorievna, chính là nàng thơ của ông. Tôi biết câu chuyện về bà trước khi biết được bất cứ một điều gì khác về Dostoyevsky, thậm chí trước cả khi được đọc bất cứ một tác phẩm nào của ông.

Khi tôi năm tuổi, cha bỏ hai mẹ con tôi để cưới một người phụ nữ khác, một người đàn bà cao lớn với bờ vai ngang tên là Maya. Không lâu sau đó, cha tôi qua đời. Với mẹ con tôi, cái chết của cha là một sự phản bội hai lần. Khoảng thời gian đó, những bức ảnh của các nhà văn Nga nổi tiếng bắt đầu được dán đầy trên tường của căn phòng mẹ tôi, chúng dần dần thay thế cho những bức ảnh của cha tôi ghi lại hình ảnh của ông lúc đang kéo chiếc cần câu rất căng lên khỏi mặt nước hay khi ông đang đứng nhìn ống nhòm bên bờ biển, giữa những con sư tử biển béo mập, da bóng nhẫy,.

Chưa bao giờ tôi thích chân dung của Tolstoy cả. Ông ta trông giống như ông già Noel keo kiệt- người chẳng bao giờ đem đến một cái gì hay ho, khi nào cũng chỉ để lại một chiếc khăn đan len hay một đôi tất dưới cây Noel mà thôi. Thuở nhỏ, tôi tin là có hai ông già Noel: họ là hai anh em. Ông già Noel tốt bụng bao giờ cũng để lại những chiếc hộp xinh xắn đựng đầy những búp bê hay đồ hàng của búp bê. Còn ông già keo kiệt thì chỉ tặng tôi những bộ quần áo mà rồi thế nào mẹ cũng mua cho tôi.

Tôi cũng không thích chân dung Chekhov. Có điều gì đó đáng ngờ trong nụ cười mím miệng và chiếc kính kẹp mũi của ông ta. Dường như ông ấy biết được một chuyện nào đấy mà tôi muốn giấu. Chẳng hạn ông ấy biết chuyện về cái bình mà Maya rất yêu quý, cái bình mà chính tôi đã làm vỡ, sau đó đã cẩn thận vứt những mảnh vỡ đi rồi vờ như không hề biết gì về nó. Thật sự tôi hoàn toàn không thích Chekhov.

Còn Pushkin… Pushkin thì cũng bình thường. Ông ấy có lẽ là một người đẹp trai nhưng không có tướng nhà văn lắm.

Chỉ có Dostoyevsky là người mà tôi yêu mến. Ông ấy có bàn tay cứng cáp, có một vầng trán rộng, tưởng chừng muốn bục khỏi lớp da của ông vậy. Đôi mắt của ông thật nghiêm nghị, đôi mắt ấy nhìn thẳng vào tôi, không hề giấu diếm, không cần tỏ vẻ khôi hài giả tạo như những người lớn khác.

“Dostoyevsky có hai con mắt khác nhau”, mẹ tôi nói vậy khi một lần bà bắt gặp tôi đang chăm chú nhìn ông. “ Một con mắt của ông ta có màu nâu trong khi con mắt kia lại có màu đen”.

“Hai con mắt khác nhau!” Tôi sửng sốt nhắc lại lời mẹ, tôi hỏi mẹ xem ông ấy có vợ không. Mẹ bảo:

“Ông ấy chết rồi. Nhưng hồi còn sống, ông ấy có một bà vợ. Tên của bà ấy là Anna Grigorievna”.

Tôi thích cái tên ấy. “Bà ấy có tốt không mẹ?”

“Ồ, bà ấy là người rất tốt. Bà ấy đã chăm sóc Dostoyevsky cực kỳ tử tế. Khi ông ta cảm lạnh, bà ấy pha trà cho ông, ủ đầu gối ông bằng tấm chăn len”.

“Con cũng có thể làm thế được”. Tôi nói.

Và tôi tưởng tượng Dostoyevsky đang ngồi cùng bàn ăn tối với những con búp bê của tôi. Tôi biết chuẩn bị món cháo mạch cho lũ búp bê, cho chúng uống trà. Tôi sẽ trải một tấm khăn ăn lên đùi Dostoyevsky, bón cháo mạch cho ông, rót trà cho ông uống, rồi đặt ông lên giường. Tôi sẽ quấn một tấm chăn và khi nào cần, tôi sẽ lấy cái nhiệt kế đồ chơi của mình để đo nhiệt độ cho ông.

