Monthly Archives: Tháng Ba 2009

Truyện ngắn – Những người bạn – Tony D’Souza

NHỮNG NGƯỜI BẠN

Tony D’Souza

Câu chuyện của Wu cũng đơn giản: ông từ Thượng Hải đến Tây Phi với mục đích tìm một cuộc sống tốt hơn. Trong những năm 90, có một số thầy thuốc người Trung Hoa đã đến lập nghiệp tại những thành phố lớn, nhỏ của Bờ Biển Ngà. Anh họ của Wu là một trong số đó; ông ấy đã thuyết phục Wu cùng nhập hội với mình. Wu đã chọn Séguéla, một thị trấn Hồi giáo bụi bặm ở miền Bắc để định cư. Ông đã phải mất mấy tháng đầu để học những bài cơ bản về tiếng Pháp của dân Tây Phi và phải bỏ cả hàng chồng tiền franc CFA1 vay của ông anh họ để mua vui cho những quan chức của thành phố trong các quán bar. Sau đó, ông cho treo bảng hiệu tại chợ và bệnh nhân bắt đầu tìm đến. Phần lớn bệnh nhân của ông là những binh sĩ và giáo viên bị mắc những bệnh lây truyền qua đường tình dục do quan hệ với gái điếm trong vùng. Họ hiểu nếu mình tìm đến bệnh viện của thị trấn thì thế nào chuyện cũng bị lộ, vì vậy mà họ đã tìm đến chỗ của Wu. Ông đã chữa trị cho họ bằng châm cứu và erythromycin2. Thậm chí có cả hai bác sĩ người Bờ Biển Ngà ở thành phố thỉnh thoảng cũng tìm đến ông với những nốt mụn đầy bối rối. Vào ngày cuối tuần, Wu lái chiếc mobylette3 của mình đến những làng lân cận để chữa cũng những căn bệnh ấy cho các vị tù trưởng và những cậu con trai của họ với cái giá hữu nghị. Công việc phát đạt; chẳng mấy chốc, ông đã có thể đưa vợ và con trai mình ở Trung Hoa sang Bờ Biển Ngà sống cùng.

Trước khi gặp Wu, tôi đã nhiều lần nhìn thấy vợ của ông. Đối với tôi, hình ảnh của bà luôn là một điều gì đó thật đặc biệt: một người phụ nữ Trung Hoa nhỏ bé trong tấm áo choàng hồng bó sát người, đi lại uyển chuyển quanh khu chợ Séguéla đông đúc với đôi guốc như nâng bà lên trên những cái đầu cá và bùn lầy cùng một chiếc ô hồng mở xoè trên đầu như một bông hoa. Bà đi đến chỗ nào cũng bị một đám trẻ con ở khu chợ nối đuôi nhau bám theo réo tên: “Ê! Bà người Tàu! Bà người Tàu!”. Cả một lũ chó ghẻ vô chủ cũng nhằng nhẵng theo bà, chắc là bởi cái mùi lạ của bà đã thu hút chúng. Tôi thấy vui mừng khi nhìn thấy bà không phải chỉ vì sự hiện diện của bà ở chốn tối tăm này đã gây cho tôi một sự ngạc nhiên dễ chịu mà còn bởi bà thậm chí là người lạc lõng ở nơi đây hơn cả tôi nữa. Cứ khi nào chúng tôi qua đường, lũ trẻ con từng bám theo tôi gào lên: “Ê! Ông da trắng! Ông da trắng!” lập tức bỏ mặc tôi để biến thành đám tùy tùng của bà. Tôi hiểu cuộc sống của bà ở xứ châu Phi này chắc chẳng khác gì địa ngục.

“Peiching căm ghét nơi này”. Một buổi tối, Wu đã kể với tôi. Khi ấy, tôi đang ngồi ở nhà ông, cùng ông uống bia ấm nhắm với chỗ đuôi tôm còn lại sau bữa tối và chơi poker. Lúc đó, Wu chỉ còn lại một mình giữa ngôi nhà rộng lớn và trống trải. “Hễ nàng đi đến đâu, lũ trẻ con cũng bám theo. Ở chợ, đám đàn bà ai cũng muốn sờ vào làn da của nàng. Tôi đã thuê gia sư để dạy vợ tôi tiếng Pháp nhưng chưa bao giờ nàng nhập tâm được. Dù chỉ là một từ. Trái tim của nàng nằm ở Trung Hoa. Khi thằng Wen mất, nàng hoàn toàn suy sụp. Ít tháng sau đó, nàng đã bỏ về nước.”

Đó là một đêm mưa và Séguéla đêm ấy bỗng chốc trở nên tĩnh lặng. Wu cho tôi xem những bức ảnh đám cưới của ông. Khi ông và Peiching cưới nhau, cả hai đều còn là những sinh viên nghèo và Wu chỉ có khả năng thu xếp được một chuyến đi đến Bắc Kinh cho tuần trăng mật của mình. Đến đó, họ phải nghỉ nhờ ở nhà họ hàng. Một bức hình chụp họ lúc đang đứng ở ngoài vườn hoa của Hoàng cung. Màu của những bông hoa, cũng như những phần còn lại của bức ảnh, đã ngả sang màu nâu đỏ. Wu người gày gò, trông nét mặt hãy còn non, tay kẹp một điếu thuốc lá, trong khi đó, vợ của ông thì có vẻ vẫn còn ngượng ngùng. Cả hai đều mặc quần jeans, không ai mỉm cười, nhưng ở tư thế nghiêm nghị ấy của họ, vẫn có điều gì đấy cho thấy khoảnh khắc đó thật ý nghĩa đối với hai người.

Mọi người ở Trung Hoa đều khuyên Wu không nên mang con trai của mình sang châu Phi. Châu Phi đầy rẫy những nguy hiểm và bệnh dịch; có quá nhiều điều không hay có thể xảy đến đối với đứa con trai độc nhất của một gia đình. Nhưng Wen và cha mình lại rất gần gũi với nhau; cậu đã trì hoãn việc vào đại học để đến sống cùng với cha. Wu cũng đã cho tôi xem ảnh của con trai ông. Wu là một chàng trai cao ráo, nét mặt xanh xao và nghiêm nghị, khuôn mặt nhỏ gọn giống mẹ – một cậu bé đẹp trai. Cậu đứng trước một con sư tử bằng ngọc thạch được đặt tại một quảng trường đầy tuyết nào đó ở Tây An. Cậu mặc một tấm áo khoác len dày cộp, loại quân phục, và bụi tuyết rơi xuống vai cậu như những cánh hoa. Khi Wu cho tôi xem bức ảnh này dưới bóng đèn để trần trong phòng ông, ông nói bằng một giọng dịu dàng: “Tôi đã đưa nó đến Tây An nhân dịp nó tốt nghiệp. Để tham quan. Để kỷ niệm. Một đứa con ở Trung Hoa. Một đứa con trai. Cậu có thể hình dung nổi không? Trong một thế giới ngập mưa thì chỉ có một giọt duy nhất thuộc về anh mà thôi.”