Dostoyevsky đã ăn sâu vào trí tưởng tượng của tôi như thế – một nhà văn đã chết, người có hai con mắt khác nhau và một bà vợ rất tốt – cho đến khi tôi lên mười, năm ấy, bà ngoại, sau một trận đột quỵ, đã chuyển đến sống cùng hai mẹ con tôi. Từ đó, tôi được biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời của ông.

“Tên của ông ngoại cháu là Fyodor Mikhaylovich, cũng giống với tên của Dostoyevsky. Dostoyevsky là một kẻ điên rồ nhưng ông ngoại cháu thậm chí còn điên rồ hơn !” Một lần đứng cắt tóc cho bà, tôi được bà cho biết điều này.

Đến lúc đó, tôi cũng chỉ mới biết làm trò cắt xén những sợi tóc quăn đã trở nên tả tơi của lũ búp bê mà thôi, nhưng bà ngoại cứ luôn than phiền rằng mái tóc dài làm cổ bà lúc nào cũng ngứa ngáy, thế nên cuối cùng mẹ đã quyết định giao cho tôi việc cắt tóc cho bà. “Con là đứa khéo tay mà”, mẹ bảo thế. Hiếm khi nào tôi lại tỏ ra khó chịu trước những lời khen ngợi mình ra mặt như vậy và thế là một hôm, tôi lấy kéo ra khỏi ngăn bàn, dịch một chiếc ghế đến sát mép giường, dìu bà đến chỗ đó, tay đỡ lấy người bà. Bà nặng khủng khiếp cho dù nhìn bề ngoài trông bà như thể người không trọng lượng. Sau hàng tháng trời nằm liệt trên giường, dường như sức lực của bà đã bị rút kiệt không còn gì. Tôi có cảm giác bên trong cơ thể của bà chỉ còn sự trống rỗng, sờ vào người bà chỉ thấy xương xẩu lạo xạo dưới lớp da héo quắt, không khác gì những mẩu ghép hình bằng gỗ đựng trong chiếc túi vải bạt của tôi. Tôi trải một tấm một tấm khăn lên vai bà, tháo cái bờm tóc màu xanh của bà ra, rồi chải, cố gắng làm sao không để chạm vào da đầu bà. Da của bà, mặc dù ấm, nhưng mềm mềm như da người chết. Tôi hình dung nếu mình ấn tay vào đó, ngón tay mình có khi sẽ thọc xuống một vùng tối tăm nào đó, chạm đến một nơi còn nằm sâu hơn cả cơ thể bà nữa.

Sau cơn đột quỵ, bà tôi cứ liên tục hết điên lại tỉnh, thường xuyên bà sống trong trạng thái bất thường kỳ quặc mà tôi đành gọi là “nửa điên nửa tỉnh”. Lúc đó đầu óc bà hầu như là minh mẫn: bà không nhầm tên chúng tôi, bà cũng chẳng lang thang đi đâu cả hay lấy dĩa để ăn súp. Suốt ngày bà chỉ nằm trên giường với cuốn sách đặt trên ngực – cuốn sách yêu thích của bà, nhật ký của Anna Grigorievna Dostoyevskaya. Trông bà lúc đó hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, những ai biết rõ về bà vẫn có thể nhận ra dấu hiệu của tình trạng thần kinh bất bình thường ở bà. Đó chính là thói ham kể lể của bà, cái bệnh ham nói này chẳng cho bà được nghỉ ngơi, lúc nào nó cũng làm bà phải nói liên tục những lời tự thú buồn vui thất thường, khiến bà luôn luôn thèm có người nghe chuyện. Ông ngoại đã quá cố của tôi, người mà hiếm khi nào tham gia những cuộc chuyện trò trong nhà, là nhân vật chính trong những câu chuyện của bà – ông và một quý ngài khác cũng mang tên Fyodor Mikhaylovich – Dostoyevsky. Cả hai người đều hiện diện như những nhân vật trí tuệ và nhẫn tâm.

“Dostoyevsky là một kẻ tệ bạc, cực kỳ tệ bạc,” bà tôi thốt lên khi tôi đang lấy kéo. “Lão đã hành hạ bà vợ khốn khổ của mình một cách quá đáng! Mà bà ta là nàng thơ của lão đấy. Không có bà ấy, lão ta đừng hòng viết được cái gì.”

“Cháu biết tên của bà ấy. Tên của bà ấy là Anna Grigorievna.” Tôi nói với bà.

“Anna Grigorievna. Đúng rồi. Ôi, bà ấy đã bị lão ta hành hạ khổ sở làm sao! Lão ta đã lấy hết tiền đem đi đánh bạc, thế mà lão lại còn trở về để lấy thêm nữa chứ. Nhưng tất nhiên lúc đó nhà của họ đâu còn cái gì nữa đâu, vậy là lão đem cầm cố tất cả những gì đáng giá của bà vợ, cốt sao có tiền để lại ném vào sòng bạc. Lão đã lấy đi nào nhẫn, nào khuyên, nào khăn choàng của vợ, có lần, còn đem bán cả giầy, cả váy của bà ấy, thế là bà ấy thậm chí không thể đi cửa hiệu được.”

“Nhưng đi cửa hiệu để làm gì cơ chứ khi mà ông ấy đã đem hết tiền của nướng sạch trong sòng bạc rồi?”

“Có lẽ là bà ấy hi vọng có thể gặp một người bán hàng tử tế cho bà mua chịu. Hoặc cũng có thể bà ấy chỉ muốn đi xem hàng hoá mà thôi.” Bà trả lời. “ Và khi Dostoyevsky trở về, chẳng những không hề nói xin lỗi, lão còn lớn tiếng quát tháo bà vợ vì đã không dọn bữa ăn phụ đúng giờ!”

‘Thế Anna Grigorievna có cãi lại ông ta không bà?”

“Không bao giờ. Bà ấy xin lỗi vì chưa chuẩn bị được bữa ăn phụ cho lão ta. Cháu thấy đấy, bà ấy cực kỳ tử tế.”

“Được rồi, bây giờ bà hãy nhắm mắt lại nhé.”

Tôi để lớp tóc mái để dài của bà xoà trước trán và lách mũi kéo lên phía trên lông mày, cấn thận không để khía vào da bà. Khi bà nhắm mắt lại thì dễ quan sát bà hơn. Lúc ấy trông bà dịu dàng hơn, có sinh khí hơn, không khác lắm so với một người bình thường.

“Nhưng bà biết rồi đấy, Dostoyevsky là một thiên tài. Mà thiên tài thì ai cũng điên điên hết cả.” Tôi nói.

Bà he hé ngước một con mắt lên từ phía dưới bàn tay tôi, để lộ một ánh nhìn tinh quái, lấp lánh.

“Đúng thế! Bọn họ! Tất cả bọn họ đều là những kẻ điên rồ chết tiệt!” Bà thốt lên. “Bọn chúng ta không bao giờ biết được phải làm thế nào để bọn họ vừa ý. Bọn ta nghĩ mình có thể chiều được bọn họ. Ta cố gắng để ý những thứ mà bọn họ thích. Nhưng bọn họ thất thường như thời tiết- sở thích của bọn họ thay đổi như chảo chớp. Ta đem trà với đường và kem – những thứ mà bọn họ ưa- để hầu bọn họ, riêng kem ta còn vừa mới đi ra ngoài mua, lòng đầy hăm hở nghĩ rằng mình đã dành cho bọn họ một thứ đặc biệt- thế nhưng bọn họ đã đối xử ra sao? Bọn họ quát tháo bảo bọn họ muốn cà phê và chanh cơ. Ta những muốn hất cả tách trà vào mồm bọn họ rồi đập cả cái tách lên đầu họ cho đến khi nó vỡ ra thì thôi, thế nhưng bọn ta lại không làm thế. Bọn ta xin lỗi. Rồi khi bọn họ về nhà với bộ dạng say khướt, áo quần bốc mùi nồng nặc – thật đấy, bọn họ còn bĩnh cả ra quần- bọn ta cũng không tống cổ họ ra khỏi nhà. Ta dìu họ vào nhà, cởi quần áo cho họ, lau chùi cho bọn họ rồi đặt họ lên giưòng. Sau đó ta đến phòng tắm công cộng để giặt quần lót của bọn họ. Đó không phải là việc dễ làm đâu, cháu gái à, giặt những chiếc quấn lót bê bết phân giữa một lũ hàng xóm xung quanh nhìn ngó, vừa bịt mũi vừa la lối vì không thể nào chịu đựng được mùi thối, việc đó không dễ đâu. Thế nhưng chúng ta vẫn làm việc đó vì bọn họ, biết làm thế nào khác?”