Đối với Peiching, châu Phi là cả một sự khổ sở. Nhưng Wen thì thích nghi với nơi này như thể cậu đã chờ đợi cả đời mình để cuối cùng được giải thoát ở đây. Khi sang châu Phi, cậu mới mười tám tuổi và cũng không biết vì lý do gì mà người châu Phi đã đón nhận cậu như thể chính họ cũng đang chờ đợi cậu. Tối nào cậu cũng chơi bóng rổ với đám con trai nhà lính ở sân vận động. Cậu mượn chiếc xe gắn máy của cha và phóng biến vào rừng chơi với đám bạn suốt mấy ngày. Cậu ăn ngon lành món chuối xắt miếng được bán dạo trên đường; cậu vứt béng đôi giày da của mình để xỏ vào chân đôi dép tông làm từ bọt biển mà cậu mua ở chợ. Cậu đi bơi ở tận sông Marahoué xa lắc. Cậu xuống ruộng làm cùng với những người mà hầu như cậu chẳng quen thân. Chỉ trong vòng ba tháng, cậu đã nói được tiếng Worodougou thành thạo đến mức tưởng chừng đó là thứ tiếng mẹ đẻ của cậu.

Mọi lời cảnh báo mà cha cậu nêu ra cho cậu – về những bệnh đường ruột do ký sinh trùng gây ra, về bệnh sán máng và nguy cơ nổi u hắc sắc tố trên da, về bệnh AIDS và những cô gái địa phương – cậu đều cười xòa xem thường. Sáu tháng sau khi cậu bước chân xuống chuyến xe bus đã đưa cậu lần đầu tiên đến Séguéla cùng với người mẹ đầy lo lắng bên cạnh, cậu đã có một cô bạn gái người địa phương và chỉ hai tháng sau đó, cậu nói cho cha mình biết tin bạn gái của cậu đã có bầu. Lần đầu tiên trong đời, Wu đã đánh con trai mình. Ai biết được là vì lý do gì? Có thể là do ông đã quá lo lắng căng thẳng về cậu con trai; hoặc là do những khó khăn chồng chất mà tình trạng bị cô lập về tâm lý ở nơi xứ người của ông dẫn đến; hoặc là vì nỗi thất vọng của ông trước sự nhũng nhiễu của chính quyền Bờ Biển Ngà, lúc nào cũng ban ra những tài liệu mới mà ông phải mua, những thứ thuế mới mà ông phải nộp. Cũng có thể là vì tất cả những lý do ấy. Chẳng cần biết vì lý do cụ thể nào, Wu tát con trai mình liên tục. Lúc đó họ đang đứng trước hiên nhà, cái hiên nhà trông thẳng ra chợ. Hôm đó là hôm có trận mưa lớn đầu tiên của mùa, những người đứng trú dưới mái lợp thiếc ở các quầy hàng í ới gọi nhau đến xem và cười cợt khi chứng kiến cuộc cãi vã xảy ra giữa những người Trung Hoa.

Wu nói: “Một thằng lai đen sẽ sống như thế nào ở Trung Hoa đây, mày biết không hả?”

Wen gào lên đáp lại: “Con sẽ ở đây! Con sẽ không bao giờ trở về Trung Hoa nữa!”

Wu cố chộp lấy tay con trai nhưng Wen đã vùng ra và chạy mất.

Suốt ba tháng trời, không có một tin tức nào của Wen. Đến giữa tháng thứ tư, một người đưa tin đến từ làng của cô gái, ngôi làng cách 30 dặm về phía đông, tận Mankono, nơi cặp tình nhân đã ẩn náu, đến gặp Wu. Người đưa tin là một người đàn ông nghèo, áo quần tả tơi. Ông ta thậm chí không thể nào dám nhìn thẳng vào mắt Wu khi thông báo cái tin mà ông mang theo: Wen đã chết.

Tôi ngắm nhìn bức ảnh chàng trai cao ráo với khuôn mặt nghiêm nghị, trên vai áo còn vương tuyết và hỏi Wu: “Chuyện gì đã xảy ra với cậu ấy?”

“Đó là châu Phi. Ai mà biết được chuyện gì có thể xảy ra. Ở đây thì chúng ta nằm ngủ trong mùng. Còn nó thì ở đó, sống trong lều lán. Nó không hề được chữa chạy gì cả. Có thể là nó bị sốt rét. Cũng có thể là bị tả lị, thương hàn, dịch hạch, sốt nóng. Bọn họ có thể đã đầu độc nó. Nó đã chết, đó là tất cả những gì mà chúng tôi được biết. Phải mất ba ngày tôi mới có thể dám nói cho vợ tôi chuyện ấy. Song tôi nghĩ là nàng đã biết. Nàng không muốn nói chuyện với tôi, và cuối cùng khi tôi mở miệng nói với nàng, nàng đã tát tôi. Nàng đổ lỗi cho tôi về mọi chuyện. Một vài tuần sau, nàng bỏ về nước. Nàng nói nàng đã sai lầm khi lấy tôi. Bây giờ tôi không thể về nước được, cậu hiểu chứ? Một đứa con ở Trung Hoa. Thứ tài sản duy nhất, vô giá. Người ta đã khuyên tôi không nên mang nó sang đây. Bây giờ nếu trở về, họ sẽ không tha thứ cho tôi.”

Tình bạn của tôi và Wu cứ dần dà mà trở nên thân thiết. Tôi là nhân viên hỗ trợ cho chương trình Nước sạch quốc tế, sống ở làng Téguéla, cách bìa rừng mười hai dặm. Thỉnh thoảng cuối tuần rỗi rãi, tôi lại vào thị trấn Séguéla để thư giãn sau những ngày làm nhiệm vụ. Những lần ấy, bao giờ tôi cũng gặp Wu ở câu lạc bộ Những Người Bạn, một quán bar nằm ngay bên cạnh phế tích của một nhà thờ Thiên Chúa giáo đã bị thiêu cháy trong cuộc bạo loạn xảy ra trước đó. Wen đã qua đời trong khoảng thời gian tôi đến Bờ Biển Ngà nhưng ở thời điểm ấy, tôi còn chưa biết chuyện. Tôi chỉ biết Wu như một người bạn rượu: một bác sĩ người Trung Hoa xa lạ, không biết vì lý do gì mà rốt cục lại chôn chân ở cái xứ khỉ ho cò gáy này, một người hút thuốc liên tục và không bao giờ để tôi phải trả tiền rượu. Không có ai khác trong số nhân viên hỗ trợ trong vùng kết bạn với ông, bởi vì tiếng Pháp của ông cực kỳ khó nghe và họ từ các làng khác đến Séguéla chỉ để được uống rượu trong sự yên bình. Đó thực ra cũng là điều mà tôi cần nhưng Wu đã tìm tôi. Và khi đã quen với cách nói tiếng Pháp của Wu thì chính tôi lại bắt đầu mong mỏi để được gặp ông. Ông là người có học và hiểu biết về thế giới. Wu và tôi đã có những cuộc chuyện trò kéo dài, say sưa về chính trị và về tương lai của mối quan hệ giữa hai đất nước chúng tôi. Chúng tôi thường đem một ít bia về ngôi nhà ba gian của ông nằm bên rìa chợ và xem một bộ phim cũ của Jackie Chan qua chiếc đầu DVD xách tay của ông. Ngày hôm sau tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên một chiếc chiếu đan bằng liễu gai và một tấm vải mỏng được đắp trên mình.