Bà không ám chỉ đến Dostoyevsky trong câu chuyện đó đấy chứ?

“Chúng ta phải làm cái việc ghê tởm đó vì ai cơ bà ?” Tôi hỏi. “Ai đã bĩnh vào quần họ vậy?”

Hai con mắt của bà khuất sau lớp tóc loà xoà lúc này mở lớn như mắt của những con thú linh lợi.

“Bọn họ chứ ai nữa! Những kẻ thiên tài ấy!”

Cơn tổng sỉ vả đó khiến bà như hết hơi. Bà nhắm mắt lại, gục đầu xuống, ngồi yên không động đậy- một tư thế thuận tiện để tôi có thể cắt lớp tóc trên đỉnh đầu của bà. Tôi hoàn thành công việc một cách lặng lẽ, cố làm sao để giữ mái tóc bà suôn bằng. Tuy vậy, cũng đến lúc một đứa trẻ mười tuổi cả tin phát hiện ra rằng lời người khác khen mình nhiều khi cũng chẳng đúng sự thật. Đến cuối buổi, tóc của bà tôi biến thành một mớ bùng nhùng. Tôi cố gắng làm nó bằng phẳng trở lại nhưng lại cắt quá sát da đầu bà. Khi bà tôi ngẩng đầu lên và mở mắt ra, trên cái đầu trụi của bà chẳng còn gì ngoài mấy sợi tóc vàng – trắng lơ thơ rung khe khẽ. Cùng với cái mũi khoằm và cái cổ gầy nhẳng bởi ốm đau, trông bà chẳng khác nào một con gà con cả. Một con gà con ốm yếu. Đúng hơn phải nói, một con gà con vừa già vừa yếu nếu quả như có tồn tại một sinh vật như vậy. Bà lắc lư cái đầu từ bên này sang bên kia rồi gật gù. “Đẹp và mát mẻ đấy,” bà bảo.

Sau ngày tôi tròn mười lăm tuổi không lâu, bà ngoại tôi qua đời, bỏ lại một cái giường không và một đống hộp thùng lỉnh kỉnh mà sau đám tang, mẹ tôi đã nhét tất cả những gì liên quan đến bà vào đó – quần áo thì đựng trong một cái hộp lớn, giấy má cho vào một cái hộp nhỏ còn tất tật những thứ còn lại khác thì đem bỏ vào một cái hộp vừa vừa. Một cảm giác nặng nề, buồn nôn – mùi của cái chết – vẫn còn lờn vờn trong nhà tôi khá lâu sau khi thi hài của bà tôi được đem đi. Thi thoảng nằm trên giường cố dỗ mình ngủ, tôi vẫn có cảm giác như nghe thấy tiếng rên của bà phía bên kia tường, lúc thì than vãn, lúc thì gọi người đến giúp. Những lúc như thế, tôi chỉ còn biết trùm kín chăn và vùi đầu dưới gối mà thôi.

Cho đến một lần khác, lần này tôi nghe thấy những tiếng rên rất thật, vọng từ phía cầu thang, tiếng rên của cô gái hàng xóm sống kế bên nhà tôi. Cô gái ấy chỉ hơn tôi hai tuổi, nhưng cô sống một cuộc sống rất khác. Độc lập. Bất cần. Cứng cỏi. Cô ấy là nhân viên đang thử việc tại siêu thị và có thể mua quần áo cũng như đồ trang điểm bằng tiền mà chính cô kiếm được. “Biến đi, đồ nhãi”, cô ta quát bố mình như thế, đúng cái cách mẹ cô rủa xả chồng mình. “Bà câm đi, mụ già”, cô ta cũng lớn tiếng với mẹ mình như vậy khi hai mẹ con tranh cãi với nhau. Bọn họ tranh cãi với nhau như hai kẻ bằng vai phải lứa, không như tôi cứ phải nước mắt ngắn nước mắt dài thanh minh mỗi khi mẹ đổ tội cho tôi về một việc gì đó. Cô gái hàng xóm trông cũng chẳng có điểm nào giống tôi. Cô ta nhìn như là đã ba mươi tuổi rồi ấy, mẹ tôi nhận xét. Còn tôi thì trông như mới mười hai tuổi. Có lẽ thậm chí còn ít hơn thế nữa. “Con Tanya như là không có ngực ấy”, bọn con gái ở trường đã xì xào sau lưng tôi như vậy.