Sáng dậy, bao giờ tôi cũng thấy bối rối vì mình đã say sưa đến vậy nhưng Wu luôn làm tôi thoải mái. Tôi ngồi trên một chiếc hòm gỗ trong phòng bếp trống trải của nhà ông, nhìn ông đứng bên bếp dầu, vẫn mặc nguyên quần lót, vừa nấu mì tôm đồng thời vừa hút một điều thuốc và gõ tàn thuốc xuống sàn nhà. Chúng tôi ăn bằng những chiếc bát sắt đặt ngay trên đùi, khua đũa lanh canh và húp nước xì xụp, vừa ăn ông vừa kể cho tôi biết tay giáo viên nào ở trường trung học của địa phương dính phải bệnh lậu. Ông bảo một ngày nào đó tôi nhất định phải đến thăm bà chị của ông hiện đang ở Queens, New York và gửi giùm lời hỏi thăm của ông đến bà. Bà đã tìm đường sang Mỹ bằng cách trốn trong một chiếc container chở hàng và bây giờ đã làm chủ một cửa hiệu bán thức ăn sẵn. Ông cam đoan là chị của ông sẽ đối xử với tôi như một ông hoàng.

“Ra quán uống một chút đi, cậu nhỏ4. Ông nhướng mày lên rủ tôi, nhưng trời hãy còn sớm nên tôi từ chối. Tôi đang ở châu Phi để giúp đỡ làng mình; tôi phải trở về nơi ấy. Tôi xin đi nhờ được một chiếc xe tải chở gỗ chạy qua rừng và hơn một tháng sau đó, tôi không nghĩ gì đến Wu cả.

Tôi mến Wu bởi ông rất tốt với tôi, và cũng bởi chúng tôi cùng chia sẻ sự cô độc. Tình bạn của chúng tôi ngày càng gắn bó hơn và tôi đã mời ông dự buổi sinh nhật lần thứ hai mươi sáu của mình tại câu lạc bộ Những Người Bạn. Đêm hôm đó, lúc đã muộn rồi, khi chúng tôi trở về nhà ông, Wu đã kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra sau cái chết của Wen.

Trước khi vợ ông bỏ đi, Wu đã chở bà đến làng Makono bằng chiếc xe máy của mình. Peiching xếp chân ngồi ngang yên đằng sau như cách ngồi xưa nay của bà. Con đường mấp mô, gồ ghề, đây đó đất đã bạc màu bởi những trận mưa và họ thường xuyên phải xuống xe. Ông đẩy chiếc xe máy trong khi đó bà đi bộ. Họ đi qua rừng, rồi lại băng qua những thảo nguyên thênh thang, xanh tốt, những cây bao báp đứng như lính canh. Vợ của ông chưa bao giờ ra khỏi Séguéla; bà quá đỗi kinh ngạc trước tình trạng bán khai của những ngôi làng. Người ta vẫy tay chào họ nhưng bà bấm lưng Wu bảo ông không được dừng lại. Bà cứ lẩm bẩm tự hỏi mình mãi: “Làm sao con trai của chúng ta có thể sống được trong điều kiện như thế này?”

Làng của cô gái là một ngôi làng tầm thường ở một chốn xa xôi hẻo lánh: chỉ có một dãy những lều lán và những người dân nghèo khổ, còm cõi sống trong đó. Vị tù trưởng ra gặp họ, đi theo ông ta có lẽ là toàn thể dân làng. Không hiểu vì sao đến lúc đó, Wu không còn cảm thấy giận dữ nữa, còn vợ ông, dưới tán ô, thì im lặng. Vị tù trưởng giới thiệu cô gái với họ và quả thật, cô ta đang mang bầu. Con trai của ông đã nhìn thấy ở cô gái Phi Châu nhỏ bé này điểm gì cơ chứ? Wu băn khoăn. Tất cả những gì ông biết được về cô ta là cô đã từng bán ớt khô ở chợ. Có cả hàng tá những cô gái như thế. “Con trai tôi ngủ ở đâu?” Vợ của ông hỏi. Wu dịch câu hỏi của vợ cho vị tù trưởng và rồi cô gái cùng gia đình của cô và vị tù trưởng đưa họ đi qua những gian lều tranh giống hệt nhau trong làng, cuối cùng đến một gian nằm tận ở một góc xa. Wu và vợ cứ săm soi mãi cái gian lều đơn sơ, tối tăm ấy. Trên sàn nhà bẩn thỉu có trải một tấm chiếu cọ đã sờn, ngoài ra không có gì hết. “Đây là nơi mà chồng tôi nằm ngủ”, cô gái nói với họ. Cô cho họ xem một cái vại sứ đựng nước, một chiếc gáo vỏ bầu có cán. “Đây là nước mà tôi đem cho chồng tôi uống. Đây là chiếc ghế đẩu anh ấy ngồi mỗi tối”. Cô gái dường như có vẻ sợ sệt. Wu nghĩ chắc nếu như không vì sự hiện diện của vị tù trưởng, hẳn cô ta đã chạy trốn vào rừng mất rồi.

Có vẻ như những tài sản ít ỏi của Wen đã bị những người còn sống lấy lại làm sở hữu của mình. Chúng được mang ra từ đám đông dân làng và được đặt dưới chân Wu. Đó là một con dao rựa đã cùn, một tấm áo choàng boubou5 màu xanh lá cây đã rách rưới. Vị tù trưởng quát một cậu thanh niên đứng gần bên và anh này phải tháo đôi dép tông của mình ra. Vị tù trưởng bày chúng ra trước mắt Wu và nói: “Đây là giày của cậu ấy”.

Một ông thầy mo gầy guộc tiến đến trước vợ chồng Wu cùng với cây gậy quyền của mình và nói với Wu bằng một giọng điềm đạm: “Cậu ấy đã ốm trong ba ngày. Tổ tiên đã đòi cậu ấy đi. Cậu ấy tỉnh táo, trong lòng cậu ấy rất tỉnh táo. Nhưng tổ tiên đã nôn nóng đòi cậu ấy. Cậu ấy đã mất trong lều của tôi khi tôi đang cầu nguyện cho cậu. Cho đến phút cuối cùng cậu ấy vẫn tỉnh táo.” Ông thầy mo chỉ sang một gian lều khác, nơi Wen đã qua đời. Nó cũng hệt như những gian lều còn lại.

Vị tù trưởng dẫn họ ra ngoài, đến một vạt đất rặt những cây cỏ cao trên thảo nguyên. Họ theo lối mòn đến một chỗ đất quang dưới một cây keo ra hoa vàng, đỏ. Ở đấy có những ngôi mộ cũ, đó là những mô đất cứng như đá, nơi trước kia đất đã được nạy lên và rồi được đắp lại. Sau những ngôi mộ đó, có một mô đất khác, đất ở đấy còn tươi đỏ, nhìn có vẻ mềm, không cằn cỗi lắm. Vị tù trưởng nói: “Đấy là nơi cậu ấy yên nghỉ”, rồi ông vung những hạt gạo xuống mặt đất để cầu phúc.

Đó chỉ là một đống đất, đá cuội rải quanh đấy như ngọc thô, không hề có một dấu hiệu nào cho biết danh tính của người chết, trông như đã thành một nấm mồ vô chủ. “Tại sao ông không đem nó vào thị trấn khi nó ốm?” Wu hỏi vị tù trưởng.

Cô gái lên tiếng. Cô nói: “Chồng của tôi không muốn vào thị trấn”.

“Tại sao các người không đem thi hài của nó cho chúng tôi?”

Vị tù trưởng trả lời: “Cậu ấy đã cầu nguyện cùng chúng tôi. Cậu ấy đã chết như một người đạo Hồi. Chúng tôi đã chôn cất cậu ấy ở đây theo cách thức của người Hồi giáo”.

Wu đưa cho cô gái một số tiền và dặn cô đến tìm ông ở Séguéla. Ông hứa sẽ chăm lo cho cô, sẽ đáp ứng tất cả những gì mà cô cần. Vợ của Wu muốn lấy lại tấm áo thụng màu xanh lá cây và đôi dép tông. Mẹ của cô gái vội vã mang lên một tấm xà rông màu xanh da trời và gói ghém chúng lại cẩn thận. Wu chở vợ về Séguéla, vợ của ông cứ giữ khư khư cái bọc đồ màu xanh da trời ấy ở ngực. Wu hiểu rằng cuộc sống của ông với Peiching đã chấm hết. Khi họ rời ngôi làng, Wu đã cố gắng thử nhìn nó, và mảnh đất này, bằng con mắt của con trai mình. Những cụm mây trắng lướt nhanh qua bầu trời mênh mông, và đó là lần đầu tiên – cho dù thật ngắn ngủi – Wu đã phải buộc lòng thừa nhận châu Phi đẹp.

Câu chuyện của Wu làng nào cũng biết, kể cả làng tôi. Không một ai kể cho tôi hay, bởi vì tôi không biết nên hỏi như thế nào. Thế rồi một buổi tối, tôi hỏi những người hàng xóm khi chúng tôi đang ngồi quanh đống lửa.“Ai cũng biết chuyện của ông bác sĩ người Hoa, phải không?”

Một anh thanh niên trong số đó gật đầu và nói: “Ồ, vâng. Chuyện ấy xảy ra trong thời gian anh đang ở đây”. Anh huơ tay trước mặt trong bóng tối như thể muốn xua đi điều phiền nhiễu. Anh nói: “Đó là một câu chuyện khủng khiếp. Không biết thần linh nào đã ra tay trong chuyện này? Bây giờ thì ông bác sĩ muốn có thằng nhỏ. Cô gái lại không muốn từ bỏ đứa con trai của mình. Ai sẽ thắng đây? Rắc rối như thế mới thật là…Rắc rối như thế, tốt nhất là đừng nên dây vào”. Mọi người quanh đống lửa đều thì thào tỏ sự đồng tình.

Phải mất một thời gian cô gái mới chấp nhận đề nghị của Wu nhưng sau khi sinh đứa trẻ, cô ta đến sống với bà dì ở Séguéla và ngày nào cũng đem thằng bé đến chỗ Wu. Lúc đó, Wu hãy còn tiền và ông đã chẳng tiếc đứa trẻ bất cứ điều gì. Ông mua những thứ đồ chơi được mang từ Abidjan lên – những quả bóng sặc sỡ, chiếc xe thùng bằng nhựa – ông còn mua cả những tấm xà rông may bằng vải nến Hà Lan và những đôi giày bọc kín ngón chân cho cô gái. Cô gái đặt tên cho thằng bé là Moussa, một cái tên của người Hồi giáo, nhưng Wu thì gọi nó là Didi. Tôi chưa bao giờ dám chắc ý nghĩa chính xác của cái tên ấy nhưng tôi có cảm giác nó có nghĩa là “nhỏ”.

Khoảng thời gian ấy, Wu thôi không uống rượu nữa và suốt mấy tháng, tôi không gặp ông. Tuy nhiên, tôi vẫn cố nghe ngóng chuyện của ông bằng cách hỏi han những người xung quanh. Có một lần, tôi dừng chân bên nhà ông để xem ông đang sống thế nào. Tôi nhìn thấy những món đồ chơi ở ngay lối vào và tự hiểu rằng Wu đang hạnh phúc, rằng đứa cháu nội bây giờ là cả cuộc đời ông, rằng cuộc đời của Wu đã tách khỏi cuộc đời của tôi theo một cách tốt.

Mùa mưa chuyển sang mùa khô và đã đến lúc người dân trong làng đeo những tấm mặt nạ hội mùa, múa nhảy để cúng dường tổ tiên. Tất cả chúng tôi đều có vài tuần nghỉ ngơi, và tháng Ramadan6 đang đến gần. Tôi phải thức giấc theo tiếng gọi của thầy tế để ăn cháo mướp tây với những người trong làng bên ánh lửa chập chờn khi trời mới tờ mờ sáng và nhịn ăn uống cả ngày, mặc dù tôi không cầu nguyện. Các vụ bạo lực, vốn là chuyện thường ngày ở những năm ấy, bỗng nhiên tạm lắng trong một khoảng thời gian dài đến nỗi mọi người bắt đầu băn khoăn không biết liệu chúng có còn tiếp tục xảy ra hay không. Thế rồi, dường như ngay sau khi đất nước trở về trạng thái bình thường, xung đột vũ trang lại bùng nổ ở khắp mọi nơi.

Sau khi chính phủ lấy lại quyền kiểm soát thành phố, tôi đã đến Séguéla để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Cảnh tượng ở đó chẳng khác những gì tôi đã được chứng kiến không ít lần: nhà cửa của lính và của những người Thiên Chúa giáo bị thiêu rụi; các cơ quan nhà nước bị cướp phá và ở trong tình trạng tan hoang. Quán Những Người Bạn vẫn còn đó, ông chủ quán và chị em gái của ông thân mật chào hỏi tôi. Anh họ của ông chủ quán là phó chỉ huy một biệt đội trong vùng và cỗ súng máy cỡ lớn ông đặt để bảo vệ quán bar này vẫn còn gác trên những bao cát – một bằng chứng cho thấy ở đây đã xảy ra những chuyện nguy hiểm như thế nào. Wu đang ngồi uống rượu trong góc quán. Tôi mừng khi nhìn thấy ông nhưng ông chẳng còn là ông nữa. Khi đến gần, tôi nhìn thấy chiếc gạt tàn của ông đầy những mẩu thuốc lá thừa, cả một hàng những chai bia mà ông đã uống cạn sắp dài dưới chân ông. Râu ria của ông mọc lởm chởm làm tối sầm cả khuôn mặt. Ông ho và trông có vẻ như đang ốm.

“Ông vừa thoát chết trong vụ biến loạn ở đây phải không Wu?” Tôi hỏi.

Ông gật đầu, xua tay. “Họ đã cướp nhà tôi. Mất tất cả rồi”. Ông trả lời.

“Còn Didi thì sao?”

“Cháu nội tôi ư? Cô gái ấy đã mang nó đi cách đây mấy tuần rồi. Cô ta chỉ cần tiền. Cô ta bảo tôi phải trả cho cô ấy năm vạn đồng CFA mỗi lần tôi muốn nhìn thấy thằng bé. Cô ta không cho thằng bé ở lại cùng tôi vì sợ tôi sẽ đem nó về Trung Hoa. Tôi đã báo cho cảnh sát biết cô ta dang làm gì. Cô ta biết được chuyện này và liền bỏ trốn. Chính gia đình của cô ta đã cướp nhà tôi. Nếu không, tôi đã chẳng rơi vào tình cảnh khốn khổ như thế này”.