Suốt một năm, cứ thứ tư và thứ sáu, độ mười hay mười một giờ đêm, cô gái hàng xóm lại trở về cùng với một chàng trai. Vừa nghe thấy chuông thang máy reo trên tầng nhà nơi tôi ở, tôi vội vã chạy ra phòng trước, áp mặt vào cánh cửa gỗ lạnh lẽo nhìn qua lỗ hổng. Cô ấy đấy – bước ra từ thang máy, mắt nhắm hờ, chiếc áo khoác mùa đông không cài, và cơ thể của chàng trai ghì sát lấy cô gái từ phía sau. Họ dìu nhau ra phía cầu thang và tựa vào thành cầu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mặt chàng trai cả mà chỉ thấy bàn tay to bản, mạnh mẽ của anh ta rờ rẫm vùng ngực của cô gái, đánh vật với hàng tá lớp vải – nào là chiếc áo khoác lông, chiếc áo len đan, chiếc áo cánh may bằng vải cốt tông, rồi cái nịt ngực sa tanh. Tôi thấy khuôn mặt cô nàng đỏ ửng, tôi cũng thấy đôi môi chẻ sâu của cô thỉnh thoảng lại liếm láp gì đó. Tôi nghe được hơi thở hổn hển của bọn họ và cả những lời tục tĩu mà họ nói. Chàng trai ư ử hát: “Chúng ở đâu nào? Chúng ở đâu nào? Chúng ở đây này! Chúng ở đây này!” và cô gái khẽ rên: “Im nào ! Đồ nhãi!” với một giọng điệu khác hẳn khi cô ta nói với bố mình.

Khi trở lại giường mình, tôi vội vã đút tay vào trong chăn. Tôi chẳng mơ màng gì về cảnh tượng giữa cô gái và bạn trai của cô. Ngược lại, vừa thả mình xuống giường, tôi đã thấy hình ảnh họ thật đáng ghê tởm. Thay vào đó, tôi lại mơ về những nhà văn đã chết, những khuôn mặt nghiêm trang được in nổi bật trên những trang sách giáo khoa bóng loáng của tôi. Gogol, Chekhov, Turgenev, Dostoyevsky. Những mái tóc xám, những vầng trán rộng, những ánh mắt hiểu biết. Cũng có đôi lần khuôn mặt của nhà văn tôi yêu bỗng nhiên biến thành khuôn mặt của một trong số những người đàn ông mà tôi biết, và ngay lập tức tôi dập tắt trí tưởng tượng của mình. Thật quá đỗi kì quặc, thật đáng xấu hổ khi hình dung xem mình sẽ phản ứng như thế nào nếu lần sau gặp đúng người đàn ông ấy. Sẽ an toàn hơn nếu dan díu với người chết.

Một nhà văn đã chết hiện hữu trong phòng tôi trong bộ trang phục tồi tàn từ hồi thế kỉ 19 – không hiểu sao bao giờ tôi cũng hình dung thấy họ, những nhà văn quá cố trong tình trạng như thế ­­ – ông ấy ngồi xuống bên mép giường với nét mặt thành thật và ân cần đến nỗi khiến tôi bật khóc. Ông dịu dàng nâng tôi dậy, đỡ lấy lưng tôi rồi áp tay tôi vào lồng ngực mình. Ông vuốt tóc tôi, xoa lưng tôi, sau đó ông cởi chiếc áo ngủ trên người tôi, chậm rãi mở từng chiếc cúc một và thì thầm những lời êm ái. Thế rồi tôi hoàn toàn khoả thân nằm bên cạnh một nhà văn đã chết ăn mặc chỉnh tề trên giường ( tôi chẳng hề thấy hình ảnh một nhà văn đã chết trong tình trạng khoả thân có gì hấp dẫn cả), và chờ đợi một điều diệu kỳ nào đó xảy đến.

Ái ân kết thúc, nhà văn của tôi rời khỏi giường, trở lại với biệt thất an toàn của mình trong sách giáo khoa. Dĩ nhiên làm tình theo kiểu này chưa đủ để làm cho cuộc đời trở nên đáng sống hơn. Thế nhưng hành động ấy vẫn hứa hẹn một điều gì đó; một điều gì đó lớn lao hơn thấp thoáng ẩn hiện dưới những ngón tay nhăn nheo và những chiếc áo cánh không cài khuy.

Đến năm lớp mười, chúng tôi bắt đầu được học về Dostoyevsky. Cô giáo yêu cầu trước khi bắt đầu đọc tác phẩm của Dost, chúng tôi phải chuẩn bị bài thuyết trình về những vấn đề trong tiểu sử của ông. Tôi chọn đề tài: “Những năm cuối đời của Dostoyevsky: Cuộc hôn nhân với Anna Grigorievna”. Buổi chiều tan học về nhà, tôi vội lục tung những chiếc hộp đựng đồ đạc của bà. Trong một chiếc hộp cỡ nhỡ, tôi đã tìm thấy một cuốn sách nhỏ nằm dưới một mớ bưu thiếp đã ố màu, một cặp kính đọc sách đã gãy, hàng đống chai lọ không sử dụng, một lô thuốc men đã quá đát từ đời nào- cuốn nhật ký của Anna Grigorievna.

Tôi phủi bụi cuốn sách và ngồi thụp xuống ghế bành trong cảm giác đầy hưng phấn. Thế là sau bao nhiêu năm, giờ tôi mới trở lại với nhà văn có hai con mắt khác nhau; tôi muốn khám phá xem trở thành nàng thơ của đời ông thì như thế nào. Nhưng chỉ đọc chừng dăm trang, tôi cảm giác hoặc là tôi, hoặc là cuốn sách đã có sự nhầm lẫn, cực kỳ nhầm lẫn, mà tôi không hiểu rõ đó là gì. Nàng thơ là đây: Anna Grigorievna Snitkina, một nhân viên tốc ký trẻ tuổi, vừa mới tốt nghiệp, nhờ một cơ hội may mắn đã được làm việc cho Dostoyevsky. Ông cần một người viết tốc ký vì đang phải hoàn thành gấp một cuốn tiểu thuyết (để trả nợ theo một giao kèo nào đó- tôi bỏ qua những chi tiết nhàm chán). Họ thoả thuận rằng ông sẽ đọc chính tả và Anna sẽ viết tốc ký rồi sau đó sẽ sao lại những gì cô ta đã viết. Sau một khoảng thời gian làm việc với nhau như thế, họ bắt đầu thấy gắn bó với nhau, rồi một ngày kia ông ngỏ lời cầu hôn và Anna đồng ý. Tôi ngừng đọc và quay trở lại phần đầu cuốn sách.

Khi Anna Grigorievna đến gặp Dostoyevsky lần đầu tiên, bà ta mang theo mình một cuốn sổ dùng để ghi tốc ký và một hộp bút chì loại tốt nhất đã vót nhọn. Bà ta miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết chuyện mình đã đến cửa hàng tạp hoá để mua những chiếc bút chì đó như thế nào- bà ấy muốn gây ấn tượng với Dostoyevsky bằng những chiếc bút chì đó ư? Dối trá! Dối trá hết sức! Bà ta không đả động chút nào việc mình đã phải bỏ bao nhiêu thời gian để chăm chút đầu tóc hay lựa chọn quần áo! Tôi vứt phịch cuốn sách xuống ghế nệm với tất cả sự bực bội của một con bé mười sáu tuổi, nhưng tôi không bỏ cuốn sách đó được. Tôi tiếp tục đọc, trí tưởng tượng của tôi sẽ bù đắp cho những chi tiết mà Anna Grigorievna đã bỏ sót.