Chúng tôi cùng nhau uống mấy chai bia nhưng bia chẳng thể giải tỏa được tâm trạng của ông. Ông sụt sùi đau khổ và đốt thuốc liên tục. Bóng chiều tà trùm lên chúng tôi, rồi đêm xuống. Wu gục đầu rũ rượi, ông bảo muốn tự mình lái xe về nhà. Nhưng không để Wu làm vậy, tôi dìu ông ra ngồi sau chiếc mobylette của ông, nheo mắt để nhìn đường cho chính xác để đưa ông về. Tất cả cửa sổ trong nhà ông đều đã bị đập vỡ và phòng nào cũng còn đầy vụn thủy tinh. Người ta đã lấy đi ti vi, giường, bếp lò của ông. Trên sàn nhà bừa bộn là những phong bì thư gửi theo đường hàng không bên ngoài có ghi những hàng chữ Trung Hoa đã lấm bẩn, những bức ảnh con trai ông đã bị gập cong lại.

Chúng tôi ngồi trên những chiếc hòm gỗ trong phòng ông và hút thuốc. Wu đã trấn tĩnh lại trên đường về. “Này Jack”, ông trỏ vào đống đổ nát quanh mình và nói với tôi, “đây chính là cuộc sống mà tôi đã tự tạo cho mình, phải không? Tôi đã đến nơi đây xuất phát từ lòng tham và đây là những gì mà tôi lĩnh được”. Biết nói gì đây? Wu nhặt một bức ảnh lên, vuốt lại nó cho phẳng và ngắm nhìn nó thật lâu. Ông nói: “Cậu gọi tôi là Wu. Ở đây ai cũng gọi tôi là Wu. Nhưng đó không phải là tên tôi. Tên của tôi là Chang. Chang Gochiang”.

“Chang Gochiang. Thế Wu nghĩa là gì?”

“Là một âm thanh. Là một cái tên của ai đó. Cái tên Chang Gochiang quá khó để người ta phát âm được. Anh họ tôi nói với tôi rằng cứ bảo người ta tên của mình là ‘Wu’. Đó cũng là cái tên mà anh ấy dùng. Nhiều người Trung Hoa ở đây cũng dùng cái tên ấy. Như thế khiến người ta dễ nói hơn. Nhưng tên của tôi là Chang Gochiang”.

Tôi giúp ông dọn dẹp và mua một tấm chiếu nhựa rẻ tiền từ một người bán dạo ban đêm cho ông nằm ngủ. Tôi cứ lo rằng ông sẽ tự tử mất nhưng tôi có thể làm được gì? Khi tôi rời khỏi, ông vẫn còn đang nằm ngủ trên tấm chiếu trong bộ đồ lót, những bức ảnh ghi lại cuộc đời ông xếp lại thành chồng bên cạnh đầu ông giống như một cái gối.

Wu tiếp tục sống lay lắt ở Séguéla sau cuộc bạo loạn; ông dường như trở thành một kẻ gàn dở. Đối với người trong vùng, ông là một người đàn ông xa lạ đến từ Trung Hoa với một quá khứ phiền muộn: con mất, vợ bỏ, đứa cháu lai không biết đang ở đâu trong những ngôi làng xa xôi. Đối với những viên chức ở các quán bar, ông là một gã say, một kẻ đáng thương hại, một tay nước ngoài đã đến một nơi mà lẽ ra y không nên kiếm chác lợi nhuận ở đó, một người đã mất hết tất cả chính vì lòng tham của y. Đã thế, ông còn biết quá nhiều những bí mật bẩn thỉu của bọn họ.

Wu mua một cái giường mới và một cái ti vi mới để theo dõi tin tức ở Bờ Biển Ngà. Ông chỉ chào tôi một cách chiếu lệ ngoài cửa mỗi lần tôi qua nhà, như thể tình bạn của chúng tôi thuộc về một thời kỳ mà ông không muốn nhớ lại nữa; ông cũng chẳng buồn mời tôi vào nhà. Khi gặp ông ở quán bar, tôi thấy ông thường mua bia cho cả một đám lính tráng nhốn nháo ngồi chật kín cả một bàn rượu hoặc ngồi nói chuyện với những vị quan toà, thẩm phán ăn vận sang trọng và ông biết bật nắp những chai Johnie Walker một cách đúng điệu. Tiếng Pháp của ông còn trở nên khó nghe hơn. Khi bị đám lính say xỉn kích, ông có thể chơi vật tay với những thằng bé đánh giày, giở trò gian lận và diễn bộ mặt nhăn nhó làm tất cả mọi người bật cười khi ông thua cuộc. Thỉnh thoảng, khi chứng kiến cảnh ông đang bị làm nhục như thế nào trong quán bar, tôi lại bắt gặp ánh mắt của ông nhìn sang. Khi ấy, nét mặt của ông, trong giây lát ngắn ngủi, trở lại tỉnh táo, như thể ông muốn nói: “ Cậu biết đấy, đây không phải là tôi”.

Ở làng tôi, có hai luồng ý kiến xung quanh câu chuyện của Wu. Một số người cho rằng: “Thật đau đớn khi mất đi đứa con trai của mình. Nhưng cô gái kia cũng chẳng muốn mất đứa con mà mình rứt ruột đẻ ra. Lẽ nào đứa bé không được ở cùng mẹ nó? Ông bác sĩ người Hoa muốn có thằng bé để bù đắp cho mất mát của mình. Nhưng chẳng lẽ cô gái không có quyền giữ lại đứa con?”

Nhưng những người khác lại nghĩ: “Việc gì mà cô gái kia lại tự gây ra lắm phiền nhiễu đến thế? Đứa trẻ đó không phải là một đứa trẻ bình thường – cuộc sống của nó sẽ phải chịu bao sự nhạo báng. Ông người Hoa là người giàu có, còn cô gái có thể có những đứa con khác. Tốt hơn là buông quách cái thằng bé đầy rắc rối này ra, hãy giữ lấy những đứa con mới, những đứa trẻ đích thực là da đen”.

Lúc này, Wu chẳng hề giấu giếm việc mình đi hối lộ người này người kia. Có tin đồn rằng ông đã phải mất năm trăm nghìn CFA cho viên cảnh sát trưởng và một số tiền tương đương cho thẩm phán của quận. Đêm nào cũng vậy, Wu mua đồ uống và thuốc lá cho những viên lính làm nhiệm vụ giữ chốt ra vào thành phố. Giấu một đứa trẻ lai là một việc khó. Những người lính mặc thường phục đã đến làng của cô gái để lục soát, rồi họ đến lục soát cả làng của họ hàng thân thích của cô gái nữa. Cha và anh em trai của cô ta lần lượt bị giải đến nhà giam ở Séguéla và phải chịu phạt một khoản lớn với lý do là giấy căn cước của họ không đúng quy định. Thực ra chẳng có người Hồi giáo nào ở miền Bắc có giấy căn cước hợp lệ cả. Những người thân của cô gái bị tra tấn rồi được thả. Nếu họ biết được cô gái đã bỏ đi đâu, họ cũng chẳng hé răng ra.

Tin đồn lan truyền. Người thì bảo thấy cô đang sống cùng người anh em họ thuộc bộ tộc Senufo ở ngoài Korhogo. Người khác lại bảo cô đang sống ở làng chài Bozo, phía bắc Béoumi. Những dị bản lãng mạn hơn kể rằng cô ấy đã tự trầm mình cùng với đứa trẻ ở sông Marahoué hay là có một vị chức sắc người Pháp ở Abdijan đã đem lòng yêu cô và nhanh chóng mang cô cùng đứa con sang Paris.