Nàng cúi đầu làm công việc của mình. Nàng không ngước mắt lên nhưng nàng cảm nhận được sự hiện diện của ông. Ông cứ đi qua đi lại, đi qua đi lại. Nếp gấp áo khoác của ông thi thoảng lại chạm vào lưng nàng, bước chân nặng trĩu của ông khiến ván sàn cứ cọt cà cọt kẹt. Ông thở dài. Ông lẩm nhẩm. Ông thì thầm mấy tiếng gì không rõ. Ông nhìn nàng- thoạt đầu ông không nhận ra là mình đang nhìn nàng nhưng dần dà ông càng để ý đến nàng nhiều hơn. Ông ngắm cái cổ thanh tú đầy nữ tính của nàng. Ông nhớ như in tấm lưng của nàng, màu tóc của nàng, bàn tay nhanh nhẹn, chắc chắn của nàng lúc viết mỗi khi ông suy nghĩ để hình thành những câu có cấu trúc phức tạp.

Tôi cảm thấy ngộp thở. Phải, thế là có “một người đàn bà khác” ở bên cạnh người đàn ông đã chết cách đây gần trăm năm rồi, nhưng điều đó chẳng làm cho sự ghen tuông trong tôi ít tính hiện thực hơn hay trở nên bớt đau đớn hơn một chút nào. Tôi căm ghét Anna Grigorievna. Tôi ghét cay ghét đắng bà ấy. Tôi cảm thấy giận dữ đến tức thở khi bà ta miêu tả Dostoyevsky đã gọi bà bằng những cái tên trìu mến, đã mua hoa quả và bánh kẹo cho bà, đã quỳ xuống dưới chân bà bày tỏ tình yêu như thế nào ( thường là sau khi ông ấy đã đem đi một số tiền còn lại nào đó nướng vào sòng bạc- nhưng lúc đó tôi ở trong trạng thái đang bị kích động nên không để ý đến những chi tiết ấy). Hễ đọc đến đoạn nào miêu tả cảnh ông chửi mắng hay lạnh nhạt với bà ta là tôi lại thấy trong mình dâng lên một niềm khoái trá ngọt ngào.

Tôi không thấy thoả mãn khi phát hiện ra bà ta cũng chỉ là một cô gái bình thường, không xinh lắm, không thông minh lắm, chẳng có điểm nào nổi bật, lại còn thực tế và thậm chí nhỏ nhen nữa. Tầm thường như Anna Grigorievna thế mà lại có được người đàn ông trong mơ của đời mình, lại trở thành nàng thơ của ông. Chính bà ấy đã khơi nguồn cảm hứng để Dostoyevsky viết nên những tác phẩm mà sách giáo khoa của tôi gọi là “ những hạt ngọc của văn chương thế giới.”

Dostoyevsky đã đọc chính tả cho bà ấy. Nhưng bà ấy mới chính là người đã thật sự viết cuốn “Con bạc”. Bàn tay của bà ấy chạm vào từng trang giấy, chính những ngón tay đưa ngòi bút của bà đã biến những âm thanh thốt ra tức thời trở thành vĩnh cửu. Con mắt của bà chính là chứng nhân đầu tiên được nhìn thấy những con chữ mà ông phát ra. Và chính là nhờ hành động viết của bà, những kẻ khác mới được nhìn thấy những câu chữ ấy. Thế thì không phải bà còn hơn cả một nàng thơ sao?

Điều đó thật không thể nào chịu đựng nổi. Tôi nhét cuốn nhật ký của Anna Grigorievna xuống dưới chiếc ghế bành của mẹ tôi, nơi mà nhiều năm trước đây, tôi đã giấu cuốn sách đáng sợ của ông chú “Atlas về bệnh hoa liễu”. Tôi phải đọc cuốn “Con bạc” mới được, cuốn tiểu thuyết mà bà ta đã viết. Tôi phải đọc nó, cho dù điều này có thể làm tôi đau đớn.

Tôi đã tìm thấy cuốn sách ở tầng trên cùng của giá sách, một cuốn sách mỏng, bìa sách màu xanh đã phai. Tôi liền đứng ngay trên ghế đọc nó, bàn chân dẫm lên mặt chiếc ghế nệm bằng nhung. Sau một vài trang, tôi bước xuống, lê chân khắp phòng, và cuối cùng từ từ ngồi xuống giưòng, mắt không rời cuốn sách. Tôi đọc ngấu nghiến từng dòng chữ, mê mải như một kẻ say. Cuốn sách có một cái gì đó khiến tôi rất háo hức nhưng tôi không nhận diện được điều đó là gì. Điều đó lớn hơn, quan trọng hơn, thú vị hơn các nhân vật hay cốt truyện- đó là một điều gì đấy nằm ở bên ngoài trang sách.

Đến giữa chương 6, cuốn sách làm tôi giật mình. Lại có sự xuất hiện của một người phụ nữ khác! Một người phụ nữ thực sự, người đã trao sự sống cho nhân vật Polina, và cho cả cuốn tiểu thuyết này: người phụ nữ ấy là nàng thơ của Dostoyevsky. Dostoyevsky đã có quan hệ với nàng trước khi gặp cô thư ký nhiệt tình của mình, Anna Grigorievna. Chính người phụ nữ ấy mới là người mà Dostoyevsky yêu thật sự. Mức độ của nỗi đam mê ấy được thể hiện trong cuốn tiểu thuyết mãnh liệt đến độ tôi, một kẻ thậm chí còn chưa hiểu biết gì về những thứ tình cảm na ná như tình yêu, cũng có thể nhận ra. Có một đoạn văn mà tôi cứ đọc đi đọc lại:

Ở nàng có điều gì cuốn hút đến thế nhỉ? Tôi không thể nào nghĩ ra. Nhưng quả thực có một cái gì đó rất cuốn hút ở nàng- một điều gì đó vô cùng đẹp, dường như là vậy. Nàng làm tôi xao lãng hết thảy mọi thứ quanh mình. Nàng cao ráo và gọn gàng, lại rất đỗi mảnh dẻ. Nhìn cơ thể nàng, ngỡ như có thể đem buộc thắt nó lại hay gập nó làm đôi giống như một cuộn thừng vậy. Dấu chân của nàng dài và thon nhỏ. Dấu chân ấy làm người ta bị ám ảnh – phải, nó chính là cái dấu chân gây ám ảnh.Tóc nàng hoe hoe đỏ và mắt nàng xanh như mắt mèo – thế nhưng đôi mắt ấy cũng có thể loé lên một vẻ kiêu hãnh và khinh bạc trên khuôn mặt.

Dấu chân gây ám ảnh- cụm từ ấy gây ấn tượng cho tôi đến độ tôi thả rơi cuốn sách, úp mặt xuống giường và bật cười hạnh phúc, như thể tôi, chính tôi đã khiến một người đàn ông như Dostoyevsky trở nên ngơ ngẩn.. Tôi chẳng giống Polina chút nào. Tôi không cao ráo, tóc cũng chẳng hoe hoe đỏ, lại cũng không có đôi mắt mèo, tôi không kiêu hãnh cũng chẳng tàn nhẫn mà cũng không có nét gì khinh bạc cả – chẳng có đặc điểm nào mà Dostoyevsky miêu tả tôi có thể xem là giống với mình. Nhưng Polina khác hẳn với Anna Grigorievna đáng ghét, chính điều đó khiến tôi tự cho phép mình đồng nhất với nàng. Tôi cho phép Dostoyevsky yêu nàng. Tôi cầu chúc cho tình yêu của họ.

Tôi tưởng tượng thấy Anna Grigorievna đang ngồi bên bàn của Dost với những chiếc bút chì thượng hạng của mình, sao chép lại cái thế giới cuồng si của ông, cái thế giới không có chỗ dành cho bà. Thế giới ấy do Polina thống trị, người chưa bao giờ mang đến cho Dost một tách trà, chưa một lần đắp cho ông tấm len dạ, chẳng khi nào thèm hôn lên mái đầu hói của Dost hay ghi tốc ký cho ông, nhưng đó lại là người, chỉ với dấu chân của mình, có sức mạnh thiêu đốt ông, hành hạ ông, khiến ông phát điên.

Bao giờ trở thành một nàng thơ, tôi sẽ giống như Polina. Không bao giờ tôi muốn mình giống như Anna Grigorievna cả. Không bao giờ.

Hải Ngọc dịch

Nguyên tác “ Memoirs Of A Muse” đăng trên tạp chí “The New Yorker” số ngày 1-11- 2004.