Những người lính cam đoan với Wu là họ đang tìm ra đầu mối. Thông cáo thậm chí được gửi tới từng làng. Có người nhìn thấy một đứa trẻ có nước da màu trà và đôi mắt của người Hoa đang lơ ngơ trong một khu chợ ở Boundiali, khóc gào tìm mẹ. Người khác lại nói mình đã bắt gặp cô gái ấy địu đứa con sau lưng, tìm cách vượt sang Burkina qua đường biên giới ở Ferkéssédougou. Đây đó bạo lực lại bùng phát: những nhân công người Dioula bãi công ở Abidjan, người Mossi đình công tại chỗ trên những đồn điền lớn sản xuất dầu cọ. Xung đột tôn giáo trên đất nước trỗi dậy giống như hơi nước tích tụ trong không khí. Chẳng mấy chốc, mùa khô sẽ chấm dứt bằng những trận sấm sét bão giông lớn.

Đôi khi tôi đã cố hình dung về cô gái. Cô ta là ai? Tất cả những gì tôi biết là cô ta đã từng bán ớt ở chợ Séguéla, cô ta đã lớn lên từ một ngôi làng cũng tăm tối, bán khai như ngôi làng tôi đang ở. Không biết vì lý do gì, cô ta lại vào thị trấn, nơi mà những ánh đèn đường và mấy chiếc xe taxi hoen gỉ chắc hẳn đã gây ấn tượng mạnh với cô. Ở đó, cô đã phải lòng con trai của Wu.

Những chuyện yêu đương tán tỉnh như thế ngày nào cũng có thể thấy trong chợ: những cô gái chán đời chòng ghẹo những chàng trai thất nghiệp về quần áo rách rưới hay những bắp thịt mới của họ; còn bọn con trai thì lợi dụng sự nô lệ, sự mù chữ của các cô gái để mà bông đùa hay trêu chọc họ vì những tấm xà rông đã sờn. Bọn con trai bảo các cô gái là trông họ gầy còm như những con gà trụi lông; các cô gái lại bảo lũ con trai là răng họ như răng lừa. Lời qua tiếng lại cợt nhả như thế suốt cả ngày. Và khi đêm xuống, sau khi bữa tối xong xuôi, bát đĩa được lau rửa, đám thanh niên lại túm tụm với nhau thành từng nhóm nhỏ lang thang dưới ánh đèn màu vàng cam trên phố, và thi thoảng lại có một cô gái hay một chàng trai bạo gan liếc nhìn xung quanh xem có ông chú hay bà dì nào của mình hay không rồi băng sang đường, tay quàng tay nắm, tìm một chỗ tối nào đó để tình tự, ban đầu cả hai đều còn ngượng ngùng chẳng nói được gì.

Có thể cái đêm mà họ gặp nhau ấy, trên trời có thật nhiều sao. Có thể cô gái đã hỏi chàng trai: “Nói cho em biết về đất nước của anh đi”! Hoặc cũng có thể chàng trai đã nói với cô: “Em có biết về đất nước của anh không?” Là gái chưa chồng, cô lúc nào cũng bị bà dì và người quản gia của bà để ý. Còn về phần chàng trai, mẹ của cậu luôn luôn chỉ ở trong nhà. Wen chẳng thể nào đưa cô về nhà mình được. Có lẽ có một thảm cỏ nào đó dưới một bụi cây, nơi ấy, họ có thể ngồi bên nhau và ngắm nhìn ánh đèn trong thị trấn. Có thể là một người bạn của Wen đã cho họ muợn phòng. Không biết vì lý do gì, ở nơi đâu, họ đã quen biết rồi yêu nhau. Cô gái gọi Wen là “chồng” và cậu thích như thế. Không biết cô gái có hình dung ra cảnh họ sẽ ở bên nhau trọn đời trong ngôi làng của cô hay không? Hay là cô ta có hy vọng một ngày nào đó, cô sẽ được cùng chàng trai về chơi Trung Quốc? Liệu một trong hai người bọn họ đã bao giờ dừng lại để ngẫm nghĩ xem những sự phức tạp mà đứa con của họ sẽ phải đối mặt? Hay là trong sự mãnh liệt của tình yêu và tuổi trẻ, tất cả mọi thứ đối với họ đều rực rỡ, sáng láng?

Và điều cuối cùng mà tôi băn khoăn là: Lòng cô gái kia có tan nát? Cô có đau đớn bởi mất Wen nhiều như Wu?

Wu đến làng tôi vào một buổi chiều thứ sáu khi tất cả những người lớn tuổi đều đang cầu nguyện trong nhà thờ. Tôi đang ngồi ở bên ngoài lều của mình, ăn những trái ổi cuối mùa và mấy đứa trẻ con đã dẫn ông đến chỗ tôi. Chúng lăng xăng chạy trước chiếc xe gắn máy của ông. Bọn trẻ đều trần truồng, bụng ỏng, gỉ mũi của đứa nào cũng khô đặc lại; chúng đứng yên cách chúng tôi một chút, dường như tất cả đều đờ đẫn vì suy dinh dưỡng và mệt mỏi. Wu đậu xe, nhìn tôi lúc ấy đang mặc bộ quần áo lao động tuềnh toàng; ông ngó lom lom vào khoảng tối trong căn lều của tôi, lẩm bẩm: “Thật ngạc nhiên là cậu cũng không chết”, Wu nói.

Wu trông thật gọn gàng. Râu ria của ông đã được cạo sạch, tóc tai cũng đã được cắt. Người đàn ông say xỉn và chịu để cho người khác làm nhục, kẻ mà tôi đã từng cho là thật đớn hèn trong quán bar mới ít tháng trước đó, không biết vì lý do gì, nay đã trở lại là vị bác sĩ mà tôi đã từng biết. “Tôi cần sự giúp đỡ, Jack à”, ông nói. “Tôi chưa bao giờ nhờ cậu việc gì. Nhưng giờ thì tôi cần cậu giúp đỡ. Họ đã bắt được cô ta. Hiện cô ta đang ở trong nhà giam Mankono. Tôi hết tiền rồi. Tôi cần vay một trăm nghìn đồng CFA để làm lệ phí giấy tờ. Nhưng tôi cũng cần cả một nhân chứng nữa. Phải có ai đó xác nhận tôi là người bảo hộ hợp pháp của Didi. Không một ai ở Séguéla đồng ý giúp tôi. Nếu cậu không chấp nhận làm việc ấy, họ sẽ thả cô ta ra và như thế, tôi sẽ không bao giờ còn có thể có được đứa cháu nội của mình”.

Dĩ nhiên, tôi chẳng muốn phải đưa ra quyết định này. Những người lớn tuổi trong làng đang tụ tập ở nhà thờ, không có ai ủng hộ tôi hay giải thích vì sao tôi không thể đi cùng ông được. Trước mặt tôi, chỉ có một người đàn ông ở độ tuổi trung niên, gày gò đến từ Trung Hoa, người đã từng là bạn tôi và mấy đứa trẻ con trần truồng đang trân trân nhìn chúng tôi, thậm chí không chớp mắt.

Tôi không nói gì cả trong một hồi lâu. Wu đưa mắt nhìn đi chỗ khác và bọn trẻ nhìn tôi chăm chú như thế chúng là bồi thẩm đoàn vậy. Bầu trời thì xanh, ngày thì vàng nắng. Tôi bỏ quả ổi xuống, đi vào trong lều của mình, cởi bộ quần áo lao động của mình để mặc lên người chiếc áo choàng boubou xanh lá cây, nhét giấy căn cước vào túi. Khi tôi đi ra, Wu dận nổ xe máy và tôi trèo lên ngồi đằng sau ông. “Nói với tù trưởng là chú phải đến Mankono. Sáng mai chú sẽ về, nếu Allah phù hộ7”.

Bọn trẻ gật đầu nghiêm trang. Con bé lớn nhất nói rất ngoan: “Allah ee kisse, Tonton. Cầu Allah phù hộ cho chú đi đường may mắn!”

Wu đứng đợi bên ngoài nhà băng ở Séguéla trong khi xe vẫn nổ máy. Khi tôi từ nhà băng ra, tôi trao liền cho ông số tiền. Rồi ông phóng xe, cùng tôi chạy qua những con phố để đến trụ sở toà án nhưng lính gác cổng bảo ông thẩm phán đang ở quán bar. Chúng tôi tìm thấy ông ta ở đó; ông ta mặc bộ đồ màu tía, đang ngồi uống whiskey ở một bàn rượu đầy lính. Nhạc bật lớn và tất cả bọn họ đều đang cười. Họ lại càng cười khi nhìn thấy tôi trong chiếc áo choàng boubou: một tay da trắng lại ăn vận như một người Hồi giáo. Sau một phút, viên thẩm phán lấy khăn ăn chùi mép, lấy lại vẻ nghiêm túc và nói: “Được rồi8. Ông có tiền chứ Wu?”

Wu giao cho ông ta bọc tiền. Viên thẩm phán đếm tiền rất nhanh, quăng hai tờ bạc đã bị dây bẩn ra bàn rồi gấp số còn lại, nhét vào túi áo bên trong. Ông đeo cặp kính râm lên và nói điều gì đó với mấy người lính ở Baoulé, rồi sau đó chúng tôi đi ra chỗ mà viên tài xế của ông ta đang ngồi chờ trong chiếc xe Mercedes màu đen.

Chuyến đi từ Séguéla đến Mankono là một hành trình dài và lặng lẽ. Mặc dù đã bật điều hòa nhưng trong xe vẫn nóng nực, và tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa từ người ông thẩm phán: mùi tử đinh hương. Con đường đỏ bụi, hai bên đường là những đồng cỏ mênh mông và khô hạn, độc một màu vàng đơn điệu. Trên đường chẳng nhìn thấy một phương tiện xe cộ nào khác, và ở mấy ngôi làng lác đác chúng tôi đi qua, người dân đều ngừng làm việc, đứng hết cả lên, chăm chú nhìn theo chúng tôi.

“Cậu sẽ làm chứng cho ông ấy chứ?”, ông thẩm phán hỏi tôi khi chúng tôi đang ngồi trong xe ô tô qua phà sông Marahoué. Ông già lái sà lan đứng đẩy sào đưa chúng tôi qua dòng sông bẩn thỉu trên một chiếc bè làm bằng những thùng dầu rỗng.

“Vâng”, tôi trả lời ông ta.

“Chưa bao giờ tôi lại có thể hình dung ra điều này, một người da trắng và một người Trung Hoa đồng thời cùng ngồi trong xe tôi. Ông Wu à, ông mang con trai ông sang châu Phi này là rất hay đấy. Có rất nhiều điều bất ngờ mà cái quyết định này đem đến cho tất cả chúng ta”.

Đến Makono, một người lính mở cổng nhà giam và chúng tôi lái xe qua một đám bụi mù. Những con gà đang bới đất trên cái sân khô rang; văn phòng của nhà giam trống trơn và nóng như nung, chỉ có một cái bàn làm bằng kim loại bên dưới một cái quạt cánh cũng được làm bằng kim loại. Ông thẩm phán đọc cho viên sen đầm đánh máy; anh này gõ chữ một cách cẩn thận và chậm rãi. Trên bức tường, phía trên chỗ viên sen đầm ngồi, có treo bức ảnh vị tướng – tổng thống đương thời; trong bộ đồ và chiếc khăn choàng vai của mình, trông ông ngời lên một vẻ tự mãn, giống như hình ảnh của ông được in trên những con tem. Ngoài cửa là một dãy những nhà giam. Thỉnh thoảng lại nghe thấy một tiếng rú gào vọng ra.

Một người thợ chụp ảnh đi xe đạp từ thị trấn đến và chụp hình Wu trong tư thế đứng dựa lưng vào một bức tường trống trơn. Wu không hề mỉm cười. Ông thẩm phán đóng dấu và ký tên vào các giấy tờ, sau đó gọi Wu đến ký rồi đến lượt tôi. Những giấy tờ này trông đều hoa mỹ, sặc sỡ, trên có dán con tem tròn với dấu mực xanh. Tôi chẳng buồn đọc xem những giấy tờ ấy viết gì. Anh thợ chụp ảnh người Dioula mặc chiếc quần đã cũ sờn xin phép ông thẩm phán được đi về nhưng ông thẩm phán lại yêu cầu anh chụp thêm một bức ảnh nữa. Ông bảo tôi đứng cạnh một bên ông còn Wu thì đứng ở bên kia. “Một da trắng, một da vàng, một da đen”, ông nói và người thợ ảnh bấm máy.

“Giờ tôi về được chưa, thưa ngài9?” Người thợ ảnh vừa hỏi vừa nhích chân dần ra cửa. Wu lục túi quần rồi đưa cho anh ta thêm mấy đồng tiền xu và nói, “Một bức nữa, chụp tôi và bạn tôi”. Ông nắm lấy tay tôi lúc anh thợ ảnh chụp hình. Lần này, cả hai chúng tôi cũng chẳng ai mỉm cười.

Viên sen đầm lớn tiếng ra lệnh cho người lính ở bên ngoài đi vào và giao cho anh ta một chùm chìa khoá to kềnh. Người lính đi qua các phòng giam và tôi nghe thấy tiếng cánh cửa kim loại mở ra ken két. Rồi người lính ấy quay trở lại, lấy vai hích đẩy một cô gái nhỏ bé người Worodougou đi ra. Cô gái đi chân trần, tấm xà rông của cô đã bẩn. Cô chẳng nhìn bất cứ ai trong số chúng tôi. Con mắt cúi gằm xuống ấy như thể nói rằng cô đã chịu đựng quá đủ rồi. Trên tay cô là một thằng bé, mắt nó hấp háy trước luồng ánh sáng của ban ngày từ cửa sổ dội vào. Da của nó màu trà, con mắt của nó là con mắt của người Trung Hoa, tóc của nó đen và thẳng. Nó là một thằng bé khôi ngô, hiền lành và có vẻ sợ sệt. Nó mặc chiếc quần soóc bằng vải ka ki và chiếc áo có cổ, cứ như thể nó được mẹ mặc cho như vậy là vì một sự kiện đặc biệt nào đó.

“Giờ thì ổn rồi, cô gái10”, viên thẩm phán trỏ ngón tay to bè của mình về phía cô gái nói, “và cô được tự do. Hiểu không?” Cô gái gật đầu. Viên sen đầm nhấc thằng bé khỏi tay cô; thằng bé cứ cố bám chặt lấy tấm xà rông của mẹ và bắt đầu gào lên. Anh ta đặt thằng bé lên cái bàn và lấy báng súng đẩy cô gái ra ngoài sân. Qua cửa sổ, tôi có thể nhìn thấy anh ta đẩy cô gái qua cổng ra đến tận ngoài đường.

Wu cất tiếng gọi đứa cháu nội của mình bằng một giọng âu yếm. Ông chìa tay ra như thể đang dỗ dành một con vật cảnh hãy còn ngần ngại. Tôi nghĩ là Didi sẽ khóc ngay lập tức nhưng hóa ra không phải vậy. Có lẽ nó cũng đã khóc quá đủ rồi. Viên sen đầm trao thằng bé cho Wu và Wu ôm chầm lấy nó, vuốt tóc nó, hôn lên đỉnh đầu nó. Ông nựng thằng bé thật dịu dàng bằng tiếng Trung Hoa và Didi bá lấy cổ ông nội, dường như nó đã mệt.

Khi chúng tôi rời khỏi nhà giam, qua cửa sổ của ô tô, tôi nhìn thấy cô gái đang đứng một mình bên lề đường, nhìn chúng tôi ra đi. Cô trông giống như bất cứ người phụ nữ nào ở đây, có phần xinh xắn hơn nhưng cũng chỉ là một dấu chấm nhỏ nhoi trong đám đông ấy. Tôi cứ nghĩ là hẳn cô gái ấy sẽ bật khóc nức nở, sẽ chạy theo chúng tôi. Nhưng cô chỉ chít lại khăn quàng cho chặt và rồi có một tốp phụ nữ trong những tấm xà rông sặc sỡ đi qua cô, đội những chậu nước trên đầu. Cô gái mất hút trong đoàn người ấy và trong đám bụi mù mà chiếc xe hơi của chúng tôi bỏ lại sau lưng.

Didi khóc quấy và lấy chân đạp đạp một lát rồi ngủ thiếp đi. Wu nhắm mắt lại, tay vẫn ôm chặt đứa cháu, giờ đây ông muốn quên đi những đoạn đường xóc nảy, những thước phim về châu Phi đang hiện hình bên ngoài cửa sổ. Với ông, tất cả những điều ấy đang dần trở thành một ký ức.

Mấy tuần sau đó, người thợ chụp ảnh đã đi xe đạp từ Mankono đến làng tôi để trao cho tôi tấm hình của Wu và tôi chụp ở nhà giam Mankono. Tôi hỏi anh ta có biết tin tức gì của cô gái không nhưng anh lắc đầu nói không biết. Rồi anh ta nhét tiền mà tôi trả vào túi áo và nhảy lên xe, đi ngược trở lại hướng mà lúc nãy anh đã đi đến. Trong tấm hình, Wu và tôi đều trông khắc khổ hơn ngoài đời và cũng cao hơn. Chi tiết chúng tôi nắm tay nhau đã không được đưa vào khung hình.

Khi vào bưu điện thị trấn Séguéla lần sau đó, tôi nhận được một lá thư bảo đảm được gửi từ Abidjan. Tôi phải đợi đến khi trở về gian lều của mình mới mở bức thư ra để đọc. Cùng với số tiền mà Wu trả, ông có gửi kèm một lời nhắn ngắn gọn mà có lẽ ai đó đã đánh máy cho ông bằng tiếng Pháp. Đại sứ quán Trung Hoa đã thu xếp được cho Didi một tấm visa và họ sẽ sớm rời nơi đây để trở về Thượng Hải. “Bây giờ mọi chuyện đã tốt đẹp”, ông viết. “Thứ mà tôi có thể cứu thoát khỏi cơn ác mộng này, dẫu cho thật nhỏ bé, tôi đã cứu được”. Ông cảm ơn tôi vì những gì tôi đã làm cho ông, ông chúc tôi những điều tốt đẹp nhất. Nếu có lần nào đến Queens, tôi nhất định phải đến thăm bà chị của ông. Còn nếu có lần nào được đặt chân đến Thượng Hải, nhất định tôi sẽ đến thăm ông.

Thời gian trôi đi và những tin tức mà những người láng giềng của tôi nghe được qua đài bán dẫn ngày càng trở nên xấu hơn. Ai cũng suy tính xem chuyện gì có thể xảy ra đối với đất nước mình, đối với làng mình và làm sao họ có thể sống nổi qua cuộc chiến sắp sửa bùng nổ. Cả tôi nữa, cũng nghĩ ngợi. Ở đâu đó, tại một cánh rừng tít tận Makono, có một cô gái trẻ cũng đang ngước nhìn những vì sao này, lòng băn khoăn nghĩ đến đứa con trai của mình. Ở đâu đó, trong một căn hộ ở Thượng Hải, có một cậu bé lớn lên từng ngày, đang học một thứ ngôn ngữ mới để làm sao có thể nói cho ông nội nó biết bây giờ muốn ăn cơm, muốn ăn kẹo, muốn hoa quả, đồ chơi, rồi chẳng mấy chốc, nó sẽ muốn có cha của mình, và cả mẹ của mình nữa ./.

Chú thích:

1. CFA franc: Tên gọi tiếng Pháp là “franc de la Communauté financière de l’Afrique”, tức là đồng “franc” của Cộng đồng tài chính châu Phi. Đây là loại tiền được sử dụng chính thức tại 14 nước Tây Phi và Trung Phi, trong đó có 12 nước là cựu thuộc địa của Pháp. Tiền này có hối suất rất thấp (100 francs CFA = khoảng 0.15 euro), cho nên người ta phải mang theo hàng xấp tiền để tiêu dùng hàng ngày.

2. mobylette: một loại xe hai bánh có gắn động cơ rất nhỏ, thịnh hành ở các nước thuộc địa của Pháp.

3. erythromycin: chất kháng sinh thường được dùng để chữa các bệnh do nhiễm khuẩn như viêm phế quản, nhiễm trùng da hay các bệnh lây qua đường quan hệ tình dục.

4. Nguyên văn tiếng Pháp: petit

5. boubou: tấm áo choàng phủ kín chân của đàn ông Hồi giáo

6. Ramadan: tháng thứ chín của niên lịch Hồi giáo. Trong tháng ấy, tín đồ Hồi giáo nhịn ăn uống, thanh tẩy thân xác và tập trung vào việc cầu nguyện. Theo giáo luật, họ không được ăn uống trong ánh mặt trời, mà chỉ được ăn uống vào ban đêm — họ phải ngừng ăn uống trước giờ mặt trời mọc (Fajr), và chỉ bắt đầu được ăn uống sau giờ mặt trời lặn (Maghrib).

7. Nguyên văn: inshallah

8. Nguyên văn tiếng Pháp: bon

9. Nguyên văn tiếng Pháp: patron

10. Nguyên văn: muso ( tiếng của thổ dân Bambara – Tây Phi).

Đôi nét về tác giả:

Tony D’Souza là một tác giả trẻ của văn học Mỹ. Anh hiện đang giảng dạy môn Ngữ văn Anh và Viết văn sáng tạo tại Shasta College và Syskiyous College. Tony D’Souza là một con người dấn thân. Anh đã từng phục vụ tình nguyện ba năm trong tổ chức Hoà Bình (Peace Corp) ở Bờ Biển Ngà và Madagascar. Trước đó, anh cũng đã từng làm việc tại một khu định cư ở Israel. Năm 18 tuổi, anh đã từng thực hiện cuộc hành trình qua miền Alaska bằng xe đạp.

Truyện ngắn của Tony D’Souza đã được in ở nhiều tập san văn học có uy tín như The New Yorker, Black Warrior Review, The Journal, Stand và từng được đề cử giải thưởng văn học Pushcart Prize. “Những người bạn” là câu chuyện được viết từ những kinh nghiệm dấn thân của chính tác giả.

Hải Ngọc dịch

Nguyên tác: “Club des amis”, đăng trên tạp chí The New Yorker, số ngày 5-9-2005.